Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Quan hệ biện chứng giữa sự phát triển lực lượng sản xuất với đa dạng hoá các hình thức sở hữu ở VN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.68 KB, 18 trang )

a - Đặt vấn đề

Từ khi con ngời đợc sinh ra trên trái đất đã phải trải qua năm phơng thức
sản xuất đó là: nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, xã hội phong kiến, xã hội chủ
nghĩa và t bản chủ nghĩa. T duy nhận thức của con ngời không dừng lại ở một
chỗ mà theo thời gian t duy của con ngời càng phát triển, càng hoàn thiện hơn.
Từ đó kéo theo sự thay đổi phát triển lực lợng sản xuất cũng nh cơ sở sản xuất.
Từ khi sản xuất chủ yếu bằng săn bắn, hái lợm, trình độ khoa học lạc hậu thì
ngày nay trình độ khoa học đã phát triển rất mạnh. Không ít các nhà khoa học,
các nhà nghiên cứu đã đổ sức bỏ công cho các vấn đề này cụ thể là nhận thức
con ngời, trong đó có trờng phái triết học. Với ba trờng phái trong lịch sử phát
triển của mình là chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy tâm và trờng phái phi nguyên
luận nhng họ đều thống nhất rằng thực chất của triết học đó là sự thống nhất biện
chứng giữa lực lợng sản xuất với đa dạng hoá các hình thức sở hữu nh thống nhất
giữa 2 mặt đối lập tạo nên chỉnh thể của nền sản xuất xã hội. Điều này đợc Mác
và Ănghen khái quát thành quy luật về sự phù hợp của 2 mặt đó. Từ những lý
luận trên đa Mác và Ănghen vơn lên đỉnh cao trí tuệ của nhân loại không chỉ trên
phơng diện triết học mà còn trên những phơng diện khác. Dới hình thức và mức
độ khác nhau, dù con ngời có ý thức đợc hay không thì nhận thức của 2 ý về quy
luật này vẫn xuyên suốt lịch sử phát triển.
Biện chứng lực lợng sản xuất với đa dạng hoá các hình thức sở hữu tạo điều
kiện cho ta có đợc một nhận thức về sản xuất và phát triển của xã hội. Đồng thời
mở mang đợc sự hiểu biết về nhiều lĩnh vực về kinh tế và thấy rõ hơn mục đích
của việc nghiên cứu về lực lợng sản xuất và đa dạng hoá các hình thức sở hữu.
Thấy đợc vị trí, ý nghĩa của nó. Em mạnh dạn đa ra nhận định của mình về đề
tài: Quan hệ biện chứng giữa sự phát triển lực lợng sản xuất với đa dạng hoá
các hình thức sở hữu ở Việt Nam.
Nhng vì kiến thức và trình độ hiểu biết về mọi mặt còn hạn chế nên trong
quá trình làm bài còn nhiều thiếu sót.

1




b - nội dung

I.

Sự nhận thức về lực lợng sản xuất và qui luật quan hệ
sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển
của lực lợng sản xuất.

1.

Đôi nét về lực lợng sản xuất.

Lực lợng sản xuất là toàn bộ những t liệu sản xuất do xã hội tạo ra, trớc hết
là công cụ lao động và những ngời lao động với kinh ngiệm và thói quen lao
động nhất định đã sử dụng những t liệu sản xuất đó để tạo ra của cải vật chất cho
xã hội.
Từ thực trạng đó lý luận về lực lợng sản xuất của xã hội đợc C.Mác nêu lên
và phát triển một cách sâu sắc trong các tác phẩm chuẩn bị cho bộ "T bản" và
chính trong bộ "T bản" Mác đã trình bày hết sức rõ ràng quan điểm của mình về
các yếu tố cấu thành lực lợng sản xuất của xã hội trong đó bao gồm sức lao động
và t liệu sản xuất. Đối với Mác cùng với t liệu lao động đối với lao động cũng
thuộc về t liệu sản xuất, còn trong t liệu lao động tức là tất cả những yếu tố vật
chất mà con ngời sử dụng để tác động và đối tợng lao động nh công cụ lao động,
nhà xởng, phơng tiện lao động, cơ sở vật chất kho tàng... thì vai trò quan trọng
hơn cả thuộc về công cụ lao động. Công cụ lao động là yếu tố quan trọng nhất
linh hoạt nhất của t liệu sản xuất. Mọi thời đại muốn đánh giá trình độ sản xuất
thì phải dựa vào t liệu lao động. Tuy nhiên yếu tố quan trọng nhất trong lực lợng
sản xuất chính là con ngời cho dù những t liệu lao động đợc tạo ra từ trớc có sức

mạnh đến điều và đối tợng lao động có phong phú nh thế nào thì con ngời vẫn là
bậc nhất.
Lịch sử loài ngời đợc đánh dấu bởi các mốc quan trọng trong sự phát triển
của lực lợng sản xuất trớc hết là công cụ lao động. Sau bớc ngoặt sinh học, sự
xuất hiện công cụ lao động đánh dấu một bớc ngoặt khác trong sự chuyển từ vợn
thành ngời. Từ kiếm sống bằng săn bắt hái lợm sang hoạt động lao động thích
nghi với tự nhiên và dần dần cải tạo tự nhiên. Từ sản xuất nông nghiệp công
nghệ lạc hậu chuyển lên cơ khí hoá sản xuất. Sự phát triển lực lợng sản xuất
trong giai đoạn này không chỉ giới hạn ở việc tăng một cách đáng kể số lợng
thuần tuý với các công cụ đã có mà chủ yếu là ở việc tạo ra những công cụ hoàn
toàn mới sử dụng cơ bắp con ngời. Do đó con ngời đã chuyển một phần công
việc năng nhọc cho máy móc có điều kiện để phát huy các năng lực khác của
mình.
ở nớc ta từ trớc tới nay nền kinh tế lấy nông nghiệp làm chủ yếu, nên trình
độ khoa học kỹ thuật kém phát triển. Hiện thời chúng ta đang ở trong tình trạng
kế thừa những lực lợng sản xuất vừa nhỏ nhoi, vừa lạc hậu so với trình độ chung
của thế giới, hơn nữa trong một thời gian khá dài, những lực lợng ấy bị kìm
2


hãm, phát huy tác dụng kém. Bởi vậy Đại hội lần thứ VI của Đảng đặt ra nhiệm
vụ là phải "Giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có. Khai thác mọi khả năng
tiềm tàng của đất nớc, sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ quốc tế để phát triển mạnh
mẽ lực lợng sản xuất. Mặt khác chúng ta đang ở trong giai đoạn mới trong sự
phát triển của cách mạng khoa học kỹ thuật đang chứng kiến những biến đổi
cách mạng trong công nghệ. Chính điều này đòi hỏi chúng ta lựa chọn một mặt
tận dụng cái hiện có mặt khác nhanh chóng tiếp thu cái mới do thời đại tạo ra
nhằm dùng chúng để nhân nhanh các nguồn lực từ bên trong. Nếu phân tích một
cách khách quan thì rõ ràng lực lợng sản xuất của ta đang ứng với cả ba giai
đoạn phát triển của lực lợng sản xuất trong nền văn minh loài ngời. Thực tế hiện

nay trong nhiều ngành sản xuất công cụ thủ công vẫn đang là chủ yếu, lao động
nặng đang chiếm tỉ lệ cao, đến nay vẫn cha hoàn thành cơ khí hoá và thực tế cha
biết khi nào mới xong. Cần khẳng định một vấn đề có tính quy luật là trong lịch
sử bao giờ cũng có sự đan xen của trình độ phát triển khác nhau trong từng yếu
tố cấu thành lực lợng sản xuất.
Tuy nhiên trên thực tế song song với tình trạng lạc hậu trong phạm vi hẹp
nhất định, chúng ta đang dần dần đi lên với tự động hoá, sử dụng thành thạo máy
móc vi tính... Đối tợng lao động thấp kém đang đợc bổ sung. Chính vì lẽ đó mà
sẽ không có câu trả lời đơn thuần về việc chỉ nên phát triển loại t liệu sản xuất
nào, công cụ gì và đối tợng lao động nào là chính.
2.

Qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển
của lực lợng sản xuất.
2.1. Quan hệ sản xuất và lực lợng sản xuất mâu thuẫn hay phù hợp.

Trong tác phẩm góp phần phê phán khoa kinh tế - chính trị năm 1859
C.Mác viết "Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con ngời ta có những
quan hệ nhất định, tất yếu không phụ thuộc ý muốn của họ, tức những quan hệ
sản xuất. Những qui luật này phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của
lực lợng sản xuất. Những quan hệ này phù hợp với một trình độ phát triển nhất
định của lực lợng sản xuất vật chất của họ..." Ngời ta thờng coi t tởng này của
Mác là t tởng về "Qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của
lực lợng sản xuất".
Cho đến nay hầu nh qui luật này đã đợc khẳng định cũng nh các nhà nghiên
cứu triết học Mác xít. Khái niệm "phù hựop" đợc hiểu với nghĩa chỉ phù hợp mới
tốt, mới hợp qui luật, không phù hợp là không tốt, là trái qui luật. Có nhiều vấn
đề mà nhiều lĩnh vực đặt ra với từ "phù hợp" này. Các mối quan hệ trong sản
xuất bao gồm nhiều dạng thức khác nhau mà nhìn một cách tổng quát thì đó là
những dạng quan hệ sản xuất và dạng những lực lợng sản xuất từ đó hình thành

những mối lien hệ chủ yếu cơ bản là mối liên hệ giữa quan hệ sản xuất với tính
chất và trình độ của lực lợng sản xuất. Nhng mối liên hệ giữa hai yêu tố cơ bản
này là gì? Phù hợp hay không phù hợp. Thống nhất hay mâu thuẫn? Trớc hết cần
xác định khái niệm phù hợp với các ý nghĩa sau.

3


- Phù hợp là sự cân bằng, sự thống nhất giữa các mặt đối lập hay "sự yên
tính" giữa các mặt.
- Phù hợp là một xu hớng mà những dao động không cân bằng sẽ đạt tới.
Trong phép biện chứng sự cân bằng chỉ là tạm thời và sự không cân bằng là
tuyệt đối. Chính đâylà nguồn gốc tạo nên sự vận động và phát triển . Ta biết rằng
trong phép biện chứng cái tơng đối không tách khỏi cái tuyệt đối nghĩa là giữa
chúng không có mặt giới hạn xác định. Nếu chúng ta nhìn nhận một cách khác
có thể hiểu sự cân bằng nh một sự đứng im, còn sự không cân bằng có thể hiểu
nh sự vận động. Tức sự cân bằng trong sản xuất chỉ là tạm thời còn không cân
bằng không phù hợp giữa chúng là tuyệt đối. Chỉ có thể quan niệm đợc sự phát
triển chừng nào ngời ta thừa nhận tính chân lý vĩnh hằng của sự vận động. Cũng
vì vậy chỉ có thể quan niệm đợc sự phát triển chừng nào ngời ta thừa nhận, nhận
thức đợc sự phát triển trong mâu thuẫn của lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất
chừng nào ta thừa nhận tính vĩnh viễn không phù hợp giữa chúng.
Từ những lý luận đó đi đến thực tại nớc ta cũng vậy với quá trình phát triển
lịch sử lâu dài của mình từ thời đồ đá đến nay thời văn minh hiện đại. Nớc ta đi
từ sự không phù hợp hay sự lạc hậu từ trớc lên đến nay nền văn minh đất nớc.
Tuy nhiên quá trình vận động và phát triển của sản xuất là quá trình đi từ sự
không phù hợp đến sự phù hợp, nhng trạng thái phù hợp chỉ là sự tạm thời, ngắn
ngủi, ý muốn tạo nên sự phù hợp vĩnh hằng giữa lực lợng sản xuất với quan hệ
sản xuất là trái tự nhiên, là thủ tiêu cái không thủ tiêu đợc, tức là sự vận động.
Tóm lại, có thể nói thực chất của qui luật về mối quan hệ giữa lực lợng sản

xuất và quan hệ sản xuất là qui luật mâu thuẫn. Sự phù hợp giữa chúng chỉ là một
cái trục, chỉ là trạng thái yên tĩnh tạm thời, còn sự vận động, dao động sự mâu
thuẫn là vĩnh viễn chỉ có khái niệm mâu thuẫn mới đủ khả năng vạch ra động lực
của sự phát triển mới có thể cho ta hiểu đợc sự vận động của qui luật kinh tế.
2.2. Qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lợng sản xuất.
Tất cả chúng ta đều biết, quan hệ sản xuất và lực lợng sản xuất là hai mặt
hợp thành của phơng thức sản xuất có tác động qua lại biện chứng với nhau.
Việc đẩy quan hệ sản xuất lên quá xa so với tính chất và trình độ phát triển của
lực lợng sản xuất là một hiện tợng tơng đối phổ biến ở nhiều nớc xây dựng xã
hội chủ nghĩa. Nguồn gốc của t tởng sai lầm này là bệnh chủ quan, duy ý chí,
muốn có nhanh chủ nghĩa xã hội thuần nhất bất chấp qui luật khách quan. Về
mặt phơng pháp luận, đó là chủ nghĩa duy vật siêu hình, quá lạm dụng mối quan
hệ tác động ngợc lại của quan hệ sản xuất đối với sự phát triển của lực lợng sản
xuất. Sự lạm dụng này biểu hiện ở "Nhà nớc chuyên chính vô sản có khả năng
chủ động tạo ra quan hệ sản xuất mới để mở đờng cho sự phát triển của lực lợng
sản xuất".
Nhng khi thực hiện ngời ta đã quên rằng sự "chủ động" không đồng nghĩa
với sự chủ quan tuỳ tiệ, con ngời không thể tự do tạo ra bất cứ hình thức nào của
quan hệ sản xuất mà mình muốn có. Ngợc lại quan hệ sản xuất luôn luôn bị qui
4


định một cách nghiêm ngặt bởi trạng thái của lực lợng sản xuất, bởi quan hệ sản
xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lợng sản xuất. Quan hệ sản xuất
chỉ có thể mở đờng cho lực lợng sản xuất phát triển khi mà nó đợc hoàn thiện tất
cả về nội dung của nó, nhằm giải quyết kịp thời những mâu thuẫn giữa quan hệ
sản xuất và lực lợng sản xuất.
+ Lực lợng sản xuất quyết định sự hình thành biến đổi của quan hệ sản
xuất: lực lợng sản xuất là cái biến đổi đầu tiên và luôn biến đổi trong sản xuất

con ngời muốn giảm nhẹ lao động nặng nhọc tạo ra năng suất cao phải luôn tìm
cách cải tiến công cụ lao động. Chế tạo ra công cụ lao động mới. Lực lợng lao
động qui định sự hình thành và biến đổi quan hệ sản xuất ki quan hệ sản xuất
không thích ứng với trình độ, tính chất của lực lợng sản xuất thì nó kìm hãm
thậm chí phá hoại lực lợng sản xuất thì nó kìm hãm thậm chí phá hoại lực lợng
sản xuất và ngợc lại.
+ Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lợng sản xuất. Quan
hệ sản xuất khi đã đợc xác lập thì nó độc lập tơng đối với lực lợng sản xuất và trở
thành những cơ sở và những thể chế xã hội và nó không thể biến đổi đồng thời
đối với lực lợng sản xuất. Thờng lạc hậu so với lực lợng sản xuất và nếu quan hệ
sản xuất phù hợp với trình độ sản xuất, tính chất của lực lợng sản xuất thì nó
thúc đẩy sự phát triển của lực lợng sản xuất. Nếu lạc hậu so với lực lợng sản xuất
dù tạm thời thì nó kìm hãm sự phát triển của lực lợng sản xuất. Sở dĩ quan hệ
sản xuất có thể tác động mạnh mẽ trở lại đối với lực lợng sản xuất vì nó qui định
mục đích của sản xuất qui định hệ thống tổ chức quản lý sản xuất và quản lý xã
hội, qui định phơng thức phân phối và phần của cải ít hay nhiều mà ngời lao
động đợc hởng. Do đó nó ảnh hởng tới thái độ tất cả quần chúng lao động. Nó
tạo ra những điều kiện hoặc kích thích hoặc hạn chế sự phát triển công cụ sản
xuất, áp dụng thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất hợp tác phân công lao
động quốc tế.
II.

