Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Tìm hiểu về Đặng Tiểu Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (244.85 KB, 25 trang )

I. TiÓu sö vÒ §Æng TiÓu B×nh
Đặng Tiểu Bình (tên khai sinh là Đặng Hỷ Tiên) sinh ngày 22/8/1904 là
con trai cả của một cảnh sát trưởng huyện. Ông sinh tại thôn Bài Phường, xã
Hiệp Hưng, huyện Quảng An, phía đông tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc, và là
con trai ông Đặng Thiệu Xương (tự Văn Minh) và bà Đàm Thị, vợ thứ hai.
Bà vợ đầu không có con, bà thứ hai (Đàm Thị) sinh được một gái đầu và 3
trai: Đặng Tiên Liệt, Đặng Tiểu Bình, Đặng Khẩn, Đặng Thục Bình. Bà thứ
ba sinh được một trai, bà thứ tư (Hạ Bá Căn) sinh được 2 trai, 3 gái. Mẹ đẻ
Đặng Tiểu Bình mất sớm, nên sau này ông đã mời kế mẫu Hạ Bá Căn từ quê
lên thủ đô sống chung cùng gia đình ông.
Sau khi vào học trung học tại huyện nhà, cha Đặng Tiểu Bình đã xin cho
Đặng Tiểu Bình theo học Trường dự bị cần công kiệm học Trùng Khánh để
chuẩn bị xuất dương sang Pháp. Ngày 7/9/1920, sau khi được Tổng lãnh sự
Pháp tại Trùng Khánh trực tiếp sát hạch, Hy Hiền cùng 79 bạn khác lên tàu
thủy đi Marseille. Ông đã học ở Pháp, giống như những nhà cách mạng có
tiếng khác của Châu Á như Hồ Chí Minh và Chu Ân Lai. Tại đây ông đã đi
theo học thuyết Marx-Lenin, gia nhập Đoàn Thanh niên Cộng sản năm 1922
và Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 1924.
Năm 1926, Đặng Tiểu Bình rời Paris sang Nga học Trường Đại học
Phương Đông mang tên Tôn Trung Sơn. Ông cùng học với Tưởng Kinh
Quốc.Ông về nước đúng lúc đang diễn ra chiến tranh Bắc phạt. Ông làm ủy
viên chính trị trong quân đoàn của Phùng Ngọc Tường, tham gia Bắc phạt.
Sau khi bị Phùng Ngọc Tường cho giải ngũ, ông đi Tây An rồi Hán Khẩu,
tiếp tục hoạt động cách mạng.
1


Năm 1938, lúc ông chỉ huy kháng Nhật ở Thái Hàng Sơn thì cha ông bị
thổ phỉ chặt đầu.Sau giải phóng, ông làm Bí thư thứ nhất Cục Tây Nam
Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Phó Chủ tịch Quân ủy Tây Nam,
Chính ủy Quân khu Tây Nam (đóng trụ sở tại Trùng Khánh), kiêm thành


viên Chính phủ Nhân dân Trung ương.
N¨m 1952,vµo th¸ng 7 ông được cử làm Phó Tổng lý (Phó Thủ tướng)
Chính vụ viện (sau đổi là Quốc vụ viện), kiêm Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tài
chính-kinh tế.
Năm 1955, ông cùng Lâm Bưu được bầu làm ủy viên Bộ Chính trị Trung
ương Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Năm 1956, ông vào Ban Thường vụ Bộ Chính trị, làm Tổng Bí thư nhưng
chỉ là nhân vật đứng cuối cùng (thứ 6) trong Ban Thường vụ, sau Mao Trạch
Đông (Chủ tịch Đảng), Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai, Chu Đức và Trần Vân
(đều là Phó Chủ tịch Đảng).
Năm 1966, trong Cách mạng văn hóa, Đặng Tiểu Bình bị phê phán nặng
nề là "tên số hai trong Đảng đi theo chủ nghĩa tư bản", rồi bị cách tuột hết
mọi chức vụ. Từ năm 1969 đến năm 1972, hai vợ chồng ông bị đưa về
Giang Tây, con cái đều bị đưa đi cải tạo ở các tỉnh khác.
Năm 1973,ngµy 20/3 ông rời Giang Tây, quay trở lại Trung Nam Hải (Bắc
Kinh), sau khi được phục hồi công tác. Ông được bầu vào Ban Chấp hành
Trung ương Đảng, rồi Phó Chủ tịch Đảng. Về mặt chính quyền, ông trở lại
cương vị Phó Thủ tướng, rồi Phó Thủ tướng thứ nhất. Khi Chu Ân Lai lâm
bệnh nặng, ông chủ trì công việc của Quốc vụ viện.
Năm 1976, sau khi Chu Ân Lai mất, thế lực chống đối viện cớ ông có tư
tưởng phản cách mạng và tác động đến Mao Trạch Đông, vì vậy ông lại bị
Mao Trạch Đông cách hết các chức vụ, chỉ còn danh hiệu đảng viên và hộ
khẩu Bắc Kinh.
2


Năm 1978: ng Tiu Bỡnh nờu k hoch ci cỏch kinh t trc phiờn hp
ton th ng Cng sn Trung Quc, ỏnh du s m u ca chớnh sỏch
"m ca".
Năm 1979: Thm M nhm bỡnh thng hoỏ quan h hai nc.

Năm 1980 : Bố l bn tờn do Giang Thanh cm u b xột x. Giang
Thanh lónh ỏn t hỡnh. Lỳc ny, Thõm Quyn ó tr thnh c khu kinh t
u tiờn ti Trung Quc, bc u chng minh s ỳng n ca cuc ci
cỏch kinh t do ng Tiu Bỡnh xut.
Năm 1987 : Thụi gi cỏc chc v trong chớnh ph, tr v trớ ca ụng trong
quõn

i.

Năm 1990: Chớnh thc thụi gi cỏc chc v cui cựng.
Năm 1994: Ln cui cựng xut hin trc cụng chỳng trong l mng Tt
Nguyờn ỏn.
Ngy 19/2/1997: ng Tiu Bỡnh t trn lỳc 9h08' ti

II. Đặng Tiểu Bình - Nhà lãnh đạo kiệt xuất
Nhc n ng Tiu Bỡnh, ngi ta thng nhc n cõu núi ni ting ca
ụng: "khụng quan trng mốo trng, hay mốo en, cỏi chớnh l bit bt
chut". Nú cho thy ct lừi chớnh sỏch thc t trong ng li ci t ca
ụng ng Tiu Bỡnh. Con ng ca Trung Quc hụm nay ó c ụng
ng khi s t nm 1978, by nm trc khi Liờn Xụ bt u cụng cuc
ci t ca mỡnh. Khi im quỏ trỡnh ci cỏch ca hai nc cng sn tht
ging nhau: cng mt ch c ng, cng mt nn kinh t tp trung bao
cp ó n tỡnh trng khn cựng. Hn 30 nm ó trụi qua, c Liờn Xụ, m
bõy gi l nc Nga v Trung Quc ó tri qua mt thi gian di ci t, i
mi tỡm tũi con ng phỏt trin, v khụng ớt ln cỏc nh chớnh tr ca Nga

3


đã nhìn sang kinh nghiệm của người láng giềng Trung Quốc để học hỏi.

