Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất với việc phát triển nền kinh tế ở VN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.49 KB, 13 trang )

CH s 11 - B1 - H KTQD Chuyờn Photocopy - ỏnh mỏy - In Lun vn, Tiu lun : 6.280.688

"Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lợng sản
xuất với việc phát triển nền kinh tế ở việt nam"
Tính cấp bách của đề tài:

Sự tác động của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ
của lực lợng sản xuất đã đợc loại ngời qua những giai đoạn phát triển lịch sử
khác nhau. Nó chính là quy luật vận động và phát triển của xác hội qua sự thay
đổi kế tiếp từ thấp đến cao của các phơng thức sản xuất. Vậy quan hệ sản xuất là
gì ? lực lợng sản xuất là gì ? Quan hệ giữa chúng ra sao ? Quy luật quan hệ sản
xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lợng sản xuất đợc vận dụng nh thế
nào trên thế giới và ở các nớc ta ? Đó là những vấn đề sẽ đợc kèm đến trong bài
tiểu luận này.
Chơng, mục và số tiết trình bày trong đề tài.
Chơng I: Những vấn đề cơ bản về quan hệ sản xuất và lực lợng sản xuất.
1. Quan hệ sản xuất
2. Lực lợng sản xuất.
Chơng II: Quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lợng
sản xuất tác động đến quan hệ sản xuất.
1. Lực lợng sản xuất tác động đến quan hệ sản xuất.
2. Quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lợng sản xuất.
Chơng III. Biểu hiện thực tiễn của quy luật đối với CNTB và CNXH.
1. Biểu hiện đối với CNTB
2. Biểu hiện đối với CNXH.
Chơng IV. Quá trình vận dụng quy luật ở Việt Nam.
Những tài liệu tham khảo

- Bài Tìm hiểu t tởng của các Mác và Ph. Anghen về quy luật phù hợp giữa
quan hệ sản xuất với lực lợng sản xuất của Trơng Hữu Hoàn. Tạp chí Triết Học.
- Tuyển tập các Mác - Ph. Anghen tập I


- Giáo trình triết học Mác - Lênin tập II.

Nội dung

Hệ thống kinh tế chính trị thế giới và Việt Nam hiện nay đang có rất nhiều
biến động. Khối các nớc XHCN đã sụp đổ ở Đông Âu trong khi khối các nớc
TBCN đang lớn mạnh và bành trớng thế lực ra toàn thế giới. Nếu kinh tế Việt
Nam cũng đang có bớc chuyển mình rõ rệt, từ một nớc nông nghiệp nghèo nàn,
lạc hậu, thiếu ăn nay đã trở thành một nớc có nền kinh tế với nhiều thành phần,
có tổng lợng gạo xuất khẩu đứng hàng thứ ba trên thế giới. Những thay đổi đó
1


CH s 11 - B1 - H KTQD Chuyờn Photocopy - ỏnh mỏy - In Lun vn, Tiu lun : 6.280.688

không thể không làm cho chúng ta phải quan tâm đến lĩnh vực quan hệ sản xuất
và lực lợng sản xuất. Phải chăng nền kinh tế của mỗi nớc khác nhau là do quan hệ
giữa quan hệ sản xuất với lực lợng sản xuất khác nhau ? Các nớc có nền, kinh tế
phát triển phải chăng là do nhờ quan hệ sản xuất phù hợp với lực lợng sản xuất, còn
các nớc có nền kinh tế kèm phát triển lại không có vấn đề này ?
Vậy việc vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình
độ của lực lợng sản xuất và thực tiễn đã diễn ra nh thế nào đối với các nớc
TBCN. Các nớc XHCN và đối với Việt Nam ? Đó là một câu hỏi mang tính triết
học đã đợc đặt ra và việc giải quyết câu hỏi này cũng giống nh việc nhận thức
những hành động đúng đắn hay sai lầm của giới lãnh đạo nói chung, từ đó tìm ra
những biện pháp nhằm phát huy thêm những biến đổi tích cực, hạn chế những
biến đổi tiêu cực. Tuy nhiên đã có những quan điểm nhìn nhận vấn đề này cha đợc xác đáng, đó là những t duy chủ quan duy ý chí, họ cho rằng mỗi thời đại đã
đợc ấn định bằng một phơng thức sản xuất cố định mà không cần xem xét quan
hệ sản xuất có phù hợp với tính chất và trình độ của lực lợng sản xuất hay không.
Điều đó đã gây nên sự sai lệch trong phát triển kinh tế, xã hội, gây ra những hậu

quả không lờng. Thực tế cho thấy chỉ có cái nhìn khách quan mới đánh giá đúng
quá trình vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ
của lực lợng sản xuất. Ta sẽ đi tìm hiểu biểu hiện thực tiễn của quy luật này một
cách khách quan.
I-/