Bàn về sự đa dạng hoá các hình thức sở hữu ở Việt Nam
và vai trò của nó đối với sự phát triển lực lợng
sản xuất.

1.

Đa dạng hoá các hình thức sở hữu t liệu sản xuất nhằm phát triển kinh
tế hàng hoá nhiều thành phần ở Việt Nam.


Chúng ta biết, một trong những đặc trng quan trọng của kinh tế thị trờng là
tính tự chủ của các chủ thể kinh tế rất cao. Các chủ thể kinh tế đợc tự do liên kết,
liên doanh, tự do tổ chức quá trình sản xuất, tự do cạnh tranh trên thị trờng. Đặc
trng này đợc hình thành trên cơ sở tính đa dạng quan hệ sở hữu về t liệu sản xuất.
Trong giai đoạn chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nớc
ta, để khắc phục tình trạng độc tôn dẫn đến vô chủ, lãi giả lỗ thật của các doanh
nghiệp Nhà nớc, để tạo ra sự tự do kinh tế và hình thành nhiều nhà kinh doanh

5


giỏi, thích ứng với cơ chế thị trờng Đảng và Nhà nớc ta đã chủ trơng đa dạng hoá
các hình thức sở hữu về t liệu sản xuất.
Sự tồn tại của chế độ sở hữu về t liệu sản xuất với nhiều hình thức sở hữu
khác nhau là một tất yếu khách quan, do trình độ phát triển của lực lợng sản xuất
xã hội quyết định. Vì vậy giải quyết vấn đề sở hữu cần phải theo các quan điểm:
a) Đặt toàn bộ sự thiết lập và biến đổi của các hình thức sở hữu nh là quá trình
phát triển lịch sử tự nhiên, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con ngời; b)
Xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trờng
đi đôi với tăng cờng vai trò quản lý của Nhà nớc theo định hớng XHCN; c) Coi
sở hữu vừa là mục tiêu vừa là phơng tiện.
Hiện nay, lực lợng sản xuất xã hội của nớc ta tuy có tiến bộ, song vẫn còn
kém phát triển. Đó là một mặt, mặt khác, do ảnh hởng của cuộc cách mạng khoa
học công nghệ hiện đại và sự phát triển nền kinh tế thị trờng đang quốc tế hoá
cho nên ngay trong lực lợng sản xuất của nớc ta đã có những yếu tố mới đa tới sự
tất yếu tồn tại lâu dài các hình thức sở hữu khác nhau. Có thể nêu những yếu tố
đó là:
Trớc hết, các dạng của cải với t cách là yếu tố của lực lợng sản xuất, không
chỉ là những của cải vật chất nh thờng hiểu mà còn bao hàm những yếu tố ngày

càng quan trọng là chất xám, thông tin, quan hệ kinh doanh,... Đây là dạng của
cải gắn với cá nhân ngời lao động, do đó nó vừa mang tính chất sở hữu cá nhân,
vừa mang tính chất xã hội rất cao trong lao động sản xuất kinh doanh.
Thứ hai, trong quá trình xã hội hoá lực lợng sản xuất, cùng với xu hớng
hình thành những doanh nghiệp qui mô lớn, còn có xu hớng hình thành những
doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ nhng trình độ sản xuất hiện đại. Những doanh
nghiệp này chỉ cần tồn tại dới hình thức sở hữu của tập thể hoặc sở hữu của cá
thể, tiểu chủ.
Thứ ba, trong điều kiện nền kinh tế thị trờng, mọi dạng của cải, với t cách là
đối tợng sở hữu đều có giá trị và đợc tính bằng tiền, đều đợc xử lý theo quan
điểm tài chính để trở thành vốn sản xuất vận động theo nguyên tắc bảo tồn và
sinh lợi. Nói một cách khác, mọi của cải của ngời dân có thể chuyển thành tiền
bạc, đợc xã hội sử dụng thành vốn để sinh lợi cho chủ sở hữu.
Chính do những nhân tố trên mà trong quá trình phát triển lực lợng sản xuất
ở nớc ta, đã xuất hiện xu hớng hữu sản hoá đông đảo những ngời lao động, trong
quan hệ đan kết với sở hữu Nhà nớc và tập thể.
Từ sự phân tích trên có thể nhận xét nền kinh tế đợc xã hội hoá khác với
nền kinh tế đợc công cộng hoá về t liệu sản xuất. Chính vì vậy có thể khẳng định
chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá với nhiều hình thức sở hữu tạo thành
nền kinh tế nhiều thành phần với các loại doanh nghiệp đa dạng là chiến lợc phát
triển kinh tế lâu dài. Nhờ vai trò chủ đạo của sở hữu Nhà nớc và Nhà nớc XHCN
mà nền kinh tế này vận động theo định hớng XHCN.

6


Trong điều kiện của nớc ta hiện nay để phát triển kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần cần thiết phải điều chỉnh cơ cấu sở hữu theo hớng sau đây:
- Phát huy mạnh mẽ hình thức kinh tế hộ nông dân, thợ thủ công phát triển
trong sự gắn bó với các HTX kiểu mới bằng cách tạo và phát triển thị trờng, trớc

hết là thị trờng nông thôn rộng lớn.
- Khuyến khích kinh tế t bản t nhân trong nớc phát triển sản xuất kinh
doanh theo đúng pháp luật của Nhà nớc. Nhà nớc tiến hành kiểm soát và giúp đỡ
cho khu vực này phát triển lành mạnh đúng hớng.
Đây là một trong những hớng quan trọng nhằm huy động vốn và sàng lọc
năng lực kinh doanh trong cạnh tranh.
- Hình thành và phát triển các công ty cổ phần. Đây là xu thế khách quan
của nền kinh tế thị trờng. Nó là kết quả của sự phát triển kinh tế t nhân, cá thể,
các hình thức liên doanh, liên kết. ở nớc ta hình thức công ty cổ phần còn phát
sinh từ quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nớc.
- Xây dựng khu vực kinh tế Nhà nớc với chức năng là bảo đảm sự ổn định
và là cơ sở cho sự phát triển của các thành phần kinh tế. Khu vực kinh tế này cần
tập trung những ngành, khâu then chốt, trọng yếu của nền kinh tế nh năng lợng,
dầu khí, hệ thống giao thông vận tải, y tế, thông tin, tài chính, tín dụng, quốc
phòng, an ninh quốc gia, bảo vệ môi trờng chống thiên tai,...
Cơ cấu của khu vực kinh tế Nhà nớc không phải cố định, luôn luôn phát
triển để có trình độ công nghệ tiên tiến và trình độ quản lý tốt, giữ vai trò chủ
đạo đối với sự phát triển kinh tế, chính trị, xã hội.
- Trong quá trình thu hút vốn từ bên ngoài vào nền kinh tế nớc ta, cũng hình
thành những hình thức sở hữu khác nhau nh sở hữu của các công ty t bản, các
nhà t bản t nhân và các tổ chức liên doanh giữa trong nớc và ngoài nớc, nhằm mở
rộng các hình thức kinh tế t bản Nhà nớc.
Nh vậy, có thể hình dung yêu cầu của quá trình phát triển kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần theo định hớng XHCN ở nớc ta đòi hỏi cần có nhiều hình thức
sở hữu đa dạng khác nhau. Sự tồn tại đan xen của những hình thức sở hữu khác
nhau sẽ hình thành nhiều hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh khác nhau. Nhng do trình độ phát triển của lực lợng sản xuất xã hội còn thấp nên cần hết sức
xem trọng phát triển các doanh nghiệp loại vừa và nhỏ cũng nh những doanh
nghiệp của cá nhân hay hộ gia đình trong sự gắn bó, giúp đỡ, hớng dẫn của kinh
tế Nhà nớc với t cách là khu vực kinh tế giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần.

