Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Sáng kiến nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự và liên hệ thực tiễn tại cơ quan, đơn vị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.4 KB, 18 trang )

CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH ĐIỆN BIÊN
CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ HUYỆN ĐIỆN BIÊN

ĐỀ TÀI
MỘT SỐ KINH NGHIỆM, BIỆN PHÁP NÂNG CAO
HIỆU QUẢ CÔNG TÁC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ NĂM 2012
TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ HUYỆN ĐIỆN BIÊN.

Họ và tên:
Chức vụ:
Đơn vị công tác:

Lai Châu, tháng 9 năm 2012
A- PHẦN MỞ ĐẦU:


Bản án, quyết định của Tòa án nhân danh Nhà nước, khi được chấp hành
nghiêm chỉnh có tác động trực tiếp đến lòng tin của nhân dân đối với pháp luật.
Vì vậy hoạt động thi hành án có một ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc giữ
vững kỷ cương phép nước, củng cố pháp chế xã hội chủ nghĩa, trật tự pháp luật
xã hội chủ nghĩa, đảm bảo quyền lực tư pháp được thực thi trên thực tế. Hiến
pháp năm 1992 khẳng định: “Các bản án, quyết định của Tòa án nhân dân đã có
hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã
hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng; những người và
đơn vị hữu quan nghiêm chỉnh chấp hành”.
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác thi hành án dân sự, Đảng và
nhà nước ta đã đề ra những mục tiêu trong những năm tới là: tiếp tục tạo sự
chuyển biến mạnh mẽ về chất trong công tác thi hành án dân sự, nhằm nâng cao
hiệu quả của công tác thi hành án dân sự, giải quyết căn bản tình trạng án tồn
đọng. Đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan thi hành án dân sự,
nâng cao vai trò trách nhiệm của các cơ quan thi hành án. Những năm qua,


Chính phủ và cấp ủy, chính quyền địa phương các cấp đã xác định công tác thi
hành án dân sự là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, đã đưa ra nhiều giải
pháp hiệu quả nhằm tạo sự chuyển biến cơ bản trong công tác này. Do vậy công
tác thi hành án dân sự đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, nổi bật nhất là
hệ thống cơ quan thi hành án dân sự đã được hình thành từ trung ương đến địa
phương, bao gồm: Tổng cục thi hành án dân sự, Cục thi hành án dân sự, Chi cục
thi hành án dân sự; Nhiều bản án, quyết định của Tòa án đã được thi hành dứt
điểm, bảo đảm được quyền, lợi ích hợp pháp của nhà nước, của cơ quan, tổ chức
và cá nhân công dân; Một số vụ án phức tạp, kéo dài đã được tập trung giải
quyết, việc thi hành án dân sự tồn đọng giảm đáng kể, góp phần ổn định tình
hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của địa phương, tạo tiền đề cho phát
triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh đó công tác thi hành án dân sự hiện còn
đứng trước khó khăn, thử thách lớn với nhiều vấn đề tồn tại, bất cập đang đặt ra
cần được giải quyết. Hiệu quả công tác thi hành án dân sự chưa đáp ứng được
yêu cầu nhiệm vụ cũng như sự quan tâm, mong mỏi của Đảng, nhà nước và
nhân dân; Hoạt động thi hành án chưa thực sự đảm bảo tính công bằng và
nghiêm minh của pháp luật; tình trạng án tồn đọng kéo dài vẫn còn với số lượng
lớn, song chưa có biện pháp hữu hiệu để giải quyết. Đây là vấn đề bức xúc đặt ra
trong công tác thi hành án dân sự hiện nay.
Vì vậy, muốn nâng cao hiệu quả của công tác thi hành án dân sự, cần phải
nghiên cứu, đề ra các giải pháp đồng bộ về nhiều mặt: kinh tế, pháp luật, chính
sách xã hội, tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ, công chức... Nhất là phải có biện
pháp giải quyết dứt điểm đối với lượng án tồn chuyển kỳ sau.
Với những lý do nêu trên, tôi xin trao đổi một số kinh nghiệm, biện pháp
thực hiện nhằm nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự năm 2012 tại Chi
cục thi hành án dân sự huyện Điện Biên – tỉnh Điện Biên.
2


B - PHẦN NỘI DUNG

I- THỰC TRẠNG CỦA CÔNG TÁC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI ĐỊA
PHƯƠNG

1. Sơ lược về đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội huyện Điện Biên
………………………….
2. Thực trạng tổ chức triển khai Luật thi hành án dân sự và các văn
bản hướng dẫn thi hành trong thực hiện nhiệm vụ chuyên môn:
Năm 2012 là năm tiếp tục triển khai thực hiện Luật thi hành án dân sự và
các văn bản hướng dẫn thi hành, tạo điều kiện thuận lợi và nâng cao hiệu quả
của công tác thi hành án dân sự trên địa bàn huyện Điện Biên nói riêng và toàn
quốc nói chung.
Thứ nhất, Luật thi hành án dân sự đã tạo được hành lang pháp lý cơ bản
bảo đảm cho công tác thi hành án dân sự hiệu quả hơn. Với hình thức văn bản
pháp luật chuyên ngành cùng hệ thống các văn bản quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành được ban hành tương đối đầy đủ, các quy phạm pháp luật điều
chỉnh cơ bản đầy đủ các lĩnh vực của công tác thi hành án dân sự, từ tổ chức bộ
máy, trình tự thủ tục thi hành án, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, tổ chức
hữu quan trong công tác thi hành án dân sự, kiểm sát, giám sát hoạt động thi
hành án dân sự…Hầu hết các quy định trong Luật thi hành án dân sự và các văn
bản hướng dẫn thi hành thống nhất, phù hợp với văn bản pháp luật chung và các
văn bản pháp luật chuyên ngành khác như: Hiến pháp, Luật tố tụng dân sự, tố
tụng hình sự, tố tụng trọng tài, pháp luật về dân sự, đất đai, nhà ở, thi hành án
hình sự, hành chính…
Hai là, hệ thống tổ chức thi hành án dân sự được thành lập phù hợp với
yêu cầu của thực tiễn và tính chất đặc thù của hoạt động thi hành án dân sự.
Căn cứ quy định của Luật thi hành án dân sự và Nghị định số 74/2009/NĐ-CP
ngày 09/9/2009 của Chính phủ, hệ thống tổ chức thi hành án dân sự đã được tổ
chức và quản lý tập trung, thống nhất theo ngành thi hành án dân sự với mô
hình: Tổng cục thi hành án dân sự trực thuộc Bộ tư pháp, Cục thi hành án dân sự
cấp tỉnh trực thuộc Tổng cục THADS, Chi cục THADS cấp huyện trực thuộc

