Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Phật giáo và ảnh hưởng của phật giáo tới đời sống xã hội ở VN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.62 KB, 27 trang )

TRờng Đh bách khoa hà nội

Đề tài : Phật giáo và ảnh hởng của Phật giáo tới đời sống xã hội
ở Việt Nam
-Giảng viên: Nguyễn Quang Trờng
-Thành viên nhóm:
+Vũ ngọc Lai
+Chu cao Khánh
+Phạm việt Hùng
+Đặng văn Hiệu
-Lớp : Thực Phẩm 2A

1


Kết cấu
Phần A :Mở đầu
Lý do chọn đề tài

Phần B : Nội dung
I.Sơ lợc về Phật giáo
1.Nguồn gốc ra đời
2.Nội dung chủ yếu của Phật giáo
3.Tình hình phát triển của Phật giáo

II.ảnh hởng của Phật giáo đến đời sống xã hội Việt Nam
1.Phật giáo với xã hội và con ngời Việt Nam xa kia
2. Phật giáo với xã hội và con ngời Việt Nam ngày nay
3. ảnh hởng của phật giáo tới thế hệ trẻ.

Phần C:Kết luận



2


Phần A: Mở đầu
Lý do chọn đề tài

Việt Nam là một nớc Phơng Đông-nơi mà tôn giáo có ảnh hởng rất lớn
đến đời sống văn hóa xã hội, tuỳ giai đoạn phát triển lịch sử của các nớc thì tôn
giáo nắm vai trò chủ đạo, có tác động mạnh đến nếp sống tinh thần, thói
quen,suy nghĩ của con ngời. Trong các tôn giáo đó thì Đạo Phật-một trong
những tôn giáo lớn của thế giới đã du nhập vào nớc ta khoảng thế kỷ II sau công
nguyên và trở thành tôn giáo có ảnh hởng sâu sắc đến đời sống tinh thần, xã hội
Việt Nam cho đến ngày nay.
Đất nớc ta ngày nay đang trong công cuộc xây dựng quá độ lên CNXH thì
chủ nghĩa Mác-Lênin là t tởng chủ đạo, ngọn đèn dẫn đờng, vũ khí lý luận nhng bên cạnh đó, bộ phận kiến trúc thợng tầng cũ vẫn có sức sống dai dẳng , trong
đó giáo lý nhà Phật đã ít nhiều ảnh hởng đến đời sống chính trị, in sâu vào t tởng
tình cảm của một bộ phận lớn dân c nớc ta. Chúng ta không thể bỏ qua sự ảnh hởng đó mà cần vận dụng nó một cách hợp lý để góp phần đạt đợc mục đích của
thời ký quá độ cũng nh sau này. Do đó việc nghiên cứu lịch sử,giáo lý và sự tác
động của đạo Phật đối với thế giới quan, nhân sinh quan của con ngời là hết sức
cần thiết. Đi vào nghiên cứu,đánh giá những mặt hạn chế cũng nh tiến bộ, tác
động tiêu cực hay tích cực đến quá trình phát triển của đất nớc và qua đó sẽ định
hớng cho con ngời có một nhân cách đúng đắn, tìm ra những phơng hớng biện
pháp hợp lý trong quá trình ngày nay xây dựng đất nớc lên CNXH.
Phật giáo có lĩnh vực nghiên cứu tơng đối rộng,ngoài việc nghiên cứu giáo lý,
kinh điển, lịch sửcủa Phật giáo ra còn đề cập đến các lĩnh vực nh : Triết học, văn
học, khảo cổ, tâm lý học,xã hội học Phật học đã trở thành một trong những
khoa học tơng đối quan trọng trong khoa học xã hội, có quan hệ mật thiết với xã
hội học. Phật giáo phát triển, truyền bá ở nớc ta gắn liền với quá trình hình thành,
phát triển t tởng,đạo đức của con ngời và sự tồn tại, phát triển của nhà nớc Việt

Nam.Vì vậy, khi nghiên cứu lịch sử, t tởng ta không thể không đề cập đến Phật
giáo và những mối quan hệ, tác động qua lại giữa chúng.

3


Phần b:Nội dung
I.Sơ lợc về Đạo Phật
1.Nguồn gốc ra đời
Đạo Phật mang tên ngời sáng lập là Đà( hay buddha). Đạo Phật chính là
giáo lí mà phật Đà đã thuyết giảng. Sau khi ra đời ở ấn Độ vào thế kỉ thứ IX đến
thế kỉ thứ VI trớc công nguyên, Đạo Phật đợc lu hành rộng rãi ở các quốc gia
trong khu vực á-Phi, gần đây đợc truyền tới các nớc Âu- Mỹ. Trong quá trình
truyền bá của mình, Đạo Phật đã kết hợp với tín ngỡng, tập tục, dân gian, văn
hóa bản địa để hình thành nhiều tông phái và học phái, có tác động vô cùng
quan trọng với đời sống xă hộivà văn hóa của nhiều quốc gia.
Buddha vốn là một thái tử tên là Tất Đạt Đa (Siddharta),con trai của Trịnh
Phạn Vơng (Suddhodana)vua nuớc Trinh Phạn_một nớc nhỏ thuộc Bắc ấn Độ
(nay thuộc đát Nê Pan) ông sinh ra vào khoảng năm 623 trớc công nguyên .Cuôc
đời Phật Thích Ca đơc kể lại trong truyền thuyết nh sau :
Vào một đêm Mahamaia,ngời vợ chính của vua Suddhodana,Vua của ngời
Saia mơ thấy mính dợc da tới hồ thiêng Anavatáp ở Himalaya. Sau khi các thiên
thần tắm rửa cho bà ở trong hồ thiêng , thì có một con voi trắng khổng lồ có đóa
sen ở vòi bớc tới và chui vào sờn bà .Ngày hôm sau các nhà thông thái đợc vời
tới để giải mơ của Hoàng Hậu. Các nhà thông thái cho rằng là điềm Hoàng Hậu
đang có mang và sẽ sinh hạ một Hoàng Tử tuyệt vời , ngời sau này sẽ trở thành
ngời chúa tể của thê giới hay ngơi thầy của thế giới. Đến ngày đến tháng, Hoàng
Hậu Mahamaia trở về nhà cha mình để sinh con . Thế nhng vừa đến khu vờn
Lumbini, Hoàng Hậu trở dạ và Hoàng Tử ra đời . Vừa ra đời Hoàng Tử đã đứng
ngay dậy ,đi bảy bớc và nói : Đây là kiếp cuối cùng của ta ,từ nay ta không phải

một kiếp nào nữa!.
Đến ngày thứ năm một nghi thức trọng thể đợc tổ chức và hoàng tử đợc
đặt tên là Siđhartha . Để ngăn cản hoàng t không nghĩ đến việc tu hành, đức vua
cha đã tìm mọi cách tạo ra quanh ngời con trai mình một cuộc sống vơng giả.
4