Nhưng dẫu sao họ vẫn đi trên hai con đường khác nhau.
1.Cải tổ thời Gorbachov
Tháng 12 năm 1978 khi ông Đặng đưa ra chương trình bốn hiện đại hóa,
Liên Xô dưới thời Bredjnev vẫn đang say sưa trong khẩu hiệu "hoàn thiện
chủ nghĩa xã hội chín muồi", họ nhìn sang Trung Quốc với cái nhìn đầy nghi
ngờ, thiếu thiện cảm và cho rằng đây lại là một trào lưu xét lại hậu Mao
Trạch Đông. Nhưng thực chất vào thời kỳ cuối thập kỷ 70, nền kinh tế cả hai
nước cộng sản hàng đầu, Liên Xô và Trung Quốc đều đã ở vào tình trạng
"thập tử nhất sinh". Người ta gọi Trung Quốc khi đó là con bệnh của Châu
Á, còn Liên Xô, núp sau khẩu hiệu "chủ nghĩa xã hội chín muồi" là một thời
kỳ mục ruỗng nhanh chóng. Điều khác biệt giữa hai nước chỉ là ở sự nhận
thức mà thôi. Ở Trung Quốc đã xuất hiện một thủ lĩnh dám nhìn nhận sai
lầm của hệ thống kinh tế xã hội chủ nghĩa,còn ở Liên Xô thì chưa.
Mãi đến khi Bredjnev chết, Gorbachov lên thay, Liên Xô mới dám thừa
nhận những yếu kém của chủ nghĩa cộng sản và phát động một quá trình
thay đổi với những khẩu hiệu: "cải tổ", "đổi mới". Nhưng con đường cải tổ
của Liên Xô khác với Trung Quốc, nó bắt đầu từ những cải tổ về chính trị,
và sau đó mới là kinh tế. Ở Liên Xô người ta cho phép một chút tự do ngôn
luận, còn ở Trung Quốc thì hoàn toàn nghiêm cấm ngôn luận tự do. Đó là
điểm khác biệt duy nhất trong đường lối cải tổ của hai nước.
Những điểm tương đồng giữa đường lối cải tổ của hai nước xem ra không ít.
Thứ nhất, cả hai người thủ lĩnh, Đặng Tiểu Bình và Gorbachov đều tin
rằng chủ nghĩa cộng sản có thể thay đổi mà không đánh mất bản chất của
mình. Đặng Tiểu Bình kêu gọi dân chúng "Hãy làm giầu", còn Gorbachov

4


thì cho phép nhiều hình thức sở hữu, nhưng cả hai đều không từ bỏ chủ
nghĩa cộng sản.

Thứ hai nữa, cả Đặng và Gorbachov đều nhìn thấy sự nguy hiểm của
những người Mác xít chính thống trong đảng sẽ tìm cách chống đối đường
lối cải cách, và cả hai đã tìm cách để ngăn chặn làn sóng phản đối này. Ở
Trung Quốc đó là vụ hạ bệ Đặng Litsiun, người đã chỉ trích những cải cách
của Đặng Tiểu Bình sẽ dẫn đến quá trình tư hữu hóa toàn bộ các công ty
quốc doanh, và đảng cộng sản sẽ hoàn toàn mất khả năng kiểm soát xã hội.
Còn ở Nga đó là vụ hạ bệ Egor Ligachov.
Thứ ba nữa, khi có những dấu hiệu đe dọa hệ thống chính quyền cộng sản,
cả hai nhà cải cách đều không ngần ngại sử dụng bạo lực để dập tắt. Ở Trung
Quốc đó là vụ thảm sát sinh viên tại quảng trường Thiên An Môn vào năm
1989. Còn ở Liên Xô vào tháng 1 năm 1990 Gorbachov cũng không ngần
ngại đưa xe tăng vào đàn áp các cuộc biểu tình tại Baku, thủ đô của nước
cộng hòa Azerbaidjan.
Khác với Mao Trạch Đông, chủ trương cạnh tranh với Liên Xô trong hệ
thống xã hội chủ nghĩa. Đặng Tiểu Bình thực tế hơn, ông chỉ chủ trương
củng cố và phát triển Trung Quốc. Chính vì thế Gorbachov đã bắt tay trở lại
với Trung Quốc trong thời kỳ của Đặng Tiểu Bình. Cuộc gặp gỡ lịch sử giữa
Gorbachov và Đặng Tiểu Bình tại Bắc Kinh tháng 5 năm 1989 đã trở thành
một cột mốc mới trong lịch sử ngoại giao giữa hai nước, sau một thời gian
dài đối đầu nhau.
2. Thời kỳ cải cách của Yeltsin
Nước Nga dân chủ ra đời đã tạo nên một nhiệm vụ mới cho các nhà lãnh đạo
ở đây. Làm thế nào để xóa bỏ những tàn tích của thời cộng sản, rút ngắn
khoảng cách về khoa học kỹ thuật với thế giới phương Tây và hội nhập vào
nền kinh tế thế giới. Trong suốt những năm cải tổ dưới thời Yeltsin, trong
5


giới lãnh đạo, luôn có một cuộc tranh cãi về hướng đi của nước Nga: theo
mô hình phương Đông kiểu Trung Quốc, hay theo mô hình của phương Tây

kiểu những chàng trai Chicago của Quỹ tiền tệ quốc tế. Nhưng có thể nói
rằng, dưới thời của Yeltsin, ông hoàn toàn không có ý định học hỏi kinh
nghiệm cải tổ của Trung Quốc, dù hàng năm Yeltsin vẫn có cuộc gặp gỡ với
Giang Trạch Dân, người kế nhiệm Đặng Tiểu Bình, và Yeltsin đã có những
cảm tưởng rất vui vẻ, tốt đẹp sau chuyến đến thăm Trung Quốc lần đầu tiên.
Những vấn đề mà nước Nga non trẻ gặp phải những năm đầu cải cách cũng
rất giống với những vấn đề mà Trung Quốc đã gặp phải: phải tiến hành tư
hữu hóa tài sản của nhà nước như thế nào? Vai trò của nhà nước trong thời
kỳ đổi mới nên thay đổi như thế nào? Làm thế nào để giải quyết những vấn
đề xã hội trong thời kỳ chuyển tiếp giữa hai nền kinh tế?...
Nhưng Yeltsin có hai lý do để không sử dụng những kinh nghiệm của
Trung

Quốc.

Thứ nhất, phong cách lãnh đạo của Yeltsin và Đặng Tiểu Bình hoàn toàn trái
ngược nhau. Phong cách của Yeltsin rất khó dự đoán, thường xuyên thay đổi
bất ngờ. Trong khi đó các chính sách của Đặng lại nghiêng về sự ổn định,
nhất

quán,

không

thay

đổi

đột


ngột.