Cục THADS cấp tỉnh. Việc tổ chức hệ thống thi hành án dân sự theo ngành dọc
đã tăng cường vị thế của các cơ quan thi hành án dân sự, tương xứng với chức
năng, nhiệm vụ được giao, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý,
chỉ đạo chuyên ngành, thống nhất từ trung ương đến cấp huyện, nhưng không xa
rời sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương. Đã đảm bảo
cơ chế vận hành có hiệu quả, thông suốt, gắn chặt với sự lãnh đạo, chỉ đạo của
cấp ủy, chính quyền địa phương và sự phối hợp có hiệu quả của các ban ngành
trên địa bàn, nhất là Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân, cơ quan công an
và các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân các cấp.
Cơ cấu, bộ máy của hệ thống tổ chức thi hành án dân sự từng bước được
kiện toàn với việc thành lập các vụ và tương đương thuộc Tổng cục THADS,
các phòng thuộc Cục THADS giúp cho Tổng cục trưởng, Cục trưởng quản lý,
3


điều hành công việc chặt chẽ, chất lượng hơn. Chức danh chấp hành viên được
bổ nhiệm không thời hạn trên cơ sở kết quả thi tuyển với ngạch chấp hành viên
sơ cấp, trung cấp, cao cấp góp phần khẳng định vị thế của chấp hành viên và
giảm bớt thủ tục hành chính do tuyển chọn, bổ nhiệm theo nhiệm kỳ 5 năm mà
trước đây đã thực hiện. Một số chức danh được bổ nhiệm phù hợp với tính chất
đặc thù của hoạt động THADS như: Thẩm tra viên, thư ký thi hành án. Kinh phí
hoạt động, trụ sở làm việc, công cụ hỗ trợ thi hành án, ứng dụng công nghệ
thông tin và phương tiện, trang thiết bị cần thiết khác cho cơ quan thi hành án
dân sự được bảo đảm hơn đã tăng cường tính độc lập, tính ổn định, sức mạnh và
trách nhiệm của cơ quan thi hành án dân sự, quyết định đến hiệu quả công tác
thi hành án dân sự.
Ba là, trình tự, thủ tục thi hành án dân sự được quy định đầy đủ, cụ thể, dễ
thực hiện hơn.
- Thủ tục nhận bản án, quyết định của cơ quan thi hành án và trách nhiệm
chuyển giao bản án, quyết định của Tòa án được quy định chặt chẽ, ràng buộc

trách nhiệm cao hơn, khắc phục tình trạng không chuyển hoặc chuyển chậm bản
án, quyết định cho cơ quan thi hành án dân sự.
- Nhiều quy định mới thể hiện sự phù hợp trong nghiệp vụ thi hành án dân
sự, như: Người được thi hành án có trách nhiệm xác minh điều kiện thi hành án;
Biện pháp bảo đảm thi hành án nhằm ngăn chặn tình trạng người phải thi hành
án tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn tránh thực hiện nghĩa vụ thi hành án; Xây dựng
kế hoạch cưỡng chế thi hành án; Cơ chế định giá tài sản nếu các bên đương sự
không thỏa thuận được giá thì có thể thỏa thuận chọn hoặc chấp hành viên chọn
tổ chức thẩm định giá xác định giá tài sản để đưa tài sản ra bán đấu giá đã xóa
bỏ sự nghi ngờ về tính xác thực của giá tài sản do Hội đồng định giá thực hiện
mà Chủ tịch hội đồng là Chấp hành viên như trước đây, giảm thiểu những khiếu
nại của đương sự về giá tài sản, giảm bớt phần rủi ro cho chấp hành viên do
không có đủ chuyên môn để quyết định giá tài sản với tư cách là chủ tịch hội
đồng định giá tài sản; Biện pháp cưỡng chế thi hành án được xây dựng chặt chẽ,
mở rộng hơn so với Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 là cơ chế pháp lý
đầy đủ để cơ quan thi hành án dân sự thực hiện hiệu quả.
- Quy định về thi hành án trong một số trường hợp cụ thể để giải quyết khó
khăn, vướng mắc trong quá trình tổ chức thi hành án đối với một số trường hợp
cụ thể như thi hành phần dân sự trong bản án, quyết định hình sự, trong đó có
quy định về việc trại giam, trại tạm giam thu án phí, tiền phạt và các khoản phải
thu khác đối với người phải thi hành án đang chấp hành hình phạt tù; thủ tục thi
hành quyết định khẩn cấp tạm thời; biện pháp xử lý trong trường hợp bản án đã
thi hành xong nhưng bị hủy do quyết đinh giám đốc thẩm, tái thẩm của Tòa án
và thủ tục thi hành bản án về phá sản; miễn, giảm thi hành án dân sự, trong đó
việc miễn các khoản thu cho ngân sách nhà nước có giá trị không quá 500.000
đồng, mà thời gian tổ chức thi hành đã quá 5 năm tính đến thời điểm Luật thi
hành án dân sự có hiệu lực thi hành nhưng người phải thi hành án không có điều
4



kiện để thi hành. Vì thế, số việc và tiền thi hành án xong tăng cao hơn trước,
giảm nhiều việc thi hành án dân sự tồn đọng.
Bốn là: phát huy hiệu quả mối quan hệ phối hợp trong thi hành án dân sự,
nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật về thi hành án dân sự của cá nhân , tổ
chức được nâng lên.
Từ việc quy định nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của các cơ quan, tổ chức
trong thi hành án dân sự, các cơ quan, tổ chức đã chủ động thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của mình và thực hiện tốt hơn mối quan hệ phối hợp trong thi hành
án dân sự. Tại địa phương đã ban hành quy chế phối hợp trong thi hành án dân
sự, Kho bạc nhà nước, ngân hàng và các tổ chức tín dụng đã thực hiện kịp thời
hơn yêu cầu của chấp hành viên, cơ quan thi hành án dân sự.
Nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật về thi hành án dân sự của cá
nhân, tổ chức được nâng lên. Nhiều trường hợp người phải thi hành án tự
nguyện thi hành nghĩa vụ của mình, nhất là trong các đợt đặc xá. Người được thi
hành án đã xác định được trách nhiệm của mình trong thi hành án như chấp hành
tốt việc xác minh điều kiện thi hành án, hạn chế tâm lý trông chờ, ỷ nại vào nhà
nước…
Về cơ sở pháp lý, việc thi hành Luật thi hành án dân sự và các văn bản
hướng dẫn thi hành còn nhiều hạn chế như:
Một là, tiến độ xây dựng, ban hành văn bản hướng dẫn Luật thi hành án
còn chậm so với yêu cầu. Nhiều văn bản hướng dẫn chưa được ban hành như:
Thông tư liên tịch hướng dẫn trại giam, trại tạm giam thu, trả tiền, tài sản cho
đương sự đang chấp hành hình phạt tù tại trại giam, trại tạm giam; Thông tư liên
tịch hướng dẫn về phối hợp bảo vệ cưỡng chế trong thi hành án dân sự; Thông
tư về thi tuyển chấp hành viên…
Hai là, Luật thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành bộc lộ
nhiều khiếm khuyết do chưa cụ thể, chưa phù hợp với thực tế, thiếu thống nhất
với pháp luật có liên quan, cụ thể:
- Hạn chế lớn nhất của Luật thi hành án dân sự là lấy chấp hành viên làm
trung tâm của hoạt động thi hành án. Chấp hành viên là người được nhà nước