Hoàng tử đợc học mọi kiến thức để sau này trở thành một vị vua tài ba anh minh
trị vì một đất nớc ân Độ bao la.Thế rồi, nhà vua và quần thần đã kén cho hoàng
tử một ngời vợ kiều diễm. Nhng cuộc đời vong giả không cán dỗ đợc Hoàng tử
trẻ tuổi. Bốn sự việc do các thần tạo ra đã làm thay đổi hẳn cuộc đời Hoàng tử
Siddhartha. Đó là một lần khi đang dạo chơi trong vờn, Hoàng tử thấy một ông
già gày còm, ốm yếu rồi nhận ra một điều rằng mọi ngời rồi ai cũng phải già yếu
nh thế, ít lâu sau Hoàng tử lại đợc chứng kiến ngời ốm và ngời chết. Ba hoàn
cảnh trên làm cho Hoàng tử băn khoăn lo nghĩ về kiếp ngời và muốn cứu con ngời khỏi những trầm luân đau khổ của kiếp luân hồi: Sinh, Lão, Bệnh, Tử. Chính
sự việc thứ t đã đem đến cho Hoàng tử niềm hy vọng và an ủi. Lần đó, Hoàng tử
nhìn thấy một vị hành khất dáng vẻ bần hàn nhng lại ung dung tự tại và Hoàng tử
quyết định sẽ trở thành nhà hành khất nh thế.
Đợc tin, đức vua Suddhôđana tìm mọi cách ngăn cản Hoàng tử. Thế nhng
Hoàng tử không thể nào xua đi đợc bốn sự kiện mà mình đã chứng kiến khiến
lòng dạ của Hoàng tử không lúc nào đợc thanh thản. Ngay cả tin mừng công
chúa Yashôdhara sinh cho chàng một Hoàng nam cũng không làm cho Hoàng tử
Sidhartha vui. Ngày đêm khi đứa con ra đời, khi mọi ngời ngủ say, Hoàng tử
lặng lẽ đến nhìn vợ và con lần cuối rồi đánh thức ngời đánh xe dậy cùng mình cỡi con ngựa Canthaca yêu qúy rời khỏi cung. Khi đã rời khỏi cung. Khi đã rời
khỏi đô thành Hoàng tử trút bộ áo Hoàng tộc và mặc lên ngời bộ quần áo thờng
dân. Hoàng tử dùng kiếm cắt bộ tóc dài của mình và nhờ ngời đánh xe mang mớ
tóc và quần áo về trao lại cho đức vua. Còn con ngựa Canthana vì đau khổ phải
chia tay với ông chủ của nó nên đã lăn ra chết ngay tại chỗ. Rời hoàng cung, dứt
áo ra đi, Hoàng tử Sidharha đã trở thành tu hành.
Thoạt đầu, Hoàng tử đi lang thang đây đó, sống theo kiẻu khổ hạnh. Sau

đó, ngài vào rừng tu. Nhà hiền triết Alara Calama dạy cho chàng các phép thiền
thịnh và những triết lý của Upanishad. Học thuyết và thực hành giải thoát cá
nhân của Upanishad không hấp dẫn Hoàng tử. Chàng đi tiếp và nhập vào nhóm
năm ngời tu khổ hạnh. Suốt sáu năm trờng ép xác Hoàng tử gần nh chỉ còn bộ xơng khô mà vẫn cha tìm ra chân lý của sự giải thoát. Ngài bèn bỏ cuộc sống tu
5


hành khổ hạnh và trở lại ăn uống bình thờng.
Khi Hoàng tử Sidhartha 35 tuổi, một hôm ngài đến ngồi dới gốc cây bồ đề
ở ngoại vi thành phố Gaia thuộc vùng đất của vua Bimbisura, vua nớc Magadha.
Cho đến một hôm có nàng Sudjata, con gái mọt nông dân trong vùng đem cho
ngài một bát cơm to nấu bằng sữa. Ăn xong, ngài xuống sông tắm rửa, rồi trở lại
gốc cây bồ đề. Ngài ngồi thiền định và nhất định sẽ không đứng dậy nếu không
tìm ra sự giải thoát về điều bí ẩn của sự đau khổ. Và Hoàng tử đã ngồi dới gốc
cây bồ đề suốt 49 ngày đêm. Để phá sự thiền định của Hoàng tử, con quỷ Mara
tìm mọi cách làm chàng nản chí. Thoạt đầu quỷ ma ra biến thành một sứ giả đến
báo cho Hoàng tử một tin bịa đặt là em trai Hoàng tử nổi loạn, bắt nhốt nhà vua
vào ngục và chiếm nàng Yashodraha làm vợ. Thế nhng tin dữ đó không làm cho
Hoàng tử bận tâm. Mara bèn gọi các quỷ dữ tới làm ma gió lụt lội, động đất sóng
thần nhng Hoàng tử vẫn ngồi bình thản dới gốc cây bồ đề, cảm phục trớc ý chí
kiên định của Hoàng tử, rắn thần Naga dùng thân làm tán che ma gió cho Hoàng
tử ngồi. Thấy thế Mara dùng biện pháp quyết liệt và tinh tế hơn để công phá vào
thành trì kiên định của Hoàng tử. Nó gọi ba cô con gái xinh đẹp của mình tới
nhảy múa mê hoặc nhà tu hành trẻ tuổi. Thế nhng biện pháp cuối cùng của quỷ
Mara cũng thất bại và lũ quỷ phải rời khỏi gốc cây bồ đề. Rạng sáng ngày 49,
Siddhartha đã tìm ra bí mật của sự đau khổ, tìm ra đợc vì sao thế giới lại tràn đầy
khổ đau và đã tìm ra đợc cách để chiến thắng sự đau khổ. Siddhartha đã hoàn
toàn giác ngộ và trở thành Đấng Giác Ngộ. Sau khi giác ngộ Đức Phật còn ngồi
tiếp 7 ngày nữa dới cây bồ đề để suy ngẫm về những chân lý diệu kỳ mà mình đã
khám phá. Ngài phân vân không biết có nên phổ biến đạo pháp của mình cho thế

giới không vì nó quá huyền diệu và khó hiểu đối với mọi ngời. Chính thợng đế
Brahma phải giáng trần để khích lệ Đức Phật truyền bá đạo pháp của mình cho
thế gian. Chỉ khi đó Đức Phật mới rời khỏi gốc cây bồ đề đi đến khu vờn lộc
uyển để giảng bài thuyết pháp đầu tiên cho 5 ngời bạn tu khổ hạnh của mình. Sự
kiện này đợc ghi chép lại nh một sự kiện quan trọng của Đạo phật. Giáo pháp
mới đã gây ấn tợng mạnh đối với 5 nhà tu, họ nhanh chóng trở thành những môn
đồ đầu tiên của Đức Phật. Từ đó tổ chức tăng gia đã ra đời.
6


Đến năm 80 tuổi biết mình tuổi cao sức yếu, Đức Phật cùng các môn đồ
trở về chân núi Himalaya nơi ngài đã sinh ra và lớn lên. Trên đờng Phật đã chuẩn
bị mọi thứ cho các môn đồ để họ có thể tự lập sau khi ngài viên tịch. Và, tại một
nơi thuộc ngoại vi thành phố Cusinagara Phật đã ra đi. Câu nói cuối cùng của
Phật là Hỡi các tỳ kheo tất cả những gì đang tồn tại rồi sẽ qua đi. Vậy các ng ời
càng không nên ngừng gắng sức .

2.Nội dung chủ yếu của Phật giáo.
1.2 Nội dung chủ yếu của t tởng triết học Phật giáo.
T tởng triết lý Phật giáo đợc tập trung trong một khối lợng kinh điển rất
lớn, đợc tổ chức thành ba bộ kinh lớn gọi là tam tạng gồm:
- Tạng Luận: Gồm toàn bộ những giới luật của Phật giáo qui định cho cả
năm bộ phái Phật giáo nh: Tứ phần luật của thợng toạ bộ, Maha tăng kỷ luật
của Đại chúng bộ, căn bản nhất thiết hữu bộ luật ... Sau này còn thêm các Bộ
luật của Đại Thừa nh An lạc, Phạm Võng.
- Tạng kinh: Chép lời Phật dạy, trong thời kỳ đầu tạng kinh gồm nhiều tập
dới dạng các tiền đề, mỗi tập đợc gọi là một Ahàm.
- Tạng luận: Gồm những bài bình chú, giải thích về giáo pháp của Phật
giáo. Tạng luận gồm bảy bộ thể hiện một cách toàn diện các quan điểm về giáo
pháp của Phật giáo.