Nguyên nhân thứ hai, cũng là nguyên nhân căn bản nhất khiến Yeltsin
không sử dụng mô hình Trung Quốc là vì Đặng Tiểu Bình mặc dù đạt được
những kết quả khả quan trong quá trình đổi mới kinh tế, nhưng về chính trị
thì ông chủ trương giữ vững mô hình cộng sản, hoàn toàn trì trệ, không có
một sự thay đổi nào. Trong khi đó, Yeltsin lại đi vào lịch sử nước Nga như
một chiến sỹ phá bỏ gông cùm cộng sản. Vấn đề ý thức hệ là một rào cản
không thể vượt qua được đối với Yeltsin. Và ông đã đi theo con đường của
mình.

6


3. Những cải tổ thời Putin
Những kinh nghiệm của Đặng Tiểu Bình bắt đầu được đánh giá cao, và
mang ra sử dụng ở nước Nga chính vào thời kỳ Tổng thống của Putin. Hôm
13 tháng 9 vừa rồi, Tổng thống Putin đã đưa ra đề nghị thay đổi hệ thống
quản lý ở Nga: Bãi bỏ hệ thống bỏ phiếu phổ thông bầu các tỉnh trưởng bằng
việc Tổng thống chỉ định các ứng cử viên, tăng cường quyền hạn của các cơ
quan an ninh, thay đổi nguyên tắc bầu hạ viện Đuma. Và như vậy có thể nói,
nước Nga đã trở về thời kỳ Liên Xô trước đây, hay đã thành một

Trung

Quốc ở châu Âu.
Có rất nhiều sự trùng lặp giữa đường lối cải cách của Putin và chính sách cải
cách của Đặng Tiểu Bình trước đây. Những sự trùng lặp thật khó có thể giải
thích là ngẫu nhiên. Năm nay Tổng thống Putin đưa ra chương trình tăng
gấp đôi tổng sản lượng thu nhập quốc dân trong vòng 10 năm, cũng như

trước đây Đặng Tiểu Bình đưa ra chương trình đến năm 1990 tăng gấp đôi
tổng sản lượng quốc nội. Tổng thống Putin cũng lấy sự ổn định chính trị làm
nền tảng cho quá trình cải cách, thậm chí sự dụng cả bàn tay sắt để giữ ổn
định trong nước, đưa ra mục tiêu xóa đói, giảm nghèo, tăng cường phát triển
khoa học, lôi kéo đầu tư ngoại quốc. Thậm chí cả những chiến dịch ồn ỹ
chống lại các nhà tài phiệt, chống các quan chức tham nhũng vừa qua ở Nga
cũng đã một thời xảy ra ở Trung Quốc. Có thể thấy kinh nghiệm của Trung
Quốc, đang được sử dụng sâu rộng ở nước Nga. Nhưng liệu các cải cách
theo mô hình của Đặng trong môi trường xã hội Nga có hiệu quả không thì
chưa ai có thể đoán trước được.
Có nhiều nhà kinh tế ở Nga cho rằng cần phải đặt mục tiêu phát triển kinh
tế lên hàng đầu, như mô hình Trung Quốc, thì mới có thể phát triển được
nền kinh tế đang trì trệ của nước Nga. Nhưng những ý kiến này đã nhanh
7


chóng bị đả kích và bị chìm vào im lặng. Nguyên nhân thật dễ hiểu, trước
đây Lênin cũng đã đưa ra chính sách kinh tế mới, ở đó nền kinh tế được
nhận đôi chút tự do, cởi mở, còn cả xã hội thì vẫn bị trói chặt. Kết quả là
kinh tế có phát triển, nhưng hạnh phúc như Lênin đã hứa hẹn thì người dân
Liên Xô vẫn không hề nhận được. Phát triển kinh tế chỉ có thể là phương
tiện, nhưng không thể là mục đích của phát triển xã hội, tự nó không mang
lại hạnh phúc cho dân chúng. Trên con đường phát triển, có thể một lúc nào
đó con người chấp nhận hy sinh những quyền lợi tự do cá nhân để lo những
vấn đề cơm áo gạo tiền của đời sống, đó là thời điểm mà Đặng Tiểu Bình đã
nắm được, và lái Trung Quốc vào quỹ đạo đó. Còn nước Nga đã đi vào một
quỹ đạo khác, hòa nhập vào dòng phát triển theo kiểu nhân bản của Phương
Tây, ở đó những giá trị tự do căn bản của con người được đặt lên cao nhất.
Nếu lúc này lại gò ép nước Nga theo mô hình của Trung Quốc thì chẳng
những nó không mang lại lợi ích mà là một bước thụt lùi trên con đường

phát triển.
Nước Nga cần phát triển kinh tế để giải quyết những vấn đề xã hội của
mình. Nhưng nếu đi theo con đường của Trung Quốc thì những vấn đề ấy sẽ
lại sẽ càng tăng thêmnữa

8


.

III. Mười cảnh báo của Đặng Tiểu Bình
1. Việc phân phối thu nhập quốc dân phải khiến tất cả mọi người đều
hưởng lợi
Chúng ta là nhà nước xã hội chủ nghĩa, việc phân phối thu nhập quốc dân phải
khiến tất cả mọi người đều được hưởng lợi, không có người quá giàu, cũng
không có kẻ quá nghèo, mức sống tốt đẹp phải là phổ biến. (dẫn từ vấn đề đại
đoàn kết của dân tộc Trung Hoa”, 1986)
2. Nếu đưa đến phân hoá lưỡng cực, TQ có thể xảy ra mầm loạn
Cộng đồng giàu có, đó là điều chúng ta đã nói tới ngay khi bắt đầu cải cách, rồi
trong tương lai sẽ có ngày nó trở thành vấn đề trung tâm. CNXH (chủ nghĩa xã
hội) không phải làm một thiểu số người giàu lên, mà phần lớn người thì nghèo
khó, không phải là kiểu đó.
Tính ưu việt lớn nhất của CNXH phải là cùng nhau giàu có. Đó là một thể hiện
của bản chất CNXH. Nếu làm cho lưỡng cực (hai cực giàu, nghèo-ND) phân
hoá, tình hình sẽ khác, mâu thuẫn dân tộc, mâu thuẫn giữa các khu vực, và mâu
thuẫn giai cấp đều sẽ phát triển, rồi mâu thuẫn trung ương với địa phương cũng
sẽ phát triển, có thể xẩy ra mầm loạn.(“Tận dụng thời cơ giải quyết vấn đề phát
triển”,1990)
3. Nếu như cải cách dẫn đến phân hoá lưỡng cực thì cải cách đã thất bại
Hiện nay chúng ta làm bốn hiện đại hoá, đó là làm bốn hiện đại hóa của CNXH,

chứ không phải là thứ hiện đại hóa nào khác. Mục đích của xã hội chủ nghĩa là
để nhân dân cả nước cùng giàu có, chứ không phải là phân hoá lưỡng cực.
Nếu chính sách của chúng ta mà dẫn đến phân hoá lưỡng cực, thì chúng ta đã
thất bại rồi; Chúng ta đề xướng một vài khu vực giàu có lên trước, là nhằm
khích lệ và kéo theo những khu vực khác cùng giàu có lên.