giao nhiệm vụ thi hành các bản án, quyết định và được xác định là trung tâm của
hoạt động thi hành án dân sự chưa phù hợp trong trường hợp thi hành án theo
đơn yêu cầu. Vì thế cần sửa đổi theo hướng hoạt động thi hành án dân sự phải là
trách nhiệm của bên được thi hành án và bên phải thi hành án, chấp hành viên
chỉ là nhân vật hỗ trợ.
- Quy định về thẩm quyền kiểm sát việc thi hành án của Viện kiểm sát nhân
dân. Tại khoản 2 Điều 12 Luật thi hành án dân sự quy định: Viện kiểm sát các
cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình kiểm sát việc tuân theo pháp
luật về thi hành án của cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên, cơ quan, tổ
chức và cá nhân có liên quan đến việc thi hành án nhằm bảo đảm việc thi hành
án kịp thời, đầy đủ, đúng pháp luật. Nếu căn cứ quy định nêu trên thì đối tượng
của hoạt động kiểm sát bao gồm cả cơ quan, tổ chức, đơn vị và cá nhân có liên
5


quan. Song liên quan đến hoạt động thi hành án dân sự bao gồm nhiều đối tượng
khác nhau như: hệ thống các cơ quan, doanh nghiệp nhà nước, hệ thống các tổ
chức, cá nhân trong và ngoài nước. Do vậy nếu Viện kiểm sát cũng thực hiện
chức năng kiểm sát đối với hoạt động quản lý hành chính nhà nước, hoạt động
kinh doanh thương mại và các hoạt động khác có liên quan đến hoạt động thi
hành án thì không phù hợp với chức năng của Viện kiểm sát là kiểm sát các hoạt
động tư pháp (điều tra, xét xử, thi hành án) quy định tại Luật tổ chức Viện kiểm
sát nhân dân.
- Quy định đơn yêu cầu thi hành án phải có thông tin về tài sản hoặc điều
kiện thi hành án của người phải thi hành án. Do vậy trường hợp đơn yêu cầu thi
hành án không có đầy đủ các nội dung quy định và người được thi hành án
không yêu cầu xác minh thì cơ quan thi hành án thực hiện theo khoản 2 Điều 4
Nghị định số 58/2009/NĐ-CP “thông báo để đương sự bổ sung nội dung đơn
yêu cầu thi hành án trước khi ra quyết định thi hành án”. Tuy nhiên, quy định
này chưa cụ thể về biện pháp xử lý trong trường hợp đã hướng dẫn nhưng người

được thi hành án vẫn không cung cấp thông tin và không yêu cầu chấp hành viên
xác minh tài sản.
- Khoản 1 Điều 36 Luật thi hành án dân sự quy định thủ trưởng cơ quan thi
hành án chủ động ra quyết định thi hành án đối với phần bản án, quyết định nhất
định. Thực tế cho thấy có những bản án, quyết định của tòa án có phần lệ phí
Tòa án (đối với các việc dân sự), do đó cần bổ sung khoản lệ phí tòa án vào loại
chủ động ra quyết định thi hành án tại điểm a, khoản 1 điều 36 Luật thi hành án
dân sự.
- Khoản 2 Điều 44 Luật thi hành án dân sự quy định trong thời hạn 10 ngày kể từ
ngày ra quyết định chủ động thi hành án hoặc kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu xác
minh của người được thi hành án thì chấp hành viên phải tiến hành xác minh; trong
khi đó tại khoản 1 Điều 45 Luật thi hành án dân sự quy định thời hạn tự nguyện là 15
ngày kể từ ngày người phải thi hành án nhận được thông báo hợp lệ quyết định thi
hành án. Vì vậy, có sự không thống nhất về thời gian để tiến hành xác minh điều kiện
thi hành án theo quy định của Luật thi hành án dân sự.
- Theo quy định tại khoản 1 Điều 26 Nghị định số 58/2009/NĐ-CP, một trong
những điều kiện để được xét miễn giảm thi hành án là người phải thi hành các khoản
nộp ngân sách nhà nước đã thi hành được ít nhất bằng 1/20 khoản phải thi hành,
nhưng giá trị không được thấp hơn mức án phí không có giá ngạch. Quy định này
cũng khó thực hiện, vì huyện Điện Biên nói riêng và các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng
xa nói chung điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, đời sống của đồng bào dân
tộc thiểu số nghèo nàn, lạc hậu, người phải thi hành án phần lớn phải thi hành khoản
tiền phạt của án ma tuý, số tiền phải thi hành lớn, thời gian chấp hành hình phạt tù dài,
không có điều kiện, tài sản để thi hành án do vậy họ không đủ điều kiện để được xét
miễn, giảm mặc dù đã đủ điều kiện về mặt thời gian. Dẫn đến số lượng việc thi hành
án tồn đọng còn nhiều.
- Theo quy định tại Điều 104 Luật thi hành án dân sự thì mỗi lần bán đấu giá
không thành thì chấp hành viên có quyền giảm giá tài sản nhưng không quá 10% giá
6



trị. Có những trường hợp giảm nhiều lần nhưng vẫn không bán được, đương sự yêu
cầu định giá lại, nếu lần định giá này có giá trị cao hơn lúc chưa hạ giá thì không thể
bán được tài sản, dẫn đến việc đương sự lợi dụng nhằm cố tình kéo dài việc thi hành
án.
- Một số văn bản hướng dẫn Luật thi hành án dân sự còn chậm được ban hành,
chưa kịp thời, gây khó khăn, lúng túng cho các cơ quan thi hành án dân sự trong quá
trình áp dụng pháp luật và thực hiện nhiệm vụ chuyên môn. Cụ thể:
+ Theo quy định tại khoản 1 Điều 44 và điểm a khoản 2 Điều 73 Luật thi hành
án dân sự quy định trong trường hợp người được thi hành án không thể tự mình xác
minh điều kiện của người phải thi hành án thì có thể yêu cầu chấp hành viên tiến hành
xác minh và phải chịu chi phí xác minh. Tuy nhiên đến nay chưa có văn bản hướng
dẫn thực hiện vấn đề này.
+ Theo quy định tại khoản 4 Điều 39 Luật thi hành án dân sự quy định: “Chi phí
thông báo do người phải thi hành án chịu, trừ trường hợp pháp luật quy định ngân sách
nhà nước chi trả hoặc người được thi hành án chịu”. Luật thi hành án dân sự và các
văn bản hướng dẫn thi hành luật này chưa có quy định cụ thể về từng loại chi phí
thông báo về thi hành án do người phải thi hành án, ngân sách nhà nước chi trả hoặc
người được thi hành án chịu.
+ Theo quy định tại khoản 3 Điều 169 Luật thi hành án dân sự thì Bộ công an có
trách nhiệm chỉ đạo trại giam, trại tạm giam nơi người phải thi hành án đang chấp
hành hình phạt tù thu các khoản tiền, tài sản mà người phải thi hành án , thân nhân của
người phải thi hành án nộp. Tuy nhiên, đến nay việc thực hiện quy định này còn gặp
lúng túng cho cả cơ quan thi hành án và các trại giam, trại tạm giam vì các bộ liên
quan chưa ban hành được quy chế phối hợp để hướng dẫn thực hiện.
+ Việc thực hiện một số thủ tục hành chính trong công tác thi hành án dân sự gặp
một số khó khăn do Bộ tư pháp chưa ban hành Thông tư mới thay thế thông tư số
06/2007/TT-BTP ngày 05/7/2007 của Bộ tư pháp hướng dẫn thực hiện một số thủ tục
hành chính trong hoạt động thi hành án dân sự.
- Chế độ báo cáo thống kê về thi hành án dân sự ban hành kèm theo Quyết định