2.

Về các hình thức sở hữu trong nền kinh tế thị trờng theo định hớng
XHCN ở nớc ta hiện nay.

Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần, vận hành theo cơ chế thị trờng, có sự quản lý của Nhà nớc, theo định hớng
XHCN ở nớc ta hiện nay, vấn đề chế độ sở hữu và các hình thức sở hữu luôn thu
7


hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu lý luận. Song, đây lại là vấn đề hết sức
phức tạp và cho đến nay vẫn còn có những ý kiến khác nhau.
Trong bài viết này, chúng tôi không có tham vọng trình bày cặn kẽ vấn đề
hết sức phức tạp đó, mà chỉ nêu lên một số ý kiến về các hình thức sở hữu trong
nền kinh tế thị trờng theo định hớng XHCN ở nớc ta hiện nay.
Hơn mời năm đổi mới đất nớc theo định hớng XHCN ở nớc ta đã chứng tỏ
tính đúng đắn của đờng lối đổi mới, của chính sách đa dạng hoá các hình thức sở
hữu do Đảng ta khởi xớng và lãnh đạo toàn dân thực hiện. Thực tiễn đã cho thấy,
một nền kinh tế nhiều thành phần, đơng nhiên phải bao gồm nhiều hình thức sở
hữu, chứ không thể chỉ có hai hình thức sở hữu - toàn dân và tập thể - nh quan
niệm trớc đây. Trong giai đoạn hiện nay, nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
theo định hớng XHCN mà chúng ta đang xây dựng và phát triển bao gồm các
hình thức sở hữu nh: sở hữu toàn dân, sở hữu Nhà nớc, sở hữu tập thể, sở hữu cá
thể, sở hữu t bản t nhân và các hình thức sở hữu hỗn hợp. Trong các hình thức sở
hữu này, khái quát lại, chỉ có hai hình thức sở hữu cơ bản là công hữu và t hữu,
còn các hình thức khác chỉ là những hình thức trung gian, quá độ hoặc hỗn hợp.
ở đây, mỗi hình thức sở hữu lại có nhiều phơng thức biểu hiện và trình độ thể
hiện khác nhau. Chúng đợc hình thành trên cơ sở có cùng bản chất kinh tế và tuỳ
theo trình độ phát triển của lực lợng sản xuất và năng lực quản lý.

2.1. Về sở hữu toàn dân:
ở nớc ta hiện nay, nh Hiến pháp và Luật đất đai đã qui định rõ: Đất đai

thuộc sở hữu toàn dân. Xét về mặt kinh tế, đất đai là phơng tiện tồn tại cơ bản
của cả một cộng đồng xã hội. Xét về mặt xã hội, đất đai là lãnh thổ, là nơi c trú
của cả một cộng đồng. Thế nhng, khi xét trên cả hai phơng diện, có thể nói rằng
đất đai không thể là đối tợng sở hữu của riêng ai. Tuy nhiên, suy cho cùng, đất
đai cũng là t liệu sản xuất, hay nói chính xác hơn, nó là một bộ phận quan trọng
của t liệu sản xuất. Bởi thế, dù là đặc biệt thì trong nền kinh tế hàng hóa, nó vẫn
phải vận động theo những qui luật của thị trờng và chịu sự điều tiết của những
qui luật đó.
Việc đất đai thuộc sở hữu toàn dân mà Nhà nớc là ngời đại diện sở hữu và
quản lý không hề mâu thuẫn với việc trao quyền cho các hộ nông dân, kể cả
quyền đợc chuyển nhợng, quyền sử dụng đất đai. Nếu biết giải quyết cụ thể các
vấn đề sở hữu, biết tách quyền sở hữu với quyền sử dụng, chẳng hạn nh ruộng
đất vẫn thuộc sở hữu toàn dân, song ngời nông dân đợc quyền sử dụng ổn định,
lâu dài, thì có thể đem lại một sức bật cho sự phát triển của lực lợng sản xuất và
sự tăng trởng kinh tế nói chung.
Nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần thì đơng nhiên là nó bao gồm nhiều
hình thức sở hữu, trong đó kinh tế quốc doanh giữ vị trí then chốt, liên kết và hỗ
trợ các thành phần kinh tế khác phát triển theo hớng có lợi cho quốc kế dân sinh.
Nhà nớc quản lý kinh tế với t cách là cơ quan quyền lực đại diện cho lợi ích của
nhân dân và là ngời đại diện đối với tài sản thuộc sở hữu toàn dân.

8


Văn kiện Đại hội VII của Đảng ta đã chỉ rõ: Trên cơ sở chế độ sở hữu toàn
dân về đất đai, ruộng đất đợc giao cho nông dân sử dụng lâu dài. Nhà nớ quy
định bằng luật pháp các vấn đề thừa kế, chuyển quyền sử dụng ruộng đất... Nh

vậy, hình thức sở hữu toàn dân ở nớc ta hiện nay đã đợc xác định theo nội dung
mới, có nhiều khả năng để thực sự trở thành nguồn lực phát triển kinh tế.
2.2. Về sở hữu Nhà nớc:
Trong thời kỳ bao cấp trớc đây, không chỉ ở nớc ta, mà còn ở một số nớc
khác trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, thờng đồng nhất sở hữu Nhà nớc với sở
hữu toàn dân. Do nhầm lẫn nh vậy mà có một thời gian khá dài, ngời ta thờng bỏ
quên hình thức sở hữu Nhà nớc, chỉ quan tâm đặc biệt tới hình thức sở hũu toàn
dân với chế độ c
ông hữu tồn tại dới hai hình thức sở hữu toàn dân đợc gắn kết với sự phát
triển của khu vực kinh tế quốc doanh, vì vậy mà chúng ta đã ra sức quốc doanh
hoá nền kinh tế với niềm tin cho rằng chỉ có nh vậy mới có CNXH nhiều hơn.
Thực ra, với quan niệm đó, sở hữu toàn dân đã trở thành thứ sở hữu không phải
của một chủ sở hữu cụ thể nào cả.
Trong một xã hội mà Nhà nớc còn tồn tại, thì sở hữu toàn dân cha có điều
kiện vận động trên bề mặt của đời sống kinh tế nói chung. Hình thức sở hữu Nhà
nớc, xét về tổng thể, mới chỉ là kết cấu bên ngoài của sở hữu. Còn kết cấu bên
trong của sở hữu Nhà nớc ở nớc ta, có lẽ chủ yếu thể hiện quyền sở hữu đó ở khu
vực kinh tế quốc doanh, khu vực các doanh nghiệp Nhà nớc.
2.3. Về sở hữu tập thể:
ở nớc ta trớc đây, hình thức sở hữu tập thể chủ yếu tồn tại dới hình thức hợp

tác xã (gồm cả hợp tác xã nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp), với nội dung là
cả giá trị lẫn giá trị sử dụng của đối tợng sở hữu đều là của chung, mà các xã
viên là chủ sở hữu. Chính vì vậy mà với hình thức sở hữu này, quyền mua, bán
hoặc chuyển nhợng t liệu sản xuất, trong thực tế sản xuất và lu thông ở nớc ta đã
diễn ra hết sức phức tạp. Quyền của các tập thể sản xuất thờng rất hạn chế, song
đôi khi lại có tình trạng lạm quyền. Sự không xác định, sự nhập nhằng với
quyền sở hữu Nhà nớc và với sở hữu t nhân trá hình cũng là hiện tợng phổ biến.
Để thoát ra khỏi tình trạng đó, trong bối cảnh của nền kinh tế thị trờng hiện nay,
theo chúng tôi, phải xác định rõ quyền mua bán và chuyển nhợng t liệu sản xuất

