Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Sự chuẩn bị về tư tưởng, chính trị, tổ chức cho việc thành lập đảng của nguyễn ái quốc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (105.96 KB, 14 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Lịch sử dựng nước, cứu nước của dân tộc ta gắn liền với các cuộc đấu
tranh gian khổ chống giặc ngoại xâm. Trải qua bao thế hệ ông cha ta đã anh
dũng đứng lên lần lượt đánh bại sự xâm lược của các đế quốc lớn. Để có được
những chiến thắng vang dội ấy ta không thể phủ nhận vai trò to lớn của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Ngay từ khi ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam đã thể hiện
vai trò lãnh đạo và tinh thần phụ trách trước giai cấp và dân tộc khi thắng lợi,
cũng như lúc khó khăn, khi thành công cũng như lúc sai lầm, khuyết điểm để
đưa cách mạng Việt Nam theo con đường mới, con đường "cách mạng vô sản"
và ngày nay là công cuộc xây dựng bảo vệ đất nước. Đảng cộng sản Việt Nam
ra đời là một điều tất yếu khách quan của cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp và
giải phóng dân tộc ở Việt Nam trong thời đại mới, và kết quả của quá trình lựa
chọn con đường cứu nước tích cực chuẩn bị về tư tưởng, chính trị, tổ chức của
một tập thể cách mạng mà đứng đầu là Hồ Chí Minh.
Sau khi được sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy cô và các bạn cùng vốn kiến
thức của bản thân đó là lý do em chọn đề tài: "Sự chuẩn bị về tư tưởng, chính
trị, tổ chức cho việc thành lập Đảng của Nguyễn Ái Quốc". Đây là một vấn
đề rộng đòi hỏi nhiều thời gian và nghiên cứu công phu, do vậy em mong được
sự góp ý từ phía thầy cô và bạn đọc để bài viết này được hoàn chỉnh hơn.
Nội dung tiểu luận gồm có các phần:
Lời nói đầu
I. Hoàn cảnh lịch sử Việt Nam và Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu
nước.
II. Sự chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho việc thành lập Đảng.
1. Sự chuẩn bị về chính trị và tư tưởng.
2. Sự chuẩn bị về tổ chức.
Kết luận
Tài liệu tham khảo


I. Hoàn cảnh lịch sử Việt Nam và Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu


nước.
Sau khi thực dân Pháp xâm lược nhân dân ta đã đứng lên kháng chiến để
bảo vệ nền độc lập dân tộc. Rất nhiều phong trào nổ ra nhưng đều bị thất bại và
bị thực dân Pháp đàn áp. Một vài phong trào tiêu biểu như:
Phong trào Cần Vương kháng Pháp theo ngọn cờ Cần Vương đã liên tiếp
diễn ra kéo dài từ thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX.
Phong trào Đông du(1906 - 1908): do nhà yêu nước Phan Bội Châu lãnh
đạo. Phong trào mở đầu cho cuộc vận động giải phóng dân tộc theo khuynh
hướng dân chủ tư sản.
Phong trào Đông kinh nghĩa thục(1907): Phong trào này diễn ra khá sôi
nổi, dưới nhiều hình thức như: tuyên truyền cải cách văn hoá, xã hội, hô hào
thực nghiệp, đả phá tư tưởng và lề thói phong kiến, bài trừ mê tín hủ tục, đả
kích bọn tham quan ô lại, cổ vũ lòng yêu nước…
Phong trào Duy tân(1906 - 1908): do các sĩ phu yêu nước như cụ Phan
chu Trinh, Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng… khởi xướng. Phong trào nhằm
vận động cải cách văn hoá, xã hội, động viên lòng yêu nước, đả kích bọn vua
quan thối nát, đề xướng tư tưởng dân chủ tư sản …
Phong trào Việt Nam quang phục hội (1912); do cụ Phan Bội Châu vận
động thành lập dưới sự tác động của cuộc cách mạng Tân Hợi Trung Quốc năm
1911.
Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, tình hình có biến chuyển mạnh hơn, có
nhiều phong trào đã nổi lên là: phong trào tư sản đấu tranh chống các thế lực tư
bản nước ngoài, đòi cải cách dân chủ
- Phong trào yêu nước của các tầng lớp tiểu tư sản thành thị : từ trong
phong trào này, lần lượt xuât hiện một số tổ chức yêu nước cấp tiến như: Việt
Nam Nghĩa Hoà Đoàn, Đảng thanh niên, Đảng An nam, Việt Nam quốc dân
đảng…
Những tổ chức trên đây là những tổ chức khác nhau song đều không có
2