T tởng triết học Phật giáo trên hai phơng diện, về bản thể luận và nhân
sinh quan, chứa đựng những t tởng duy vật và biện chứng chất phác.
Phật giáo cho rằng các sự vật và hiện tợng trong vũ trụ ( chử pháp ) là vô
thuỷ, vô chung (vô cùng, vô tận). Tất cả thế giới đều ở quá trình biến đổi liên tục
(vô thờng ) không có một vị thần nào sáng tạo ra vạn vật cả. Tất cả các Pháp đều
thuộc về một giới ( vạn vật đều nằm trong vũ trụ) gọi là Pháp giới. Mỗi một pháp
( mỗi một sự v iệc hiện tợng, hay một lớp sự việc hiện tợng) đều ảnh hởng đến
toàn Pháp. Nh vậy các sự vật, hiện tợng hay các quá trình của thế giới là luôn
luôn tồn tại trong mối liên hệ, tác động qua lại và qui định lẫn nhau.
7


Tác phẩm thanh dung thực luận của kinh phật viết rằng: Có ngời cố
chấp là có Đại tự nhiên là bản thể chân thực bao khắp cả, lúc nào cũng thờng
định ra chu pháp(1) đạo Phật cho rằng toàn bộ ch pháp đều chi chi phối bởi luật
nhân quả, biến hoá vô thờng, không có cái bản ngã cố định, không có cái thực
thể, không có hình thức nào tồn tại vĩnh viễn cả. Tất cả đều theo luật nhân quả
biến đổi không ngừng và chỉ có sự biến hoá ấy là thờng còn ( vĩnh viễn ). Cái
nhân nhờ có cái duyên mới sinh ra đợc mà thành quả. Quả lại nhờ có duyên mà
thành nhân khác, nhân khác lại thành quả. Quả lại nhờ có duyên mà thành nhân
khác, nhân khác lại nhờ có duyên mà thành quả mới ... Cứ thế nối nhau vô cùng
vô tận mà thế giới, vạn vật, muôn loài, cứ sinh sinh, hoá hoá mãi.
Nh vậy ngay từ đầu Phật giáo đã đặt ra mục đích giải quyết vấn đề cơ bản
của Triết học một cách biện chứng và duy vật. Phật giáo đã gạt bỏ vai trò sáng
tạo thế giới của các đấng tối cao của Thợng đế và cho rằng bản thể của thế
giới tồn tại khách quan và không do vị thần nào sáng tạo ra cả. Cái bản thể ấy
chính là sự thờng hằng trong vận động của vũ trụ, là muôn ngàn hình thức của
vạn vật trong vận động, nó có mặt trong vạn vật nhng nó không dừng lại ở bất kỳ
hình thức nào. Nó muôn hình vạn trạng nhng lại tuân hành nghiêm ngặt theo luật
nhân quả.

Do qui luật nhân quả mà vạn vật ở trong quá trình biến đổi không ngừng,
thành, trụ, hoại, diệt ( sinh thành, biến đổi, tồn tại, tan rã và diệt vong). Quá trình
đó phổ biến khắp vạn vật, trong vũ trụ, nó là phơng thức thay đổi chất lợng của
sự vật và hiện tợng.
Phật giáo trong quá trình giải thích sự biến hoá vô thờng của vạn vật, đã
xây dựng nền thuyết nhân duyên. trong thuyết nhân duyên có ba khái niệm
chủ yếu là Nhân, Quả và Duyên.
- Cái gì phát động ra ở vật gây ra một hay nhiều kết quả nào đó, đợc gọi là
Nhân.
- Cái gì tập lại từ Nhân đợc gọi là Quả.
1

(1) Dẫn theo Đoàn Chính - Lơng Minh Cừ - LSTH ấn Độ cổ đại 1921

8


- Duyên: Là điều kiện, mối liên hệ, giúp Nhân tạo ra Quả. Duyên không
phải là một cái gì đó cụ thể, xác định mà nó là sự tơng hợp, điều kiện để giúp
cho sự biến chuyển của vạn Pháp.
Ví dụ hạt lúa là cái quả của cây lúa đã thành, mà lại là cái nhân của cây
lúa sắp thành. Lúa muốn thành cây lúa có bông lại phải nhờ có điều kiện và
những mối liên hệ thích hợp nh đất, nớc, không khí, ánh sáng. Những yếu tố đó
chính là Duyên.
Trong thế giới sinh vật, khi đã giải thích về nguyên nhân biến hoá vô thờng của nó, từ quá khứ đến hiện tại, từ hiện đại tới tơng lại. Phật giáo đã trình
bày thuyết Thập Nhị Nhân Duyên ( mời hai quan hệ nhân duyên) đợc coi là
cơ sở của mọi biến đổi trong thế giới hiền sinh, một cách tất yếu của sự liên kết
nghiệp quả.
+ Vô minh: ( là cái không sáng suốt, mông muội, che lấp cái bản nhiên
sáng tỏ).

+ Hành: ( là suy nghĩ mà hành động, do hành động mà tạo nên kết quả,
tạo ra cái nghiệp, cái nếp. Do hành động mà có thức ấy là hành làm quả cho vô
minh và là nhân cho Thức).
+ Thức: ( Là ý thức là biết. Do thức mà có Danh sắc, ấy là Thức làm quả
cho hành và làm nhân cho Danh sắc).
+ Danh sắc: ( Là tên và hành ta đã biết tên ta là gì thì phải có hình và tên
của ta. Do danh sắc mà có Lục xứ, ấy danh sắc làm quả cho thức và làm nhân
cho Lục xứ).
+ Lục xứ hay lục nhập: ( Là sáu chỗ, sáu cảm giác: Mắt, mũi, lỡi, tai, thân
và tri thức. Đã có hình hài có tên phải có Lục xứ để tiếp xúc với vạn vật. Do Lục
nhập mà có xúc - tiếp xúc. ấy là Lục xứ làm quả cho Danh sắc và làm nhân cho
Xúc.)
+ Xúc: ( Là tiếp xúc với ngoại cảnh qua sáu cơ quan xúc giác gây nên cmở
rộng xúc, cảm giác. Do xúc mà có thụ ấy là xúc làm quả cho Lục xứ và làm nhân
cho Thụ.)
9


+ Thụ: (Là tiếp thu, lĩnh nạp, những tác động bên ngoài tác động vào
mình. Do thụ mà có ái. ấy là thụ làm quả cho Xúc và làm nhân cho ái.)
+ ái: (Là yêu, khát vọng, mong muốn, thích. Do ái mà có Thủ. Do ấy, ái
làm quả cho Thụ và làm nhân cho Thủ.)
+ Thủ: ( Là lấy, chiếm đoạt cho minh. Do thủ mà có Hữu. Do vậy mà Thủ
làm quả cho ái và làm nhân cho Hữu.)
+ Hữu: ( Là tồn tại, hiện hữu, ham, muốn, nên có dục gây thành cái
nghiệp. Do Hữu mà có sinh, do đó Hữu là quả của Thủ và làm nhân của Sinh).
+ Sinh: ( Hiện hữu là ta sinh ra ở thế gian làm thần thánh, làm ngời, làm
súc sinh. Do sinh mà có Tử, ấy là sinh làm quả cho Hữu và làm nhân cho Tử).
+ Lão tử: ( Là già và chết, đã sinh ra là phải già yếu mà đã già là phải chết.
Nhng chết - sống là hai mặt đối lập nhau không tách rời nhau. Thể xác tan đi là

hết nhng linh hồn vẫn ở trong vòng vô minh. Cho nên lại mang cái nghiệp rơi
vào vòng luân hồi ( khổ não).
Thập nhị nhân duyên nh nớc chảy kế tiếp nhau không bao giờ cạn, không
bao giờ ngừng, nên đạo Phật là Duyên Hà. Các nhân duyên tự tập nhau lại mà
sinh mãi mãi gọ là Duyên hà mãn. Đoạn này do các duyên mà làm quả cho đoạn
trớc, rồi lại do các duyên mà làm nhân cho đoạn sau. Bởi 12 nhân Duyên mà vạn
vật cứ sinh hoá vô thờng.
- Mối quan hệ Nhân - Duyên là mối quan hệ biện chứng trong không gian
và thời gian giữa vạn vật. Mối quan hệ đó bao trùm lên toàn bộ thế giới không
tính đến cái lớn nhỏ, không tính đến sự giản đơn hay phức tạp. Một hạt cát nhỏ
đợc tạo thành trong mối quan hệ nhân quả của toàn vũ trụ. Cả vũ trụ hoà hơp tạo
nên nó. Cũng nh nó hoà hợp tạo nên cả vũ trụ bao la. Trong một có tất cả trong
tất cả có một. Do nhân Duyên mà vạn vật sinh hay diệt. Duyên hợp thì sinh,
Duyên tan thì diệt.
Vạn vât sinh hoá vô cùng là do ở các duyên tan hợp, hợp tan nối nhau mà
ra. Nên vạn vật chỉ tồn tại ở dạng tơng đối, trong dòng biến hoá vô tận vô thờng
vô thực thể, vô bản ngã, chỉ là h ảo. Chỉ có sự biến đổi vô thờng của vạn vật, vạn
10


sự theo nhân duyên là thờng còn không thay đổi.
Do vậy toàn bộ thế giới đa dạng, phong phú, nhiều hình, nhiều vẻ cũng chỉ
là dòng biến hoá h ảo vô cùng, không có gì là thờng định, là thực, là không thực
có sinh, có diệt, có ngời, có mình, có cảnh, có vật, có không gian, có thời gian.
Đó chính là cái chân lý cho ta thấy đợc cái chân thế tuyệt đối của vũ trụ. Thấy đợc điều đó gọi là chân nh là đạt tới cõi hạnh phúc, cực lạc, không sinh, không
diệt, niết bàn.
Thế giới của chúng sinh (loài ngời) cũng do nhân duyên kết hợp mà thành.
Đó là sự kết hợp của hai thành phần: Phần sinh lý và phần tâm lý.
- Cái tôi sinh lý tức là thể xác, hình chất với yếu tố sắc ( địa, thuỷ, hoá,
phong ) tức là cái cảm giác đợc.