9


Đề xướng một bộ phận người trong dân giàu có lên trước, cũng là với lẽ tương
tự. (“Phải có lý tưởng, có kỷ luật mới có đoàn kết thật sự”,1985)
4. Cuối thế kỷ 20 là thời điểm phải nỗ lực thực hiện giải quyết vấn đề phân
hóa lưỡng cực. Đi theo con đường chủ nghĩa xã hội tức là từng bước thực
hiện cộng đồng giàu có.
Đi con đường CNXH tức là phải từng bước thực hiện cộng đồng giàu có. ý
tưởng cùng nhau giàu lên được đề xuất như thế này: Một số vùng miền có điều
kiện cứ phát triển trước, một số vùng miền khác thì phát triển chậm đi một chút,
những khu vực phát triển trước kéo theo những khu vực phát triển sau, để rồi
cuối cùng đạt tới sự giàu có chung.
Nếu để giàu cứ càng giàu, mà nghèo thì ngày một nghèo, sẽ sản sinh phân hoá
lưỡng cực, lẽ ra chế độ xã hội chủ nghĩa phải, và có thể tránh được phân hoá
lưỡng cực…
Có thể, đến cuối thế kỷ(thế kỷ 20-ND), khi đạt tới mức sống khá giả là phải đưa
ra và làm nổi bật việc giải quyết vấn đề này.(“Bài nói chuyện ở Thẩm Quyến và
các thành phố duyên hải”,1992)
5. Đô thị có phồn hoa bao nhiêu đi nữa, mà khu vực nông thôn không ổn
định là không thể được
TQ có tới 80% nhân khẩu sống ở nông thôn, TQ có ổn định hay không, trước hết
phải nhìn vào cái 80% này có được ổn định hay không. Thành phố có đẹp đến
đâu đi nữa, mà không có được nông thôn ổn định này là không thể được.(“Xây

dựng CNXH mang màu sắc TQ”, 1984)
6. Ngành tư tưởng văn hoá, giáo dục, y tế, phải lấy hiệu ích xã hội làm
chuẩn mực duy nhất cho mọi hoạt động
Cái khuynh hướng “hướng tất cả lên đồng tiền”(đồng âm với “hướng tất cả lên
phía trước”trong tiếng TQ-ND), đem thương mại hoá các sản phẩm tinh thần,
cũng đã xuất hiện ở các mặt của sản xuất tinh thần rồi. (Trích dẫn từ “nhiệm vụ
bức thiết của Đảng trên mặt trận tổ chức và mặt trận tư tưởng”, 1983).

10


Các ngành tư tưởng văn hoá, giáo dục, y tế đều phải lấy hiệu quả xã hội làm
chuẩn mực duy nhất cho mọi hoạt động, các đơn vị trong ngành cũng phải lấy
hiệu quả xã hội làm chuẩn mực tối cao.(Trích dẫn từ phát biểu tại đại hội toàn
quốc Đảng cộng sản TQ1985)
7. Nếu như không giải quyết tốt vấn đề giáo dục, là hỏng mất việc lớn, sẽ
phải chịu trách nhiệm với lịch sử
Chúng ta đã nói nhiều lần rằng, đến ngày kiến quốc trăm năm (năm 2049-ND),
nền kinh tế TQ có thể tới gần mức của các quốc gia phát triển. Chúng ta nói vậy,
một trong những căn cứ là trong đoạn thời gian ấy, chúng ta hoàn toàn có thể
đưa nền giáo dục đi lên, nâng cao trình độ khoa học kĩ thuật của ta, đào tạo được
đến trăm triệu nhân tài các cấp, các loại.
Sự cường nhược của quốc gia, quốc lực và tầm cỡ phát triển của kinh tế chúng
ta, càng ngày càng quyết định bởi tố chất người lao động, quyết định bởi số
lượng và chất lượng của đội ngũ trí thức.
Một nước lớn trên tỷ người, nền giáo dục được đưa lên, ưu thế to lớn của nguồn
lực nhân tài là không có quốc gia nào bì nổi. Khi có được ưu thế nhân tài, cộng
với chế độ xã hội chủ nghĩa tiên tiến, mục tiêu chúng ta cầm chắc sẽ đạt được.
Trung ương đề xuất phải nắm giáo dục với sự nỗ lực cực lớn, và phải nắm ngay
từ cấp tiểu và trung học, đấy là một chiêu có tầm nhìn chiến lược. Nếu giờ đây

không đề xuất nhiệm vụ này với toàn Đảng, là hỏng mất việc lớn, sẽ phải chịu
trách nhiệm với lịch sử.
Vẫn còn một bộ phận đồng chí kha khá, bao gồm cả một số cán bộ cao cấp, nhận
thức không đầy đủ, thiếu cảm giác bức xúc đối với tính tất yếu của phát triển và
cải cách giáo dục, hoặc ngoài miệng thì thừa nhận giáo dục là quan trọng, nhưng
đến khi giải quyết vấn đề thực tế thì lại thành ra không mấy quan trọng nữa.
Nhà lãnh đạo coi nhẹ giáo dục, là nhà lãnh đạo thiếu tầm nhìn, thiếu chín chắn,
sẽ không lãnh đạo nổi công cuộc xây dựng hiện đại hoá. Đối với công tác giáo
dục, các cấp ủy đảng và chính quyền không những phải nắm, mà phải nắm chặt,

11


nắm tốt, ít nói suông, phải làm nhiều việc thực. (“Phải nắm cho tốt công tác giáo
dục”1985)
TQ có xẩy ra vấn đề gì, vẫn sẽ là xẩy ra trong nội bộ Đảng cộng sản. (Trích dẫn
từ bài nói chuyện ở Thâm Quyến và các tỉnh duyên hải 1992)
8. Tất cả mọi cải cách rốt cuộc có thành công hay không, vẫn là quyết định
ở việc cải cách thể chế chính trị
Nếu không làm cải cách thể chế chính trị thì không thể thích ứng với tình hình
được. Cải cách, là phải bao gồm cả cải cách thể chế chính trị, và cũng nên lấy nó
làm một tiêu chí của sự thúc đẩy công cuộc cải cách tiến lên. (Dẫn bài nói
chuyện sau khi nghe báo cáo tình hình kinh tế 1986)
Cải cách thể chế chính trị với cải cách thể chế kinh tế phải dựa vào nhau, phối
hợp với nhau. Chỉ làm cải cách thể chế kinh tế, không làm cải cách thể chế
chính trị, thì không thể làm được, bởi vì sẽ gặp phải trở ngại trước hết đến từ
con người.
Công việc phải do con người làm, anh đề xướng trao quyền, nhưng chỗ khác lại
giữ quyền không buông, anh làm thế nào được? Từ góc độ này mà nói, mọi cải
cách của chúng ta rốt cuộc có thành công hay không, vẫn là quyết định bởi việc