đường lối chính trị rõ ràng, hoạt động rời rạc cho nên không có khả năng tập
hợp quần chúng.
Tất cả những phong trào trên đều thể hiện lòng căm thù giặc sâu sắc và
lòng yêu nước của nhân dân ta nhưng cuối cùng đều thất bại. Sư thất bại đó
biểu lộ tính chất non yếu của cách mạng Việt nam thời kỳ này. Sự nghiệp giải
phóng dân tộc càng lâm vào cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước.
Vấn đề đặt ra lúc này: cần phải tìm một con đưòng cứu nước khác với con
đường phong kiến và con đường dân chủ tư sản. Đó là một đòi hỏi tất yếu của
cách mạng Việt nam đầu thế kỷ XX.
Giữa lúc đó Hồ Chí Minh với tên gọi Nguyễn Tất thành đã rời tổ quốc từ
tháng 6 - 1911 đi sang phương Tây, nơi mà người cho là có tư tưởng dân chủ,
tự do và khoa học kỹ thuật phát triển để xem họ làm như thế nào, học tập rồi
trở về nước giúp đồng bào mình cởi bỏ xiềng xích nô lệ. Và đó cũng là bước
khởi đầu cho quá trình bôn ba khắp năm châu bốn biển để tìm ra con đường
cứu nước của lãnh tụ Hồ Chí Minh.
Năm 1917: cuộc cách mạng tháng Mười Nga thành công đã trực tiếp tác
động đến quá trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc, Người tin tưởng
và hướng theo con đường của cách mạng thang Mười Nga vĩ đại.
Năm 1919: các nước đế quốc thắng trận trong chiến tranh thế giới thứ
nhất họp nhau ở Vecxai, với tên là Nguyễn Ái Quốc, Người đã thay mặt những
người yêu nước Việt Nam gửi đến hội nghị bản yêu sách gồm tám điểm đòi
quyền lợi cho nhân dân Việt nam, tuy không được chấp thuận nhưng đó là đòn
tấn công trực diện đầu tiên vào chủ nghĩa đế quốc.
Tháng 12 - 1920 tại đại hội Đảng xã hội Pháp tại Tours
Hồ chí minh đứng về phía đại đa số của đại hội bỏ phiếu tán thành việc
thành lập Đảng cộng sản Pháp và việc gia nhập Quốc tế cộng sản. Từ đó
Nguyễn Ái Quốc trở thành chiến sĩ cộng sản, một chiến sĩ cộng sản đầu tiên
của Việt Nam. Sự kiện này đánh dấu bước ngoặt quyết định trong sự nghiệp
hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh, nó cũng đánh dấu cho bước ngoặt mở

