Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Sử dụng phép biện chứng duy vật trong công tác kiểm tra tại đảng uỷ các cơ quan tỉnh bắc giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (225.23 KB, 17 trang )

CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

Mục lục
Trang

Mở đầu………………………………………………………..

2

Phần nội dung…………………………………………….….

3
3
3
3
4
8
9
9
10
10
11
12
12
13
13
13
13
14
17
18



1. Phép biện chứng duy vật của triết học Mác-Lênin…………………..
1.1 Các khái niệm chung……………………………………………….
1.2 Nội dung của phép biện chứng duy vật…………………………….
1.2.1 Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến ………………………………
1.2.2 Nguyªn lý vÒ sù ph¸t triÓn………………………………………..
2. Các quy định về công tác kiểm tra của Đảng…………………….….
2.1 Các quy định chung về công tác kiểm tra Đảng……………………
2.2 Ý nghĩa, tác dụng và yêu cầu, nhiệm vụ của công tác kiểm tra…….
2.2.1 Ý nghĩa tác dụng…………………………..……………………..
2.2.2 Yêu cầu, nhiệm vụ công tác kiểm tra…………………………….
2.3 Những quy định về việc thi hành kỷ luật trong Đảng………………
2.3.1 Tính chất kỷ luật của Đảng……………………………………….
2.3.2 Ý nghĩa tác dụng của kỷ luật……………………………………..
2.3.3 Phương châm thi hành kỷ luật trong Đảng……………………….
3. Thực hiện công tác kiểm tra tại Đảng bộ Các cơ quan tỉnh Bắc Giang...
3.1 Đặc điểm của Đảng bộ Các cơ quan tỉnh Bắc Giang……………….
3.2 Thực hiện công tác kiểm tra tại Đảng bộ…………………………...
Kết luận………………………………………………………………..
Danh mục tài liệu tham khảo…………………………………………

Mở đầu
Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi mới thành lập đã chỉ rõ: lấy Chủ nghĩa
Mác-Lênin là cơ sở lý luận cho mọi hoạt động của Đảng. Triết học Mác-Lênin,
một bộ phận của chủ nghĩa Mác, một học thuyết triết học khoa học và hiện đại,
ra đời trên cơ sở kế thừa những thành tựu của các nền triết học trước đó, đã trở
thành thế giới quan và phương pháp luận cho mọi tư duy và hành động của
những người cộng sản. Vận dụng phép biện chứng duy vật của triết học Mác1



CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

Lênin để xem xét, giải quyết các vấn đề sẽ có được sự đánh giá khách quan và
chặt chẽ.
Kiểm tra là một trong các nhiệm vụ quan trọng của công tác xây dựng
Đảng. Trong tình hình hiện nay, công tác xây dựng Đảng càng được quan tâm và
đảy mạnh. Đại hội IX của Đảng ta đã một lần nữa khẳng định: “phát triển kinh tế
là trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt”. Trước những đòi hỏi ấy, công tác
kiểm tra Đảng càng cần được nâng cao về hiệu quả và chất lượng, đảm bảo đáp
ứng yêu cầu về công tác xây dụng Đảng. Kiểm tra Đảng là một công việc khó
khăn, mang những đặc thù riêng, là quá trình đấu tranh và tự đấu tranh trong
Đảng. Để làm tốt công tác này cần phải có những quan điểm và lập trường vững
vàng, bên cạnh đó cần phải được trang bị phương pháp luận đúng đắn và khoa
học.
Xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn công việc, em chọn nghiên cứu đề tài:
“Sử dụng phép biện chứng duy vật trong công tác kiểm tra tại Đảng uỷ Các cơ
quan tỉnh Bẵc Giang”. Đề tài nghiên cứu nhằm nhìn nhận các vấn đề từ thực
tiễn công việc dưới góc độ phương pháp luận triết học, qua đó rút ra những vấn
đề mang tính lý luận phục vụ cho công tác.
Đề tài thực hiện trên quan điểm duy vật và phương pháp biện chứng của
triết học Mác-Lênin. Nghiên cứu các vấn đề lý luận từ đó đánh giá việc sử dụng
lý luận ấy trong thực tiễn. Qua quá trình nghiên cứu nhằm khẳng định rõ hơn
phương pháp luận trong công tác và hoạt động chuyên môn tại đơn vị.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, phần nội dung của đề tài được sắp xếp
gồm 3 phần:
Phần 1: Phép biện chứng duy vật của triết học Mác-Lênin
Phần 2: Các quy định về công tác kiểm tra của Đảng
Phần 3: Thực hiện công tác kiểm tra tại Đảng bộ Các cơ quan tỉnh Bắc
Giang.
Em xin chân thành cảm ơn PGS.TS Phạm Văn Sinh và PGS. TS Dương

Thị Liễu đã truyền giảng những kiến thức về môn triết học, giúp xây dựng hoàn
thiện cho em thế giới quan và phương pháp luận khoa học, phục vụ cho việc học
tập, nghiên cứu và công tác đạt kết quả tốt hơn.

Phần nội dung
1. Phép biện chứng duy vật của triết học Mác-Lênin
1.1 Các khái niệm chung.
Phép biện chứng duy vật của triết học Mác-Lênin là sự kế thừa có phê
phán và phát triển chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng trong lịch sử triết học,
đồng thời, dựa vào các thành tựu của khoa học, C.Mác và Ph. Ăng-ghen đã sáng
2


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

tạo, V.I Lênin bảo vệ và phát triển chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử, đem lại cho phép biện chứng một hình thức mới về chất, đó là
phép biện chứng duy vật. Phép biện chứng duy vật không những là thế giới quan
khoa học, mà còn trở thành phương pháp luận khoa học để nhận thức thế giới và
cải tạo thế giới.
Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất biện chứng giữa lý luận và
phương pháp. Hệ thống các phạm trù và qui luật của phép biện chứng duy vật
phản ánh đúng đắn thế giới khách quan và chỉ ra những cách thức để định hướng
con người trong nhận thức thế giới và cải tạo thế giới.
Phép biện chứng trình bày có hệ thống và chặt chẽ tính biện chứng của thế
giới thông qua những nguyên lý, phạm trù và qui luật chung nhất của thế giới;
chúng vừa là lý luận duy vật biện chứng, vừa là lý luận nhận thức khoa học, vừa
là lôgíc học của chủ nghĩa Mác-Lênin
Như vậy, phương pháp biện chứng là tổng hoà hệ thống các nguyên tắc,
yêu cầu liên hệ qua lại và phụ thuộc lẫn nhau, qui định một trình tự nghiêm ngặt

trong việc thực hiện các hành động nhằm nhận thức và cải tạo đối tượng nhận
thức.
Cách hiểu như vậy thể hiện phép biện chứng duy vật là phương pháp luận
chung nhất của nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng. Trong khi vạch ra
tính biện chứng chung nhất của thế giới, thông qua hệ thống các phạm trù và qui
luật chung nhất của sự vận động và phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy,
phép biện chứng duy vật rút ra những quan niệm, những nguyên tắc xuất phát
dùng để chỉ đạo việc xây dựng phương pháp cho hoạt động nhận thức và hoạt
động thực tiễn của con người. Nghiên cứu từng nguyên lý, từng phạm trù, từng
qui luật của phép biện chứng duy vật, chúng ta sẽ càng thấy rõ sự thống nhất
chặt chẽ giữa lý luận và phương pháp của phép biện chứng duy vật.
Phép biện chứng là môn khoa học phản ánh những qui luật chung nhất,
phổ biến nhất về sự vận động và sự phát triển của các sự vật, hiện tượng trong cả
ba lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy đó là sự thống nhất trên cơ sở duy vật giữa
phép biện chứng, lý luận nhận thức và lôgíc biện chứng
1.2 Nội dung của phép biện chứng duy vật.
Là một môn khoa học, phép biện chứng duy vật là một hệ thống bao gồm
ba qui luật và sáu cặp phạm trù cơ bản. Mỗi một qui luật phản ánh một mặt khác
nhau của sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng. Nhưng khi nằm trong
hệ thống, chúng phản ánh mối liên hệ phổ biến và sự phát triển của các sự vật,
hiện tượng trong thế giới. Lý luận về các cặp phạm trù và qui luật của phép biện
chứng duy vật là sự cụ thể hoá nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý
về sự phát triển.
Hai nguyên lý là quan niệm bao quát những tính chất biện chứng chung
nhất của thế giới, còn các cặp phạm trù và các qui luật là lý luận nghiên cứu các
mối liên hệ và khuynh hướng phát triển trong thế giới các sự vật, hiện tượng cụ
3