- Cái tôi tâm lý ( tinh thần ) linh hồn tức là tâm với 4 yếu tố chỉ có tên
gọi mà không có hình chất gọi là Danh.
Trong Sắc gồm những cái nhìn thấy đợc cũng nh những thứ không nhìn
thấy đợc nếu nó nằm trong quá trình biến đổi của sắc gọi là vô biến sắc nh
vật chất chuyển hoá thành năng lợng chẳng hạn.
Bốn yếu tố do nhân duyên tạo thành phần tâm lý ( tinh thần ) của con ngời
là:
+ Thụ: Những cảm giác, cảm thụ về khổ hay sớng, đa đến sự xúc chạm
lĩnh hội thân hay tâm.
+ Tởng: Suy nghĩ, t tởng.
+ Hành: ý muốn thúc đẩy hành động.
+ Thức: Nhận thức, phân biệt đối tợng tâm lý ta là ta.
Hai thành phần tạo nên từ ngũ uẩn do Nhân - Duyên tạo thành mỗi sinh
vật cụ thể có danh và có sắc. Duyên hợp ngũ uẩn thì là ta. Duyên tan ngũ uẩn thì
là diệt. Quá trình hợp tan ngũ uẩn do Nhân - Duyên là vô cùng tận.
- Các yếu tố của ngũ uẩn cũng luôn luôn biến hoá theo qui luật nhân hoá
không ngừng không nghỉ, nên mọi sinh vật cũng chỉ là vụt mất, vụt còn. Không
11


có sự vật riêng biệt, cố định, không có cái tôi, cái tôi hôm qua không còn là cái
tôi hôm nay. Kinh Phật có đoạn viết Sắc chẳng khác không, không chẳng khác
sắc, sắc là không, không là sắc. Thụ, Tởng, Hành, Thức cũng đều nh thế.
Nh vậy thế giới là biến ảo vô thờng, vô định. Chỉ có những cái đó mới là
chân thực, vĩnh viễn, thờng hằng. Nếu không nhận thức đợc nó thì con ngời sẽ
lầm tởng ta tồn tại mãi mãi, cái gì cũng thờng định, cái gì cũng của ta. Do đó,
mà con ngời cứ khát ái, tham dục cứ mong muốn và hành động chiếm đoạt tạo ra
kết quả mà kết quả đó có thể tốt, có thể xấu gây nên nghiệp báo, rơi vào bể khổ
triền miên không bao giờ dứt.
Sở dĩ có nỗi khổ là do qui định của Luật nhân quả. Vì thế mà ta không

thấy đợc cái luật nhân bản của mình ( bản thể chân thực ). Khi đã mắc vào sự chi
phối của Luật Nhân - Duyên, thì phải chịu nghiệp báo và kiếp luân hồi, luân
chuyển tuần hoàn không ngừng, không dứt.
Nghiệp và luân hồi không những chỉ là những khái niệm của Triết học
Phật giáo mà có từ trong Upanishad.
Nghiệp chữ phạn và Karma là cái do những hoạt động của ta, do hậu quả
việc làm của ta, do hành động của thân thể ta. Đợc gọi là thân nghiệp, còn hậu
quả của những lời nói của ta, phát ngôn của ta thì đợc gọi làg khẩu nghiệp.
Hay những cái do ý nghĩ của ta, do tâm tue của ta gây nên đợc gọi là ý nghiệp.
Tất cả những thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp là do ta tham dục mà thành, do
ta muốn thoả mãn tham vọng của mình gây nên. Sở dĩ ta tham dục vì ta cha hiểu
đơc chân bản vốn có của ta cũng nh vạn vật là luôn luôn biến đổi không có gì là
thờng định và vĩnh viễn cả.
Cuộc đời con ngời là sự ghánh chịu hậu quả của nghiệp đơng thời và các
kiếp sống trớc rồi nó tiếp tục chi phối cả đời sau.
Nghiệp báo trong một đời là sự tổng hợp của các nghiệp gây ra trong hiện
tại cộng với các nghiệp gây ra trong quá khứ, nó quyết định đời sau xấu hay tốt,
thiện hay ác.
Luân hồi: Chữ phạn là Samsara. Có nghĩa là bánh xe quay tròn. Đạo phật
12


cho rằng, sau khi một thể xác sinh vật nào đó chết thì linh hồn sẽ tách ra khỏi thể
xác và đầu thai vào một sinh vật khác nhập vào một thể xác khác (có thể là con
ngời, loài vật thậm chí cỏ cây). Cứ thế mãi do kết quả, quả báo hành động của
những kiếp trớc gây ra. Đó cũng là cách lý giải căn nguyên nỗi khổ ở đời con ngời.
Sau khi lý giải đợc nỗi khổ ở cuộc đời con ngời là do thập nhị nhân
duyên làm cho con ngời rơi vào bể trầm luân. Đạo Phật đã chủ chơng tìm con đờng diệt khổ. Con đờng giải thoát đó không những đòi hỏi ta nhận thức đợc nó
mà cao hơn ta phải hành động, phải thấm nhuần tứ diệu đế.
Tứ diệu đế: Là bốn sự thật chắc chắn, bốn chân lý lớn, đòi hỏi chúng sinh

phải thấu hiểu và thực hiện nó. Tứ diệu đế gồm:
1. Khổ đế: Con ngời và vạn vật sinh ra là khổ, ốm đau là khổ, già yếu là
khổ, chết là khổ, ghét nhau mà phải sống gần nhau là khổ, yêu nhau mà phải
chia lìa nhau là khổ, mất là khổ mà đợc cũng là khổ. .... Những nỗi khổ ấy từ
đâu? chúng ta tiếp tục tìm hiểu Tập đế.
2. Tập đế: Tập là tập hợp, tụ tập lại mà thành. Vậy do những gì tụ tập lại
mà tạo ra nỗi khổ cho chúng sinh?
Đó là do con ngời có lòng tham, dâm (giận dữ ), si ( si mê, cuồng mê, mê
muội) và dục vọng. Lòng tham và dục vọng của con ngời xâu xé là do con ngời
không nắm đợc nhân duyên. Vốn nh là một định luật chi phối toàn vũ trụ. Chúng
sinh khômg biết rằng mọi cái là ảo ảnh, sắc sắc, không không. Cái tôi tởng là có
nhng thực là không. Vì không hiểu đợc ra nỗi khổ triền miên, từ đời này qua đời
khác.
3. Diệt đế: Là phải thấu hiểu đợc Thập nhị nhân duyên để tìm ra đợc
căn nguyên của sự khổ - để dứt bỏ từ ngọn cho đến gốc rễ của cái khổ. Thực chất
là thoát khỏi nghiệp chớng, luân hồi, sinh tử.
4. Đạo đế: Là con ngời ta phải theo đế diệt khổ, phải đào sâu suy nghĩ
trong thế giới nội tâm ( thực nghiệm tâm linh ). Tuy luyện tâm trí, đặc biệt là
thực hành YOGA để đạt tới cõi siêu phàm mà cao nhất là đạt tới cõi phận là đạt
13


tới trình độ giác ngộ bát nhã. Tới chừng đó sẽ thấy đợc chân nh và thanh thản
tuyệt đối, hết ham muốn, hết tham vọng tầm thờng, tức là đạt tới cói niết bàn
không sinh, không diệt.
Thực hiện Đạo đế là một quá trình lâu dài, kiên trì, giữ nguyên giới luật
tập trung thiên định cao độ Phật giáo đã trình bày 8 con đờng hay 8 nguyên tắc
( Bát chính Đạo - buộc ta phải tuân thủ bát chính đạo gồm:
- Chính kiến: Phải nhận thức đúng, phân biệt đợc phải trái, không để cho
những cái sai che lấp sự sáng suốt.