3


đường cho thắng lợi của sự nghiệp giải phóng dân tộc của Việt nam.
II. Sự chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho việc thành lập Đảng.
1. Sự chuẩn bị về chính trị và tư tưởng
Sau khi trở thành chiến sĩ cộng sản, cùng với việc thực hiện những nhiệm
vụ đó với với phong trào cộng sản và công nhân quôc tế, Nguyễn Ái Quốc xúc
tiến mạnh mẽ việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào nước ta, từng bước
chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập Đảng.
Từ năm 1921 đến tháng 6 - 1923, tại Pháp, Hồ Chí Minh đã tham gia sáng
lập “Hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa”nhằm tuyên truyền cách mạng trong
nhân dân thuộc địa. Người viết nhiều sách báo đặc biệt là báo “Người cùng
khổ”, làm trưởng tiểu ban nghiên cứu vấn đề Đông Dương trong ban nghiên
cứu thuộc địa của Đảng cộng sản Pháp, viết bài cho các báo như: người cùng
khổ, nhân đạo, đòi sống công nhân …đặc biệt Người đã viết cuốn “Bản án chế
độ thực dân Pháp” được xuất bản lần đầu tiên tại Pari năm 1925.
Từ tháng 6 - 1923 đến cuối năm 1924, Hồ Chí Minh nghiên cứu và hoạt
động ở Liên xô, tìm hiểu về chế độ Xô viết, nghiên cứu kinh nghiệm tổ chức
đảng kiểu mới của Lênin. Người đã tham dự nhiều hội nghị quốc tế quan trọng
như: dự hội nghị Quốc tê nông dân (10 - 1923), dự Đại hội lần thứ V của Quốc
tế cộng sản và nhiều đại hội quốc tế quan trọng khác. Đây là những năm tháng
mà Người có dịp đi sâu nghiên cứu học hỏi kinh nghiệm cách mạng Nga,
nghiên cứu, xây dựng lý luận và tư tưởng cách mạng giải phóng dân tộc. Tư
tưởng giải phóng dân tộc về căn bản đã hình thành.
Vào năm 1924 Người đã viết tác phẩm ”Đường kách mệnh”. Tác phẩm
này đã có tác dụng to lớn đối với cách mạng Việt Nam những tư tưởng cơ bản
về đường lối chiến lược, sách lược, phương pháp cách mạng mà đồng chí
Nguyễn Ái Quốc nêu ra trong tác phẩm này đã đặt nền tảng cho cương lĩnh
cách mạng của Đảng ta sau này.

Thông qua các bài viết, tác phẩm trên đã thể hiện khá hoàn chỉnh hệ

4


thống quan điểm cách mạng và lý luận của Hồ chí Minh về “Đường kách
mệnh”. Các tác phẩm đó đã toát lên những quan điểm sau:
+ Muốn cứu nước, giải phóng dân tộc không có con đường náo khác là
con đường cách mạng vô sản.
+ Đi sâu vạch rõ bản chất phản động của chủ nghĩa thực dân nhưng ngụy
trang bằng cái gọi là “khai hoá văn minh ” Người đã nói tổng quát về chủ nghĩa
thực dân rằng : "chế độ thực dân là ăn cướp, là hiếp dâm và giết người". Chủ
nghĩa thực dân là kẻ thù chung của nhân dân các nước thuộc địa. Chủ nghĩa đế
quốc ở đâu cũng tàn ác và vô nhân đạo, nhân dân động ở đâu cũng bị áp bức và
bóc lột dã man, chủ nghĩa đế quốc ở đâu cũng là thù nhân dân lao động ở đâu
cũng là bạn. Người đã khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, thức dậy tinh
thần phản kháng dân tộc, kêu gọi nhân dân các nước thuộc địa phải tự dựa vào
lực lượng của mình, phải tự đứng lên giải phóng cho mình. ”Công việc giải
phóng anh em (ở các thuộc địa) chỉ có thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản
thân anh em ”.
Xác định rõ mối liên hệ gắn bó giữa cách mạng giải phóng dân tộc và
cách mạng vô sản. Cách mạng thuộc địa với cách mạng chính quốc. Cách mạng
giải phóng dân tộc là một bộ phận cách mạng thời đại cách mạng vô sản. Giải
phóng dân tộc phải gắn liền với giải phóng nhân dân lao động, giải phóng giai
cấp công nhân. ” Chỉ có giải ph óng giai cấp vô sản thì mới giải phóng dân tộc,
cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và
cách mạng thế giới”. Vì vậy, phải tiến hành cách mạng một cách triệt để, ” phải
cách mạng đến nơi ”, phải đem chính quyền “ giao cho dân chúng số nhiều chứ
không để trong tay một bọn ít người ” ; có như thế “ dân chúng mới được hạnh
phúc ”. Tư tưởng đó là nền tảng của đường lối chiến lược tiến hành cách mạng