đối với các tập thể sản xuất, kinh doanh. Chỉ có nh vậy thì sở hữu tập thể mới có
thể trở thành một hình thức sở hữu có hiệu quả.
Chúng ta đều biết, hợp tác xã không phải là hình thức riêng có, đặc trng cho
chủ nghĩa xã hội, nhng nó là một hình thức sở hữu kinh tế tiến bộ trong thời kỳ
quá độ đi lên CNXH. Vì vậy chúng ta cần phải duy trì và phát triển hơn nữa hình
thức sở hữu này khi xây dựng CNXH, nh V.I.Lênin đã khẳng định: Chế độ của
những xã viên hợp tác xã văn minh là chế độ xã hội chủ nghĩa.
Hợp tác xã là nhu cầu thiết thân của kinh tế hộ gia đình, của nền sản xuất
hàng hoá. Khi lực lợng sản xuất trong nông nghiệp và công nghiệp nhỏ phát triển

9


tới một trình độ nhất định, nó sẽ thúc đẩy quá trình hợp tác. Trong điều kiện của
nền kinh tế hàng hoá, các nhu cầu kinh tế về vốn, cung ứng vật t, tiêu thụ sản
phẩm,... đòi hỏi các hộ sản xuất phải hợp tác với nhau mới có khả năng cạnh
tranh và phát triển.
Chính nhu cầu đó đã liên kết ngời lao động lại với nhau và làm nảy sinh
quan hệ sở hữu tập thể. Thực tiễn cho thấy, ở nớc ta hiện nay, đã có những hình
thức hợp tác xã kiểu mới ra đời do nhu cầu tồn tại và phát triển trong cơ chế thị
trờng. Hợp tác xã đợc tổ chức trên cơ sở đóng góp cổ phần và sự tham gia lao
động trực tiếp của xã viên, phân phối theo kết quả lao động và theo cổ phần, mỗi
xã viên có quyền nh nhau đối với công việc chung. Điều này cho thấy, kết cấu
bên trong của sở hữu tập thể đã thay đổi phù hợp với thực tiễn ở nớc ta hiện nay.
2.4. Về sở hữu cá thể.
Đa dạng hoá các lực lợng sản xuất là một trong những cơ sở để đa dạng hoá
các quan hệ sở hữu, bởi nh chúng ta đã rõ, sở hữu biểu hiện quan hệ của con ngời không chỉ đối với t liệu sản xuất nói riêng mà còn đối với toàn bộ lực lợng sản
xuất nói chung. ở nớc ta, hình thức sở hữu cá thể tồn tại chủ yếu dới hình thức
kinh tế cá thể, tiểu chủ. Trớc đây, kinh tế cá thể, tiểu chủ ở nớc ta chủ yếu có
tính chất tự cấp, tự túc, lại bị trói buộc bởi cơ chế quản lý. Hiện nay, nó đang đợc

khuyến khích phát triển và đang có xu hớng phát triển thuận lợi. Kinh tế cá thể,
tiểu chủ có mối quan hệ chặt chẽ với kinh tế hợp tác xã, vì thế hình thức sở hữu
cá thể cũng liên quan mật thiết với hình thức sở hữu tập thể. Kinh tế cá thể, tiểu
chủ bao gồm những đơn vị kinh tế và những hoạt động kinh doanh dựa vào
nguồn vốn và sức lao động của mỗi cá nhân, nhóm nhỏ là chủ yếu đang chiếm
một vị trí quan trọng trong nhiều ngành nghề ở nông thôn cũng nh ở thành thị.
Nó có điều kiện phát huy nhanh và có hiệu quả tiềm năng về vốn, sức lao động,
tay nghề của từng nhóm và từng ngời dân. Tại Đại hội toàn quốc lần thứ VIII,
Đảng ta đã chỉ rõ: Kinh tế cá thể, tiểu chủ có vị trí quan trọng, lâu dài. Giúp đỡ
kinh tế cá thể, tiểu chủ giải quyết các khó khăn về vốn, về khoa học và công
nghệ, về thị trờng tiêu thụ sản phẩm. Hớng dẫn kinh tế cá thể, tiểu chủ, vì lợi ích
thiết thân và nhu cầu phát triển của sản xuất, từng bớc đi vào làm ăn hợp tác
một cách tự nguyện hoặc làm vệ tinh cho các doanh nghiệp Nhà nớc hay hợp tác
xã.
Chúng ta đều biết, kinh tế cá thể, tiểu chủ, về thực chất, là thành phần kinh
tế sản xuất hàng hoá nhỏ. Đây là thành phần kinh tế dựa trên chế độ t hữu nhỏ về
t liệu sản xuất và lao động của bản thân và cho đến nay nó vẫn đợc coi là sở hữu
cá nhân. Thứ sở hữu cá nhân đó không phải là một chế độ sở hữu độc lập. Bởi
thế, nó không thể tạo ra quan hệ sản xuất, hoặc đại diện cho một quan hệ sản
xuất mà chỉ là kết quả tất yếu của quan hệ sản xuất đang tồn tại và phản ánh bản
chất của quan hệ sản xuất đó.
Thành phần kinh tế này cũng luôn chịu sự tác động của những quy luật kinh
doanh và luôn bị phân tán, vì thế cần phải có các biện pháp kinh tế để tác động,
hớng dẫn và cải biến nó theo định hớng XHCN.