Những vấn đề cơ bản về lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất

1-/ Lực lợng sản xuất:
Lực lợng sản xuất là mối quan hệ giữa con ngời với tự nhiên đợc hình thành
trong quá trình sản xuất. Trình độ của lực lợng sản xuất thể hiện trình độ chinh
phục của con ngời đối với tự nhiên. Lực lợng sản xuất là thể thống nhất hữu cơ
giữa con ngời lao động với t liệu lao động.
Lực lợng sản xuất bao gồm hai yếu tố con ngời lao động và t liệu sản xuất.
Con ngời lao động gồm có trí thông minh, sáng tạo, sức lực... T liệu sản xuất bao
gồm đối tợng lao động và t liệu lao động, trong đó t liệu lao động là yếu tố quan
trọng nhất. T liệu lao động là những vật hay phức hợp những vật có thể nối con
ngời với đối tợng lao động và dẫn truyền tích cực sự tác động của con ngời vào
đối tợng lao động, t liệu sản xuất là bộ phận trực tiếp dẫn truyền sự tác động của
con ngời vào tự nhiên. Và sản phẩm của giới tự nhiên gọi là công cụ sản xuất.
T liệu sản xuất luôn thay đổi vì con ngời luôn tìm tòi sáng tạo và sử dụng
những công cụ lao động ngày càng đợc cải tiến tinh xảo hơn. Vì vậy mà trong
lực lợng sản xuất cũng có mâu thuẫn. Mâu thuẫn bên trong của lực lợng sản
xuất là mâu thuẫn giữa trình độ, khả năng của lực lợng sản xuất với nhu cầu
chinh phục, cải tạo tự nhiên, nhu cầu biến đổi đối tợng sản xuất. Sự phát triển
của lực lợng sản xuất là do nhu cầu của xã hội và do mẫu thuẫn bên trong của
lực lợng sản xuất quyết định. Mâu thuẫn này thờng xuyên đặt ra, liên tục phát
sinh trong quá trình sản xuất. Việc giải quyết mâu thuẫn này đòi hỏi phải áp

2



CH s 11 - B1 - H KTQD Chuyờn Photocopy - ỏnh mỏy - In Lun vn, Tiu lun : 6.280.688

dụng khoa học - kỹ thuật - công nghệ vào quá trình sản xuất làm cho công cụ sản
xuất không ngừng đợc hoàn thiện. Vì vậy để thúc đẩy t liệu sản xuất phát triển, lực
lợng sản xuất phát triển thay đổi từ thấp đến cao thì phải không ngừng cải tiến kỹ
thuật, thay thế công cụ thô sơ bằng máy móc.
Trong lực lợng sản xuất thì nhân tố con ngời đóng vai trò quyết định nhất.
Song ngày nay trong công cuộc cách mạng đã mở ra bớc nhảy vọt lớn của lực lợng sản xuất. Khoa học trở thành lực lợng sản xuất trực tiếp. Vì khoa học là
điểm xuất phát cho mọi biến đối to lớn cho lĩnh vực sản xuất, là cơ sở để hình
thành hoạt động các ngành sản xuất mới đồ sộ khoa học đã kết tinh vào mọi yếu
tố của lực lợng sản xuất và làm thay đổi về chất mọi yếu tố đó. Cuộc cách mạng
khoa học kỹ thuật đã mở ra một kỷ nguyên mới của sản xuất tự động hoá với
việc ứng dụng khoa học tiến bộ mới vào sản xuất, đã tạo ra sự thay đổi trong
chức năng của ngời sản xuất. Con ngời không trực tiếp thao tác mà chủ yếu sáng
tạo và điều chính một cách hợp lý. Trí thức khoa học đợc vật chất hoá vào mọi
nhân tố của lực lợng sản xuất, từ đối tợng lao động đến t liệu lao động. Do khoa
học trở thành lực lợng sản xuất trực tiếp nên thành phần ngời cấu thành lực lợng
sản xuất không chỉ bao gồm lao động chân tay mà gồm cả kỹ thuật viên, kỹ s và
các cán bộ khoa học phục vụ trực tiếp cho quá trình sản xuất.

3


CH s 11 - B1 - H KTQD Chuyờn Photocopy - ỏnh mỏy - In Lun vn, Tiu lun : 6.280.688

2-/ Quan hệ sản xuất:
Quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa ngời với ngời trong quá trình sản
xuất. Quan hệ sản xuất tồn tại một cách khách quan độc lập với ý thức của con

ngời. Để tiến hành sản xuất con ngời không chỉ có mối quan hệ với tự nhiên mà
phải có mối quan hệ với nhau để trao đổi hoạt động và kết quả của lao động.
Mác viết: Ngời ta chỉ có thể tiến hành sản xuất bằng cách hợp tác với nhau theo
một cách nào đó. Để thực hiện quá trình sản xuất con ngời phải có những mối
liên hệ, quan hệ chặt chẽ với nhau. Chỉ trong phạm vi của những mối liên hệ,
quan hệ đó thì con ngời mới có mối quan hệ với tự nhiên, tức là sản xuất. Quan
hệ sản xuất bao gồm ba mối quan hệ cơ bản: quan hệ sở hữu đối với t liệu sản
xuất, quan hệ tổ chức và quản lý, quan hệ phân phối sản xuất xã hội. Ba mối
quan hệ này nằm trong mối liên hệ ràng buộc quy định lẫn nhau trong đó quan
hệ đối với t liệu sản xuất giữ vai trò quan trọng nhất, nó quy định các mối quan
hệ còn lại. Bản chất của mối quan hệ sản xuất ra sao thì phụ thuộc vào việc giải
quyết mối quan hệ đối với t liệu sản xuất chủ yếu của xã hội nh thế nào.
Các quan hệ về tổ chức và quản lý, quan hệ về phân phối sản phẩm xã hội
giữ những vai trò hết sức quan trọng chúng có thể góp phần củng cố, phát triển
sản xuất và cũng có thể làm xói mòn quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất có tính
ổn định tơng đối so với lực lợng sản xuất. ở mỗi giao đoạn phát triển nhất định
của lịch sử quan hệ sản xuất tồn tại trong một phơng thức sản xuất nhất định,
quan hệ sản xuất thống trị của mỗi xã hội quy định bản chất và bộ mặt của mỗi
hình thái kinh tế - xã hội. Chính vì vậy khi nghiên cứu quá trình sản xuất không
chỉ dừng lại ở trình độ phát triển của lực lợng sản xuất mà phải xét tới tính chất
của quan hệ sản xuất.
II-/ Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất
và trình độ của lực lợng sản xuất.

Lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của một phơng thức sản
xuất và tác động biện chứng với nhau. Sự liên hệ tác động biện chứng giữa lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất hình thành nên quy luật phổ biến của toàn thể
loài ngời. Đó là quy luật sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình
độ phát triển của lực lợng sản xuất. Quy luật sự phù hợp này là khả năng phối
hợp giữa quan hệ sản xuất với lực lợng sản xuất để tạo ra hiệu quả lao động cao
nhất. Mác đã vận dụng phép biện chứng duy vật vào việc xem xét mối quan hệ

này, từ đó từng bớc tìm ra đợc mối quan hệ giữa sự phát triển của lực lợng sản
xuất và quan hệ sản xuất.
1-/ Vai trò quyết định của lực lợng sản xuất đến quan hệ sản xuất.
Trong quá trình sản xuất, để giảm nhẹ sức lao động và không ngừng nâng
cao hiệu quả của lao động thì con ngời phải tìm cách cải tiến công cụ lao động,
chế tạo ra các công cụ lao động mới tinh xảo hơn. Cùng với việc cải tiến và chế
tạo ra các công cụ lao động mới thì bản thân con ngời cũng không ngừng hoàn
4


CH s 11 - B1 - H KTQD Chuyờn Photocopy - ỏnh mỏy - In Lun vn, Tiu lun : 6.280.688

thiện. Những kỹ năng, kỹ xảo, kinh nghiệm lao động và trí thức khoa học không
ngừng phát triển. Nh vậy lực lợng sản xuất là mặt cách mạng nhất trong một phơng thức sản xuất.
Trong quá trình sản xuất, quan hệ sản xuất hình thành và phát triển dới sự
ảnh hởng tới tính chất và trình độ của lực lợng sản xuất. Sự phù hợp của quan hệ
sản xuất với tính chất và trình độ của lực lợng sản xuất tạo ra động lực to lớn
thúc đẩy sản xuất phát triển mạnh mẽ. Do lực lợng sản xuất là yếu tố cách mạng
thờng xuyên vận động, biến đổi, phát triển trong khi đó quan hệ sản xuất có xu
hớng ổn định hơn. Do vậy khi lực lợng sản xuất phát triển tới trình độ mới nó sẽ
mâu thuẫn gay gắt với quan hệ sản xuất cũ, từ đó xuất hiện một nhu cầu khách
quan là phải xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ, thiết lập một quan hệ sản xuất mới phù
hợp với tính chất và trình độ mới của lực lợng sản xuất tạo động lực cho sản xuất
phát triển. Do đó những lực lợng sản xuất mới, loài ngời thay đổi phơng thức
sản xuất của mình, từ đó loài ngời đã thay đổi tất cả những quan hệ xã hội của
mình. Cái cối xay bằng tay đa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay bằng hơi nớc
đa lại xã hội có nhà t bản doanh nghiệp. Và Mác cũng đã nói: Tới một giai
đoạn phát triển nhất định nào đó lực lợng sản xuất của xã hội sẽ mâu thuẫn với
quan hệ sản xuất mà trong đó các lực lợng sản xuất vẫn từng phát triển. Từ chỗ là
hình thức phát triển của lực lợng sản xuất, quan hệ sản xuất trở thành xiềng xích

đối với sự phát triển của lực lợng sản xuất, khi đó bắt đầu một thời kỳ cách
mạng.
Khi quan hệ sản xuất cũ lại xoá bỏ thì có nghĩa là phơng thức sản xuất cũ
mất đi thay bằng một phơng thức sản xuất mới, xã hội cũ mất đi, xã hội mới ra
đời, lịch sử loài ngời phát triển lên một giai đạon mới cao hơn về chất.

5


CH s 11 - B1 - H KTQD Chuyờn Photocopy - ỏnh mỏy - In Lun vn, Tiu lun : 6.280.688

2-/ Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lợng sản xuất.
Quan hệ sản xuất hình thành và phát triển dới ảnh hởng quyết định bởi tính
chất và trình độ của lực lợng sản xuất vì vậy quan hệ sản xuất không phải là yếu
tố thụ động mà nó tác động tích cực trở lại đối với lực lợng sản xuất, nó có thể
thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lợng sản xuất. Khi quan hệ sản xuất
phù hợp với tính chất và trình độ của lực lợng sản xuất thì nó tạo thành động lực
to lớn thúc đẩy sản xuất phát triển. Trong trờng hợp ngợc lại nó trở thành xiềng
xích đối với sự phát triển của lực lợng sản xuất. Sở dĩ quan hệ sản xuất có thể
thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lợng sản xuất vì nó quyết định mục
đích của lực lợng sản xuất, quy định vai trò tổ chức và quản lý lực lợng sản xuất,
quy định phơng thức phân phối sản xuất xã hôi.
Quy luật về sự phù hợp quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lợng sản xuất là quy luật chung nhất của lịch sử, nó chi phối sự vận động phát
triển của xã hội loài ngời qua các giai đoạn khác nhau từ thấp tới cao, từ công xã
nguyên thuỷ đến chiếm hữu nộ lệ, phong kiến... Thực tiễn đã chỉ ra rằng chỉ
trong trờng hợp quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lợng
sản xuất thì sản xuất mới có động lực phát triển - Còn trong các trờng hợp quan hệ
sản xuất lạc hậu, hoặc phát triển hơn một cách giả tạo so với trình độ phát triển
của lực lợng sản xuất thì đều tạo ra lực cản đối với phát triển sản xuất.
III-/ biểu hiện thực tiễn của quy luật đối với CNTB và CNXH.