giải phóng dân tộc theo con đường chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh và Đảng
cộng sản Việt Nam. Cách mạng giải phóng ở các nước thuộc địa và cách mạng
vô sản ở chính quốc có quan hệ với nhau có quan hệ với nhau như hai cái cánh
của cách mạng thời đại. Phải thực hiện liên minh chiến đấu giữa các lực lượng
5


cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản ở “ chính quốc”, thực hiện
liên minh giữa phương Đông và phương Tây theo khẩu hiệu của Lênin ” Vô
sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại! ”. Điều đặc biệt quan
trọng là Hồ Chí Minh đã nêu rõ cách mạng thuộc địa không phụ thuộc vào cách
mạng vô sản ở chính quốc, nó có tính chủ động, độc lập. Cách mạng thuộc địa
có thể thành công trước cách mạng thuộc địa và góp phần thúc đẩy cho cách
mạng thuộc địa tiến lên. Giai cấp công nhân và nhân dân thuộc địa phải nêu
cao tính tích cực chủ động cách mạng, nêu cao ý chí tiến công cách mạng, phải
dựa vào trước hết lực lượng của chính mình để đấu tranh giải phóng cho mình.
Đây là quan điểm cách mạng độc lập, sáng tạo của Hồ Chí Minh .
Tư tưởng về đường lối cách mạng ở thuộc địa là tiến hành giải phóng dân
tộc, mở đường tiến lên giải phóng hoàn toàn lao động, giải phóng con người,
tức là làm cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Song trước
hết phải giải phóng dân tộc, đánh đuổi bọn đế quốc giành độc lập tự do. Hồ Chí
Minh đã sớm xác định một cách đúng đắn tính chất cách mạng của các nước
thuộc địa là dân tộc cách mệnh ”. Nhận thức đúng đắn tính chất cách mệnh có
tác dụng chi phối nhận thức và xác định các vấn đề về kẻ thù, về lực lượng
cách mạng, về các lực lượng tạo nên sức mạnh dân tộc, về xây dựng đội ngũ
tiên phong cách mạng … Ở các nước thuộc địa bọn đế quốc và phong kiến
phản động thường cấu kết chặt chẽ với nhau. Cơ cấu kinh tế thực dân trùm lên
cơ cấu kinh tế phong kiến và chi phối mọi mặt của xã hội. Nhân dân lao động
các nước thuộc địa” bị hai lần bóc lột : là lao động và dân bản xứ ”. Ở nước ta
người việt nam nói chung phải è ra mà chịu công ơn bảo hộ của nước Pháp.

Riêng người nông dân càng phải chịu sự bóc lột ấy một cách nặng nề hơn : là
người Việt Nam, họ bị áp bức, là người nông dân họ bị tước đoạt. Vì thế kẻ thù
chủ yếu của các nước thuộc địa là chủ nghĩa đế quốc xâm lược. Vì vậy nhiệm
vụ của cuộc giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa trước hết và chủ yếu là
phải đánh đuổi bọp đế quốc xâm lược, ” như Việt Nam đuổi Pháp, Ấn độ đuổi
Anh, Cao Ly đuổi Nhật, Philipin đuổi Mĩ, Tàu đuổi các đế quốc chủ nghĩa để
6