- Chính t duy: Suy nghĩ phải, phải chính, phải đúng đắn.
- Chính nghiệp: Hành động phải chân chính, phải đúng đắn.
- Chính ngữ: Nói phải đúng, không gian dối, không vu oan cho ngời khác.
- Chính mệnh: Sống trung thực, không tham lam, vụ lợi, gian tà, không đợc bỏ điều nhân nghĩa.
- Chính tịnh tiến: Phải nỗ lực, siêng năng học tập, có ý thức vơn lên để đạt
tới chân lý.
- Chính niệm: Phải luôn luôn hớng về đạo lý chân chính, không nghĩ đến
những điều bạo ngợc gian ác.
- Chính định: Kiên định tập trung t tởng vào con đờng chính, không bị
thoái chí, lay chuyển trớc mọi cán dỗ.
Muốn thực hiện đợc Bát chính đạo thì phải có phơng pháp để thực hiện
nhằm ngăn ngừa những điều gian ác gây thiệt hại cho mình và những ngời làm
điều thiện có lợi ích cho mình và cho ngời. Nội dung của các phơng pháp đó là
thực hiện Ngũ giới ( năm điều răn ) và Lục độ (Sáu phép tu ).
- Ngũ giới gồm:
+ Bất sát:

Không sát sinh

+ Bất đạo:

Không làm điều phi nghĩa.

+ Bất dâm: Không dâm dục.

14


+ Bất vọng ngữ: Không bịa đặt, không vu oan giáo hoạ cho kẻ khác,
không nói dối.

- Lục độ gồm:
+ Bố thí: Đêm công sức, tài trí, của cải để giúp ngời một cách thành
thực chứ không để cầu lợi hoặc ban ơn.
+ Trí giới: Trung thành với điều răn, kiên trì tu luyện.
+ Nhẫn nhục: Phải biết kiên nhẫn, nhờng nhịn, chịu đựng để làm
chủ đợc mình.
+ Tịnh tiến: Cố gắng nỗ lực vơn lên.
+ Thiền định: T tởng phải tập trung vào điều ngay, chính không để
cho cái xấu cho lấp.
+ Bát nhã: Trí tuệ thấy rõ hết, hiểu thấu hết mọi chuyện trên thế
gian.
Tóm lại: Phật giáo cho rằng chỉ có bằng sự kiên định để thực hiện Bát
hành đạo, Ngũ giới, Lục độ thì chúng sinh mới có thể giải thoát mình ra
khỏi nỗi khổ. Phật giáo không chủ trơng giải phóng bằng cách mạng xã hội. Mặc
dù Phật giáo lên án rất gay gắt chế độ ngời bóc lột ngời, chống lại chủ nghĩa duy
tâm cua Bàlamôn giáo. Đó là một trong những nhợc điểm đồng thời cũng là u
điểm nửa vời của Đạo phật. Đứng trớc bể khổ của chúng sinh Phật giáo chủ trơng cải tạo tâm linh chứ không phải cải tạo thế giới hiện thực. Nh vậy Phật giáo
nguyên thuỷ có t tởng vô thần, phủ nhận đấng sáng tạo ( vô ngã, vô tạo giả) và
có t tởng biện chứng ( vô thờng, lý thuyết Duyên khởi ). Tuy nhiên, Triết học
Phật giáo cũng thể hiện tính duy tâm chủ quan khi coi thế giới hiện thực là ảo
giả và do cái tâm vô minh của con ngời tạo ra.

3.Tình hình phát triển của Phật giáo
1.4 Tình hình phát triển của Phật giáo

15


Trớc đây Phật giáo đợc coi là một trong ba tôn giáo lớn của thế giới, nhng
trong những năm gần đây do sự suy yếu của một số quốc gia, số tín đồ Phật giáo

đã tụt xuống đứng sau Đạo Cơ Đốc, Đạo Ixlam và Đạo ấn Độ, chiếm vị trí thứ t.
Căn cứ thống kê của Bách khoa toàn th Cơ Đốc giáo thế giới xuất bản ở
Oxford năm 1982, toàn thế giới hiện có 295.570.780 tín đồ Phật giáo. Con số
này so với năm 1972 đã tăng lên 50.000 ngời ( năm 1972 có 244.800.300 ngời ).
Tín đồ Phật giáo phát triển so với tổng số dân trên toàn thế giới là rất nhỏ bé. Dới
đây là tình hình phân bố của tín đồ Phật giáo: ( số liệu năm 1982 )
Khu vực
Đông Bắc á
Nam á và Đông Nam á
Liên Xô ( cũ )
Bắc Mỹ
Châu Âu
Châu Đại dơng
Châu Phi
Tổng cộng

Số tín đồ Phật giáo
(ngời )
143.359.570
150.927.990
350.000
189.850
212.320
17.190
12.610
295.570.780

16

Số % so với tổng số

dân (%)
12,3
9,4
0,1
0,11
0,1
0,1


Trên thực tế hiện nay số lợng tín đồ Phật giáo trên thế giới đã tăng lên rất
nhiều, ớc chừng khoảng trên 50 triệu ngời.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, Phật giáo ở các nơi trên thế giới đã trải qua những biến đổi
khác nhau, đã xuất hiện một số đặc điểm mới.

II.ảnh

hởng của Phật giáo đến đời sống xã hội

Việt Nam

1.Phật giáo với xã hội và con ngời Việt Nam xa kia
Từ khi con ngời xuất hiện trên Trái đất, con ngời cổ xa sống hoà cùng với
thiên nhiên theo bản năng sẵn có giống nh những loài động vật khác khi con ngời cha có nhận thức gì về sự sống, sự tồn tại của mình trên thế gian và về thiên
nhiên. Khi con ngời biết sử dụng công cụ bằng đá để phục vụ cuộc sống của
mình thì lao động xuất hiện và nhận thức đợc hình thành. Sự tác động của thiên
nhiên đến đời sống nh: lũ lụt, bão, hạn hán, bệnh tật, chết chóc, nghèo đói con
ngời biết rằng không phải do mình tạo ra, không giải thích đợc nguyên nhân sức
mạnh đó và họ đã nghĩ đến các thế lực siêu nhiên, huyền bí nh thần lửa, thần gió,
thần ma và cho rằng các thế lực đó gây ra những thiên tai cho họ. Con ng ời
tìm cách để thoát khỏi tai hoạ bằng cách thờ cúng cống lạp, bên cạnh đó họ cũng

tìm một thế lực siêu nhiên khác để giúp họ tránh và chống trả lại các mối tai hoạ
đó và văn hoá truyền thống dân gian-thần linh ra đời.
Khoảng thế kỷ II sau công nguyên thì Phật giáo đợc truyền vào nớc ta và đã
trở thành một trong những hệ t tởng. Tôn giáo có sức sống lâu dài, tồn tại cho
mãi đến ngày nay, đã ảnh hởng sâu sắc đến đời sống xã hội và tinh thần của ngời
Việt ta.
Trong thời gian này thì nhân dân ta đang phải chống lại sự xâm lợc của thế lực
phơng Bắc nhng việc tiếp nhận Đạo Phật không bị ảnh hởng mà còn có vai trò rất
lớn đến tinh thần chống giặc ngoại xâm. Ngời Việt ta hồi đó nhận ra điểm giống
nhau giữa hai nền tín ngỡng dân gian-thần linh và Phật giáo, dờng nh có sự hợp
nhất. Nhiều ngời cho rằng Phật giáo vốn dễ hoà hợp với tín ngỡng dân gian ở

17


những nơi nó đợc truyền bá đến. Đặc điểm tôn giáo Việt Nam là sự thờ cúng tổ
tiên thì phật hay quan thế âm cũng đợc coi là tổ tiên, việc làm đó của con ngời là
mong sự giúp đỡ của thần linh, đức phật. Đại diện của tín ngỡng thần linh là Bụt,
của tín ngỡng phật là đức Phật giữa hai đại diện này có đối tợng tác động khác
nhau. Bụt chỉ giúp những ngời nghèo khổ bất hạnh còn đức Phật thì không có sự
phân biệt, có cái nhìn ngang bằng với tất cả chúng sinh. Với Phật còn cả một
niềm từ bi bác ái, không có hằn học, oán ghét hay phục thù, bên cạnh đó đức
Phật còn kêu gọi sự tự giác, tự hoàn thiện mình, điều đó tơng đồng với bản chất
dân tộc Việt.
Tâm lý dân gian Việt Nam ta thiên về sự cân bằng, bù đắp. Nỗi khổ hôm nay
phải đợc sự bù đắp bằng sự sung sớng ngày mai. Phật giáo cũng hứa hẹn với con
ngời sự đền bù không do quyền phép nào, chỗ dựa nào của Nho giáo, cũng
không do cán cân phúc tội của đạo gia, mà do chính nỗ lực của bản thân mình.
Ngời dân bình thờng phần bản chất cũng có quan nịêm nhận thức nh vậy, mà
chắc chắn không phải vì do họ quán triệt thuyết bát chánh đạo của nhà thiền.