số 02/2006/QĐ-BTP ngày 14/4/2006 của Bộ tư pháp có nhiều bất cập, chưa hợp lý,
còn rườm rà, nhiều biểu mẫu phản ánh cùng một chỉ tiêu thi hành án, nhiều đơn vị vì
chạy theo thành tích mà phân loại án không chính xác, giảm số có điều kiện thi hành
án để nâng tỷ lệ thi hành án; chưa phản ánh được toàn diện các hoạt động thi hành án
dân sự mà mới chỉ phản ánh được công tác giải quyết án về việc và về tiền.
- Chưa có văn bản hướng dẫn giải quyết việc thi hành án có yếu tố nước ngoài,
gây khó khăn cho cơ quan thi hành án dân sự địa phương trong quá trình tổ chức thi
hành án có liên quan đến yếu tố nước ngoài.
- Phần mềm kế toán nghiệp vụ thi hành án dân sự còn chưa phù hợp với Thông
tư số 91/2010/TT-BTC về hướng dẫn chế độ kế toán nghiệp vụ thi hành án, gây khó
khăn cho cơ quan thi hành án dân sự trong việc xuất, nhập, theo dõi chứng từ kế toán,
thu chi của nghiệp vụ thi hành án dân sự.
7


3. Thực trạng công tác thi hành án dân sự tại địa phương
Trong năm 2012, với sự nỗ lực của cán bộ, công chức Chi cục thi hành án
dân sự huyện Điện Biên, sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo Bộ Tư pháp, Tổng cục
thi hành án dân sự, Cục thi hành án dân sự tỉnh và cấp ủy, chính quyền địa
phương, sự phối kết hợp chặt chẽ của các cơ quan hữu quan, nhất là sự phối kết
hợp thường xuyên của các cơ quan trong khối nội chính, công tác thi hành án
dân sự tại địa phương ngày càng ổn định và đã đạt được những kết quả nhất
định. Nhiều Bản án, quyết định của Tòa án đã được thi hành dứt điểm, bảo đảm
được lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các cơ quan, tổ chức
và công dân. Tỷ lệ thi hành án xong về việc và về tiền của đơn vị đạt và vượt chỉ
tiêu được Tổng cục thi hành án dân sự, Cục thi hành án dân sự giao, cụ thể kết
quả thi hành án năm 2012 như sau:
* Về việc:
- Tổng số thụ lý:


vụ việc.

- Số ủy thác thi hành án:
- Số phải thi hành:

vụ việc.

vụ việc.

Qua xác minh, phân loại:
- Số có điều kiện thi hành:

vụ việc.

- Số chưa có điều kiện thi hành:
Đã tổ chức thi hành xong:

vụ việc

việc, đạt tỷ lệ

%, vượt chỉ tiêu được giao

%.

* Về tiền:
- Tổng số thụ lý:

đồng.


- Số ủy thác thi hành án:
- Số phải thi hành:

đồng.
đồng.

Qua xác minh, phân loại:
- Số có điều kiện thi hành:

đồng.

- Số chưa có điều kiện thi hành:
Đã tổ chức thi hành xong:

đồng.

đồng, đạt tỷ lệ

%, vượt chỉ tiêu được giao %.

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác thi hành án dân sự còn nhiều
tồn tại, hạn chế cần khắc phục. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong thi
hành án dân sự bao gồm cả nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan,
cụ thể:
* Nguyên nhân chủ quan: hầu hết là những nguyên nhân xuất phát từ phía
cơ quan thi hành án dân sự và cơ quan quản lý thi hành án dân sự:
- Việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ thi hành án ở một số đơn vị đối với
một số vụ việc còn chưa tốt, dẫn tới để tồn đọng việc thi hành án, chủ yếu là
8



những vụ việc có điều kiện nhưng chưa được tổ chức thi hành kịp thời hoặc tổ
chức thi hành nhưng chưa có kết quả.
- Vẫn còn một bộ phận chấp hành viên, cán bộ, công chức làm công tác thi
hành án dân sự năng lực, trình độ còn hạn chế, chưa nêu cao tinh thần trách
nhiệm, tính tích cực, chủ động trong tổ chức thi hành bản án, quyết định có hiệu
lực được phân công thi hành.
- Công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành hoạt động thi hành án dân sự có lúc,
có nơi, có việc, có đơn vị còn buông lỏng công tác quản lý. Kỷ luật, kỷ cương
hành chính chưa nghiêm.
- Việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền còn chậm, chưa kịp thời, gây lúng túng cho chấp hành viên và cơ
quan thi hành án dân sự trong quá trình tác nghiệp. Hệ thống văn bản pháp luật
về thi hành án dân sự còn một số bất cấp, chưa phù hợp với tình hình thực tế tại
địa phương (ví dụ: quy định về điều kiện miễn, giảm thi hành án đối với các
khoản nộp ngân sách nhà nước là người phải thi hành án thi hành được ít nhất
bằng 1/20 nghĩa vụ còn phải thực hiện, song thực tế tại địa bàn huyện, người
phải thi hành án phần lớn là phạm tội về ma túy, đang thụ hình trong trại, không
có tài sản để thi hành án, hoàn cảnh gia đình khó khăn nên không thể thi hành
được 1/20 để đủ điều kiện xét miễn, giảm thi hành án).
- Đôi khi thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự chưa quan tâm đến việc sử
dụng kết quả thống kê, phân tích thống kê phục vụ công tác quản lý, chỉ đạo,
điều hành thi hành án dân sự nên chưa phát huy hết sức mạnh về nguồn lực con
người, cơ sở vật chất cho công tác tổ chức thi hành án dân sự.
- Chưa chủ động, tích cực trong việc giải quyết các vướng mắc liên quan
đến việc tổ chức thi hành án các bản án, quyết định của Tòa án nhằm thi hành
dứt điểm bản án, quyết định và tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương
chỉ đạo phối hợp nhằm phát huy sức mạnh của hệ thống chính trị trong công tác
thi hành án dân sự.
- Hoạt động kiểm tra trong một số trường hợp còn mang tính hình thức,

chưa xác định được trọng tâm, trọng điểm của các đợt kiểm tra; kết luận kiểm
tra cá biệt còn có những trường hợp có sự nể nang, công tác hậu kiểm tra chưa
được quan tâm đúng mức, vì vậy việc thực hiện kết luận kiểm tra còn chưa tốt,
có trường hợp còn chưa khắc phục triệt để các sai sót mà đoàn kiểm tra đã chỉ
ra.
- Công tác tổng hợp, báo cáo, thống kê ở một số đơn vị đôi lúc chưa thực sự
được quan tâm, chưa đi vào nề nếp, Cục thi hành án tỉnh chưa có biện pháp
mạnh, triệt để nhằm chấn chỉnh công tác này.
Bên cạnh đó còn một số nguyên nhân chủ quan khác như:
- Ý thức chấp hành pháp luật của người phải thi hành án chưa tốt, nhiều
trường hợp người phải thi hành án chây ỳ, chống đối, cản trở việc thi hành án.