giành quyền tự do bình đẳng cho dân nước mình “. Giương cao ngọn cờ chống
đế quốc, giành lấy độc lập tự do và sau khi thắng lợi sẽ phát triển theo con
đường XHCN, đó là tư tưởng cách mạng đúng đắn của Hồ Chí Minh về cách
mạng thuộc địa.
Đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược “giải phóng gông cùm cho đồng bào là”
việc làm chung của cả dân chúng ”. Tức là cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng nhân dân. Phải biết tập hợp lực lượng cách mạng, xây dựng cách mạng
dân tộc. Vì áp bức mà sinh ra cách mạng nên ai bị áp bức càng mạnh thì lòng
cách mạng càng bền, chí cách mạng càng quyết. Công - nông là giai cấp bị áp
bức nặng nề nhất nhất, có lượng cách mạng đông đảo nên công nhân là “ người
chủ cách mạng ”, ” là gốc cách mạng ”. Phân tích nội dung kinh tế và giai cấp
của XHCN trong thời đại mới, Hồ CHí Minh đã khẳng định ” trong thời đại
hiện nay, giai cấp công nhân là giai cấp độc nhất và duy nhất có sứ mệnh lịch
sử lãnh đạo cách mạng đến thắng lợi cuối cùng ”. Nông dân là lực đông đảo
nhất ở thuộc địa, bị đế quốc và phong kiến bóc lột nặng nề, phải đi với giai cấp
công nhân, chịu sự lãnh đạo và tổ chức của giai cấp công nhân thì giai cấp
nông dân mới có thể giải phóng được. Ngược lại giai cấp công nhân muốn
giành được quyền lãnh đạo duy nhất và đưa cách mạng thành công thì phải liên
minh với nông dân. Nông dân và công nhân là hai bạn đồng minh tự nhiên. Đặt
giai cấp vô sản vào vị trí giai cấp lãnh đạo và công nhân cùng với nông dân là
động lực chỉ ra một cách đúng đắn những lực lượng xã hội chủ yếu có khả năng

đảm bảo thắng lợi của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, đồng thời còn đảm
bảo cho cách mạng giải phóng dân tộc phát triển theo hướng XHCN. Trên cơ
sở coi công_nông là gốc cách mạng, Hồ Chí Minh đã xác định bầu bạn cua
cách mạng, của công_nông là ” học sinh, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ ”. Trong
cuộc cách mạng dân tộc “ sỹ, nông, công thương đều nhất trí chống lại cường
quyền “. Mọi người phải cùng dốc sức thì cách mạng mới thành công. Người
Việt nam có “ tình đoàn kết, nghĩa đồng bào “ sâu nặng. Vì vậy cần phải khơi
dậy và phát huy truyền thống đoàn kết dân tộc, tập hợp lực lượng lấy công
7


nông làm gốc, nhằm tạo nên sức mạnh dân tộc để chiến đấu và chiến thắng bọn
đế quốc.
“Cách mạng giải phóng dân tộc cần phải thực hiện sự đoàn kết và liên
minh với các lực lượng cách mạng quốc tế”. Cách mạng Việt Nam là một bộ
phận của cách mạng thế giới. Ai làm cách mạng trên thế giới đều là bạn của
nhân dân Việt Nam. Nhưng muốn các nước anh em trên thế giới giúp ta thì
trước hết phải dựa vào chính bản thân mình, không được ỷ lại trông chờ. Phải
nêu tính chủ động cách mạng, ý thức tự lực, tự cường. Có như vậy thì mới phát
huy cao độ sức mạnh dân tộc và sức mạnh quốc tế, tạo lấy sức mạnh tổng hợp
để chiến thắng kẻ thù.
Cách mạng là sự nghiệp chung của cả nhân dân, sức mạnh quần chúng
được giác ngộ và tổ chức lại không phải là việc của riêng ai hay là của một vài
người. Phải giáo dục quần chúng về mục đích cách mạng, đồng tâm hiệp lực,
bền gan chiến đấu để đánh đổ giai cấp áp bức mình, "giải phóng khỏi gông cùm
nô lệ cho đồng bào". Cách mạng là phải quyết tâm, bền gan chiến đấu lâu dài.
Quần chúng phải được tổ chức thành một đội ngũ vững bền mới thành công.
Ngoài ra cách mạng phải hiểu biết tình thế, phải biết so sánh tương quan lực
lượng, "phải có mưu chuớc", "phải biết cách làm mới chóng", những quan
điểm đầu tiên cơ bản của Hồ Chí Minh về phương pháp và nghệ thuật đấu