1-/ Đối với CNTB:
Vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với lực lợng sản xuất vào việc
giải phẫu XHTB. Mác đã thấy so với các xã hội trớc đó giai cấp t bản đã tạo ra đợc một lực lợng sản xuất khổng lỗ, đẩy nhanh tiến trình văn minh của nhân loại.
CNTB nắm trong tay hầu hết các tiến bộ khoa học và công nghệ làm cho quá
trình lao động mang lại những hiệu quả vô cùng to lớn. Bên cạnh đó quá trình
phân công lao động diễn ra một cách nhịp nhàng trong thế giới t bản, nền sản
xuất TBCN đợc xã hội hoá rất cao nhờ những tổ chức độc quyền, các công ty
xuyên quốc gia... Thế nhng điều ngợc lại là quyền sở hữu t tiệu sản xuất lại hoàn
toàn thuộc về giới chủ. Hầu hết các lợi nhuận của hoạt động kinh tế đều chảy
vào túi riêng của các ông trùm t bản kếch xù. Giai cấp công nhân nói chung ngời
lao động nói riêng chỉ đợc hởng một phần rất nhỏ bé, có thể coi nh là không
đáng kể. Từ đó Mác và Anghen đã chỉ ra mâu thuẫn giữa lực lợng sản xuất có
tính xã hội và chế độ chiếm hữu t liệu sản xuất có tính t nhân diệt vong của xã
hội TBCN, XHCN sẽ ra đời trên cơ sở khắc phục mâu thuẫn ấy bằng cách xoá bỏ
chế độ chiếm hữu t nhân xây dựng chế độ công hữu về t liệu sản xuất. Làm cho
trình độ phát triển cao của lực lợng sản xuất có đợc một quan hệ sản xuất mới
thích ứng, mở đờng cho nó phát triển mạnh mẽ hơn.
Song một thực tế đáng buồn vẫn đang diễn ra trớc mắt chúng ta là hệ thống
các nớc XHCN đang ngày càng một suy sụp. Bên cạnh đó, cho đến nay vẫn cha
6


CH s 11 - B1 - H KTQD Chuyờn Photocopy - ỏnh mỏy - In Lun vn, Tiu lun : 6.280.688

có một cuộc cách mạng XHCN nào nổ ra ở những nớc TBCN phát triển nhất, tuy
rằng ở đó mâu thuẫn giữa lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất cũng đã đến độ
gay gắt.
CNTB ngày nay cùng với cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật mà nó nằm
trong tay vẫn còn đang trên con đờng phát triển đầy sức sống. Một số nhà triết

học Macxit cũng đang băn khoăn tự hỏi liệu phải giải thích thế nào về sự phù
hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lợng sản xuất trong hình
thức mới ? Chúng ta đều biết cách mạng nổ ra không chỉ vì nguyên nhân khách
quan mà phải có những nguyên nhân chủ quan đã đạt tới độ chín muồi của nó. Sở dĩ
CNTB cha bị thủ tiêu hẳn trên thế giới là do hai nguyên nhân tạm thời sau:
Thứ nhất: CNTB đã trở thành một hệ thống rộng lớn, nên vấn đề mâu
thuẫn của phơng thức sản xuất TBCN cùng cách giải quyết mâu thuẫn của nó
không thể nhìn nhận hay thực hành trong từng nớc một.
Thứ hai: Gần đây TBCN đã có một số phơng pháp nhằm giảm bớt căng
thẳng giữa quan hệ sản xuất và lực lợng sản xuất trong xã hội. Từ đó làm kéo dài
thêm thời gian sống của nó.
Về lực lợng sản xuất, CNTB đã xây dựng lên một nền đại công nghiệp vững
chắc, đáp ứng nhu cầu đầy đủ về sinh hoạt cho con ngời. Với những công nghệ
tinh vi hiện đại sẵn có, CNTB tạo ra lợng vật chất ngày càng to lớn để khoả lấp
những ý đồ xấu xa của mình.
Về quan hệ sản xuất, giai cấp t sản ngày nay cũng đã ý thức đợc rằng không
thể thống trị và bóc lột nh kiểu cũ. Việc quốc hữu hoá một số ngành công nghiệp
nặng và giao thông vận tải quan trọng, cũng nh việc biến các nhà máy, xí nghiệp,
ngân hàng thành các công ty có nhiều cổ phần cũng chứng tỏ giai cấp t sản cũng
nhìn thấy mâu thuẫn gay gắt giữa sản xuất có tính xã hội, nhng chiếm hữu t nhân
và muốn giải quyết bằng cách xã hội hoá một phần lực lợng sản xuất trong
khuôn khổ của CNTB.
Ngày nay chúng ta thừa nhận phơng thức TBCN vẫn tạo ra một lợng của cải
khổng lồ nhng không thể quy đó là do quan hệ sản xuất TBCN vẫn còn đầy sức
sống. Nếu nhìn vào đội quân thất nghiệp ngày một đông đảo, nhìn vào số lợng
nhà máy bị đóng cửa và số tiền cực kỳ to lớn chi phí cho chạy đua vũ trang
chúng ta mới thấy CNTB không những đã kìm hãm mà còn lãng phí lực lợng sản
xuất ghê gớm đến mức nào. Những biện pháp nói trên của CNTB có thể vẫn tạm
thời kích thích đợc sản xuất phát triển, nhng về cơ bản vẫn không khắc phục đợc
những mâu thuẫn cố hữu mà Mac đã chỉ ra. Vì thế cách mạng xã hội chủ nghĩa

thủ tiêu chế độ t bản chủ nghĩa vẫn đợc coi là tất yếu.
Một vấn đề khác là giải thích nh thế nào về quy luật quan hệ sản xuất phù
hợp với tính chất và trình độ của lực lợng sản xuất ở những nớc từ sản xuất nhỏ
trở qua giai đoạn phát triển TBCN đi thẳng lên sản xuất lớn TBCN ?, phải chăng
ở những nớc này có hiện tợng quan hệ sản xuất đi trớc lực lợng sản xuất, vì trên