Mặc dù bát chánh đạo không có gì là thần bí nhng không có mấy ngời nhớ đủ
tám đờng mà phật tổ đã đề ra. Vấn đề là ở cái tinh thần rút từ bát chánh đạo, tinh
thần ấy là sự cố gắng tu dỡng, vun thêm cho bản thân mình và họ cũng mong
mỏi sự đền bù này, khi thấy phật tổ vạch ra cho họ và khẳng định điều tất nhiên
sẽ đến. Tuy nhiên, không phải Phật giáo đi đợc vào quần chúng,có một sự gắn bó
sâu sa nhất định, mà không một sự thẩm định, chọn lựa nào có lựa chọn để chối
bỏ hoặc đồng hoá nữa. Đối với Phật giáo sự lựa chọn này bao hàm cả ý nghĩa
phê phán. Ngày nay, ở góc độ chính trị hay t tởng triết học thì tôn giáo còn
những hạn chế, song ngày xa không có điều kiện hay trình độ để làm việc ấy,
song khi họ chấp nhận, chối bỏ hoặc biến hoá những giáo lý đẻ thích nghi với
trình độ t duy, với các sinh hoạt của họ. Phật giáo đến Việt Nam dù là Phật giáo
nguyên thuỷ hay đa dạng sau này bởi tiểu thừa hay đạo thừa thì vẫn phải nhập
với tín ngỡng bản địa.
Phật giáo còn là một sự kiện văn hoá,nó từ Ân Độ đợc truyền vào Việt Nam
vốn không phải sự kiện đơn độc mà kéo theo có là ảnh hởng của tổng thể văn
18


hoá ấn độ đối với Việt Nam cổ trên nhiều lĩnh vực nh: nông nghiệp, y dợc, âm
nhạc
Điều quan trọng là văn hoá Việt Nam cổ tiếp thu phần văn hoá ấn độ qua ngả đờng Phật giáo vào suốt thời bắc thuộc và chống bắc thuộc trong khi bị ảnh hởng
văn minh Trung Hoa trên đất nớc và mang khuynh hớng đồng hoá rõ rệt, không
những thế chúng đã trở thành đối trọng, trung hoà ảnh hởng của nền văn hoá du
nhập vào nớc ta. Nho giáo cũng bắt đầu phát huy ảnh hởng ở đất Việt từ buổi đầu
công nguyên với việc mở trờng nhằm giáo lễ nghĩa Trung Hoa cho ngời Việt.
Ta không thể phủ nhận mặt tích cực của Nho giáo là góp phần làm tăng tri thức
ngời dân, nhấn mạnh vào nhân, nghĩa, ái. Nhng dù sao đi nữa Nho giáo vẫn là
công cụ của tầng lớp thống trị. Lễ trong Nho giáo là tôn trọng, duy trì trật tự trên
dới: Vua-tôi, cha-con, chồng-vợ (hay gọi là tam cơng). Song ngời Việt cổ vốn có
một nội lực tự sinh quật cờng, thích lối sống riêng tự do thuần phác từ thời bắc

thuộc, một lối sống không quá ngăn cách giữa vua và dân, giữa cha và con, giữa
vợ và chồng. Bởi vậy họ khó lòng chấp nhận nổi trật tự tam cơng đó của Nho
giáo, nhng họ không thể nào đối phó với những nho sĩ và họ chỉ biết dựa vào nhà
s. Phật giáo đã làm ngang bằng, mọi ngời đều bình đẳng trớc phật. Nếu nh Nho
giáo Việt Nam dựng ra cái đình ở làng quê có sự phân biệt thì dân quê lại dựng
và bảo vệ chùa, chùa làng của dân gian của mọi đối tợng. Mặt khác, xa kia xã
hội con ngời mở rộng cho Phật giáo dễ dàng du nhập so với Trung Quốc. Khi nó
vào Trung Quốc đã bị phản kháng mãnh liệt của tâm lý dân tộc, truyền thống
văn hoá, đặc biệt là ý thức hệ Nho giáo. Trong khi đó Phật giáo vào Việt Nam t ơng đối thuận lợi, phát triển nhanh chóng, hầu nh không có sự phản kháng sâu
sắc trừ một số ít nho sĩ thời Trần, Hồ. Khi tiếp nhận Phật giáo từ Ân Độ hay
Trung Quốc sang cha có sự phân chia gay gắt và đối kháng kịch liệt, mối quan
hệ gia đình cha chịu ảnh hởng nặng nề của thuyết tam cơng, điều nay khiến Phật
giáo thâm nhập không bị phản đối. Song lí do chính có lẽ là khi Phật giáo vào
cha gay một đảo lộn, một biến cách, không phủ nhận những giá trị tinh thần,
phong tục tập quán của từng gia đình cũng nh xã hội. Vì vậy ngời Việt đã dễ
dàng tiếp thu triết lý nhân sinh quan của đạo phật.
19


Dòng Phật giáo có ảnh hởng sâu sắc và lâu dài trong xã hội Việt Nam là Thiền
Tông. Một số đặc điểm mà đợc chấp nhận là: kéo thế giới Tây Phơng cực lạc về
trần thế,đặt nó trong lòng con ngời; chủ trơng lao động theo thanh quy của Bách
Trợng(một ngày không làm, một ngày không ăn) và lấy việc phục vụ xã hội làm
điều kiện tu hành, chấp nhận sự bần khổ coi sự chịu bần khổ cũng là cách tu
hành vì thế dễ đi vào lòng dân và đứng trong làng quê thôn dã; đặc biệt hơn là
còn cho phép sát sinh, mất một ngời cứu đợc muôn ngời. Phật tử không phải là
ngời bị động họ có thể vùng lên khi cần thiết. Vào thời phong kiến đã có nhiều
cuộc nổi dậy do nhà s lãnh đạo.
Phật giáo tồn tại và phát triển ở làng quê bằng nhiều hoạt động cụ thể có tổ
chức, kết hợp với tín ngỡng bản địa, hội hè. Chùa chiền có vai trò quan trọng

trong đời sống dân gian cổ truyền, nhiều ngôi chùa đã đợc xây dựng ngoài để thờ
phật ra còn thờ thần tiên và các vị tớng có công với đất nớc. Ngôi chùa trở thành
trung tâm văn hoá ở nông thôn. Có thể nói Phật giáo đã làm phong phú thêm nền
văn hoá dân tộc. Nho giáo về mặt nào đó làm cho t tởng văn hoá khô cứng thì
Phật giáo có phần làm mềm hơn, phong phú hơn, ở đó không có sự gò bó và toả
chiết tâm hồn. Vào thời nhà Lý Trần thì Phật giáo phát triển mạnh và cực thịnh,
đợc triều đình quan tâm xây dựng, lúc này các vị thiền s có vị trí đặc biệt trong
đời sống xã hội và có cơ sở vững chắc, đặc biệt vào thời Trần có một vị vua làm
nhà s đó là vua Trần Nhân Tông nhng vào thời nhà Hồ và Lê sơ về sau thì dần
dần suy thoái và Nho giáo ở vị trí thống trị, chi phối, Phật giáo rời bỏ chốn cung
đình về nơi thôn dã. Măc dù Nho giáo thay thế Phật giáo trên vũ đài chính trị nhng Phật giáo vẫn tồn tại cùng Lão giáo hợp thành phức thể.