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688


thể. Chính vì thế, chúng cho ta phương pháp luận thực hiện quan điểm toàn diện
và quan điểm phát triển gắn liền với quan điểm lịch sử-cụ thể và các quan điểm
khác trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
1.2.1 Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của các sự vật, hiện tượng là đặc trưng
cơ bản của phép biện chứng duy vật, nguyên lý này có cơ sở xuất phát từ nguyên
lý về tính thống nhất vật chất của thế giới. Ph.Ăngghen viết rằng, "Phép biện
chứng là khoa học về mối liên hệ phổ biến"
a. Khái niệm về mối liên hệ phổ biến.
Khái niệm mối liên hệ phổ biến nói lên sự tác động qua lại lẫn nhau giữa
các sự vật, hiện tượng. Mọi sự liên hệ hay tác động qua lại giữa các sự vật, hiện
tượng chính là sự vận động, đồng thời chúng là một trong những nguyên nhân
tạo ra sự vận động, chuyển hoá của thế giới vật chất.
Các sự vật, hiện tượng trong thế giới không tồn tại một cách biệt lập mà
chúng là một thể thống nhất tác động, ràng buộc, qui định và chuyển hoá lẫn
nhau.
Sự tác động lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng- đó là các mối liên hệ
bên ngoài, còn mối liên hệ bên trong- đó là sự tác động lẫn nhau giữa các mặt,
các yếu tố, các bộ phận ở bên trong mỗi sự vât, hiện tượng. Giữa các giai đoạn,
các quá trình khác nhau trong sự phát triển của bản thân một sự vật, hiện tượng
cũng có mối liên hệ với nhau: Có mối liên hệ về mặt không gian và cũng có mối
liên hệ về mặt thời gian giữa các sự vật, hiện tượng. Có mối liên hệ chung tác
động lên toàn bộ hay trong những lĩnh vực rộng lớn của thế giới. Có mối liên hệ
riêng chỉ tác động trong từng lĩnh vực, từng sự vật và hiện tượng cụ thể. Có mối
liên hệ trực tiếp giữa nhiều sự vật, hiện tượng, nhưng cũng có những mối liên hệ
gián tiếp, trong đó các sự vật, hiện tượng tác động lẫn nhau thông qua nhiều
khâu trung gian. Có mối liên hệ tất nhiên, cũng có mối liên hệ ngẫu nhiên. Có
mối liên hệ bản chất đóng vai trò quyết định sự tồn tại, phát triển của sự vật và
cũng có mối liên hệ không bản chất chỉ đóng vai trò phụ thuộc. Có mối liên hệ

chủ yếu và có mối liên hệ thứ yếu v.v.
b. Các mối liên hệ phổ biến
Các hình thức cơ bản của mối liên hệ phổ biến là những mối liên hệ có
tính qui luật giữa những phạm trù trong từng cặp, như: cái riêng, cái chung và cái
đơn nhất; nguyên nhân-kết quả; tất nhiên-ngẫu nhiên; nội dung-hình thức; bản
chất-hiện tượng; khả năng-hiện thực.
Cái chung- cái riêng và cái đơn nhất
Cái chung với tư cách là qui luật tồn tại và phát triển của tất cả các hình
thức đơn lẻ của sự tồn tại của các hiện tượng vật chất và hiện tượng tinh thần
được thể hiện trong hình thức các khái niệm và các học thuyết. Cái chung, đó là
cái riêng trong nhiều cái. Là qui luật, cái chung thể hiện trong cái riêng và thông
4


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

qua nhiều cái riêng. Bất kỳ một vật thể tồn tại khách quan nào và khái niệm phản
ánh nó đều nằm trong sự thống nhất của cái chung và cái đơn nhất.
Cái riêng là dấu hiệu của đối tượng, dấu hiệu đó nằm trong mối quan hệ
không giống với các dấu hiệu khác của tất cả các đối tượng khác cùng một loại
đối tượng đã được xác định. Khi thể hiện những đặc điểm và những tính chất
không lặp lại của đối tượng, cái riêng chỉ tồn tại trong cái đơn lẻ gắn trong mình
sự thống nhất biện chứng giữa cái riêng và cái chung.
Cái đơn nhất là một phạm trù triết học thể hiện cái chung trong cái riêng
và thể hiện cái riêng trong sự thống nhất của nó với cái chung.
Nguyên nhân-kết quả là một phạm trù triết học phản ánh một trong những
hình thức của mối liên hệ và mối liên hệ tác động qua lại chung của các hiện
tượng.
Nguyên nhân được hiểu là hiện tượng mà tác động của nó gây ra, qui
định, làm thay đổi, tạo nên hoặc là kéo theo mình những hiện tượng khác. Những

hiện tượng khác đó được gọi là kết quả.Sự tạo nên kết quả bởi nguyên nhân phụ
thuộc vào các điều kiện: Một nguyên nhân đó, trong những điều kiện khác nhau
gây ra những kết quả không giống nhau.
Sự khác nhau giữa nguyên nhân và điều kiện chỉ mang tính tương đối:
Mỗi một điều kiện trong một mối quan hệ xác định lại là nguyên nhân, còn mỗi
một nguyên nhân trong mối quan hệ tương ứng lại là kết quả.Nguyên nhân và kết
quả nằm trong sự thống nhất: Những nguyên nhân giống nhau trong những điều
kiện giống nhau gây ra những kết quả giống nhau.
Nguyên nhân và kết quả là những mặt riêng rẽ, là các khoảng khắc, là các
khâu của mối quan hệ tác đông qua lại tổng hợp: Chỉ khi cô lập bằng ý nghĩ các
hành động riêng rẽ của nó và khi trừu tượng khỏi ảnh hưởng ngược lại, dẫn đến
nguồn gốc ra đời, mới có thể nói về tác động một chiều của nguyên nhân lên kết
quả. Trong các quá trình thực tế, kết quả không thụ động, nó có thể tác động lên
nguyên nhân sinh ra mình.
Quan hệ nguyên nhân-kết quả thực hiện chức năng phương pháp luận
quan trọng, nó định hướng các nhà nghiên cứu lên sự vận động tiến lên của nhận
thức theo dây xích nguyên nhân-kết quả, nghĩa là từ các ngẫu nhiên tới cái tất
nhiên, từ cái đơn nhất tới cái riêng đến cái chung, từ hình thức tới nội dung, từ
hiện tượng tới bản chất.
Tất nhiên-ngẫu nhiên là phạm trù triết học tương quan, nó phản ánh những
hình thức liên hệ khác nhau trong thế giới khách quan và trong nhận thức của
con người về các hình thức liên hệ đó.
Tất nhiên phản ánh các mối liên hệ chung nhất, lặp đi lặp lại, ổn định, bên
trong của hiện thực, nó phản ánh hướng chính sự phát triển của hiện thực đó, là
sự vận động của nhận thức vào chiều sâu của đối tượng khi nhận thức được bản
chất và qui luật của đối tượng, là phương pháp chuyển hoá khả năng vào hiện
thực, trong đó, ở đối tượng cụ thể, chỉ có một khả năng được chuyển hoá thành
5



CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

hiện thực.Tất nhiên là cái gây ra sự điều chỉnh và các nguyên nhân thường xuyên
của quá trình, nó thể hiện sự ổn định, không biến đổi trong cấu trúc của thế giới
khách quan, là đặc trưng của tính một nghĩa (thường xuyên là tính tất nhiên).
Ngẫu nhiên phản ánh những mối liên hệ đơn lẻ, không ổn định, không tồn
tại, bên ngoài của hiện thực, là điểm khởi đầu của nhận thức đối tượng, là kết
quả sự giao nhau của các quá trình, các sự kiện có nguyên nhân độc lập, là
phương pháp chuyển hoá khả năng vào hiện thực, trong đó, ở đối tượng cụ thể,
trong những điều kiện cụ thể có một số khả năng khác nhau có khả năng chuyển
hoá vào hiện thực, nhưng chỉ có một khả năng trong số đó được thực hiện, là
hình thức biểu hiện của tất nhiên và những cái thêm vào nó.
Trong hiện thực khách quan, tất nhiên và ngẫu nhiên không tồn tại trong
các dạng độc lập "...ngẫu nhiên- đó chỉ là một cực của sự phụ thuộc qua lại, cực
khác của sự phụ thuộc qua lại đó được gọi là tất nhiên"
Nội dung-hình thức là một phạm trù triết học mà trong mối quan hệ qua lại
của chúng, nội dung, với tính cách là mặt xác định của cái nguyên vẹn, tạo ra sự
thống nhất của tất cả các thành phần cấu thành nên cái nguyên vẹn đó, của mọi
tính chất của nó, của các quá trình bên trong, của các mối liên hệ, của các mâu
thuẫn và của các xu hướng, còn hình thức là phương pháp tồn tại và thể hiện của
nội dung. C.Mác và Ph.Ăngghen đã phát triển quan niệm mà Ph.Hêghen đã bắt
đầu về sự khác nhau của nội dung với bản thể vật chất của vật thể ("vật chất"):
các ông cho rằng, nội dung không phải chính là bản thể, mà là tình trạng bên
trong của nó; là tổng số các quá trình, chúng là đặc trưng của sự tác động qua lại
giữa các hình dạng của các thành phần bản thể với nhau và với hoàn cảnh và qui
định sự tồn tại của chúng, với sự phát triển và sự thay thế của chúng. Trong
nghĩa này, chính nội dung thể hiện mình là quá trình. Cách hiểu duy vật biện
chứng về hình thức yêu cầu xem xét nó như cái đang phát triển, cần phải, theo
C.Mác, "... mô tả cái nguồn gốc, căn nguyên các hình thức khác nhau..." và cần
hiểu "quá trình hành động tạo lập hình thức trong các giai đoạn khác nhau của

quá trình đó" .
Khi làm sâu sắc hơn sự phân tích của C.Mác về tính đặc thù của sự phát
triển như là sự đấu tranh giữa nội dung với hình thức, mà các yếu tố thành phần
của cuộc đấu tranh đó là sự chuyển hoá qua lại của nội dung và hình thức và sự
"lấp đầy" hình thức cũ bằng nội dung mới, V.I.Lênin đã tạo ra vị trí quan trọng
về cái, rằng "... mọi sự khủng hoảng, thậm chí mọi bước ngoặt trong sự phát
triển, bắt buộc phải đi tới sự không phù hợp giữa hình thức cũ với nội dung
mới". Giải quyết mâu thuẫn giữa nội dung và hình thức có thể được thực hiện
theo nhiều cách khác nhau- từ việc loại bỏ hoàn toàn hình thức cũ, đã lỗi thời
cho phù hợp với nội dung mới, đến việc sử dụng các hình thức cũ, không chú ý
tới sự thay đổi đang tồn tại của nội dung. Nhưng trong trường hợp này thì chính
hình thức cũng không dừng lại ở trạng thái cũ, nội dung mới "... có thể và cần
phải thể hiện mình trong bất kỳ hình thức nào, trong hình thức cũ và hình thức
6


CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận : 6.280.688

mi, cú th v cn phi thay i hn,..., gúi mỡnh vo mi hỡnh thc, khụng
nhng trong cỏc hỡnh thc mi, m cũn trong cỏc hỡnh thc c".
Bn cht-hin tng l phm trự trit hc phn ỏnh nhng hỡnh thc
chung ca th gii khỏch quan, ca nhn thc v nú v phn ỏnh hot ng thc
tin ca con ngi.
Bn cht l ni dung bờn trong ca i tng, th hin s thng nht ca
tt c cỏc hỡnh thc muụn hỡnh, muụn v v mõu thun vi nhau trong s tn ti
ca nú.
Hin tng l s th hin th ny hoc s th hin th khỏc ca i tng,
l hỡnh thc bờn ngoi, trc tip th hin s tn ti ca i tng.
Ni dung bin chng ca mi quan h qua li ca bn cht vi hin tng
c ch ngha duy vt bin chng ch ra. Bn cht v hin tng l tớnh cht

khỏch quan tng hp ca th gii i tng. Trong quỏ trỡnh nhn thc, chỳng
th hin l cỏc nc thang nhn thc i tng. Bn cht v hin tng luụn l
mi liờn h gn bú, khụng tỏch ri: Hin tng gn trong mỡnh hỡnh thc th
hin ca bn cht, bn cht c m ra trong hin tng. Tuy vy, s thng nht
gia bn cht vi hin tng khụng cú ngha l chỳng ng nht, hp nht vi
nhau "...nu nh hỡnh thc ca s xut hin v bn cht ca cỏc s vt trc tip
ng nht vi nhau, thỡ mi khoa hc u tr nờn tha"
Hin tng phong phỳ hn bn cht, bi vỡ hin tng gn trong mỡnh
khụng ch s th hin ca ni dung bờn trong, ca cỏc mi liờn h tn ti ca i
tng, m cũn gn trong mỡnh tt c cỏc mi quan h ngu nhiờn, c bit l cỏc
c im ca cỏc mi quan h ngu nhiờn ú. Hiờn tng nng ng, bin i,
trong khi bn cht l cỏi gỡ ú c lu li trong mi s thay i. Nhng, l cỏi
n nh hn trong quan h so vi hin tng, bn cht cng thay i "...khụng
ch hin tng chuyn hoỏ, xờ dch, lu chuyn m bn cht ca vt th cng
vy"
Kh nng-hin thc l phm trự trit hc tng quan, c trng cho hai
mc trong s hỡnh thnh v phỏt trin ca s vt, hin tng.
Kh nng l xu hng khỏch quan ca s hỡnh thnh i tng, c th
hin trong s hin din ca cỏc iu kin cho s xut hin ca i tng.
Hin thc l i tng ang tn ti khỏch quan, l kt qu ca vic hin
thc hoỏ ca mt s kh nng. Trong ngha rng, hin thc l tng s tt c
nhng kh nng ó c hin thc hoỏ.
c. í nghĩa phơng pháp luận của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.
Mỗi sự vật, hiện tợng đều có nhiều mối liên hệ, tác động qua lại với nhau
chứ không tách rời, cô lập nhau. Do vậy, khi xem xét sự vật, hiện tợng cụ thể
chúng ta phải có quan điểm toàn diện. Quan điểm toàn diện là một trong những
nguyên tắc quan trọng nhất của phơng pháp biện chứng Mác-Lênin. Quan điểm
toàn diện yêu cầu chúng ta phải nghiên cứu tất cả các mối liên hệ, mọi sự tác
động qua lại của sự vật, hiện tợng đang nghiên cứu với các sự vật, hiện tợng khác.
7



CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận : 6.280.688

Phải nghiên cứu các mối liên hệ của các mặt, các yếu tố cấu thành sự vật, hiện t ợng đó. Phải đặt sự vật, hiện tợng đang nghiên cứu vào trong không gian và thời
gian nhất định, nghĩa là phải nghiên cứu quá trình vận động của sự vật, hiện tợng
trong quá khứ, hiện tại và phán đoán cả tơng lai của nó.
1.2.2 Nguyên lý về sự phát triển.
Trong phép biện chứng duy vật, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến gắn liền
với nguyên lý về sự phát triển. Hai nguyên lý này thống nhất hữu cơ với nhau, bởi
vì, liên hệ cũng tức là vận động, không có vận động sẽ không có một sự phát
triển nào.
a. Khái niệm về sự phát triển
Phát triển là sự vận động đi lên, cái mới thay thế cái cũ. Tuỳ theo các lĩnh
vực khác nhau mà sự phát triển thể hiện ra khác nhau. Đặc điểm của sự phát triển
là sự phát triển có tính tiến lên, có tính kế thừa giữa cái cũ và cái mới, có sự dờng
nh lặp lại cái cũ nhng trên cơ sở cao hơn. iờu ny vạch ra nguồn gốc bên trong
của sự vận động và phát triển, đó là sự đấu tranh giữa các mặt đối lập bên trong
sự vật, hiện tợng.
b. Các qui luật cơ bản của sự phát triển.
Các qui luật chung nhất của chủ nghĩa duy vật biện chứng là Qui luật
chuyển hoá từ những thay đổi về lợng dẫn đến những thay đổi về chất (của các sự
vật, hiện tợng) và ngợc lại- gọi tắt là qui luật lợng đổi, chất đổi; Qui luật thống
nhất và đấu tranh giữa các măt đối lập (trong một sự vật, hiện tợng toàn vẹn)- qui
luật mâu thuẫn và Qui luật phủ định của phủ định (của các sự vật, hiện tợng)- qui
luật phủ định. Các qui luật này thể hiện là các hình thức chung của sự vận động
và phát triển của thế giới vật chất và của nhận thức của con ngời về thế giới đó,
đồng thời, các qui luật này cũng tạo ra cơ sở cho phơng pháp chung của nhận
thức biện chứng.
Qui luật mâu thuẫn nói lên nguồn gốc, động lực bên trong của sự vận

động và phát triển: sự phát triển của thế giới vật chất và của nhận thức đợc thực
hiện bằng con đờng chia đôi thể thống nhất thành các yếu tố đối lập, cùng triệt
tiêu nhau, thành các mặt, các xu hớng; thành mối liên hệ qua lại của chúng;
thành sự "đấu tranh" và giải quyết những mâu thuẫn- về một mặt, có đặc tính
chung của hệ thống này hay của hệ thống khác nh là của thể thống nhất nào đó
có chất xác định. Còn về mặt kia, tạo nên sự kích thích bên trong cho sự thay đổi
của thể thống nhất đó, tạo nên sự kích thích bên trong của sự phát triển, của sự
chuyển hoá của nó vào chất mới.
Nắm vững đợc nội dung của qui luật này là cơ sở để nhận thức tất cả các
phạm trù và qui luật khác của phép biện chứng duy vật. Nội dung qui luật này
còn giúp chúng ta hình thành phơng pháp, hình thành t duy khoa học, biết khám
phá ra bản chất của các sự vật và giải quyết các mâu thuẫn nảy sinh, thúc đẩy sự
vật, hiện tợng phát triển.
Qui luật lợng đổi-chất đổi (và ngợc lại) nói lên cách thức của sự vận động
và phát triển khi cho rằng, mọi sự thay đổi về chất chỉ xẩy ra khi sự vật, hiện tợng
8


CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận : 6.280.688

đã tích luỹ đợc những thay đổi về lợng đã đạt đến giới hạn- đến độ. Qui luật này
chỉ ra cơ chế chung nhất của sự phát triển: Những thay đổi về chất của sự vật,
hiện tợng chỉ xẩy ra khi đã tích luỹ đợc những thay đổi về lợng đến giới hạn xác
định, tức là đến độ, xẩy ra bớc nhảy, có nghĩa là diễn ra sự thay thế một chất này
bằng một chất khác.
Qui luật phủ định chỉ ra sự định hớng cho sự phát triển; nói lên khuynh
hớng tiến lên của sự phát triển của các sự vật, hiện tợng. Nội dung chính của qui
luật này đợc thể hiện trong sự thống nhất giữa các tính chất tiến lên, tiến bộ với
sự kế thừa trong sự phát triển: trong sự xuất hiện của cái mới, có lặp lại một cách
tơng đối một số đặc tính, thành phần của cái cũ và kết qủa là trong cái mới tồn tại

một số đặc tính, thành phần của cái cũ.
Trong phép biện chứng duy vật, nếu nh qui luật mâu thuẫn chỉ ra nguyên
nhân của sự phát triển, qui luật lợng đổi chất đổi là cách thức của sự phát triển thì
qui luật phủ định của phủ định chỉ ra phơng hớng, hình thức và kết quả của sự
phát triển đó.
c. ý nghĩa phơng pháp luận của nguyên lý về sự phát triển.
Nguyên lý về sự phát triển giúp chúng ta nhận thức đợc rằng, muốn thực sự
nắm đợc bản chất của sự vật, hiện tợng, nắm đợc khuynh hớng phát triển của
chúng thì phải có quan điểm phát triển, khắc phục t tởng bảo thủ, trì trệ.
Quan điểm phát triển yêu cầu chúng ta, khi phân tích một sự vật, hiện tợng
phải đặt nó trong sự vận động, phải phát hiện đợc các xu hớng biến đổi, chuyển
hoá của chúng. V.I.Lênin cho rằng: "Lôgíc biện chứng đòi hỏi phải xét sự vật
trong sự phát triển, trong sự "tự vận động"..." trong sự biến đổi của nó".
2. Cỏc quy nh v cụng tỏc kim tra ca ng.
2.1 Cỏc quy nh chung v cụng tỏc kim tra ng.
iu l ng Cng sn Vit Nam khoỏ IX cú quy nh ti Chng VII v
Cụng tỏc kim tra ca ng v u ban kim tra cỏc cp, c th c quy nh rừ
ti iu 30 v iu 32.
iu 30 quy nh:
1. Kim tra l mt trong nhng chc nng lónh o ca ng. T chc
ng phi tin hnh cụng tỏc kim tra. T chc ng v ng viờn chu s kim
tra ca ng.
2. Cỏc cp u ng lónh o cụng tỏc kim tra v t chc thc hin nhim
v kim tra t chc ng v ng viờn chp hnh Cng lnh chớnh tr, iu l
ng, ngh quyt, ch th ca ng.
iu 32 quy nh:
U ban kim tra cỏc cp cú nhim v:
1. Kim tra ng viờn, k c cp u viờn cựng cp khi cú du hiu vi phm
tiờu chun ng viờn, tiờu chun cp u viờn v trong vic thc hin nhim v
ng viờn.