cải cách thể chế chính trị. (“Phải xác lập quan niệm pháp chế trong toàn dân”,
1986)
Muốn có được phát triển, nhất thiết phải giữ vững hướng đi đối ngoại mở cửa,
đối nội cải cách, bao gồm cả cải cách trong lĩnh vực thượng tầng kiến trúc, và
thể chế chính trị. (“Kiên trì chính sách cải cách mở cửa”, 1987)
9. Việc cải cách thể chế chính trị sẽ đụng tới lợi ích của rất nhiều người, sẽ
vấp phải rất nhiều trở ngại
Khi đề xuất cải cách, là bao gồm cả cải cách thể chế chính trị. Nay trong mỗi
bước tiến của cải cách thể chế kinh tế, chúng ta đều cảm nhận sâu sắc tính tất
yếu của việc cải cách thể chế chính trị.

12


Không cải cách thể chế chính trị, là không bảo đảm được thành quả của cải cách
thể chế kinh tế, không đưa cải cách thể chế kinh tế tiếp tục đi lên, sẽ cản trở sự
phát triển của sức sản xuất, cản trở việc thực hiện bốn hiện đại hóa…
Phải thông qua cải cách, để giải quyết tốt mối quan hệ giữa pháp trị và nhân trị,
xử lý cho tốt mối quan hệ giữa Đảng với chính quyền. Không tiến hành cải cách
thể chế chính trị, việc cải cách thể chế kinh tế khó mà quán triệt. (“Về cải cách
thể chế chính trị”, 1986)
Nói đến cải cách là nói tới một cuộc cải cách toàn diện, bao gồm cải cách thể
chế kinh tế, cải cách thể chế chính trị và cải cách ở các lĩnh vực tương ứng
khác…
Mỗi một biện pháp cải cách thể chế chính trị đều liên quan đến hàng ngàn hàng
vạn con người, chủ yếu là liên quan đến đông đảo cán bộ, chứ không chỉ là lớp
già chúng tôi. (“Phải tăng nhanh bước đi của cải cách”, 1987).

IV. TÍNH BẤT BIẾN VÀ KHẢ BIẾN TRONG CHÍNH SÁCH ĐỐI
NGOẠI CỦA TRUNG QUỐC

Trong diễn văn đọc tại Quảng trường Thiên An Môn ngày 1-10-1949 khai sinh
ra nước CHND Trung Hoa, Chủ tịch Mao Trạch Đông tuyên bố rằng nhân dân
Trung Quốc cuối cùng cũng đã đứng lên. Nước Cộng hòa non trẻ được thành lập
và bắt đầu tham gia vào những mối quan hệ với các nước khác trên thế giới. Học
giả Carol Lee Hamrin đã nhận xét, hành vi xử thế của một quốc gia trong cộng
đồng quốc tế cũng giống như của một con người trong một tập thể, và cũng
mang tính mục tiêu. Do đó, một nước như Trung Quốc cũng phải theo đuổi
những mục tiêu tương xứng với tầm cỡ của dân số và lãnh thổ, cũng như chiều
sâu lịch sử và văn hóa. Các nhân tố nội tại kể trên, tuy vậy cũng chưa đủ bởi vì
các nước khác cũng có mục tiêu và tham vọng của họ. Chính vì thế, các nhân tố
bên ngoài cũng có tầm quan trọng của nó. Như vậy, chính sách đối ngoại của
Trung Quốc và của bất kỳ một nước nào khác, cũng đều là sự kết hợp của những

13


mục tiêu dài hạn mà nó tự đặt ra cho mình với những thay đổi trong hoàn cảnh
quốc tế.
Xuất phát từ cơ sở trên, bài viết này sẽ tập trung so sánh chính sách đối ngoại
của Trung Quốc trong hai giai đoạn, cụ thể là từ năm 1949 đến năm 1976 và từ
năm 1976 đến nay, để tìm ra những mục tiêu dài hạn mà Trung Quốc phấn đấu
đạt được, cũng như những chuyển hướng trong chính sách đối ngoại trong quá
trình thực hiện những mục tiêu đó, qua đó có thể góp phần thấy rõ thêm tính bất
biến và tính khả biến trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc từ năm 1949
đến nay. Phân tích và đánh giá chính sách đối ngoại của Trung Quốc trong một
giai đoạn lịch sử gần 50 năm trong khuôn khổ một bài báo ngắn là một việc khó
khăn và chắc chắn không thể tránh khỏi thiếu sót. Ngoài ra, một số điều trong
lịch sử quan hệ quốc tế vẫn còn cần phải được làm sáng tỏ thêm. Tuy nhiên, tác
giả cũng xin mạnh dạn đưa ra ý kiến riêng của mình về một chủ thể phức tạp,
qua đó mong được tiếp thu nhiều ý kiến trao đổi và phản biện. Ngũ Tu Quyền,

nhà ngoại giao kỳ cực của Trung Quốc, từng lập luận rằng “chính sách đối ngoại
của một nước là sự tiếp nối, và hơn nữa, quán triệt và phục vụ chính sách đối nội
của nước đó”. Câu nói này dường như có thể áp dụng cho chính sách đối ngoại
của một quốc gia. Tuy nhiên, nếu áp dụng câu nói này vào Trung Quốc, ta sẽ
thấy chính sách đối ngoại của Trung Quốc có những đặc điểm riêng biệt.
Trước hết, đó là Trung Quốc có nhu cầu tái khẳng định mình là một nước lớn
trên thế giới. Từ năm 1949, nước CHND Trung Hoa bắt đầu công cuộc xây
dựng đất nước nhằm thoát khỏi một chương đen tối trong lịch sử hiện đại của
mình. Theo cách đề cập của chính sử nước này, Trung Quốc là một nước vĩ đại
với một nền văn minh lâu đời, nhưng bị các cường quốc phương Tây “làm
nhục”, kìm hãm không được phát triển, do đó “lạc hậu và bị thế giới coi thường”
Thứ hai, Trung Quốc ngay từ ngày đầu lập quốc đã phải bảo vệ sự tồn tại của
mình trong một bối cảnh thù địch tạo ra bởi cuộc chiến tranh lạnh trên thế giới