9


- Các hoạt động thanh tra, kiểm sát thi hành án chưa thực sự phát huy được
tác dụng, nhằm ngăn chặn và xử lý kịp thời các sai phạm trong hoạt động tổ
chức và thi hành các bản án, quyết định để tạo điều kiện nâng cao ý thức chấp
hành pháp luật về thi hành án dân sự của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên
quan đến việc thi hành án dân sự. Hoạt động thanh tra, kiểm sát của các cơ quan
thanh tra, cơ quan kiểm sát mới chủ yếu tập trung vào việc chấp hành pháp luật
của cơ quan thi hành án dân sự và chấp hành viên, mà chưa mở rộng ra đối với
các đối tượng khác như người được thi hành án, người phải thi hành án và các
cơ quan hữu quan trong việc chấp hành pháp luật về thi hành án dân sự.
- Một số trường hợp tòa án tuyên không rõ, có sai sót, không có tính khả
thi, cơ quan thi hành án đã đề nghị giải thích, đính chính hay xem xét lại bản án
theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm, nhưng chậm được đáp ứng dẫn tới
bản án, quyết định bị chậm thi hành hoặc không thể thi hành được.
- Những việc còn có ý kiến khác nhau giữa các ngành, chính quyền địa
phương chưa được kịp thời giải quyết, trong khi loại này chiếm số lượng lớn;

nhiều việc đang bị hoãn, tạm đình chỉ thi hành án theo yêu cầu của viện kiểm sát
nhân dân, Tòa án nhân dân có thẩm quyền nhưng chậm có kết quả, nên hầu hết
các trường hợp này đều đến hết thời hạn hoãn, tạm đình chỉ mới có kết quả,
thậm chí có trường hợp hết thời hạn hoãn mà không có kháng nghị, người đã
yêu cầu hoãn cũng không thông báo cho cơ quan thi hành án kết quả xem xét
kháng nghị nên gây khó khăn cho cơ quan thi hành án trong việc tổ chức thi
hành án.
- Có việc bên phải thi hành án là cơ quan nhà nước không tự nguyện thi
hành án, trong khi chúng ta chưa có cơ chế hữu hiệu buộc các đơn vị này phải
thi hành.
- Có nơi, có lúc tòa án nhân dân chậm chuyển giao bản án, chuyển giao số
lượng bản án, quyết định theo đợt cho cơ quan thi hành án dân sự vào cuối kỳ
báo cáo, cuối năm báo cáo, làm gia tăng số lượng việc thi hành án dân sự tồn
đọng.
* Nguyên nhân khách quan:
- Huyện Điện Biên có địa bàn rộng, giao thông đi lại khó khăn, trình độ dân
trí thấp, hiểu biết và ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân còn hạn chế. Án
phải thi hành chủ yếu là án ma túy và bồi thường thiệt hại với số tiền phải thi
hành lớn, trong khi đó, người phải thi hành án phần lớn đang thụ hình trong trại,
điều kiện kinh tế gia đình khó khăn, không có tài sản để thi hành án.
- Người phải thi hành án có tài sản nhưng giá trị nhỏ, không đáng kể để thi
hành án; người phải thi hành án chỉ có tài sản đã kê biên, phát mãi nhưng không
bán được, mà người được thi hành án không đồng ý nhận để trừ vào số tiền được
thi hành án và người phải thi hành án không còn tài sản nào khác.
- Việc thi hành nghĩa vụ gắn liền với nhân thân, nếu do điều kiện khách
quan (ốm đau, đi công tác...) mà người phải thi hành án không thể tự mình thực
10


hiện được các nghĩa vụ đó hoặc chưa xác định được địa chỉ của người phải thi

hành án.
- Khối lượng công việc của các cơ quan thi hành án dân sự lớn trong khi lực
lượng mỏng, trình độ, năng lực còn nhiều bất cập, cơ sở vật chất còn hạn chế
dẫn đến quá tải trong việc thực hiện nhiệm vụ. Trong khi đó, việc tuyển dụng
cán bộ, công chức gặp rất nhiều khó khăn do thiếu nguồn tuyển dụng tại chỗ,
nguồn tuyển dụng ở các địa phương khác đến rất hạn chế. Công tác bổ nhiệm
lãnh đạo các đơn vị, bổ nhiệm chấp hành viên cũng gặp nhiều khó khăn do thiếu
nguồn và tiêu chuẩn để bổ nhiệm.
II- MỘT SỐ KINH NGHIỆM, BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA
CÔNG TÁC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI ĐỊA PHƯƠNG

Từ việc nhận thức được một cách toàn diện, sâu sắc những thuận lợi, khó
khăn về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, cơ sở pháp lý và xuất phát từ thực
tiễn tổ chức thi hành án tại địa phương trong những năm qua, nhất là năm 2012,
tôi xin đưa ra một số kinh nghiệm đã được áp dụng và đạt hiệu quả tại Chi cục
thi hành án dân sự huyện Điện Biên nhằm nâng cao hiệu quả của công tác thi
hành án dân sự như sau:
1. Xây dựng kế hoạch công tác cụ thể, phấn đấu đạt và vượt mức chỉ
tiêu được Tổng cục thi hành án dân sự, Cục thi hành án tỉnh giao.
Hàng năm, căn cứ vào Chương trình công tác trọng tâm của Bộ tư pháp, Kế
hoạch công tác của Tổng cục thi hành án dân sự, và của Cục thi hành án dân sự
tỉnh, đơn vị đã chủ động xây dựng kế hoạch công tác của đơn vị bám sát với nội
dung công tác của ngành, phù hợp với tình hình thực tế của địa phương, trong đó
xác định rõ mục tiêu phải đạt được trong năm công tác. Các bộ phận chuyên
môn cũng như mỗi công chức đều lập kế hoạch công tác cụ thể theo từng tuần,
từng tháng, quý, năm, chủ động tích cực để hoàn thành kế hoạch đã đề ra. Việc
lập kế hoạch công tác đều được phê duyệt theo trình tự, thủ tục nhất định, cụ
thể: kế hoạch công tác của công chức, bộ phận chuyên môn do Chi cục trưởng
phê duyệt; kế hoạch công tác của đơn vị do Cục THADS tỉnh phê duyệt sau khi
có ý kiến của Ủy ban nhân dân huyện; Trên cơ sở kế hoạch đã được phê duyệt,

công chức, bộ phận, Chi cục tổ chức triển khai thực hiện. Kết thúc tuần, tháng,
quý, năm, đều báo cáo kết quả công việc đã đạt được, những mục tiêu chưa đạt
được, hạn chế tồn tại, khó khăn vướng mắc trong thực hiện nhiệm vụ chuyên
môn để rút kinh nghiệm trong công tác, đồng thời đề xuất, kiến nghị những biện
pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác thi hành án dân sự.
Căn cứ vào quyết định giao chỉ tiêu thực hiện nhiệm vụ thi hành án dân sự
của Tổng cục thi hành án dân sự, Cục thi hành án dân sự tỉnh, Chi cục đã giao
chỉ tiêu thực hiện nhiệm vụ cho từng chấp hành viên phù hợp với điều kiện thực
tế ở từng địa bàn mà chấp hành viên được phân công phụ trách, do vậy mỗi chấp
hành viên và đơn vị có khả năng hoàn thành và vượt chỉ tiêu được giao. Hàng
năm, Chi cục căn cứ vào việc hoàn thành chỉ tiêu nhiệm vụ được giao để xét
tăng thu nhập cho công chức và xét thi đua khen thưởng, vì vậy đã tạo động lực
11