2. Kim tra t chc ng cp di khi cú du hiu vi phm trong vic
chp hnh Cng lnh chớnh tr, iu l ng, ngh quyt, ch th ca ng, cỏc
9


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

nguyên tắc tổ chức của Đảng; kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra và thi
hành kỷ luật trong Đảng.
3. Xem xét, kết luận những trường hợp vi phạm kỷ luật, quyết định hoặc
đề nghị cấp uỷ thi hành kỷ luật.
4. Giải quyết tố cáo đối với tổ chức đảng và đảng viên; giải quyết khiếu
nại về kỷ luật Đảng.
5. Kiểm tra tài chính của cấp uỷ cấp dưới và của cơ quan tài chính cùng
cấp.”.
Điều lệ Đảng là bộ luật cao nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam, mọi quy
định trong Điều lệ là sự tập chung ý trí và trí tuệ của toàn Đảng. Đảng được tổ
chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, do vậy mọi hoạt động của
đảng viên và các tổ chức đảng cơ sở phải tuyệt đối tuân thủ theo các quy định tại
Điều lệ Đảng. Điều lệ đã xác định kiểm tra là một trong những chức năng lãnh
đạo chủ yếu của Đảng, không có kiểm tra thì coi không có lãnh đạo: Đảng lãnh
đạo bằng chủ trương, đường lối và được cụ thể hoá bằng các nghị quyết, chỉ thị
của Đảng, được thể chế hoá bằng chính sách, pháp luật của nhà nước; Các chủ
trương, đường lối của Đảng đều bắt nguồn từ thực tiễn cuộc sống và dựa trên các
quy luật vận động khách quan; Mỗi chủ trương, đường lối của Đảng được ban
hành, sau một quá trình tổ chức thực hiện sẽ được phát triển, hoàn thiện ở một
mức độ cao hơn, điều này đòi hỏi cần phải có công tác kiểm tra và tổng kết thực
tiễn.
Quy định này đã xác định rõ Công tác kiểm tra là của toàn Đảng. Các tổ
chức Đảng vừa phải tiến hành công tác kiểm tra, vừa chịu sự kiểm tra của tổ

chức Đảng cấp trên, công tác kiểm tra là mang tính toàn diện: kiểm tra cả các
đảng viên và tổ chức đảng, ở các cấp từ trung ương đến địa phương, mang tính
thường xuyên, liên tục: đảm bảo trong mỗi nhiệm kỳ, mỗi đảng viên và tổ chức
đảng phải được tiến hành kiểm tra một lần…Công tác kiểm tra được thực hiện
bởi cấp uỷ các cấp và uỷ ban kiểm tra các cấp, cấp uỷ lãnh đạo và trực tiếp thực
hiện nhiệm vụ kiểm tra theo quy định, uỷ ban kiểm tra các cấp thực hiện nhiệm
vụ kiểm tra theo quy định đồng thời có nhiệm vụ tham mưu cho cấp uỷ cùng cấp
thực hiện nhiệm vụ công tác kiểm tra.
2.2 Ý nghĩa, tác dụng và yêu cầu, nhiệm vụ của công tác kiểm tra.
2.2.1 Ý nghĩa tác dụng.
Kiểm tra là một tất yếu khách quan, là một biểu hiện nghiêm túc của hoạt
động ý thức của một tổ chức và con người trong xã hội: Hoạt động có tổ chức và
con người trong xã hội là hoạt động có ý thức. Điều này đã được Mác minh hoạ
bằng sự so sánh về sự khác biệt giữa nhà kiến trúc tồi nhất (hoạt động có ý thức)
và con ong giỏi nhất (hoạt động theo bản năng) là "nhà kiến trúc trước khi xây
dựng từng ngăn trong tổ ong thì đã xây dựng từng ngăn đó trong óc mình rồi".
Nhận thức bao giờ cũng là một quá trình. Tổ chức dù vững mạnh, con
người dù có tài năng, có khoa học và công nghệ phát triển cao, cũng không thể
10


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

một lúc hiểu biết được mọi vấn đề, mọi sự vật, hiện tượng một cách đầy đủ,
chuẩn xác. Vì vậy muốn đạt được kết quả trong thực tiễn, phải xem xét tình hình
thực tế để nhận xét, đánh giá, nghĩa là phải kiểm tra; phải kiểm tra toàn bộ từ ý
định, chủ trương, kế hoạch đến hoạt động thực tiễn và kết quả đã đạt được để
giúp cho tổ chức và con người đánh giá ưu điểm, khuyết điểm của ý định, chủ
trương, kế hoạch, hành động; kịp thời rút kinh nghiệm, bổ sung, sửa đổi những
thiếu sót, chưa đồng bộ, chưa phù hợp hoặc sai lầm, lệch lạc; bảo đảm ý định,

chủ trương, kế hoạch, hành động được đúng đắn, chuẩn xác hơn, chất lượng,
hiệu quả đạt được tốt đẹp hơn. Do đó, hoạt động có ý thức là hoạt động có kiểm
tra; ý thức càng cao, tổ chức càng quan trọng, con người ở cương vị càng cao và
cán bộ chủ chốt các cấp, nhiệm vụ càng khó khăn, phức tạp, thì càng đồi hỏi phải
coi trọng và tiến hành tốt công tác kiểm tra.
Kiểm tra là một trong những chức năng lãnh đạo của Đảng, một bộ phận
quan trọng trong toàn bộ công tác xây dựng Đảng. Kiểm tra là một nhiệm vụ trực
tiếp, thường xuyên của toàn Đảng.
2.2.2 Yêu cầu, nhiệm vụ công tác kiểm tra.
Công tác kiểm tra của Đảng phải xuất phát từ nhiệm vụ chính trị và công
tác xây dựng Đảng và nhằm thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ và công tác ấy.
Điều ấy đòi hỏi các tổ chức Đảng phải nắm vững những nội dung, yêu cầu chủ
yếu của nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng của Đảng bộ trong từng
thời kỳ, nắm vững Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết, chỉ thị
của Đảng, nghị quyết của Đại hội Đảng bộ và cấp uỷ cấp mình, tình thình thực
hiện nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng của Đảng bộ để lãnh đạo
công tác kiển tra và tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra một cách có hiệu quả.
Phải nắm vững và thực hiện tốt tư tưởng chỉ đạo công tác kiểm tra của
Đảng. Tư tưởng chỉ đạo công tác kiểm tra của Đảng được đúc kết từ thực tiễn
công tác kiểm tra và công tác xây dựng Đảng trong những năm qua là: "Chủ
động, chiến đấu, giáo dục, hiệu quả". Các nội dung này có quan hệ mật thiết với
nhau, tác động qua lại lẫn nhau và được thể hiện cụ thể trên những vấn đề chủ
yếu sau đây:
Tính chủ động: Công tác kiểm tra phải được tiến hành một cách thường
xuyên, có nề nếp, không thụ động chờ vụ việc xảy ra rồi mới xem xét, giải quyết;
phải thường xuyên nắm vững tình hình hoạt động của tổ chức đảng cấp dưới và
đảng viên, luôn coi trọng sự chủ động tự kiểm tra của các tổ chức Đảng và đảng
viên, đồng thời phải kịp thời biểu dương, cổ vũ mặt tích cực, tiến bộ; ngăn ngừa,
khắc phục mặt tiêu cực, lạc hậu nhằm chủ động ngăn chặn và hạn chế đến mức
thâp nhất các khuyết điểm.