7


CH s 11 - B1 - H KTQD Chuyờn Photocopy - ỏnh mỏy - In Lun vn, Tiu lun : 6.280.688

cơ sở lực lợng sản xuất còn là thủ công manh mún đã có thể xây dựng đợc quan
hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ?
2-/ Đối với XHCN:
Lênin đã từng phát triển chủ nghĩa Mác và đa ra lý luận trong điều kiện có
một nhà nớc XHCN đầu tiên trên thế giới, các dân tộc chậm phát triển có thể bỏ
qua giai đoạn phát triển TBCN tiến thẳng lên XHCN. Điều đó có nghĩa là các
dân tộc này có thể không cần phải trải qua các mâu thuẫn ghê gớm giữa lực lợng
sản xuất và quan hệ sản xuất TBCN khi có sự giúp đỡ từ các nớc XHCN anh em.
Song thực tế lịch sử lại không diễn ra đúng nh ý định. Liên Xô cùng khối
Đông Âu. Khối các nớc XHCN. Dùng mạnh nhất đã bị tan rã. Thiếu đi sự giúp
đỡ đáng kể, mục tiêu tiến lên XHCN ở một số nớc đang có nguy cơ bị phá sản.
Nguyên nhân khách quan của thất bại này mà chúng ta phải nhìn nhận là sự ỷ
lại, dự dẫm của các nớc kém phát triển vào Liên Xô. Họ chỉ trông chờ vào các
khoản viện trợ mà chẳng chú ý tới vấn đề tẹ thân phát triển nền kinh tế của mình.
Nguyên nhân thứ hai là đã có những quan điểm nhìn nhận phiến diện về mối
quan hệ sản xuất XHCN mới đợc xây dựng ở các nớc này. Ngời ta tởng rằng sau
khi xoá bỏ đợc chế độ t hữu về t liệu sản xuất, xây dựng chế độ công hữu thì mọi
vấn dề về quan hệ sản xuất XHCN đợc giải quyết về cơ bản rằng tính u việt
của chế độ công hữu t liệu sản xuất là đòn bẩy để thúc đẩy lực lợng sản xuất

phát triển mạnh mẽ theo ý muốn chủ quan của những ngời lãnh đạo. Từ đó coi
nhẹ vai trò then chốt của cách mạng khoa học kỹ thuật, không quyết tâm thực
hiện công nghiệp hoá XHCN. Đã có một thời những t tởng ấy đã xuất hiện ở
Việt Nam và đợc coi nh một t tởng chủ đạo.
Dù muốn hay không những quan điểm nói trên đều có chung một sai lầm là
tách rời mối quan hẹ giữa lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất. Đúng là lịch sử
đã giành cho chúng ta cái quyền u tiêu bỏ qua quan hệ sản xuất TBCN để xây
dựng quan hệ sản xuất nhỏ. Song muốn thực hiện đợc quy luật kinh tế cơ bản của
XHCN là thoả mãn những nhu cầu vật chất văn hoá ngày càng cao cho nhân dân
thì không có con đờng nào khác ngời từ thân vận động đẩy mạnh sự phát triển
của lực lợng sản xuất. Nghĩa là làm cho quan hệ sản xuất mới mau chóng có đợc
một lực lợng sản xuất tơng ứng. Tất nhiên quan hệ sản xuất có vai trò chủ động
tích cực đối với việc thúc đẩy lực lợng sản xuất phát triển nhng nó cũng chỉ phát
huy tác dụng khi vào đợc xây dựng trên cơ sở phù hợp với một trình độ phát triển
nhất định của lực lợng sản xuất. Chính vì đó ngay trong Đại hội V về phát triển
kinh tế xã hội trong chặng đờng thứ nhất, Đảng đã từng nêu ra một trong mời
chính sách quan trọng là: đảm bảo sự phù hợp giữa lực lợng sản xuất với quan
hệ sản xuất và ngay sau khi thấy rõ đợc những sai lầm trớc đây và xu thế ngày
càng suy yếu của phe XHCN, nớc ta có những cải cách to lớn về quan hệ sản
xuất sao cho phù hợp với lực lợng sản xuất. Đó là việc thích, tạo điều kiện cho
các thành phần kinh tế cá thể, t bản t nhân hoạt động, làm cho nền kt phát triển
toàn diện hơn. Trong nông nghiệp chúng ta đã thực hiện chính sách khoán sản
8


CH s 11 - B1 - H KTQD Chuyờn Photocopy - ỏnh mỏy - In Lun vn, Tiu lun : 6.280.688

phẩm, giúp xã việc an tâm, phấn khởi sản xuất và gắn bó với t liệu sản xuất của
mình. Qua đó có thể thấy rõ là từ sản xuất nhỏ lên XHCN chúng ta phải tuân
theo một cách nghiêm khắc quy luật mà Mác đã phát hiện. Có thể kết luận rằng,

các dân tộc, các quốc gia có thể rút ngắn giai đoạn quy luật quan hệ sản xuất phù
hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lợng sản xuất.
IV-/ Quá trình vận động quy luật ở Việt Nam.