thúc đẩy mỗi công chức tích cực hoàn thành nhiệm vụ được giao, góp phần nâng
cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự trên địa bàn huyện nói riêng và tỉnh
Điện Biên nói chung.
2. Chỉ đạo bộ phận nghiệp vụ làm tốt công tác giao nhận Bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật do Tòa án chuyển sang.
Ngay sau khi nhận được bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp
luật do Tòa án chuyển giao, chấp hành viên có trách nhiệm kiểm tra, soát xét kỹ
bản án có sai sót gì về họ tên, địa chỉ của đương sự không; có sai sót gì về số
liệu không, nhất là cần so sánh số liệu về vật chứng, tài sản được tuyên trong
bản án với quyết định chuyển giao vật chứng của cơ quan Viện kiểm sát và Biên
bản giao nhận vật chứng, tài sản giữa cơ quan Công an hoặc Tòa án với cơ quan
thi hành án dân sự; nội dung của bản án được tuyên có chính xác, rõ ràng không,
phần quyết định có trái quy định của pháp luật không?... Trên thực tế, Chi cục
thi hành án huyện Điện Biên đã gặp phải một số bản án, quyết định tuyên không
rõ ràng, cụ thể về nơi cư trú của bị cáo, hoặc tuyên sai họ tên của bị cáo, tuyên

sai sót, nhầm lẫn về số liệu vật chứng, tài sản, tuyên hủy vật chứng, tài sản mà
theo quy định của pháp luật phải trả lại cho đương sự… vì vậy gây không ít khó
khăn cho việc tổ chức thi hành bản án sau này. Việc kiểm tra, soát xét kỹ càng
ngay từ khâu nhận bản án quyết định của Tòa án, sau đó trao đổi, yêu cầu Tòa
án đính chính, giải thích đã tạo thuận lợi ngay từ giai đoạn đầu cho việc tổ chức
thi hành án dân sự, hạn chế việc thi hành án dân sự bị kháng nghị của Viện kiểm
sát nhân dân và khiếu nại của đương sự, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả của
công tác thi hành án dân sự trên địa bàn huyện.
Bên cạnh đó, khi phát hiện ra sai sót, nhầm lẫn trong các bản án, quyết định
của Tòa án cùng cấp chuyển giao, đã yêu cầu đính chính, giải thích nhưng Tòa
án chậm hoặc không đính chính giải thích, đơn vị đã chủ động nêu ý kiến tại
cuộc họp liên ngành tố tụng cấp huyện để giải quyết, nếu vẫn chưa giải quyết
được, đơn vị gửi văn bản về Cục thi hành án tỉnh để xin ý kiến chỉ đạo giải
quyết.
3. Mặc dù chưa có quy chế phối hợp giữa cơ quan thi hành án dân sự
và các trại giam, trại tạm giam trong việc thu tiền, tài sản của người phải thi
hành án, trả lại tiền, tài sản cho người được thi hành án đang chấp hành hình
phạt tù tại các trại giam, trại tạm giam, nhưng theo tinh thần của Luật thi hành
án dân sự và sự chỉ đạo của Cục thi hành án tỉnh, Chi cục thi hành án huyện
Điện Biên đã thực hiện tốt việc phối, kết hợp với các trại giam, trại tạm giam để
thu tiền, tài sản của người phải thi hành án và trả lại tiền, tài sản của người được
thi hành án đang chấp hành hình phạt tù.
Trước hết, đơn vị liên hệ với Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân
cùng cấp để xin danh sách phạm nhân được chuyển đến các trại tạm giam trong
toàn tỉnh, từ đó gửi danh sách người phải thi hành án và các khoản phải thi hành
đến các trại tạm giam đề nghị trại thu hộ, hoặc cử công chức, chấp hành viên
xuống các trại tạm giam để thu tiền, tài sản và trả tài sản cho đương sự ngay sau
12



khi bản án có hiệu lực pháp luật, nhằm giải quyết nhanh chóng và dứt điểm án
có điều kiện thi hành án.
Chủ động liên hệ với trại tạm giam của tỉnh hoặc Cục V26 Bộ công an để
xin danh sách phạm nhân của huyện Điện Biên được chuyển đến các trại giam
nào trong toàn quốc, hoặc nơi chấp hành hình phạt tù của người phải thi hành án
do các cơ quan thi hành án nơi khác ủy thác đến, từ đó liên hệ (bằng điện thoại,
bằng văn bản) đề nghị các trại giam thu tiền, tài sản của người phải thi hành án
đang chấp hành hình phạt tù tại trại giam đó, thông báo cho đơn vị đến nhận tiền
hoặc chuyển vào tài khoản tạm giữ của đơn vị. Để làm tốt công tác phối, kết hợp
với các trại giam, trại tạm giam trong công tác thi hành án dân sự, Chi cục có số
điện thoại của các trại giam, trại tạm giam trong toàn quốc để tiện liên hệ.
Thực hiện sự chỉ đạo của Tổng cục thi hành án dân sự, Cục thi hành án dân
sự tỉnh, đơ vị đã thực hiện phối hợp tốt với các trại giam, trại tạm giam trong
công tác xét đặc xá hàng năm. Bố trí công chức, chấp hành viên trực tại trụ sở
cơ quan cả ngày thứ 7 và chủ nhật để thu tiền, tài sản của đương sự và thân nhân
của họ, cấp giấy xác nhận thi hành nghĩa vụ dân sự để làm căn cứ xét đặc xá cho
người phải thi hành án đang chấp hành hình phạt tù.
4. Thực hiện có hiệu quả công tác thi hành án dân sự tại cơ sở.
Chi cục thi hành án dân sự huyện Điện Biên luôn xác định công tác thi
hành án tại cơ sở là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của cơ quan. Hàng
tuần, hàng tháng bộ phận nghiệp vụ đều lập kế hoạch thi hành án tại cơ sở, theo
từng địa bàn cụ thể và được lãnh đạo cơ quan duyệt. Khi đi thi hành án tại cơ sở,
chấp hành viên kết hợp trả tiền, tài sản cho người được thi hành án (vì một số
trường hợp cơ quan thi hành án đã báo gọi nhiều lần nhưng người được thi hành
án chưa đến hoặc không đến nhận), như vậy cơ quan thi hành án đã thi hành
xong một việc.
Khi thi hành án tại cơ sở, Chấp hành viên, cán bộ thi hành án đến từng gia
đình của người phải thi hành án, nhất là người phải thi hành án đang chấp hành
hình phạt tù tại các trại giam, trại tạm giam để động viên, thuyết phục họ thực
hiện nghĩa vụ, hoặc thân nhân gia đình họ thi hành thay phần nghĩa vụ thi hành