tranh.
Phải đấu tranh bằng bạo lực cách mạng không đấu tranh bằng con đường
cải lương thoả hiệp.
Phải chuẩn bị xây dựng thực lực cho cách mạng, phải dự đoán và chớp
thời cơ ngàn năm có một .
Phải có Đảng lãnh đạo, cách mạng muốn thành công trước hết cần phải có
Đảng cách mạng, ” Đảng có vững thì cách mạng mới thành công, cũng như
người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy “. Đảng phải có đội ngũ cán bộ,
Đảng viên có lý tưởng cách mạng, có lập trường và đạo đức cách mạng, có
quyết tâm chiến đấu vì lý tưởng giải phóng dân tộc và nhân loại …
8


Hệ thống quan điểm cách mạng và lý luận về con đường cách mạng của
Hồ Chí Minh là nội dung tư tưởng cách mạng giải phóng dân tộc theo chủ
nghĩa Mác_Lênin được truyền vào Việt Nam trong những năm 20 của thế kỷ
XX, là tư tưởng cách mạng hướng đạo phong trào dân tộc và các tổ chức chính
trị theo khuynh hướng cách mạng vô sản, dẫn đến sự ra đời của các tổ chức
cộng sản ở Việt nam .
2. Sự chuẩn bị về tổ chức
Tháng 12 - 1924, Hồ Chí Minh đã về Quảng Châu(Trung Quốc) để trực
tiếp chuẩn bị thành lập Đảng cộng sản Việt Nam. Tại đây người đã sáng lập ra
“Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á đông”. Người thành lập tổ chức “Việt
Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội” vào năm 1925, từ một nhóm cách
mạng đầu tiên, trong đó cộng sản Đoàn làm nòng cốt. Theo đề nghị của
Nguyễn Ái Quốc vào tháng 6 - 1925 tổng bộ của Việt Nam thanh niên cách
mạng đồng chí hội, xuất bản tuần báo Thanh Niên, là tiếng nói, là cơ quan
tuyên truyền của hội để phổ biến rộng rãi chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
cứu nước đúng đắn. Đồng thời Người tuyển chọn một đội ngũ những người yêu
nước, mở nhiều lớp huấn luyện cán bộ đầu tiên làm hạt nhân cho phong trào.

Vào tháng 6 - 1925, Hồ Chí Minh lập ra tổ chức Việt nam thanh niên
cách mạng đồng chí hội ở Quảng Châu_Trung Quốc, xuất bản tuần báo Thanh
niên làm cơ quan tuyên truyền của Hội. Người đã huấn luyện cán bộ về nước
hoạt động. Thông qua hoạt động của tổ chức này mà cách mạng Việt nam phát
triển sôi nổi. Cơ sở của tổ chức được xây dựng ở cả ba kỳ. Đó là công cụ tổ
chức để tuyên truyền vận động phong trào dân tộc dân chủ theo con đường
cách mạng vô sản. Số hội viên của hội tăng nhanh. Phong trào đấu tranh của
công nhân và lao động do tác độngcủa Việt Nam thanh niên cách mạng đồng
chí hội trong thời kỳ này cũng có những chuyển biến mới … Việt Nam thanh
niên cách mạng đồng chí hội cũng đã đề ra chủ chương “ vô sản hoá”, đưa hội
viên đi sâu, bám chắc vào các nhà máy, đồn điền, hầm mỏ để vận động cách