2. Phật giáo với xã hội và con ngời Việt Nam ngày nay.
Ngày nay dù trải qua hàng ngàn năm ,tại sao Phật giáo vẫn là một trong
những hệ t tởng bên cạnh nhiều tôn giáo mới xuất hiện nh Thiên chúa giáo, Đạo
Tin lành, Đạo Cao Đài? Phải chăng đó là một nét văn hoá truyền thống lâu
đời và tốt đẹp của ngời Việt, dù khoa học kỹ thuật đã phát triển và có những
thành tựu xong con ngời không thể chế ngự đợc sức mạnh của thiên nhiên nên họ

20


luôn cần một chỗ dựa tâm linh che trở. Mặt khác, do sự thăng trầm quanh co và
hết sức khó khăn của quá trình xây dựng CNXH ở trong nớc và thế giới làm cho
một số ngời thiếu tin tởng vào sự phát triển của hình thái xã hội. Nhìn vào đời
sống xã hội và tinh thần ngời Việt Nam trong thời gian qua, ta thấy qua nhiều
biểu hiện Phật giáo đang đợc phục hồi và phát triển, ở nhiều vùng đất nớc số ngời theo Phật giáo ngày càng đông, lễ hội và sinh hoạt Phật giáo ngày có vị trí cao
trong đời sống tinh thần xã hội, số s sãi đợc đào tạo từ các trờng Phật học ngày
càng nhiều, số kinh sách xuất bản hàng năm cũng tăng. Các Phật tử rất chăm lo
đến việc thực hiện các nghi lễ, họ thờng hay đi chùa trong các ngày lễ, ngày tết,

họ làm công việc thiền định, giữ giới và làm việc thiện. Việc ăn chay hàng tháng
trở thành thói quen không thể thiếu, có những ngời đến nơi thờ cúng nh một thói
quen, niềm an ủi hay cuồng tín. Nhng có những ngời quá mu muội, mê tín đã
gây ra vết nhơ trên sự thanh cao của Phật giáo, vết nhơ này cần đợc rửa sạch.
Trong bối cảnh quốc tế và nớc ta hiện nay nhiều ngời cho rằng nên giáo dục
đạo đức tôn giáo cho xã hội vì xã hội thế tục tỏ ra bất lực trớc sự suy thoái đạo
đức. Trong giáo lý nhà Phật nêu nhiều chuẩn mực đạo đức của tín đồ, nếu nh
mọi ngời cũng thực hiện nh vậy thì chắc chắn xã hội sẽ tốt đẹp và yên bình hơn .
Xã hội trần thế cũng khuyên những lời khuyên đạo đức nh vậy, không những
khuyên mà còn tìm các thực hiện các chuẩn mực đạo đức đó. Đạo đức xã hội còn
phong phú hơn đạo đức tôn giáo.
Dọc theo chiều dài lịch sử Đất nớc mặc dù trải qua những lúc thăng trầm
xong Phật giáo cùng các tôn giáo khác luôn góp phần xứng đáng vào sự nghiệp
đấu tranh giành độc lập xây dựng và bảo vệ nhà nớc XHCN Việt Nam.Vào
những năm 30 của thế kỷ XX, dới thời nhà Nguyễn thực dân Pháp xâm lợc, Phật
giáo tiếp tục suy tàn. Trớc tình hình đó một số nhân sĩ, tri thức đã vận động
phong trào chấn hng Phật giáo và đã có sự khởi sắc. Thực dân Pháp đã tìm hiểu,
lôi kéo và làm tha hóa các nhân vật, tổ chức Phật giáo nhằm tạo cơ sở xã hội và
chính trị cho chế độ thực dân. Trớc âm mu đó đại bộ phận tăng ni, phật tử vẫn
giữ đợc truyền thống yêu nớc, ủng hộ chính phủ và nhiều nhà s đã tự nguyện gia
nhập các mặt trận Việt Minh, Liên Việt, làm cơ sở che dấu cho cán bộ không
21


cho kẻ thù đạt đợc mục đích.Sau khi Mỹ thế chân Pháp thì Thiên chúa giáo đợc
nâng đỡ làm cho Phật giáo bị chèn ép, xong chúng tăng ni, Phật tử cùng dân tộc
đã xuống đờng đấu tranh đòi lại quyền t do tôn giáo và chấn hng Đạo Phật vào
những năm 60 của thế kỷ XX.
Những năm cuối thế kỷ XX, Liên Xô_thành thì vững chắc của hệ thống
các nớc XHCN tan rã, TBCN quyết tâm xóa bỏ XHCN trên thế giới , nhng bằng

lòng quyết tâm đi theo con đờng đã chọn đến ngày nay thì hệ thống CNXH đang
giành lại vị trí trên thế giới và đất nớc ta tự hào đợc đứng trong hệ thống đó. Các
thế lực âm mu chống phá đất nớc ta ở thời kỳ nào cũng có, ngoài đánh phá vào
các lĩnh vực chính trị, kinh tế, khoa học, thì vấn đề tôn giáo-một vấn đề văn hoá
nhạy cảm đặc biệt cũng bị chúng lợi dụng . Chúng khai thác quyền tự do tín ngỡng tôn giáo của nhà nớc XHCN : mọi công dân theo hoặc không theo tôn giáo
đều bình đẳng trớc pháp luật về quyền lợi và nghĩa vụ, không phân biệt, để phá
hoại chế độ đất nớc ta. Ngày nay chúng biến tôn giáo thành công cụ chính trị,
văn hoá để thực hiện âm mu phá hoại của chúng. Chính vì vậy đấu tranh xoá
bỏ yếu tố chính trị phản động trong vấn đề tôn giáo nghĩa là đấu tranh chống bọn
phản động lợi dụng tôn giáo để chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân là
một yêu cầu quan trọng trong việc bảo vệ thành quả cách mạng và xây dựng xã
hội mới.
Vì vậy nhà nớc phải có nhiệm vụ đối với tôn giáo nói chung và Phật giáo nói
riêng. Ngoài việc đảm bảo quyền tự do tín ngỡng, ủng hộ các sinh hoạt Phật giáo
hớng đến chỗ tiếp thêm tình cảm, tính nhân đạo, thắt chặt quan hệ cộng đồng,giữ
gìn bảo vệ giá trị văn hoá truyền thống cần cảnh giác với mọi ý đồ lợi dụng tôn
giáo. Nhà nớc nghiêm trị việc lợi dụng Phật giáo cũng nh các tôn giáo khác để
trục lợi riêng và gây phơng hại đến an ninh quốc gia, trật tự và an toàn xã hội và
Nhà nớc đã có nhiều cố gắng trong công tác vận động tôn giáo, nhiều chức sắc
đã tuân thủ mọi lễ nghi, giáo lý, pháp luật của nhà nớc. Tôn giáo là nhu cầu tinh
thần của một bộ phận nhân dân, nhà nớc cần bảo đảm quyền tự do tín ngỡng.
Nâng cao đời sống vật chất văn hoá, trình độ của đồng bào có đạo cũng nh nhân
dân trên cơ sở luật pháp. Hớng dẫn các chức sắc hoạt động theo pháp luật làm
22


cho tôn giáo gắn bó tích cực với sự nghiệp cách mạng của nhân dân. Quan hệ
quôc tế, đối ngoại tôn giáo hoặc có liên quan đến tôn giáo phải tuân theo chính
sách, chế độ chung.