án dân sự. Đồng thời, có xác nhận việc thực hiện nghĩa vụ dân sự cho người
phải thi hành án làm cơ sở để trại giam xét giảm án hoặc xét đặc xá cho người
phải thi hành án dân sự, là động lực thúc đẩy người phải thi hành án và thân
nhân, gia đình họ tích cực thực hiện nghĩa vụ dân sự theo Bản án, quyết định thi
hành án. Đây cũng là một biện pháp thực hiện có hiệu quả để giải quyết dứt
điểm việc thi hành án dân sự.
Chi cục thi hành án huyện Điện Biên cũng luôn chú trọng nâng cao hiệu
quả sự phối hợp với chính quyền cơ sở trong công tác thi hành án dân sự, vụ
việc đó có giải quyết dứt điểm hay không cũng do sự phối kết hợp của chính
quyền địa phương. Nhưng có một thực tế hiện nay, một số địa phương ý thức về
trách nhiệm phối hợp chưa cao do số biên chế của chính quyền cơ sở rất hạn
hẹp, công tác xác minh, đôn đốc giải quyết án lại là công việc thường xuyên của
cán bộ thi hành án dân sự, trong khi đó mỗi xã chỉ có một cán bộ tư pháp phụ
13


trách rất nhiều việc, khó bố trí thời gian để đi cùng cán bộ thi hành án đôn đốc,
giải quyết án trên địa bàn xã. Để giải quyết vấn đề trên, lãnh đạo đơn vị đã chỉ
đạo chấp hành viên, cán bộ thi hành án trực tiếp phối hợp với các Trưởng bản,
Tổ trưởng dân phố trong công tác giáo dục, thuyết phục người phải thi hành án
thực hiện nghĩa vụ của mình, vì họ là người hiểu hoàn cảnh của người phải thi
hành án nhất, do đó sự phối kết hợp với trưởng bản, tổ trưởng dân phố trong
những năm qua đã đạt kết quả cao. Bên cạnh đó, Chấp hành viên liên hệ số điện
thoại của Trưởng bản, Tổ trưởng dân phố, của gia đình đối tượng để thường
xuyên trao đổi, đôn đốc việc thi hành án, đề nghị họ thu, nộp tiền giúp nhằm giải
quyết dứt điểm việc thi hành án dân sự.
Chấp hành viên, cán bộ thi hành án cũng phối, kết hợp tốt với chính quyền
cơ sở trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về thi hành án dân sự và các
văn bản pháp luật có liên quan tại địa phương, từ đó nâng cao nhận thức và ý
thức chấp hành pháp luật của nhân dân.

5. Thực hiện tốt công tác phối kết hợp trong thi hành án dân sự:
Chi cục thi hành án huyện Điện Biên chủ động rà soát các đối tượng thuộc
diện được xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án dân sự, lập hồ sơ đề nghị xét
miễn, giảm đảm bảo đúng trình tự, thủ tục pháp luật quy định, tránh tình trạng
hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm bị kháng nghị. Phối kết hợp chặt chẽ với Tòa án
nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp trong công tác xét, miễn giảm thi
hành án dân sự. Trong năm qua, việc thực hiện công tác xét miễn, giảm về thi
hành án dân sự đã đạt được kết quả cao do sự phối kết hợp tốt giữa cơ quan thi
hành án với Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp. Kết quả như
sau:
- Số hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm thi hành án: ….. trường hợp với số tiền

……đồng (trong đó: Miễn THA: …..trường hợp với số tiền là ….. đồng;
Giảm THA: ….. trường hợp với số tiền là …… đồng).
- Đã xét miễn, giảm được …..trường hợp với số tiền là …... đồng (trong đó:
Miễn THA ….. việc với số tiền là ….. đồng; Giảm THA …. trường hợp với số
tiền là ……. đồng).
Hàng quý, lãnh đạo Chi cục tham gia giao ban khối nội chính do Huyện ủy
tổ chức, từ đó xin ý kiến chỉ đạo của Huyện ủy đối với công tác thi hành án dân
sự tại địa phương, đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác
thi hành án.
Chi cục cũng đã kịp thời xin ý kiến của Ban chỉ đạo thi hành án huyện đối
với những vụ việc khó khăn, phức tạp, ảnh hưởng đến an ninh, chính trị, trật tự
an toàn xã hội của địa phương. Việc xin ý kiến ban chỉ đạo đã phát huy được
hiệu quả tích cực, nhiều vụ việc đã chuẩn bị xong phương án cưỡng chế nhưng
rồi không phải cưỡng chế nữa, mà các đương sự tự thỏa thuận với nhau hoặc
người phải thi hành án tự nguyện thi hành nghĩa vụ. Vì vậy, đã giảm rất nhiều
chi phí cũng như việc huy động lực lượng cưỡng chế, nâng cao uy tín của các cơ
14



quan thi hành án dân sự trước chính quyền địa phương, trước nhân dân, đồng
thời nâng cao hiệu quả của công tác thi hành án trên địa bàn huyện.
Tham gia đầy đủ các Hội nghị giao ban, sơ kết, tổng kết do Cục thi hành án
dân sự tỉnh tổ chức, từ đó có những đề xuất, kiến nghị nhằm giải quyết những
khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chuyên môn, nắm bắt
được tinh thần chỉ đạo của cấp trên để chỉ đạo hoạt động của đơn vị có hiệu quả.
6. Tăng cường cơ sở vật chất trong công tác thi hành án dân sự
Huyện Điện Biên là địa bàn miền núi, giao thông đi lại khó khăn, người
phải thi hành án đa phần ở các vùng sâu, vùng xa, không có đường ô tô. Nhận
thức được khó khăn đó, đơn vị đã cân đối ngân sách nhà nước cấp, xin thêm
kinh phí hỗ trợ của Ủy ban nhân dân huyện để tự mua ….xe máy công làm
phương tiện thi hành án tại cơ sở, tạo thuận lợi và hiệu quả cho chấp hành viên,
cán bộ thi hành án khi thi hành án tại địa bàn vùng sâu, vùng xa không có đường
ô tô.
Bên cạnh đó, Chi cục thực hiện tiết kiệm trong chi tiêu, chăm lo đến đời
sống vật chất, tinh thần cho cán bộ, công chức, cụ thể hàng năm cán bộ, công
chức đều được hưởng các khoản phúc lợi tập thể vào các ngày lế, ngày tết; Chi
tăng thu nhập cho cán bộ công chức 02 lần/năm, trung bình từ 4 – 6 tháng
lương. Cơ quan, các tổ chức đoàn thể trong cơ quan như Công đoàn, Chi đoàn
kịp thời động viên cán bộ, công chức khi gia đình có việc hiếu, hỷ, sinh con, ốm
đau… Do vậy đã tạo được tâm lý phấn khởi, động viên và yên tâm công tác, tích
cực, chủ động hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao của cán bộ, công chức, làm họ
thêm yêu nghề, gắn bó với ngành, với địa phương. Từ đó cũng góp phần nâng
cao hiệu quả của công tác thi hành án trên địa bàn tỉnh.
Nhờ thực hiện tốt một số biện pháp trên, phù hợp với điều kiện kinh tế, xã
hội của địa phương mà trong nhiều năm qua, công tác thi hành án dân sự tại
huyện Điện Biên đã có những chuyển biến rõ rệt, tỷ lệ thi hành án về việc, về
tiền năm sau cao hơn năm trước, án tồn đọng giảm đáng kể, góp phần vào thành
tích chung của ngành thi hành án tỉnh và toàn quốc. Cụ thể:

* Năm 2008: tỷ lệ thi hành xong về việc đạt
chỉ tiêu được giao % về việc, % về tiền.