9


mạng thúc đẩy phong trào đấu tranh của công nhân và lao động. Từ cuối năm
1928 đến đầu năm 1929, phong trào dân tộc và dân chủ ở nước ta, đặc biệt là
phong trào công_nông theo con đường cách mạng vô sản đã phát triển mạnh
mẽ hơn mang tính thống nhất trong cả nước. Việt Nam thanh niên cách mạng
đồng chí hội không còn thích hợp để lãnh đạo phong trào nữa. Nhưng những
điều kiện để thành lập Đảng Macxit đã hình thành. Xu thế để thành lập một
đảng cộng sản ngày càng chín muồi. Cuối tháng 3 - 1929, một số hội viên tiên
tiến của Việt nam thanh niên cách mạng đồng chí hội ở Bắc kỳ đã lập ra chi bộ
cộng sản đầu tiên ở Việt Nam, gồm có 7 đảng viên và do Trần Văn Cung làm
bí thư chi bộ.
Ngày 17 - 6 - 1929, tại số nhà 312 Khâm Thiên_Hà Nội, đại biểu các tổ
chức cơ sở Đảng ở miền Bắc họp đại hội quyết định lập ra Đông Dương cộng
sản Đảng, thông qua tuyên ngôn, điều lệ của Đảng, quyết định xuất bản báo
Búa liềm, cử ra ban chấp hành Trung Ương lâm thời của Đảng.
Trước nhu cầu của phong trào và đặc biệt với sự ra đời của Đông Dương

cộng sản Đảng, một số hội viên tiên tiến trong bộ phận Việt Nam thanh niên
cách mạng đồng chí hội ở Trung Quốc và ở Nam kỳ cũng đã vạch ra kế hoạch
tổ chức Đảng. Ngày 25 - 7 - 1929, trong một bức thư của các đồng chí trong bộ
phận của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội hoạt động ở Trung
Quốc gửi Đông Dương cộng sản Đảng cho biết họ đã thành lập một đảng cộng
sản bí mật còn ”thanh niên giữ nguyên để cải tổ dần”. Tên gọi của Đảng là An
Nam cộng sản Đảng. Đảng có chi bộ hoạt động ở Trung quốc và nhiều chi bộ
ra đời ở Nam Kỳ .
Tuy nhiên hai tổ chức cộng sản đó hoạt động riêng rẽ, thậm chí còn công
kích lẫn nhau, song từ sự ra đời của Việt nam thanh niên cách mạng đồng chí
hội đến sự xuất hiện những tổ chức cộng sản là một xu thế phát triển khách
quan của phong trào cách mạng Việt nam lúc bấy giờ.
Sự hình thành Tân việt cách mạng Đảng là kết quả của sự phân hoá trong
nội bộ các nhóm tiểu tư sản yêu nước .
10


Trong cuộc đấu tranh giữa đường lối cách mạng vô sản và tư sản trong
phong trào dân tộc ở Việt nam. Ngày14 - 7 - 1928, Việt Nam thanh niên cách
mạng đồng chí hội họp đại hội ở Huế, quyết định tổ chức ra một đảng ”tự lập”
lấy tên là Tân việt cách mạng Đảng. Tân Việt ra đời hoạt động trong lúc Việt
nam thanh niên cách mạng đồng chí hội phát triển rất mạnh, lý luận và tư tưởng
cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, của Hồ Chí Minh có ảnh hưởng mạnh
mẽ đến Tân Việt, cuốn hút nhiều đảng viên trẻ, tiên tiến đi theo Việt nam thanh
niên cách mạng đồng chí hội. Trong nội bộ của Tân việt diễn ra một cuộc đấu
tranh giữa hai khuynh hướng tư tưởng cách mạng và cải lương, cuối cùng xu
hướng cách mạng theo quan điểm vô sản chiếm ưu thế. Một số đảng viên của
Tân việt đã chuyển sang Việt nam thanh niên cách mạng đồng chí hội. Số tiên
tiến còn lại chuẩn bị tiến tới thành lập một chính đảng kiểu mới theo chủ nghĩa
Mac - Lênin. Sự ra đời của Đông Dương cộng sản Đảng (6 - 1929) và An nam