Trong thực tế đẩy mạnh việc phát triển sản xuất nhất thiết phải gắn liền với
nhận thức và vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình
độ phát triển, của lực lợng sản xuất. Đó là quy luật phổ biến hàn sâu vào trí thức
của các nhà lãnh đạo. Tuy vậy không phải lúc nào ngời ta cũng nhận tứhc và vận
dụng đúng quy luật đó. Theo phơng châm: chỉ có sự tinh tế nếu mình nhìn nhận
đợc những việc đúng sai của mình. Sau đó ta hay đi vào nghiên cứ quá trình vận
dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lợng
sản xuất ở Việt Nam, phát hiện ra xem có những hành động đúng đắn hay sai
lầm nào.
ở thời kỳ đầu khi mà Miền Bắc nớc ta bắt đầu xây dựng CNXH, Đảng đã

nhìn nhận trong thực tiễn sản xuất ở nớc ta lực lợng sản xuất còn bị quan hệ sản
xuất kìm hạm làm cho lực lợng sản xuất kém phát triển. Đới sống nhân dân gặp
nhiều khó khăn. Bởi vậy Đảng ta đã tiền hành cuộc cải cách ruộng đất nhằm thực
hiện khẩu hiệu ngời cày có ruộng Mặc dầu trong phơng pháp thực hiện có
nhiều sau lầm song về cơ bản đã xoá bỏ đợc chế độ sở hữu rộng đất phong kiến,
thực hiện sở hữu ruộng đất cho nhân dân, cởi trói sức sản xuất ở nông thôn, ngời
nông dẫn đã thực sự trở thành ngời chủ ruộng đất.
ở các bớc tiếp sau chúng ta lại tiếp tục mắc phải một số sai lầm nghiêm

trọng. Do cha nhận thức đúng quy luật về mối quan hệ biên chức giữa lực lợng
sản xuất với quan hệ sản xuất. Trong cuộc cải tạo quan hệ sản xuất cũ và xây
dựng quan hệ sản xuất mới chúng ta đã ra sức vận động, một số nơi gần nh là cỡng bức, nông dân đi vào hợp tác hoá khi mà họ cha có thời gian để suy nghĩ
trên mảnh đất đợc chia. Có thể chúng cha tuân thủ lời giám huấn của Lênin:
Muốn dụng một phơng pháp mau lẹ nào đó, một sắc lệnh, một tác động ngoài
vào để cải tạo hệ cá thể ấy thì thật là một t tởng hoàn toàn phi lý. Đồng thời cùng

với việc xây dựng hợp tác xã quy mô từ thấp tới cao chúng ta đã mở rộng và phát
triển cá quy mô nông trờng quốc doanh, các nhà máy, xí nghiệp lớn mà không
tính đến trình độ của lực lợng sản xuất đang còn thấp kém. Mặt khác chúng ta
tạo ra những quy mô lớn là ngộ nhận là đã có quan hệ sản xuất cũ, xây dựng một
quan hệ sản xuất mới đều thúc đẩy sự ra đời và lớn mạnh của lực lợng sản xuất
mới chúng ta đã nhầm lẫn trong khi nhấn mạnh quá sức để sở hữu t liệu sản xuất
theo khuynh hởng tập thể hoá, cho đó là nhân tố hàng đầu của quan hệ sản xuất
mới, bởi vậy đa đến tình trạng tách rời, biệt lập ngời lao động với đối tợng lao
động chủ yếu của họ. Thực tế nhiều năm qua đã chứng minh quan điểm đó sai
9


CH s 11 - B1 - H KTQD Chuyờn Photocopy - ỏnh mỏy - In Lun vn, Tiu lun : 6.280.688

lầm. Sai lầm ở chỗ không phải chúng ta duy trì, quan hệ sản xuất lạc hậu so với
sự phát triển của lực lợng sản xuất nh ngời ta thờng nói, mà chủ yếu là có những
mặt của quan hệ sản xuất bị đẩy lên quá cao, quá xa một cách giả tạo làm cho nó
tách rời trình độ còn thấp kém của lực lợng sản xuất. Do vậy việc xác lập quan
hễ mới để mở đợc cho lực lợng sản xuất phát triển là cha xác đáng. Phải chăng
hợp tác hoá là cái quá rông và quá sớm với tính chất và trình độ phát triển lúc
bấy giờ. Bởi vậy nhận định trong văn kiện đại hội VI của Đảng có căn cứ vào đã
làm phong phú thêm lý luận về bản chất giữa lực lợng sản xuất quan hệ sản xuất,
lực lợng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trờng hợp quan hệ sản xuất lạc hậu
mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa
so với trình độ phát triển của lực lợng sản xuất. Thông thờng sự lạc hậu của quan
hệ sản xuất so với trình độ của lực lợng sản xuất là điều thờng xảy ra, ở đó chứng
tỏ quan hệ sản xuất bị phá vỡ. Còn nếu có trờng hợp quan hệ sản xuất đi trợc
lực lợng sản xuất tuyệt nhiên không thể coi là hình thức biểu hiện đặc thù của
quy luật mà đó là dấu hiệu cho thấy sự đi lệch khỏ quy luật. Để hiện chứng cho
quan niệm quan hệ sản xuất đi trớc hoặc nói cách khác để giải phóng mâu