Tính chiến đấu: Thể hiện ở tinh thần đấu tranh làm rõ đúng, sai, ưu điểm,
khuyết điểm trong quá trình kiểm tra; nếu có vi phạm thò cần đấu tranh làm rõ:
Nội dung, tính chất, mức độ, tác hại, nguyên nhân của vi phạm để bảo vệ cái
đúng, cái tốt; khắc phục cái sai, cái xấu. Đây là cuộc đấu tranh tự phê bình và
11


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

phê bình trung tực, thẳng thắn; nhiều khi rất quyết liệt giữa cái cái đúng, mặt tích
cực với cái sai, mặt tiêu cực trong bản thân đối tượng được kiểm tra; giữa chủ
thể kiểm tra với đối tượng được kiểm tra; giữa đảng viên với đảng viên; giữa
đảng viên với tổ chức đảng; giưũa tổ chức đảng có thaamr quyền thi hành ký luật
với đối tượng bị thi hành kỷ luật và ngay cả đối với chính bản thân cán bộ và tổ
chức Đảng tiến hành kiểm tra. Không có tính chiến đấu cao, bản lĩnh vững vàng,
phương pháp thích hợp, hoặc bị khuất phục bởi uy quyền, vật chất, bị chi phối
bởi chủ nghĩa cá nhân thì không kết luận được đúng, sai, vi phạm (nếu có) khi
tiến hành kiểm tra.
Tính giáo dục: thể hiện ở mục đích của nó là "thúc đẩy và giáo dục đảng
viên và cán bộ làm tròn nhiệm vụ đối với Đảng, với nhà nước, làm gương tốt cho
nhân dân", chứ không phải để vạch lá tìm sâu, để trừng trị. Về phương pháp
kiểm tra là phát huy tinh thần tự giác của tổ chức Đảng và đảng viên trong quá
trình kiểm tra nhằm thấy được ưu điểm để phát triển, kịp thời phát hiện khuyết
điểm để có biện pháp sửa chữa, khắc phục; đồng thời, qua kiểm tra phải rút ra
được những bài học kinh nghiệm về lãnh đạo, chỉ đạo, về tổ chức thực hiện
nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng để bồi dưỡng nâng cao sức chiến
đấu và năng lực lãnh đạo của tổ chức Đảng và đảng viên
Tính hiệu quả: thể hiện là sau khi kết thúc cuộc kiểm tra thì đối tượng
được kiểm tra thấy được ưu điểm, khuyết điểm, vi phạm (nếu có) để phấn đấu
tiến bộ; tổ chức Đảng nơi có đối tượng được kiểm tra và tổ chức đảng tiến hành

kiểm tra thấy được ưu điểm, khuyết điểm và rút ra được những kinh nghiệm về
lãnh đạo, chỉ đạo, về giáo dục, quản lýtổ chức Đảng và đảng viên; về lãnh đạo
công tác kiểm tra và thực hiện nhiệm vụ kiểm tra để xây dựng chi, Đảng bộ
trong sạch, vững mạnh, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của địa phương,
đơn vị mình.
Để làm tốt công tác kiểm tra Đảng, cũng yêu cầu phải kết hợp chặt chẽ
công tác kiểm tra của Đảng với công rác thanh tra của Nhà nước, thanh tra nhân
dân, công tác kiểm tra của các đoàn thể chính trị - xã hội, nghề nghiệp và phối
hợp với các ban, ngành có liên quan.
2.3 Nhưng quy định về việc thi hành kỷ luật trong Đảng.
2.3.1 Tính chất kỷ luật của Đảng.
Bắt nguồn từ bản chất giai cấp của mình, nên kỷ luật của Đảng ta là "kỷ
luật sắt, nghĩa là nghiêm túc và tự giác".
Nghiêm túc là mọi tổ chức Đảng và đảng viên đều phải phục tùng kỷ luật
của Đảng, phải chấp hành các nguyên tắc tổ chức của Đảng, đặc biệt là nguyên
tắc tập trung dân chủ. Toàn Đảng phải triệu người như một. Đảng yêu cầu mọi tổ
chức Đảng và đảng viên phải chấp hành kỷ luật của Đảng vô điều kiện, Đảng
không giảm bớt yêu cầu đối với bất kỳ ai, không ai được coi là ngoại lệ.

12


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

Tự giác là đặc trưng cơ bản của kỷ luật Đảng. Vì Đảng ta bao gồm những
người thừa nhận và tự nguyện phấn đấu thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ
Đảng..
Tính nghiêm túc và tự giác của kỷ luật Đảng là sự thống nhất biệc chứng
giữa tập trung và dân chủ, bắt buộc và tự giác. Nghiêm túc phải trên cơ sở tự
giác, tự giác càng cao thì kỷ luật càng nghiêm túc.

2.3.2 Ý nghĩa tác dụng của kỷ luật.
Tăng cường kỷ luật của Đảng là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của
mọi tổ chức Đảng và đảng viên để nâng cao tính Đảng, tính giai cấp, giữu vững
kỷ cương của Đảng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ lãnh đạo và xây dựng Đảng.
Tăng cường kỷ luật là thường xuyên giáo dục, nâng cao giác ngộ chính trị, giác
ngộ giai cấp, ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần trách nhiệm cho các tổ chức Đảng
và đảng viên để nghiêm túc và tự giác chấp hành kỷ luật của Đảng. Nhưng nếu
tổ chức Đảng và đảng viên vi phạm đến mức phải thi hành kỷ luật thì cần được
xử lý một cách nghiêm túc để giữ vững sự thống nhất ý chí và hành động, tăng
cường sức chiến đấu của Đảng, giáo dục tổ chức Đảng và đảng viên.
2.3.3 Phương châm thi hành kỷ luật trong Đảng.
Công minh là mọi đảng viên đều bình đẳng trước kỷ luật Đảng, nếu vi
phạm đến mức phải thi hành kỷ luật thì đều phải được xử lý, không ai ngoại lệ,
không phân biệt chức vụ cao hay thấp, tuổi Đảng nhiều hay ít. Công minh còn có
nghĩa là việc xử lý đảng viên vi phạm phải đồng bộ.
Chính xác là việc thi hành kỷ luật phải đúng người vi phạm; đúng nội
dung, tính chất, mức độ, tác hại, nguyên nhân của vi phạm và phải được xem xét
trong điều kiện, hoàn cảnh cụ thể khi xảy ra vi phạm.
Kịp thời là việc xem xét, thi hành kỷ luật phải khẩn trương, đúng lúc,
không để chậm trễ, kéo dài gây thêm khó khăn cho việc thẩm tra, xác minh, kết
luận, xử lý; làm giảm tác dụng giáo dục. Kịp thời còn có nghĩa là sau khi tổ chức
Đảng có thẩm quyền quyết định kỷ luật thì phải công bố ngay quyết định ấy cho
tổ chức Đảng và đảng viên vi phạm, không được trì hoãn vì bất cứ lý do gì.
3. Thực hiện công tác kiểm tra tại Đảng bộ Các cơ quan tỉnh Bắc Giang.
3.1 Đặc điểm của Đảng bộ Các cơ quan tỉnh Bắc Giang.
Đảng bộ Các cơ quan tỉnh Bắc Giang là đảng bộ bao gồm các chi, đảng bộ
khối các cơ quan cấp tỉnh, các doanh nghiệp thuộc quản lý của tỉnh, gồm 62 chi
đảng bộ cơ sở trong đó có 20 đảng bộ và 42 chi bộ cơ sở với 1190 đảng viên là
cán bộ, công nhân viên các cơ quan hành chính sự nghiệp, các tổ chức chính trị,
tổ chức chính trị xã hội cấp tỉnh, các doanh nghiệp nhà nước cấp tỉnh và doanh

nghiệp nhà nước của tỉnh.
Đảng bộ Các cơ quan tỉnh có đặc thù là tổ chức Đảng không có chính
quyền đồng cấp, chỉ đơn thuần lãnh đạo quản lý các chi, đảng bộ trên lĩnh vực
công tác đảng. Các cơ sở đảng của đảng bộ là các ban ngành của tỉnh, các đảng
13