cộng sản Đảng (7 - 1929) đã tác động mạnh mẽ đến sự phân hoá của Tân Việt.
Tháng 9 - 1929 thì Đông dương cộng sản liên đoàn được thành lập. Đây là một
chính đảng cách mạng vô sản. Mục tiêu của Đảng là đấu tranh giành độc lập
hoàn toàn cho xứ Đông Dương, xoá bỏ nạn bóc lột người, xây dựng chế độ
công nông chuyên chính, tiến lên chế độ cộng sản chủ nghĩa.
Trong vòng không đầy bốn tháng, từ tháng 6 đến tháng 9 năm 1929, đã có
ba tổ chức đảng cộng sản ở Việt nam được thành lập. Sự ra đời của ba tổ chức
cộng sản một cách nhanh chóng lúc đó phản ánh xu thế tất yếu của phong trào
dân tộc ở Việt Nam. Song sự tồn tại ba đảng hoạt động một cách biệt lập có
nguy cơ dẫn đến một sự chia rẽ lớn. Yêu cầu bức thiết của cách mạng Việt nam
là phải có một đảng cộng sản thống nhất trong cả nước .
Trước yêu cầu của lịch sử mới, Hồ Chí Minh đảm nhận trách nhiệm
thống nhất các tổ chức cộng sản để lập ra một Đảng cộng sản duy nhất ở Việt
nam . Từ ngày 3 đến 7 - 2 - 1930, hội nghị thống nhất đảng đã họp tại Cửu
Long, gần Hương Cảng_Trung Quốc, dưới sự chủ trì của Hồ chí Minh. Tham
dự hội nghị có Trịnh Đình Cửu và Nguyễn Đức Cảnh là đại biều của Đông
11


Dương cộng sản đảng, Châu Văn liêm và Nguyễn Thiệu là đại biểu của An
nam cộng sản Đảng. Các đại biểu đã nhất trí hợp nhất Đông dương cộng sản
Đảng và An nam cộng sản Đảng để lập ra một Đảng duy nhất, đó là Đảng
Cộng sản Việt Nam, đã thông qua chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt,
chương trình tóm tắt, điều lệ tóm tắt của Đảng và điều lệ của các hội quần
chúng do Hồ Chí Minh soạn thảo.

12


KẾT LUẬN

Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt nam mang tầm vóc của lịch
sử. Kết quả là sự ra đời của Đảng cộng sản việt Nam là một bước ngoặt trọng
đại trong lịch sử cách mạng Việt nam. Nó chấm dứt thời kỳ cách mạng nước ta
ở trong tình trạng bế tắc, khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước, nó
“chứng tỏ giai cấp vô sản nước ta đã trưởng thành đủ sức lãnh đạo cách mạng”,
kể từ đâ y (3 - 2 - 1930) cách mạng Việt Nam có một Đảng duy nhất lãnh đạo
với đường lối thống nhất trên cả nước. Đảng ra đời là một tất yếu lịch sử, là kết
quả của quá trình đấu tranh dân tộc và đấu tranh trong thời đại mới và còn là
kết quả của quá trình chuẩn bị một cách công phu chu đáo, tích cực của lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc trên cả ba mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Sự ra đời của đảng cộng sản Việt Nam gắn liền với tên tuổi của lãnh tụ
Hồ Chí Minh, người đã có sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng.

13


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lịch sử Đảng cộng sản Việt nam.
NXB Giáo dục
2. Hướng dẫn ôn tập môn lịch sử Đảng.
NXB Giáo dục
3. Hồ Chí Minh toàn tập .
NXB sự thật

14



×