thuẫn giữa quan hệ sản xuất tiến lên với lực lợng sản xuất lạc hậu. Chúng ta đã ra
sức xây dựng lực lợng sản xuất một cách khẩn trơng bằng cách đa khá nhiều
máy móc vào các xí nghiệp nông nghiệp mới hình thành còn non yếu, nhằm xây
dựng mô hình lâu dài công nông nghiệp trên địa bàn cấp huyện mà không tính
đến khả năng quản lý tổ chức sử dụng của nông dân cũng nh khả năng lãnh đạo
của bản quan lý hợp tác xã.
Trong lực lợng sản xuất chung ta chỉ chú ý t liệu sản xuất một cách thuần
tuỳ mà thiếu sự cần thiết ở nhân tố con ngời cả về trình độ lẫn thái độ lao động.
Bản thân con ngời yếu tố quyết định là chủ thể quan trọng nhất trong lực lợng
sản xuất. Song sản xuất bị đặt trong vòng cơng toả của cơ chế quản lý tập trung
quan liêu bao cấp nên con ngời lao động đã trở thành thực thể thụ động, năng lực
sáng tạo bị ức chế và mất đi một cách tự nhiên. Tất cả những sai lầm đó đã dẫn
đến sự ngã gục trong tiến trình phát triển của lực lợng sản xuất và do đó phá
vỡ luôn cả nhịp độ phát triển kinh tế xã hội.
Một sai làm cơ bản của chúng ta đã vấp phải là xoá bỏ quá sớm quan hệ sản
xuất t bản khi kinh tế XHCN của ta cha đủ sức thay thế. Điều đó ảnh hởng
không tốn đế lực lợng sản xuất và mất một khả năng tạo ra sản phẩm dồi dài cho
xã hội. Cũng vậy, nếu ta xoá sách tiểu thơng khi hệ thống thơng nghiệp quốc
quanh và hợp tác xã mua bán của ta cha làm nối vai trò ngời nội trợ cho xã hội
thì sẽ gây ra nhiều khó khăn và ách tác hàng hoá và không thể đáp ứng đợc nhu
cầu cần thiết cho nhân dân. Rõ ràng ta không thể xoá bỏ một hình thức quan hệ
sản xuất nào khi lực lợng sản xuất tơng ứng với nó đang tồn tại và thúc đẩy sức
sống.
Nhìn nhận sai lầm nói trên chúng ta không chỉ đổ lỗi cho nguyên nhân
khách quan. Một đất nớc thoát khỏi chế độ phong kiến, nửa thuộc địa lại đè nặng
10


CH s 11 - B1 - H KTQD Chuyờn Photocopy - ỏnh mỏy - In Lun vn, Tiu lun : 6.280.688


bởi ba mơi năm chiến tranh không tránh khỏi những khó khăn, thiệt thòi nhất
định. Tuy nhiên không phải vì thế mà không thừa nhận sai lầm về mặt chủ quan.
Cội nguồn của những sai lầm chủ quan đó là do sự nhận tứhc không đầy đủ về
chủ nghĩa xã hội, do đó vận dụng không đúng đắn bản chất của quy luật quan hệ
sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lợng sản xuất. Trong thời gian
dài, chúng ta cứ có quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa là có chủ nghĩa xã hội mà
quên đi rằng quan hệ sản xuất đó phải dựa trên cơ sở lực lợng sản xuất sắn có. Tập
trung sức xây dựng quan hệ sản xuất song nội dung ý chí trong việc xây dựng trật tự
bớc đi cũng nh việc lựa chọn các hình thức tổ chức kinh tế.
Song với những vấp váp, những thất bại, Đảng ta vẫn còn rất nhiều sự nhìn
nhận đúng đắn cũng nh các biện pháp kịp thời để khắc phục và phát triển nền
kinh tế. Qua quá trình lãnh đạo sản xuất lâu dài Đảng ta rút ra kinh nghiệm bổ
ích và đã khẳng định rằng; một trong những nguyên nhân làm cho xã hội chậm
phát triển, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn là: Không nắm vững quy luật
quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lợng sản xuất, từ đó
Đảng đã rút ra cái cốt lõi để đẩy mạnh việc vận dụng quy luật bằng cách nêu vấn
đề gắn liền với cách mạng quan hệ sản xuất và cách mạng khoa học kỹ thuật lên
hàng đầu. Đông thời tổ chức lại nền sản xuất xã hội để xác định đúng những
hình thức và bớc đi thích hợp. Đảng đã nhận thức rằng sự phù hợp giữa quan hệ
sản xuất với lực lợng sản xuất không bao giờ là sự phù hợp tuyệt đối, không có
mâu thuẫn, không trao đổi. Sự phù hợp này không bao giờ là sự phù hợp chung
mà là sự tồn tại dới nhiều hình thức cụ thể, thích ứng với đặc điểm nhất định với
trình độ nào đó của lực lợng sản xuất là cần xác lập quan hệ sản xuất nh thế nào
để thực sự là hình thức thích hợp nhất với yêu cầu của sự phát triển từng vùng.
Bởi vậy vấn đề cải tạo quan hệ sản xuất là hoàn toán đúng, cải tạo quan hệ sản
xuất ngày càng phát triển. Trong cải tạo quan hệ sản xuất cũ và xây dựng quan
hệ sản xuất mới đại hội Đảng lần VI đã nhấn mạnh là phải giải phòng đồng bộ
cả ba mặt xây dựng chế độ sở hữu, quản lý và chế độ sở hữy mà bỏ qua việc xây
dựng hai chế độ bia. Chế độ sở hữu có tầm lý luận, chế độ sở hữu về t liệu sản
xuất là mặt cơ bản nhất làm nền tảng cho quan hệ sản xuất khác trong lịch sử xã

hội. Về mặt thực tiễn, tính chất sở hữu t liệu sản xuất mới cũng quy định cả tính
chất quản lý và phân phối.
Trong quan hệ sản xuất nếu xét về mặt sở hữu t liệu sản xuất cơ bản của
nông nghiệp trớc hết là ruộng đất thì ruộng đất giao khoán cho nông dân vẫn
thuộc quyền sở hữu tập thể. Còn nếu xét quan hệ quản lý trong quan hệ sản xuất
khoán sản phẩm là quá trình hạch toán kinh tế đến nhóm và từng gia đình đã tạo
sự liên doanh liên kết tiến bộ. Một yếu tố cũng quan trọng của quan hệ sản xuất
là phân phối. ở quan hệ này thể hiện rất rõ trong mỗi quan hệ ba lợi ích. Sự đóng
góp của nhân dân đối với phí dịch vụ sản xuất và đổi hàng hoá chiều không
ngừng tăng lên. Vì thế nếu cải tạo XHCN là cải tạo quan hệ sản xuất cũ.