10


2.5. Về sở hữu t bản t nhân:
ở nớc ta hiện nay, kinh tế t bản t nhân đang hình thành và đợc phép phát


triển. Đây là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu t nhân t bản chủ nghĩa về
t liệu sản xuất. Trong điều kiện của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, sở
hữu t bản t nhân, bao gồm cả doanh nghiệp của các nhà t sản và các đơn vị kinh
tế mà phần lớn vốn do một hoặc một số t nhân góp lại, thuê lao động sản xuất
kinh doanh dới hình thức xí nghiệp t doanh hoặc công ty cổ phần t nhân. Nó
cũng bao gồm cả hình thức kinh tế t bản t nhân nớc ngoài đầu t 100% vốn, hoặc
nắm giữ tỷ lệ vốn khống chế. Trong thời kỳ quá độ, phơng thức sản xuất t bản
chủ nghĩa không còn nguyên vẹn nữa. Bởi thế, kinh tế t bản t nhân ở nớc ta chỉ
hoạt động với t cách là một thành phần kinh tế trong nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần, đợc bảo hộ quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp.
2.6. Về sở hữu hồn hợp:
Sở hữu hỗn hợp là hình thức sở hữu có sự tham gia của nhiều loại chủ thể
khác nhau về tính chất. Có thể nói đây là một loại hình kinh tế trung gian, có
tính chất đan xen giữa thành phần kinh tế t bản chủ nghĩa và thành phần kinh tế
XHCN. Trong điều kiện nền kinh tế thế giới hiện đang có nhiều biến đổi, nhìn
chung các nớc trên thế giới, trong đó có nớc ta, thờng có ba loại chủ thể kết hợp
với nhau để tạo ra các hình thức sở hữu hỗn hợp khác nhau. Đó là sự kết hợp,
liên kết giữa các chủ thể: Nhà nớc, tập thể và t nhân để tạo nên các dạng sở hữu
sinh động nh: Nhà nớc và nhân dân; Nhà nớc và tập thể; Nhà nớc, tập t
hể và t nhân; tập thể và t nhân,... Thực chất đây cũng là các xí nghiệp (hoặc
công ty) cổ phần, chỉ có sự khác biệt là ở chỗ các chủ thể không đồng nhất về
tính chất. Đó là các hình thức tổ chức kinh tế không thuộc hẳn vào một thành
phần kinh tế nào - hình thức kinh tế hỗn hợp nhiều loại sở hữu dới dạng công ty,
xí nghiệp cổ phần hùn vốn liên doanh hai bên và nhiều bên ở trong nớc với nớc
ngoài.
Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần, chúng ta còn phải sử dụng chủ nghĩa t bản Nhà nớc, hay hình thức kinh tế
t
bản Nhà nớc làm phơng tiện và cứu cánh để phát triển. Bởi chủ nghĩa t bản

Nhà nớc, theo V.I.Lênin, là một hình thức phổ biến trong thời kỳ quá độ, và sự
tồn tại của nó là thực sự cần thiết. Đây là một hình thức tổ chức kinh tế, trong đó
có phần tham dự của Nhà nớc và t nhân với nhiều hình thức cụ thể, trên mọi lĩnh
vực sản xuất, lu thông, dịch vụ, tín dụng,... ở nớc ta hiện nay, kinh tế t bản Nhà
nớc bao gồm các hình thức hợp tác liên doanh giữa kinh tế với t bản nớc ngoài.
Nó có u thế mạnh hơn so với t bản t nhân ở chỗ, nó đã kết hợp đợc sức mạnh
tổng hợp của hai thành phần kinh tế có tiềm lực lớn nhất trong thời kỳ quá độ.
Bởi vậy, hình thức sở hữu hỗn hợp ở nớc ta là cái có khả năng thực hiện tập trung
hoá, chuyên môn hoá sản xuất và tạo ra sản phẩm có chất lợng cao, có sức cạnh
tranh lớn trên thị trờng trong và ngoài nớc.

11


Để cho chủ nghĩa t bản Nhà nớc có những đóng góp thực sự cho việc phát
triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hớng XHCN chúng ta cần
phải tạo điều kiện, môi trờng thuận lợi cho sự tồn tại và phát triển của nó. Hiện
nay, chúng ta đang chủ trơng cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nớc, đó chính là
một giải pháp nhằm phát triển kinh tế t bản Nhà nớc, đa dạng hoá các hình thức
sở hữu. Tuy nhiên, vấn đề cổ phần hoá ở nớc ta còn hết sức mới mẻ, cần phải
nhận thức một cách đầy đủ, áp dụng từng bớc, cần thí điểm việc bán cổ phần
cho ngời nớc ngoài. Trong hình thức sở hữu hỗn hợp, mà nòng cốt là thành
phần kinh tế t bản Nhà nớc, còn tồn tại các thành phần kinh tế t nhân tự cấp, tự
túc, kinh tế tiểu chủ trong các khu vực kinh tế còn lạc hậu, sản xuatá hàng hoá
chậm phát triển. Các thành phần kinh tế trong sở hữu hỗn hợp có mối liên hệ nội
tại và tác động qua lại lẫn nhau, nó là kết quả của công cuộc cải tạo và xây dựng
kinh tế theo định hớng XHCN.
Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, mỗi hình thức sở hữu nói
trên có vị trí và vai trò riêng của chúng. Địa vị lịch sử của chúng phụ thuộc vào
sự phát triển của lực lợng sản xuất, vào trình độ quản lý, và tiến trình phát triển

của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hớng XHCN.
3.

Nhận thức về chế độ sở hữu trong tuyên ngôn của Đảng cộng sản và sự
vận dụng ở nớc ta hiện nay.

Tuyên ngôn của Đảng cộng sản ra đời cách đây 150 năm và đợc vận dụng
trong thực tế các Đảng cộng sản trên thế giới, trong đó có Đảng cộng sản Việt
Nam, quá trình vận dụng những nguyên lý cơ bản trong Tuyên ngôn của Đảng
cộng sản đã mang lại sự thành công trong thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai
cấp công nhân, đã hinh fthành CNXH hiện thực từ 1917 đến nay. Tuy nhiều năm
qua sự nghiệp cách mạng trải qua nhiều bớc thăng trầm, nhng rồi đợc điều chỉnh
và khẳng định tính tất yếu của cách mạng XHCN trên toàn thế giới. Sự thành
công đó càng khẳng định sự đúng đắn về khoa học trong Tuyên ngôn của Đảng
cộng sản.
Trong bài viết nhỏ này, tôi chỉ tập trung vào việc phân tích một trong những
luận điểm nổi tiếng và là một trong những t tởng trung tâm nhất trong tác phẩm
mà Marx và Engels đã gọi là công thức duy nhất của những ngời cộng sản là
xoá bỏ chế độ t hữu. Theo tôi việc nhận thức và vận dụng công thức này có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc phát triển lý luận và tìm những giải pháp
xây dựng CNXH cho phù hợp với điều kiện hiện nay. Bởi vì những năm qua,
những sai lầm khuyết điểm của các Đảng cộng sản trong lãnh đạo xây dựng
CNXH trớc hết bắt nguồn từ việc hiểu giản đơn về xoá bỏ chế độ t hữu trong
Tuyên ngôn của Đảng cộng sản.
Trên cơ sở của sự phân tích sự vận động của các hình thái kinh tế xã hội,
Marx và Engels đã đi đến kết luận, phơng thức chiếm hữu t nhân t bản đã đạt đến
đỉnh cao của nó, những ngời cộng sản cần phải xoá bỏ nó, Marx và Engels công
khai tuyên bố: Các ông hoảng lên, vì chúng tôi muốn xoá bỏ chế độ t hữu. Nhng trong xã hội của các ông, chế độ t hữu đã bị xoá bỏ đối với chín phần mời
12