%, về tiền đạt

%, vượt

* Năm 2009: tỷ lệ thi hành xong về việc đạt
tiêu được giao % về việc, % về tiền.

%, về tiền đạt

%, vượt chỉ

* Năm 2010: tỷ lệ thi hành xong về việc đạt
tiêu được giao % về việc, % về tiền.

%, về tiền đạt

%, vượt chỉ

* Năm 2011: tỷ lệ thi hành xong về việc đạt
tiêu được giao
% về việc,
% về tiền.

%, về tiền đạt

%, vượt chỉ


%, về tiền đạt

%, vượt chỉ

* Năm 2012: tỷ lệ thi hành án về việc đạt
tiêu được giao
% về việc,
% về tiền.

15


Tuy nhiên, Chi cục thi hành án huyện Điện Biên còn phải cố găng khắc
phục những tồn tại, hạn chế đã được nêu trên để hoàn thành xuất sắc hơn nữa
nhiệm vụ chính trị cũng như nhiệm vụ chuyên môn được giao.
III- MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG
TÁC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN ĐIỆN BIÊN.

Từ thực tiễn thực hiện nhiệm vụ thi hành án dân sự tại địa phương, tôi xin
có một số kiến nghị đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả của công tác thi hành án
dân sự trên địa bàn huyện nói riêng, tỉnh và toàn quốc nói chung như sau:
1. Về thể chế:
- Đề nghị các cơ quan có thẩm quyền tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi bổ sung
Luật thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành cho phù hợp với hệ
thống pháp luật Việt Nam và phù hợp với thực tiễn.
- Đề nghị Bộ tư pháp, Tổng cục thi hành án dân sự đẩy nhanh tiến độ xây
dựng và thực hiện các đề án, văn bản quy phạm pháp luật, tạo điều kiện thuận
lợi về mặt pháp lý cho các cơ quan thi hành án dân sự địa phương trong thực
hiện nhiệm vụ chuyên môn như: Đề án rà soát, phân loại, xử lý việc, tiền thi
hành án dân sự tồn đọng; Đề án nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung nghị định số

58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của Luật thi hành án dân sự về thủ tục thi hành án dân sự; Thông tư liên
tịch giữa Bộ tư pháp, Bộ tài chính và Bộ công an hướng dẫn trại giam, trại tạm
giam thu , trả tiền, tài sản cho các đương sự đang chấp hành hình phạt tù tại trại
giam, trại tạm giam,….
- Đề nghị Bộ tư pháp phối hợp với Bộ tài chính ban hành văn bản hướng
dẫn về nội dung, mức chịu, thủ tục thu, nộp chi phí thông báo thi hành án, chi
phí xác minh điều kiện thi hành án trong trường hợp người được thi hành án yêu
cầu chấp hành viên xác minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án.
- Đề nghị Bộ tư pháp ban hành biểu mẫu thống kê mới phù hợp với Luật thi
hành án dân sự và Thông tư 91/2010/TT-BTC ngày 17/6/2010 của Bộ tài chính,
phản ánh được toàn diện các mặt hoạt động thi hành án như: công tác giải quyết
án về việc, về giá trị; công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo; công tác tổ chức cán
bộ…
- Đề nghị Bộ tư pháp, Tổng cục thi hành án dân sự nâng cấp phần mềm kế
toán nghiệp vụ thi hành án dân sự để phù hợp với Thông tư số 91/2010/TTBTC, tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan thi hành án dân sự địa phương
trong thực hiện nhiệm vụ.
2. Đề xuất về công tác tổ chức cán bộ:
Đối với Tổng cục thi hành án dân sự, Cục thi hành án tỉnh:
- Giao thêm chỉ tiêu biên chế cho Chi cục thi hành án dân sự huyện Điện
Biên.
- Tăng thêm 01 biên chế kế toán cho Chi cục thi hành án cấp huyện.
16


Đối với Chính quyền địa phương:
- Tiếp tục quan tâm tạo điều kiện để công chức của các đơn vị thi hành án
được tham gia học lớp quản lý nhà nước, lý luận chính trị do địa phương tổ
chức.
3. Đề xuất về cơ sở vật chất kỹ thuật, phương tiện:

- Đề nghị Cục thi hành án quan tâm, đề nghị Tổng cục thi hành án phê
duyệt cho Chi cục thi hành án huyện Điện Biên được xây kho vật chứng theo đề
án của Bộ tư pháp để đảm bảo an toàn cho việc giao nhận, bảo quản, xử lý vật
chứng. Trang bị thêm cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc cho đơn vị để đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.
- Đối với chính quyền địa phương: hỗ trợ một phần kinh phí hoặc cơ sở vật
chất cho Chi cục thi hành án huyện và ban chỉ đạo thi hành án dân sự các cấp.
C- PHẦN KẾT LUẬN

Công tác thi hành án dân sự là một lĩnh vực công tác có nhiều phức tạp vì
liên quan đến nhiều lĩnh vực trong đời sống xã hội, mà bản thân các lĩnh vực đó
đã rất phức tạp. Đồng thời đây là hoạt động luôn động chạm đến quyền, lợi ích
của nhân dân và gắn liền với vấn đề vật chất cụ thể, trực tiếp ảnh hưởng đến
quyền về tài sản, nhân thân của các bên đương sự và những người có liên quan.
Việc tổ chức thi hành bản án, quyết định của tòa án sẽ làm phát sinh, thay đổi
hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ về tài sản của các bên đương sự. Vì vậy việc
không chấp hành án, chống đối thi hành án của người phải thi hành án luôn luôn
xảy ra. Bên cạnh đó còn phải kể đến sức cám dỗ vật chất – nguồn gốc có thể làm
phát sinh các hành vi tiêu cực của cán bộ thi hành án, chấp hành viên. Cùng với
những tồn tại, hạn chế trên các mặt hoạt động của công tác thi hành án dân sự
như đã phân tích ở phần trên, chúng ta cần đề ra và thực hiện những giải pháp
mang tính đồng bộ để nâng cao hiệu quả của công tác thi hành án dân sự, góp
phần nâng cao hiệu quả công tác thực thi pháp luật trên địa bàn huyện nói riêng,
tỉnh và cả nước nói chung, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Mà quan trọng
nhất và phải thực hiện trước hết là nâng cao hiểu biết và ý thức chấp hành pháp
luật của nhân dân, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động thi hành án dân
sự.
Với những kinh nghiệm, biện pháp đã nêu trên, hy vọng góp phần khắc
phục được những tồn tại, hạn chế phát sinh trong lĩnh vực thi hành án dân sự,
nhằm nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự trên địa bàn huyện, thực

hiện tốt nhiệm vụ chuyên môn, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của
ngành, của địa phương, tạo được niềm tin của nhân dân vào các cơ quan thi hành
án dân sự nói riêng và các cơ quan thực thi pháp luật nói chung.

17


18



×