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

viên của đảng bộ bao gồm cả những đồng chí cán bộ chủ chôt của Tỉnh, các
đồng chí trưởng các ban, đoàn thể của Tỉnh. Đội ngũ cán bộ làm công tác Đảng
tại các chi, đảng bộ chủ yếu là kiêm nghiệm, nhiệm vụ chính là thực hiện nhiệm
vụ chính của ban ngành mình.
Với đặc điểm như vậy, công tác xây dựng đảng trong đảng bộ nói chung
và công tác kiểm tra đảng trong đảng bộ nói riêng đặt ra yêu cầu rất cao. Phải
xây dựng đảng bộ trong sạch và vững mạnh toàn diện, củng cố vững chắc tổ
chức cơ sở đảng mới đảm bảo hoàn thành tốt những nhiệm vụ chính trị của các
ban, ngành đoàn thể trong tỉnh. Công tác kiểm tra đảng phải đảm bảo hoạt động
tốt, phát huy được hiệu quả, mục đích yêu cầu của công tác kiểm ta theo quy
định của Trung ương. Điều ấy đòi hỏi cán bộ làm công tác kiểm tra trong đảng
bộ phải có lập trường tư tưởn vững vàng, kiên định và có phương pháp luận
trong công tác, giải quyết công việc khoa học, đúng đắn. Không gì hơn là phải
thường xuyên và tăng cường học tập nghiên cứu và tiếp thu các phương pháp
luận khoa học của chủ nghĩa Mác, để xây dựng cho mình một thế giới quan đúng
đắn khi xem xét vấn đề, một phương pháp luận khoa học trong giải quyết vấn đề
theo yêu cầu của nhiệm vụ công tác. Học tập, nghiên cứu triết học Mác-Lênin là
một đòi hỏi quan trọng, cùng với nắm vững những quy định của Đảng về công
tác kiểm tra góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ công tác kiểm tra tại Đảng bộ Các
cơ quan tỉnh trong điều kiện hiện nay.
3.2 Thực hiện công tác kiểm tra tại Đảng bộ các cơ quan tỉnh Bắc Giang.

Nắm vững các quy định của Đảng về công tác kiểm tra, sử dụng thế giới
quan duy vật và phương pháp luận biện chứng của Triết học Mác-Lênin vào quá
trình thực hiện công tác kiểm tra tại Đảng bộ trong thời gian qua đã thu được các
kết quả hết sức đảng khích lệ.
Về công tác kiểm tra của Cấp uỷ theo quy định tại Điều 30, Điều lệ Đảng:
Ban Thường vụ Đảng uỷ đã chủ động xây dựng kế hoạch kiểm tra, đôn đốc cơ sở
xây dựng và triển khai kế hoạch kiểm tra đáp ứng được các yêu cầu, quy đinh về
thời gian, chất lượng. Thường xuyên kiểm tra đôn đốc các chi đảng bộ tiến hành
công tác kiểm tra, kịp thời sơ kết, tổng kết, đánh giá tình hình, phân tích và chỉ
rõ những ưu khuyết điểm của cơ sở, nêu rõ nguyên nhân. Tổ chức hội thảo,
nghiên cứu chuyên đề, đề tài để tìm ra các giải pháp không ngừng nâng cao chất
lượng công tác kiểm tra trong đảng bộ. Kịp thời tổng kết thực tiễn, đánh giá thực
tiễn và rút ra các bài học kinh nghiệm. Kết hợp tổ chức kiểm tra thường xuyên
và kiểm tra theo chuyên đề, kiểm tra đột xuất, xây dựng kế hoạch kiểm tra một
cách toàn diện đồng thời cũng căn cứ vào điều kiện đặc điểm riêng của từng đơn
vị để vạch ra các nội dung cần đi sâu kiểm tra…
Công tác kiểm tra của Ban Thường vụ Đảng uỷ đã đảm bảo thực hiện
đúng theo các quy định của Trung ương và trên quan điểm toàn diện, đồng thời
xem xét, kiểm tra, đánh giá cơ sở trên quan điểm biện chứng đó là xem xét trong
su thế vận động phát triển đi lên, trong mối quan hệ đa dạng và ràng buộc lẫn
14


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

nhau giữa các đơn vị, giữa các yêu cầu nhiệm vụ của đơn vị…để có được cái
nhìn toàn diện, khách quan, đánh giá được đúng, trung thực về các tổ chức cơ sở
đảng trong Đảng bộ.
Nắm vững nguyên lý thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, giữa nhận thức
và thực tiễn, Ban Thường vụ Đảng uỷ cũng luôn coi trọng công tác tổng kết thực

tiễn, đúc rút kinh nghiệm, từ đó kịp thời có những điều chỉnh cho phù hợp với
tình hình thực tiễn của công tác, tham mưu cho Tỉnh uỷ, Trung ương sửa đôi các
quy định cho phù hợp với những tình hình thực tế tại địa phương, cơ sở.
Về công tác kiểm tra của Uỷ ban Kiểm tra Đảng ủy: Uỷ ban Kiểm tra
Đảng uỷ có nhiệm vụ kiểm tra tổ chức Đảng và đảng viên khi có dấu hiệu vi
phạm, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra của Uỷ ban kiểm tra cấp dưới,
giải quyết đơn thư tố cáo tổ chức Đảng và đảng viên, giải quyết khiếu nại kỷ luật
đảng, kiểm tra tài chính đảng của cấp uỷ uỷ cấp dưới và tài chính đảng cùng cấp;
bên cạnh đó Uỷ ban kiểm tra Đảng uỷ còn có nhiệm vụ quan trọng là tham mưu
giúp Ban Thường vụ Đảng uỷ thực hiện và lãnh đạo công tác kiểm tra trong toàn
Đảng bộ.
Quán triệt quan điểm toàn diện trong xem xét, đánh giá và giải quyết vụ
việc, Uỷ ban kiểm tra Đảng uỷ đã hoàn thành tốt nhiệm vụ kiểm tra tổ chức
Đảng và đảng viên có dấu hiệu vi phạm. Thường xuyên bám sát cơ sở, nắm bắt
tình hình của cơ sở, kịp thời phát hiện các dấu hiệu vi phạm và tiến hành kiểm
tra, không để những vi phạm trở thành khuyết điểm lớn, chỉ rõ ưu, khuyết điểm
của những cá nhân tập thể vi phạm, kịp thời chấn chỉnh, giúp các cá nhân, tập thể
có vi phạm nhận ra khuyết điểm của mình và có biện pháp sửa chữa, khắc phục
để tíên bộ. Cụ thể trong thời gian qua, Uỷ ban kiểm tra Đảng uỷ đã tiến hành
kiểm tra 2 chi bộ cơ sở có dấu hiệu vi phạm, yêu cầu đơn vị có vi phạm làm
kiểm điểm về những sai phạm, nhận rõ được ưu khuyết điểm và hướng khắc
phục, sau khi được kiểm tra các tổ chức Đảng đã chấn chỉnh tổ chức và sinh
hoạt, kết quả là trong những năm tiếp theo 2 cơ sở trên đã được Ban Thường vụ
Đảng uỷ đánh giá là đơn vị trong sạch, vững mạnh; Uỷ ban kiểm tra Đảng uỷ
cũng đã tiến hành kiểm tra 4 đảng viên có dấu hiệu vi phạm, sau khi chỉ rõ ưu,
khuyết điểm và hướng khắc phục, biện pháp khắc phục khuyết điểm, cả 4 cán bộ
đảng viên trên đếu đã phát huy tốt tác dụng và sau một thời gian đã được đề bạt
lên các vị trí cao hơn. Điều ấy chứng tỏ công tác kiểm tra do Uỷ ban Kiểm tra
Đảng uỷ tiến hành đã phát huy tác dụng, khẳng định được ý nghĩa và tác dụng
của công tác kiểm tra. Việc đánh giá ưu khuyết điểm của tổ chức Đảng và đảng