11


CH s 11 - B1 - H KTQD Chuyờn Photocopy - ỏnh mỏy - In Lun vn, Tiu lun : 6.280.688

Nớc ta đi lên XHCN từ những xuất phát triển hình về lực lợng sản xuất và
cơ sở vật chất kỹ thuật kém lùi sau trình độ của thế giới văn minh hàng trăm
năm, cho nên việc lựa chọn và vận dụng những giải pháp thích hợp để đảm bảo
sự phát triển lực lợng sản xuất từ đó phát triển nền kinh tế xã hội là vấn đề mong
ý nghĩa lý luận và thực tiễn hàng đầu. Để xác định trật tự bớc đi, lựa chọn những
hình thức tối u nhằm phát triển lực lợng sản xuất một cách quy luật thì phải dự
trên điều kiện cụ thể của đất nớc. Tuy nhiên chúng ta đang ở trong thời đại của
đặc điểm lớn: cách mạng khoa học kỹ thuật đang phát triển mạnh mẽ, xu hớng
hoà hoãn hợp tác và tồn tại hoà bình giữa các nớc trên thế giới ngày càng tăng.
Những đặc điểm khách quan cho phép chúng ta kết hợp hình thức phát triển tuần
tự và nhảy vọt để nhằm vừa có thể đẩy mạnh và rút ngắn thời hạn lịch sử tạo nên
bớc nhảy vọt về chất và sự tăng trởng nhanh chóng của lực lợng sản xuất.
Đảng đã nhận thấy, từ nớc có nền sản xuất nhỏ nh giai đoạn công nghiệp hoá.
Trên thực tế chúng ta đã và đang tiến hành công nghiệp hoá đất nớc. Song những

lệch lạc của thời kỳ công nghiệp hoá theo kiểm cổ điểm không phù hợp nữa.
Đối với thế giới nền văn minh cơ khí hoá đang lùi vào lịch sử, nhng với
chúng ta, có thể từng bộ phận, từng ngành của nền văn minh ấy vẫn còn có giá
trị và cần phải đợc xây dựng và hiện đại hoá. Để tạo điều kiện cho con ngời chủ
động nhận thức và giải quyết những mâu thuẫn giữa lực lợng sản xuất với quan
hệ sản xuất, điều chỉnh và hoàn thiện quan hệ sản xuất để thông qua đó phát
triển lực lợng sản xuất. Muốn tạo ra những động lực tích cực, kích thích năng lực
sáng tạo của ngời lao động thì đòi hỏi phải có chiến lợc về con ngời nhằm tạo ra
những biến đổi mới tích cực về cơ cấu và chiến lợc nhân công. Việc cải cách
giáo dục, bồi dỡng chuyên môn kỹ thuật và năng lực quản lý việc ban hành và
thực hiện chính sách xã hội, xây dựng xã hội có bầu không khí dần dần phù hợp với
yêu cầu của cuộc sống hiện đại và hớng lên của xã hội là những phơng tiện đa dạng
trong hệ thống để đi đến phát triển lực lợng sản xuất.
ở nớc ta thế mạnh của khoa học kỹ thuật mới chỉ ở dạng tiềm năng, sự tham

gia của nó vào quá trình sản xuất còn hạn chế. Đảng ta chủ trơng với cơ chế
quản lý kinh tế mới với sự mở rộng quyền tự chủ kinh tế của ngời sản xuất sẽ là
những tác nhân kích thích sự thâm nhập của những tiến bộ khoa học kỹ thuật.
Chúng ta phải tìm ra con đờng đi vào thực tiễn một cách nhanh nhất và có hiệu
quả nhất. Điều đó muốn nói đến tính thực tế của các tiến bộ khoa học kỹ thuật.
Trong điều kiện đất nớc ta còn nghèo, chỉ có tính thực tế đó mới chinh phục đợc
ngời sản xuất và do đó cũng là con đờng ngắn nhất để khoa học kỹ thuật đi
nhanh nhất vào cuộc sống và sản xuất. ít ra cũng là giai đoạn này.
Để xây dựng phơng thức sản xuất XHCN, chúng ta chủ trơng một nền kinh
tế nhiều thành phần với cơ chế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc nhằm phát
huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế, phát triển mạnh mẽ lực lợng sản
xuất để xây dựng cơ sở kinh tế của CNXH.

12



CH s 11 - B1 - H KTQD Chuyờn Photocopy - ỏnh mỏy - In Lun vn, Tiu lun : 6.280.688

Trong thực tế nền sản xuất đi lên sản xuất lớn XHCN trên cơ sở lực lợng
sản xuất phát triển. Quá trình đó thực hiện không phải bằng sự tớc đoạt, gò ép
theo chủ nghĩa hình thức nh trớc đây mà thực hiện từng bớc sự hỗn hợp các hình
thức sở hữu nh công ty cổ phần, CNTB Nhà nớc, để hình thành tập đoàn kinh
doanh lớn, chúng ta không nên chú trọng gạt bỏ cái cũ để có cái mới mà thực sự
chuyển hoá cái mới thành cái cũ.
Kết luận: Quy luật về sự phù hợp quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ
của lực lợng sản xuất là quy luật chung của sự phát triển xã hội. Nó đã đa loài
ngời trải qua nhiều phơng thức sản xuất. ở nớc ta, khi có những nhìn nhận đúng
về quy luật này, Đảng và Nhà nớc ta đã kịp thời chấn chỉnh những sai lầm trớc
đó, đa đất nớc lên CNXH mang lại cho nhân dân một cuộc sống ngày càng ấm
no, hạnh phúc.

13



×