các thành viên của xã hội đó rồi. Chính vì nó không tồn tại đối với số chín phần
mời ấy, nên nó mới tồn tại đối với các ông. Nh vậy là các ông trách chúng tôi là
muốn xoá bỏ một hình thức sở hữu chỉ có thể tồn tại với điều kiện là tuyệt đối đa
số bị tớc mất hết mọi sở hữu.
Nói tóm lại, các ông buộc tội chúng tôi là muốn xoá bỏ chế độ sở hữu riêng
của các công. Quả thật, đó là điều chúng tôi muốn...
Nh vậy là các công thú nhận rằng khi các ông nói đến cá nhân là các ông
chỉ muốn nói đến ngời t sản, ngời t hữu t sản mà thôi. Mà cái cá nhân ấy thì
chắc chắn là cần phải thủ tiêu đi.
Nh vậy Tuyên ngôn của Đảng cộng sản hoàn toàn không có chủ trơng xoá
bỏ t hữu theo lẽ thông thờng, tự nhiên, tức là t hữu dựa trên kết quả lao động của
chính bản thân ngời lao động, mà chỉ chủ trơng xoá bỏ chế độ t hữu dựa trên sự
chiếm đoạt kết quả lao động của ngời khác (của giai cấp công nhân làm thuê.
Marx và Engels khẳng định đặc trng của chủ nghĩa cộng sản không phải xoá bỏ
chế độ t hữu nói chung, mà là xoá bỏ chế độ sở hữu t sản, theo nghĩa đó, những
ngời cộng sản có thể tóm tắt lý luận của mình thành một luận điểm duy nhất là
xoá bỏ chế độ t hữu.
Việc xoá bỏ chế độ t hữu là một quá trình lâu dài, chứ không phải là hành
động nhất thời của những ngời cộng sản sau khi giành đợc chính quyền. Trong
tác phẩm Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản, Engels đã giải đáp câu hỏi
liệu có thể thủ tiêu chế độ t hữu ngay lập tức đợc không. Câu trả lời rõ ràng dứt
khoát Không, không thể đợc, cũng nh không thể làm cho lực lợng sản xuất xuất
hiện có thể tăng lên ngay lập tức đến mức cần thiết để xây dựng một nền kinh tế
công hữu. Cho nên cuộc cách mạng của giai cấp vô sản đang có tất cả những
triệu chứng sắp nổ ra, sẽ chỉ có cải tạo xã hội hiện nay một cách dần dần, và chỉ
khi nào đã tạo nên đợc một khối lợng t liệu sản xuất cần thiết cho việc cải tạo đó
thì khi đấy mới thủ tiêu đợc chế độ t hữu.
Nh vậy việc thủ tiêu chế độ t hữu không lệ thuộc vào ý muốn chủ quan của
ngời cộng sản mà điều kiện cơ bản để thực hiện nhiệm vụ đó là sự phát triển rất

cao của lực lợng sản xuất, chừng nào cho phép sản xuất với quy mô có thể không
những đủ cung cấp cho mọi ngời mà còn có thừa sản phẩm để tăng thêm t bản xã
hội và tiếp tục phát triển lực lợng sản xuất hơn nữa,... đến mức khiến cho mọi
ngời, và khiến chế độ t hữu trở thành xiềng xích ngăn cản sự phát triển của lực lợng sản xuất. Nh vậy chính lực lợng sản xuất của nền đại công nghiệp TBCN đã
tạo ra cơ sở vật chất khách quan để thủ tiêu sở hữu t sản.
Những luận điểm trên đây của Marx và Engels là căn cứ để nhận thức lại
mô hình CNXH thời kỳ trớc đây, để đánh giá một cách khách quan sự nhận thức
và vận dụng công thức xoá bỏ chế độ t hữu của các Đảng cộng sản vào quá
trình xây dựng CNXH trong thực tiễn. Chính Lênin là ngời mẫu mực trong vận
dụng và phát triển nguyên lý đó vào điều kiện cụ thể xây dựng CNXH ở Nga.
Sau khi Lênin mất, những ngời kế tục sự nghiệp của Ngời đã nhận thức
phiến diện công thức xoá bỏ t hữu của Marx - Engels, đã đồng nhất máy móc
13


chế độ công hữu với chủ nghĩa xã hội nên đã phạm phải nhiều sai lầm trong công
cuộc xây dựng CNXH. Hậu quả làm cho nền kinh tế phát triển chậm, rơi vào
khủng hoảng kinh tế - xã hội, mô hình CNXH đã thiết lập gần thế kỷ bị phá vỡ,
cụ thể là ở các nớc Đông Âu.
ở nớc ta trớc năm 1986, sự nghiệp cải tạo và xây dựng CNXH cũng mắc

phải nhiều sai lầm, nguyên nhân do chúng ta cũng hiểu công thức xoá bỏ sở hữu
t bản trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản một cách cứng nhắc, rập khuôn mô
hình CNXH của Liên Xô cũ, hậu quả làm cho nền kinh tế kém phát triển, rơi vào
tình trạng khủng hoảng. Đại hội VI của Đảng CSVN đã chỉ ra những sai lầm đó.
Đồng thời nhận thức và vận dụng công thức xoá bỏ chế độ t hữu của Tuyên
ngôn của Đảng cộng sản một cách khoa học, phù hợp với thế giới hiện nay, phù
hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam. Đó là thực hiện chế độ đa dạng hoá sở
hữu, phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, theo định hớng XHCN.
Tính đúng đắn, khoa học, phù hợp qui luật, phù hợp thực tiễn đó của đờng lối

của Đảng cộng sản Việt Nam đã đợc thực tiễn chứng minh hơn 10 năm qua,
bằng những thành tựu phát triển vợt bậc về kinh tế - xã hội. Nó đã tạo ra niềm tin
vững chắc cho nhân dân đi theo định hớng XHCN.
Tuyên ngôn của Đảng cộng sản cũng chỉ rõ quá trình xây dựng nền kinh tế
dựa trên đại công nghiệp. Đảng cộng sản phải luôn luôn phát triển bồi dỡng đội
ngũ giai cấp công nhân và thể hiện rõ vai trò lãnh đạo của mình, đồng thời khẳng
định vai trò lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của Đảng, bởi vì nó là nhân tố quyết
định sự thắng lợi của cách mạng XHCN ở Việt Nam.
4.

Vai trò của các hình thức sở hữu đối với sự phát triển lực lợng sản xuất

Trớc đây, nói đến CNXH, chúng ta thờng nói đến chế độ công hữu về t liệu
sản xuất dới hai hình thức: toàn dân và tập thể; hơn nữa còn cho rằng sở hữu tập
thể chỉ là một bớc quá độ để đi đến XHCN chỉ còn một hình thức sở hữu duy
nhất về t liệu sản xuất là sở hữu toàn dân. Song thực tế lịch sử đã không thừa
nhận quan điểm đó. Sau sự tan ra của CNXH ở Liên Xô và Đông Âu, tất cả các
nớc, dới hình thức này hay hình thức khác đều phải chuyển sang nền kinh tế thị
trờng, đều phải đa dạng hoá các hình thức sở hữu.
ở nớc ta, từ Đại hội lần thứ VI của Đảng đến nay đã hơn 10 năm thực hiện

đờng lối đổi mới: chuyển từ mô hình kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị
trờng có sự quản lý của Nhà nớc theo định hớng XHCN. Thành tựu đạt đợc trong
hơn 10 năm qua đã khẳng định tính đúng đắn của đờng lối đó. Đến nay, không ai
phủ nhận phải đa dạng hoá các hình thức sở hữu, phải sử dụng nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần, nhng có nhiều quan điểm cho rằng: chúng ta phải đa dạng
hoá các hình thức sở hữu, phải sử dụng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là
do lực lợng sản xuất của chúng ta còn thấp kém, còn đan xen nhiều trình độ khác
nhau.
Với quan điểm đó, phải chăng đa dạng hoá các hình thức sở hữu chỉ khi lực