viên có dấu hiệu vi phạm đã được xem xét trên cơ sở quan điểm toàn diện, nghĩa
là những vi phạm, khuyết điểm đã được đặt trong các mối quan hệ, các mối
tương quan, trong su thế vận động phát triên của các hiện tượng để xem xét.
Nắm vững các quy định và sự chỉ đạo của Trung ương ương về công tác
kiểm tra Đảng, Uỷ ban Kiểm tra Đảng uỷ đã tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra
đảng viên và tổ chức Đảng có dấu hiệu vi phạm đạt được mục đích, yêu cầu, chỉ
15


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

đạo Uỷ ban kiểm tra cơ sở thực hiện tốt công tác kiểm tra, do vậy trong những
năm qua, không có trường hợp nào khiếu nại về kỷ luật Đảng.
Thực hiện nhiệm vụ tham mưu giúp Ban Thường vụ Đảng uỷ tổ chức và
lãnh đạo công tác kiểm tra trong Đảng bộ, Uỷ ban kiểm tra Đảng uỷ đã giúp cấp
uỷ xây dựng kế hoạch kiểm tra một cách toàn diện, kịp thời và sâu sát với tình
hình thực tiễn của cơ sở. Đã tham mưu giúp Ban Thường vụ tổ chức các cuộc
kiểm tra đạt kết quả và hiệu quả tốt, chỉ đạo cơ sở thường xuyên thực hiện công
tác kiểm tra trên quan điểm toàn diện và những quy định của Trung ương về
công tác kiểm tra Đảng.
Nắm vững các quy định của Đảng về công tác kiểm tra, đồng thời xây
dựng được một bản lĩnh vững vàng, một thế giới đúng đắn, và một phương pháp
luận khoa học để xem xét đánh giá và kết luận một vấn đề là điều kiện chắc
chắm đảm bảo cho việc thực hiện tốt công tác kiểm tra đảng trong các điều kiện
đặc thù, có nhiều khó klhăn của Đảng bộ Các cơ quan tỉnh Bắc Giang trong thời
gian qua.
Phát huy các kết quả đã đạt được trong những năm qua, Ban Thường vụ
Đảng uỷ chủ trương tiếp tục lãnh đạo và chỉ đạo công tác kiểm tra của Đảng bộ
trong thời gian tới trên cơ sở quán triệt chặt chẽ các quy định của Trung ương về
công tác kiểm tra Đảng với phương pháp luận biện chứng duy vật của triết học

Mác-Lênin trong xem xét đánh giá và giải quyết từng vụ việc cũng như trong
thực hiện công tác kiểm tra thường xuyên. Thường xuyên tổng kết thực tiễn, đúc
rút kinh nghiệm và đưa ra bài học để thực hiện tôt hơn, kết hợp chặt chẽ giữa lý
luận và thực tiễn đó là biện pháp để ngày càng phát huy thành tích công tác kiểm
tra tại Đảng bộ.

16


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

Kết luận
Mặc dù gặp nhiều khó khăn do có các đặc điểm mang tính đặc thù riêng,
nhưng trong những năm vừa qua, công tác kiểm tra Đảng tại Đảng bộ Các cơ
quan tỉnh Bắc Giang đã đạt được các kết quả tốt. Có được kết quả đó là nhờ Ban
Thường vụ Đảng uỷ đã nắm vững các quy định của Đảng về công tác kiểm tra,
đồng thời xây dựng cho mình một phương pháp luận đúng đắn là luôn quán triệt
chặt chẽ phép biện chứng duy vật của triết học Mác-Lênin.
Sau khi được học tập nghiên cứu môn Triết học Mác-Lênin trong chương
trình đào tạo sau đại học tại trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội, với những
kiến thức được trang bị, em đã mạnh dạn sử dụng để nghiên cứu về thực tiễn sử
dụng phép biện chứng duy vật trong công tác chuyên môn tại đơn vị công tác,
công tác kiểm tra tại Đảng bộ Các cơ quan tỉnh Bắc Giang.
Trong phạm vi một bài tiểu luận, đề tài đã nêu lên các vấn đề có tính lý
luận cơ bản nhất của phép biện chứng duy vật, các quy định về công tác kiểm tra
Đảng và phân tích tình hình thực hiện công tác kiểm tra Đảng tại Đảng bộ Các
cơ quan tỉnh Bắc Giang trong những năm vừa qua. Đề tài được thực hiện đã đạt
được các yêu cầu đề ra, đó là có cái nhìn thích đáng về việc sử dụng phép biện
chứng duy vật trong công tác kiểm tra Đảng tại Đảng bộ Các cơ quan tỉnh Bắc
Giang, kết hợp được các kiến thức đã học vào xem xét đánh giá thực tiễn công

việc và đã rút ra được các phương hướng cho công tác trong thời gian tới.
Sau khi nghiên cứu đề tài, vấn đề được rút ra là: Nắm vững các quy định
của Đảng về công tác kiểm tra đồng thời quán triệt phép biện chứng duy vật là
điều kiện quan trọng để tiếp tục hoàn thành tốt công tác kiểm tra Đảng trong thời
gian tới tại Đảng bộ Các cơ quan tỉnh Bắc Giang./.

Danh mục tài liệu tham khảo
1. Quy định, hướng dẫn cụ thể thi hành Điều lệ Đảng, Tạp chí Xây dựng
Đảng, 2006.
2. Công tác kiểm tra và việc thi hành kỷ luật trong Đảng (tài liệu tập huấn
nghiệp vụ), Uỷ ban Kiểm tra Trung ương, 2006.
17


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

3. Hướng dẫn thực hiện các quy định về công tác kiểm tra và kỷ luật của
Đảng, Uỷ ban Kiểm tra Trung ương, 2005.
4. Tài liệu giảng dạy môn Triết học, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005.
5. Giáo trình triết học Mác-Lênin, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2006.
6. Tạp chí Xây dựng Đảng, năm 2006, 2007.
7. Tạp chí Kiểm tra, năm 2006, 2007.
8. Tạp chí Cộng sản, năm 2006, 2007.
9. Tạp chí Tư tưởng Văn hoá, năm 2006, 2007.
10. Báo cáo việc lãnh đạo, chỉ đạo công tác kiểm tra của Ban Thường vụ
Đảng uỷ Các cơ quan tỉnh Bắc Giang, năm 2004, 2005, 2006, 2007.

18




×