14


lúc này đã lan sang châu á. Bằng cách nhấn mạnh đến yếu tố “nội loạn, ngoại
loạn”, các nhà lãnh đạo ở Bắc Kinh luôn cho rằng các phần tử phản cách mạng
trong nước kết hợp với các thế lực thù địch nước ngoài - đứng đầu là đế quốc
Mỹ, và có lúc là Liên Xô cũ – cố tìm mọi cách phá hoại Trung Quốc, đe dọa sự
tồn vong của Trung Quốc. Do đó chính sách chung của Trung Quốc bao giờ
cũng có hai mục tiêu hàng đầu: Củng cố an ninh quốc gia và nâng cao địa vị trên
trường quốc tế với tư cách là một nước lớn.
Hai mục tiêu trên có một số nội dung cụ thể cũng như mối liên hệ qua lại với
nhau. Đối với Trung Quốc, an ninh quốc gia đòi hỏi sự cam kết cũng như tìm
kiếm những phương cách bảo vệ nước này thoát khỏi những đe dọa đối với hệ tư
tưởng, lãnh thổ và nền độc lập của mình. Nội dung của địa vị quốc tế rộng hơn,
bao gồm sự toàn vẹn lãnh thổ, thống nhất đất nước, tiềm lực kinh tế, chính trị,
công nghệ cũng như sức nặng về ngoại giao trên trường quốc tế. Như Seng

Lijun, một học giả Trung Quốc, đã diễn giải việc nâng cao địa vị quốc tế bao
gồm sự xóa bỏ những khoảng cách giữa quá khứ rực rỡ của Trung Quốc với
hiện trạng khiêm tốn, giữa uy thế chính trị đã được nâng cao với tình trạng yếu
kém hiện thời về kinh tế và quân sự. Việc tăng cường an ninh quốc gia và địa vị
quốc tế của Trung Quốc có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Tăng cường an ninh
quốc gia đảm bảo điều kiện hòa bình và hoàn cảnh quốc tế thuận lợi cho công
cuộc kiến thiết đất nước, địa vị quốc tế đến lượt nó giúp tăng cường tiềm lực của
Trung Quốc, và qua đó giúp tăng cường khả năng bảo vệ hơn nữa an ninh quốc
gia cũng như củng cố địa vị của Trung Quốc trên thế giới.
Thứ ba, quá trình hoạch định chính sách đối ngoại còn mang một số nét đặc
thù khác. Quá trình này mang tính tập trung hóa rất cao và thể hiện rất rõ ảnh
hưởng của thế giới quan của các nhà lãnh đạo ở cấp cao nhất. Đặc điểm này
không nhất thiết chỉ là riêng chính sách đối ngoại của Trung Quốc mới có,
nhưng việc đề cập đến điều này mang một ý nghĩa thực tiễn: Trong khi những
mục tiêu dài hạn trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc khá nhất quán,
15


chính sách đối ngoại của Trung Quốc đã trải qua một số thay đổi lớn do chịu ảnh
hưởng của các nhà lãnh đạo như Mao Trạch Đông, Đặng Tiểu Bình cũng như
của những người kế nhiệm Đặng Tiểu Bình. Nói một cách khác, việc các nhà
lãnh đạo cấp cao nhất của Trung Quốc đánh giá sự vận động và mối liên hệ giữa
hai mục tiêu trên, kết hợp với tình hình của từng thời kỳ cụ thể, đã dẫn đến
những điểm khác nhau trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc.
Chính sách đối ngoại của Trung Quốc giai đoạn từ năm 1949 đến năm 1976
mang nhiều dấu ấn của Mao Trạch Đông. An ninh quốc gia thường xuyên là mối
quan tâm chính của ông. Theo Mao Trạch Đông, quốc gia phải là “một vũ khí
mạnh mẽ để bảo vệ những thành quả của cách mạng và đập tan những âm mưu
cướp quyền lực của kẻ thù trong và ngoài nước”, và Trung Quốc phải “liên minh
với bạn bè trên thế giới chống lại các thế lực đế quốc trong và ngoài nước”. Với

mối bận tâm đó về an ninh và với điểm đồng trong ý thức hệ, tháng 1-1950,
Trung Quốc liên minh với Liên Xô ký Hiệp ước hữu nghị và hợp tác với Liên
Xô, theo đó Liên Xô cam kết đứng ra bảo vệ an ninh của Trung Quốc. Gần một
năm sau đó, vào tháng 10-1950, Trung Quốc gửi quân tình nguyện sang chiến
đấu trong cuộc chiến tranh Triều Tiên. Trên một khía cạnh nhất định, việc Trung
Quốc tham chiến đã phản ánh sự cần thiết đảm bảo an ninh của mình trước nguy
cơ một cuộc xâm lược của Mỹ từ phía Triều Tiên - địa danh trong truyền thống
thường bị các thế lực thù địch sử dụng như một bàn đạp tấn công Trung Quốc.
Tuy nhiên, ở một mức độ lớn hơn, quyết định của Mao Trạch Đông đương đầu
với Mỹ còn nhằm chứng tỏ sự cam kết của Trung Quốc đối với khối xã hội chủ
nghĩa. Hành động này do đó không những làm Liên Xô tăng cường viện trợ
quân sự cho Trung Quốc trong chiến tranh Triều Tiên mà còn mở đầu cho thời
kỳ được gọi là thời kỳ trăng mật giữa Trung Quốc và Liên Xô. Từ đó, Trung
Quốc nhận được khoản viện trợ to lớn của Trung Quốc để tái thiết đất nước, cả
về xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cũng như áp dụng những hình mẫu chính trị
– xã hội. Liên Xô còn giúp Trung Quốc chế tạo bom nguyên tử. Đối với Mao

16


Trạch Đông, bom nguyên tử đã trở thành một công cụ hữu hiệu bảo vệ đất nước
và một tiêu chuẩn quan trọng để Trung Quốc trở thành nước lớn.
“Nhất biên đảo”, liên minh với Liên Xô đã thỏa mãn một số yêu cầu về an ninh
và phát triển của Trung Quốc. Song liên minh với Liên Xô lại không thỏa mãn
nhu cầu của Trung Quốc tăng cường vai trò của mình trên trường quốc tế. Đã có
một số chứng cứ lịch sử cho thấy trong thời kỳ liên minh Xô - Trung tồn tại,
Liên Xô không muốn Trung Quốc trở nên quá độc lập, cũng như trong giới lãnh
đạo của Trung Quốc xuất hiện xu hướng không muốn bị quá lệ thuộc vào Liên
Xô. Mao Trạch Đông muốn Trung Quốc có một vai trò lớn hơn và dần muốn
tách ra khỏi Liên Xô. Tuy nhiên, Trung Quốc khó có thể xác định cho mình một