lợng sản xuất còn thấp kém; còn khi lực lợng sản xuất phát triển cao thì lại đi

14


đến đơn nhất hoá? Rõ ràng, đây là một quan điểm cần trao đổi thêm để làm sáng
tỏ vấn đề.
Thực tế lịch sử cho thấy: lực lợng sản xuất xã hội không ngừng phát triển,
phân công lao động xã hội ngày càng sâu. Cùng với sự phát triển của lực lợng
sản xuất, của phân công lao động xã hội thì các hình thức sở hữu về t liệu sản
xuất cũng càng trở nên đa dạng. Trong xã hội nguyên thuỷ, do lực lợng sản xuất
còn hết sức thấp kém cho nên chỉ có một hình thức sở hữu duy nhất về t liệu sản
xuất là sở hữu thị tộc, bộ lạc. Nhng từ xã hội nô lệ, xã hội phong kiến đến xã hội
t bản thì phân công lao động xã hội càng ngày càng phát triển, các hình thức sở
hữu về t liệu sản xuất ngày càng đa dạng. Ngày nay khi nhân loại đang tiến hành
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ làm thay đổi căn bản lực lợng sản xuất
xã hội; khi phân công lao động trong mỗi nớc cũng nh quốc tế và khu vực ngày
càng sâu; khi lực lợng sản xuất có tính xã hội hoá cao và có tính quốc tế thì các
hình thức sở hữu về t liệu sản xuất càng trở nên đa dạng. Trong các nớc t bản
phát triển cũng nh ở các nớc khác đều xuất hiện rất nhiều hình thức sở hữu khác
nhau nh sở hữu của những ngời sản xuất nhỏ cá thể, sở hữu của Nhà nớc, và các
hình thức sở hữu hỗn hợp. Rõ ràng rằng, xu hớng ngày càng đa dạng hoá các
hình thức sở hữu về t liệu sản xuất gắn liền với sự phát triển của lực lợng sản
xuất, của phân công lao động trong xã hội là một xu hớng tất yếu, là một quá
trình lịch sử - tự nhiên và là một qui luật phát triển của xã hội. Đó cũng chính
là quá trình xã hội hoá sản xuất cả về lực lợng sản xuất lẫn quan hệ sản xuất.
Quá trình xã hội hoá về mặt lực lợng sản xuất chính là quá trình phân công lao
động xã hội ngày càng sâu sắc trong mỗi nớc cũng nh trên phạm vi quốc tế và
khu vực. Còn xã hội hoá về quan hệ sản xuất (quan hệ sở hữu) chính là quá trình
ngày càng đa dạng hoá các hình thức sở hữu, làm cho sở hữu có nhiều cấp độ

khác nhau, quan hệ với nhau, bổ sung cho nhau. Điều này khác với quan điểm trớc đây đã đồng nhất xã hội hoá về sở hữu t liệu sản xuất với công hữu hoá.

15


C - Kết luận

Trong công cuộc đổi mới của nớc ta hiện nay, vai trò của việc phát triển lực lợng sản xuất với đa dạng hoá các hình thức sở hữu đóng vai trò rất quan trọng. Chúng
ta cần phải hiểu và vận dụng một cách tốt nhất qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với
tính chất và trình độ phát triển của lực lợng sản xuất. Trên thực tế bất cứ ở đâu và vào
lúc nào cũng không thể có đợc sự phù hợp tuyệt đối giữa trình độ phát triển lực lợng
sản xuất với đa dạng hoá các hình thức sở hữu. Nhng phải tuỳ theo tình hình thực tế
đó lựa chọn một giải pháp phù hợp, trong quan hệ giữa lực lợng sản xuất và đa dạng
hoá các hình thức sở hữu nói chung cũng có sự ràng buộc xuất phát từ chúng. Tuy
nhiên chính bản thân các quan hệ sản xuất lại có mối quan hệ chặt chẽ với lực lợng
sản xuất. Vấn đề đặt ra là ta sử dụng mối quan hệ ấy nh thế nào cho phù hợp. Đặc
biệt quan hệ giữa lực lợng sản xuất với đa dạng hoá các hình thức sở hữu ở nớc ta lại
có nhiều lộn xộn trong việc nghiên cứu, sử dụng và phát triển các phơng thức sản
xuất tức là quá trình Đa dạng hoá cụ thể hơn là quá trình Phù hợp hoá các loại
phơng thức sản xuất vào điều kiện thực tế hiện nay của Việt Nam chúng ta. Nếu
chúng ta sử dụng đúng các quy luật trên cộng với điều hoà mối quan hệ giữa phát
triển lực lợng sản xuất với đa dạng hoá các hình thức sở hữu thì không lâu sau nớc ta
sẽ tiến nhanh cùng với các nớc phát triển trên con đờng công nghiệp hoá - hiện đại
hoá đã chọn.
Qua việc nghiên cứu để hoàn thiện bài viết này phần nào em hiểu và biết đợc tình hình kinh tế nớc nhà. Những cái, những điều kiện mà Đảng và Nhà nớc ta
đang làm để phát triển đất nớc. Cũng nh bao sinh viên khác của trờng, sau bốn
năm đào tạo đợc chút ít kiến thức em sẽ cùng đất nớc làm hết sức mình để đa
nhân dân có một cuộc sống ấm no, hạnh phúc hơn, đất nớc giàu mạnh hơn, có
thể cạnh tranh với các cờng quốc trên thế giới.
Từ đó em có đôi lời kiến nghị nh sau:

- Không ngừng phát triển lực lợng sản xuất bằng việc nhanh chóng đa các
tiến bộ kỹ thuật của những nớc đi trớc và tăng cờng công tác giáo dục, hớng dẫn
cho ngời lao động có thể tiếp thu đợc những công nghệ mới.
- Bình thờng hoá các quan hệ trong quá trình sản xuất, có cách nhìn đúng đắn giữa
ngời làm thuê với ông chủ của mình. Đây là một yếu tố quan trọng ảnh hởng đến chất lợng của sản phẩm làm ra nhằm tạo ra một môi trờng cạnh tranh lành mạnh trên thị trờng
trong nớc và quốc tế. Giúp đỡ ngời lao động để họ đợc hởng một quyền lợi, mức tiền lơng phù hợp với sức lao động mà họ bỏ ra và đợc phân theo thời gian quy định,... Điều
này sẽ khiến họ tích cực làm việc, từ đó năng suất lao động và rất có thể cả chất lợng sản
phẩm không ngừng tăng.
- Đa ra phơng thức phù hợp trong vấn đề sở hữu và các hình thức sở hữu. Đặc biệt
là kết hợp tốt mối quan hệ biện chứng giữa sự phát triển lực lợng sản xuất với đa dạng
hoá các hình thức sở hữu ở nớc ta nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình phát triển
đất nớc để đa nớc nhà lên sánh cùng với các cờng quốc phát triển trên thế giới.
Trên đây là đôi lời kiến nghị của em, mong rằng nó sẽ góp phần nhỏ bé
cùng đất nớc đi lên theo con đờng công nghiệp hoá - hiện đại hoá hiện nay.
16


Danh mục tài liệu tham khảo

1. Tạp chí Kinh tế và phát triển
Đặc san 11/1996
PGS. TS Vũ Văn Hân
2. Tạp chí Kinh tế và phát triển
PTS. Đoàn Quang Thọ
3. Tạp chí phát triển kinh tế
PTS. Đào Duy Huân
4. Phát triển kinh tế
Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh
Trờng Đại học Kinh tế
PTS. Lu Hà Vĩ

5. Triết học tháng 6 - 1998
Philosophy
Viện triết học
Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia - Nông Thị Mồng

17


mục lục

a - Đặt vấn đề.........................................................................................................1
b - nội dung.............................................................................................................2
I. Sự nhận thức về lực lợng sản xuất và qui luật quan hệ sản xuất phù
hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lợng sản xuất..........2

1. Đôi nét về lực lợng sản xuất......................................................................................2
2. Qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lợng
sản xuất.................................................................................................................3
II. Bàn về sự đa dạng hoá các hình thức sở hữu ở Việt Nam và vai trò của
nó đối với sự phát triển lực lợng
sản xuất..............................................................................................................................5

1. Đa dạng hoá các hình thức sở hữu t liệu sản xuất nhằm phát triển kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần ở Việt Nam........................................................................5
2. Về các hình thức sở hữu trong nền kinh tế thị trờng theo định hớng XHCN ở nớc ta
hiện nay.................................................................................................................7
3. Nhận thức về chế độ sở hữu trong tuyên ngôn của Đảng cộng sản và sự vận dụng ở
nớc ta hiện nay.....................................................................................................12
4. Vai trò của các hình thức sở hữu đối với sự phát triển lực lợng sản xuất...............14


C - Kết luận..........................................................................................................16
Danh mục tài liệu tham khảo..................................................................17
mục lục

18

18



×