3. ảnh hởng của phật giáo tới thế hệ trẻ.
Ngày nay ở nớc ta Phật giáo không còn ở vị trí chính thống nhà tròng ở
các cấp học phổ thông không có chơng trình giảng dạy lịch sử , triết lí , đạo đức
phật giáo một cách hệ thống , Số gia đình phật tử cũng không còn đông nh trớc
đây.Sinh viên các trờng đại học chỉ nhận đợc rất ít kiến thức sơ bộ về phật giáo
thông qua bộ môn lịch sử triết học phơng đông , trừ những khoa chuyên
nghành triết học . Vì thế những hiểu biết của chúng ta về phật giáo trớc hết là
chịu ảnh hởn tự nhiên của gia đình , sau đó là từ bạn bè , thầy cô và những mối
quan hệ xã hội khác .Trong đó ảnh hởng của gia đình của gia đình có tác động
lớn lên mỗi chúng ta . Nếu trong mỗi gia đình mọi ngời đều tuân theo đạo phật
hoăc không theo một tôn giáo nào nhng vẫn giữ tập tục quan trọng đI lễ chùa vào
những ngày âm quan trọng nh ngày quan trọng nh ngày tết , lễ , rằm Ngừơi
già thờng nói chuyện với con cháu về đức phật , bồ tát , về đạo lý lam ngời dựa
vào các giáo lý phật giáo . Những suy nghĩ quan niệm này có thể phai nhạt ,
thậm chí đi ngợc lại khi ta gặp một trào lu t tởng mới , đem lại một thế giới quan
mới từ trong môi trờng gia đình chúng ta phần nào đó chịu ảnh hởng của đạo
phật nhng không sâu sắc nh các triều đại trớc và mục đích tìm đến đạo phật
không còn mang tính hớng đạo chân chính nh trớc nữa . Do nhiều nguyên nhân
nhng trớc hết do s xâm nhập của nhiều trào lu t tởng , học thuyết phơng tây vào
nớc ta cách đây vai ba thế kỷ. Đặc biệt là sự giác ngộ lí luân Mác Lênin , chủ
nghĩa cộng sản của giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động đã tạo
tiền đề xây dng hệ thống t tởng , nguyên tắc hành động cho phong trào cách
mang của nhân dân Việt Nam , lấy đó làm vũ khí chính trị kết hợp với đấu tranh
vũ trang . Đảng ta rất chú trọng việc truyền bá học thuýêt này cho quần chúng
nhân dân nhất là đối tợng thanh thiếu niên , những ngời chủ tơng lai của đất nớc .
Chính vì vậy , thanh thiếu niên , chúng ta ngày nay khi rời ghế nhà trờng đợc
trang bị không những kiến thức để làm việc mà còn cả kiến thức về lý luận chính
23



trị . Điều này giúp chúng ta nhận thức về cơ bản giữa mô hình lý tởng nhân đạo
của phật giáo và chủ nghĩa cộng sản là : Một bên là duy tâm , một bên là duy vật
.Một bên diệt dục triệt để bằng ý chí và coi dục là căn nguyên của mọi tội lỗi ,
bên kia thì cố gắng thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của con ngời bằng lao
động với năng suất và chất lợng cao nhằm cảI tạo thế giới , coi đó la tiêu chuẩn
đánh giá tính nhân đạo thực sự tiến bộ của xã hội , một bên hứa hẹn một mô hình
niết bàn bình đẳng tự do cho tất cả mọi ngời , từ bi bác áI nh nhau , không còn bị
ràng buộc bởi các nhu cầu trần tục , còn bên kia khẳng định mô hình lý tởng cho
mọi ngời lao động , coi lao động là nhu cầu sống chứ không phải là phơng tiện
sống , lao động không còn là nguồn gốc của khổ đau , qua lao động con ngời
hoàn thiện cả bản thân và hoàn thiện xã hội .
Đấy là những t tởng tiến bộ của chủ nghĩa Mác Lênin . Nó phù hợp với
xu thế phát triển của thời đại của xã hội . Do đó , nó nhanh chóng đợc thanh niên
ủng hộ , tiếp thu . do có một số quan điêm ngợc lại nên tất yếu phật giáo không
còn giữ một vai trò nh trớc đây nữa .
Mặt khác , với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ , mọi lĩnh
vực trong đời sống con ngời đều có bớc nhảy vọt . Xu thế toàn cầu hoá ngày
càng đợc thể hiện rõ nét . Điều kiện đó đòi hỏi con ngời phảI hết sức năng động ,
nhanh nhạy nắm bắt vấn đề trong cuộc sống . Trong khi đó theo giáo lý nhà phật
con ngời không có tham vọng tiến thân , hớng tới cõi niết bàn khi cuộc sống trần
gian đã chấm dứt . Nh vậy đạo đức Phật giáo đã tách con ngời ra khỏi điều kiện
thực tiễn của con ngời xã hội , làm cho con ngời có tháI độ chấp nhận chứ không
phảI là cảI tạo thế giới . Đạo đức xuất thể của phật giáo là chạy chốn nhu cầu
bản năng chứ không phảI chế ngự thiên nhiên , bắt nó phục vụ mình . Các chơng
trình xã hội của phật giáo không phảI cảI tạo lại điều kiện sống mà chỉ để cố san
bằng đạo đức , trong xã hội đó ai cũng từ bi , bác áI , hỉ xả nhẫn nhục Đạo
đức nhà phật ghi mở rộng mất giá trị nhân đạo nhờ chính tháI độ yếu thế này ,
khi những nhu cầu về thể xác bị coi là trần tục , kém đạo đức . Nhất là trong
cuộc sống ngày nay , khi mà con ngời đã đạt đợc một trình độ nhất định , quan
niệm trên càng không thể chấp nhận đơc . Do đó , ảnh hởng của phật giáo càng

24


xa rời thế hệ trẻ .
Nhng ta cũng có thể thấy rằng những t tởng của phật giáo cũng có ảnh hởng ít nhiều đến đời sống của thanh thiếu niên hiên nay . Nh ở các trờng phổ
thông , các tổ chức đoàn đội luôn phát động các phong trào nhân đậo nh Lá
lành đùm lá rách , Quỹ giúp bạn nghèo vợt khó Chính vì vậy từ nhỏ các
em đã đợc giáo dục t tởng nhân đạo , bác áI giúp đõ ngời khác mà cơ sở của nền
tang ấy là t tởng giáo lý nhà Phật đã hoà tan với giá trị truyền thống của dân tộc
việt nam . Lên cấp II vào Đại học , những thanh thiếu niên còn có những hoạt
động thiết thực hơn . Việc giúp đỡ ngời khác không phảI dừng lại ở viêc sin bố
mẹ tiền để đóng góp mà có thể bằng chính kiến thức , sức lực của mình . Sự
đồng cảm với những con ngời gặp khó khăn , những số phận bất hạnh cô đơn ,
cộng với truyền thống từ bi bác áI đã giúp chúng ta những học sinh , sinh viên
còn ngồi trên ghế nhà trờng có đủ nghị lực và tâm huyết để lập ra những kế
hoạch , tham gia vào những hoạt động thiết thực nh hội chữ thập đỏ , hội tình thơng , các chơng trình phổ cập văn hoá cho trẻ em nghèo , chăm nom các bà mẹ
Việt Nam nghèo Hình ảnh hàng đoàn thanh niên , sinh viên hàng ngày vẫn
lăn lội trên từng nẻo đờng tổ quốc góp phần xây dựng đất nớc , tổ quốc ngày
càng giàu mạnh thật đáng xúc động và tự hào . Tất cả những điều đó chứng tỏ
thanh niên , va sinh viên ngày nay không chỉ năng động sáng tạo đầy tham vọng
trong cuộc sống mà còn thừa hởng những giá trị đạo đức tốt đẹp của ông cha , đó
là sự thơng yêu , đum bọc lẫn nhau giữa mọi ngời , lòng thơng yêu giúp đơ mọi
ngời , lòng thơng yêu giúp đỡ mọi ngời qua cơn hoạn nạn mà không chút suy
nghĩ tính toán . Và ta không thể phủ nhận Phật Giáo đã góp phần tạo nên những
giá trị tốt đẹp ấy . Và ta càng phảI nhắc đến giá trị đó trong cuộc sống ngày nay
ngày càng xuất hiện những hiện thực tiêu cực . Trong khi có những sinh viên còn
khó khăn đã dồn hết sức mình để hoc tập cống hiến cho đất nớc thì vẫn còn một
bộ phận thanh niên ăn chơi đua đòi làm tiêu tốn tiền bạc của cha mẹ và đất nớc .Tối đến , ngời ta ngời ta bắt gặp ở các quán bar , sàn nhảy các cô chiêu cậu
ấm đang đốt tiền của bố mẹ vào những thú vui vô bổ . Rồi những học sinh , sinh
viên lầm đờng lỡ bớc vào ma tuý , khiến cho bao gia đình tan nát , biết bao ông

25


×