vị trí xứng đáng trên thế giới trong bối cảnh của cuộc chiến tranh lạnh chia rẽ
sâu sắc thế giới thành hai cực. Học giả Mỹ John Garver cho rằng “lãnh đạo nhân
dân lao động thế giới tiến tới tự do là để thỏa mãn một số nhu cầu tiềm ẩn trong
tính cách của nước Trung Quốc hiện đại”. Nhưng do tổng hợp các chính sách
mang tính XHCN, hồi ức về quá khứ trong đó Trung Quốc đóng vai trò trung
tâm và do thực tế của một nền kinh tế, khoa học kỹ thuật lạch hậu. Trung Quốc
dường như không thích hợp với một vai trò lãnh đạo nào. Do đó, những phát
triển trong mối quan hệ quốc tế của Trung Quốc ở trong giai đoạn này cho thấy
Trung Quốc không thay thế nổi vai trò lãnh đạo phe XHCN của Liên Xô, điều
mà Trung Quốc từ cuối những năm 50 tiến hành và vì vậy đã làm cho quan hệ
Xô-Trung dần căng thẳng, cuối cùng dẫn đến sự tan vỡ của liên minh giữa hai
nước vào cuối những năm 60. Đồng thời Trung Quốc cũng không được các
nước mới giành được độc lập thuộc thế giới các nước đang phát triển ủng hộ.
Các nước này phần lớn chịu ảnh hưởng của Liên Xô. Chỉ lấy một số ví dụ cụ
thể: Hội nghị á - Phi lần thứ hai đã không được tổ chức, mà Trung Quốc rất
mong được lặp lại thắng lợi vang dội về mặt ngoại giao của mình tại hội nghị
lần thứ nhất tổ chức tại Bangdung năm 1955. Trong khi đó, chiến tranh biên giới
đã nổ ra giữa Trung Quốc và ấn Độ năm 1962 và ảnh hưởng của Trung Quốc tại

17


Inđônêxia đã hầu như bị triệt tiêu sau cuộc đảo chính và sự đàn áp ĐCS
Inđônêxia. Hơn nữa, ảnh hưởng của Liên Xô dần tăng lên trong khu vực Đông
Dương. Liên Xô đóng vai trò quan trọng trong Hiệp định Gênvơ về trung lập
hóa Lào, cũng như quan hệ Việt – Xô được cải thiện mạnh mẽ sau chuyến đi
thăm của Thủ tướng Liên Xô Kô-xư-gin sang Hà Nội tháng 2-1965. Do đó, vào
nửa cuối những năm 60, nhất là trong những năm cuộc cách mạng văn hóa lên
đến đỉnh cao, Trung Quốc dường như chủ trương một chính sách ngoại giao biệt
lập và phải chịu một mối đe dọa kép do gặp phải sự thù địch của cả Mỹ lẫn Liên

Xô. Gặp gỡ cấp Đại sứ giữa Mỹ và Trung Quốc ở Vac-xô-vi bế tắc. Trong khi
đó Liên Xô cắt viện trợ, rút chuyên gia về nước và đình chỉ giúp đỡ Trung Quốc
chế tạo bom nguyên tử. Điều này chứng tỏ mục tiêu về củng cố an ninh quốc gia
cũng như tìm kiếm địa vị quốc tế lớn hơn dưới thời Mao Trạch Đông đã không
đạt được.
Khi mối đe dọa về quân sự của Liên Xô đối với Trung Quốc trở nên căng thẳng
sau vụ đụng độ trên biến giới Xô-Trung năm 1969, Bắc Kinh tìm cách cải thiện
quan hệ với Mỹ nhằm tạo ra một đối trọng với Liên Xô. Cuộc tranh luận về
chính sách đối ngoại giữa phái Lâm Bưu “cực tả” và phái Chu Ân Lai “ôn hòa”
đã diễn ra. Chu Ân Lai được Mao Trạch Đông ủng hộ và hai nhà lãnh đạo này
sau khi loại trừ được Lâm Bưu đã tiến hành quá trình cải thiện quan hệ với Mỹ
đầu những năm 70. Trên một mức độ rộng hơn, cuộc tranh luận này không chỉ
bó hẹp trong việc xử lý mối quan hệ Trung-Xô-Mỹ. Nó báo hiệu một chiều
hướng mới theo đó Trung Quốc áp dụng chiến lược khác về phát triển nền kinh
tế lúc này đang đứng trước bờ vực của sự phá sản bởi những chủ trương chính
trị tả khuynh. Trước khi cả Chu Ân Lai và Mao Trạch Đông qua đời, hai nhà
lãnh đạo này đã tìm cách để đưa Đặng Tiểu Bình trở lại nắm quyền, bởi vì họ tin
rằng Đặng Tiểu Bình sẽ là người vực được Trung Quốc dậy. Cuối năm 1973,
Đặng Tiểu Bình được khôi phục. Tuy nhiên tháng 3-1976, Đặng Tiểu Bình lại bị
hạ bệ và cho đến năm 1977, mới thực sự nắm quyền lãnh đạo. Từ đó chính sách

18


phát triển nói chung và chính sách đối ngoại nói riêng của Trung Quốc bước vào
một giai đoạn mới.
Vào thời điểm Đặng Tiểu Bình trở lại chính trường, tình hình an ninh đã thay
đổi tương đối thuận lợi đối với Trung Quốc. Mối đe dọa nhằm vào Trung Quốc
đã giảm do những thay đổi trong chính sách của Liên Xô và Mỹ trong khu vực
châu á... Chuyến đi thăm Trung Quốc của Nicxơn năm 1972 trên thực tế đã làm

giảm khả năng xẩy ra xung đột quân sự Mỹ-Trung. Hơn nữa, sau khi chiến
tranh Việt Nam kết thúc năm 1975, Mỹ tiếp tục rút lui sự có mặt về quân sự ra
khỏi khu vực. Khả năng về một cuộc xung đột đối với Liên Xô cũng giảm đi do
Liên Xô bắt đầu triển khai một chính sách mới, tăng cường sự có mặt tại nhiều
nơi trên thế giới, do đó vô hình chung đã căng mỏng lực lượng lực lượng của
mình. Về sau này, sự dính líu của Liên Xô bị sa lầy, cũng như cuộc chạy đua vũ
trang giữa Liên Xô và Mỹ càng làm Liên Xô phải tập trung nhiều nguồn tài lực
đối phó với Mỹ hơn là đối với Trung Quốc. Vì thế, theo như một số tài liệu mới
phát hiện, ngay từ năm 1977 Đặng Tiểu Bình đã đi đến nhận định rằng tình
hình quốc tế tương đối thuận lợi cho Trung Quốc và qua đó, Đặng Tiểu Bình đã
phê phán quan điểm cho rằng chiến tranh là không thể tránh khỏi. Khi nhu cầu
bảo vệ an ninh của Trung Quốc trở nên ít cấp thiết hơn, Đặng Tiểu Bình đã có
thể tập trung nỗ lực vào chương trình bốn hiện đại hóa. Sự chuyển dịch ưu tiên
từ mục tiêu an ninh sang mục tiêu phát triển, do đó đã tạo nên sự thay đổi lớn
trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc, tập trung vào củng cố địa vị trên
trường quốc tế thông qua xây dựng các nguồn tiềm lực của riêng mình.
Nếu như Mao Trạch Đông triển khai thuyết ba thế giới, tự cho Trung Quốc vai
trò lãnh đạo thế giới thứ ba và coi thế giới thứ ba là cơ sở sức mạnh cho địa vị
trên trường quốc tế của Trung Quốc trong mối quan hệ với Liên Xô và Mỹ, thì
Đặng Tiểu Bình coi Trung Quốc tự nó là một cực, ngang bằng với cả Liên Xô và
Mỹ. Điều đó có nghĩa rằng cơ sở quyền lực của Trung Quốc phải được xây
dựng trên một nền tảng mới, theo ý kiến của học giả Thomas Robinson, nó bao
19


gồm bốn công cụ của sức mạnh quốc gia: Tính linh hoạt trong ngoại giao, mức
độ và tốc độ của phát triển kinh tế, sự khẳng định về văn hóa và củng cố sức
mạnh quân sự. Như trên đã trình bày, nhu cầu cần phải có những nguồn viện
trợ mới cũng như những hình mẫu phát triển mới đã trở thành lý do có tính
chiến lược đối với việc Trung Quốc tìm kiếm quan hệ gần gũi hơn với các nước

trên thế giới. Trong bối cảnh của công cuộc hiện đại hóa, quan hệ kinh tế, văn
hóa và khoa học kỹ thuật với phương Tây, và đặc biệt là với Mỹ ngày càng trở
lên quan trọng đối với Trung Quốc. Do đó, Đặng Tiểu Bình đã đẩy nhanh quá
trình bình thường hóa quan hệ Mỹ-Trung, dẫn đến điều mà nhiều nhà quan sát
gọi là thời kỳ “trăng mật Trung-Mỹ” trong đó quan hệ hai nước đã phát triển
trên nhiều mặt.
Tuy nhiên, đến năm 1982, Trung Quốc tuyên bố một chính sách ngoại giao độc
lập, dần tách khỏi Mỹ trên một số vấn đề và bắt đầu cải thiện quan hệ với Liên
Xô. Thoạt tiên, điều đó có thể được đánh giá rằng Trung Quốc muốn có một
chính sách ngoại giao cân bằng hơn, và việc đứng giữa hai siêu cường kinh tế
sẽ tăng cường địa vị của Trung Quốc hơn là “nhất biên đảo”. Tuy vậy, nhu cầu
của công cuộc bốn hiện đại hóa vẫn là chủ đạo. Điều đó có nghĩa rằng Trung
Quốc vẫn thiên về phía Mỹ hơn. Do đó, chính sách đối ngoại độc lập thực chất
là nhằm “kéo Mỹ gần hơn về phía Trung Quốc”. Do đó, Đặng Tiểu Bình trên
thực tế đã khéo léo sử dụng ngoại giao để tạo thêm lợi thế cho Trung Quốc
trong mối quan hệ với các nước lớn khác, từ đó giúp củng cố điều kiện quốc tế
thuận lợi cho công cuộc cải cách của Trung Quốc.
Chuyển hướng trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc đã phục vụ hai mục
tiêu lâu dài – an ninh quốc gia và vị trí quốc tế – khá thành công. Trong một
giai đoạn gần hai thập kỷ, Trung Quốc đã đảm bảo và tận dụng được điều kiện
bên ngoài thuận lợi cho cải cách trong nước phát triển, theo đó, cơ sở sức mạnh
cho an ninh quốc gia cũng như địa vị quốc tế đã được củng cố và ngày càng mở
rộng. Giờ đây, Trung Quốc đã được công nhận rộng rãi là một cường quốc kinh
20


tế và quân sự, không như trước đây khi nước này vẫn còn bị coi là lạc hậu, luôn
phải đối phó với các mối đe dọa từ bên ngoài cũng như không phát huy được
vai trò quốc tế. Như lời một học giả Trung Quốc đã nêu ở trên, việc tăng cường
địa vị quốc tế theo cách hiểu của Trung Quốc là sự xóa bỏ khoảng cách giữa

“quá khứ rực rỡ và hiện tại khiêm nhường”, giữa tiềm năng chính trị to lớn và
tình trạng lạc hậu yếu kém về kinh tế và quân sự. Dường như những khoảng
cách đó đã được rút ngắn lại sau một thời gian Trung Quốc tiến hành cải cách.
Học giả T. Robinson, do đó đã cho rằng giờ đây “không ai còn nghĩ đến việc
gây chiến với Trung Quốc và nước này đã trở thành một nhân tố trung tâm
trong cân bằng quyền lực ở Bắc á, Đông Na và Nam á”, và Trung Quốc giờ đây
có thể đóng vai trò to lớn đối với hòa bình trong khu vực”. Tóm lại, bốn hiện
đại dưới thời Đặng Tiểu Bình đã thành công trong việc bảo đảm an ninh quốc
gia của Trung Quốc và đem lại một địa vị mới cho Trung Quốc trên trường
quốc tế. Chắc chắn những người kế nhiệm Đặng Tiểu Bình sẽ tiếp tục thi hành
chính sách này. Trên thực tế, dưới sự lãnh đạo của ban lãnh đạo mới đứng đầu
là Giang Trạch Dân, cải cách kinh tế của Trung Quốc tiếp tục đưa lại địa vị
mới cho Trung Quốc. Về mặt kinh tế, Ngân hàng thế giới đã xếp nền kinh tế
Trung Quốc chỉ đứng sau Mỹ và Nhật về độ lớn. Về mặt đối ngoại, các nước lớn
khác là Mỹ, Nga, Nhật cũng như các nước thuộc các tổ chức khu vực (ASEAN
và EU) ngày càng coi trọng nhân tố Trung Quốc và lần lượt tìm kiếm sự cộng
tác của Trung Quốc trong các vấn đề chính trị, kinh tế khu vực và quốc tế. Các
cặp quan hệ đối tác giữa Trung Quốc với các đối tượng trên dần hình thành và
củng cố.
Tuy nhiên, cải cách cũng đem lại những vấn đề mới cần phải xử lý. Trong
nước, việc xử lý các vấn đề về quản lý một nền kinh tế bùng nổ với những hậu
quả không mong muốn và nhất là vấn đề duy trì sự kiểm soát của chính quyền
trung ương ngày càng trở nên cấp thiết. Sự kiện Thiên An Môn xảy ra vào năm
1989 là một ví dụ cụ thể. Những phát triển kể trên trùng hợp với kết thúc chiến

21


tranh lạnh và những diễn biến phức tạp khác trong tình hình quốc tế. Liên Xô
đã sụp đổ và Mỹ vẫn tồn tại như một siêu cường. Đối với Trung Quốc, những

thay đổi đó một mặt đã làm suy giảm mối đe dọa của Liên Xô đối với an ninh
Trung Quốc. Nhưng mặt khác, tam giác Mỹ – Xô - Trung không còn nữa và do
đó làm giảm giá trị chiến lược của Mỹ, tức là cũng làm giảm khả năng Trung
Quốc xoay xở trong mối quan hệ với Mỹ. Đồng thời, Mỹ lại bắt đầu đả kích
Trung Quốc mạnh hơn trong các vấn đề dân chủ và nhân quyền. Ngoài ra, khi
yếu tố ý thức hệ trong quan hệ quốc tế ngày càng giảm đi và yếu tố quốc gia
cũng như sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế ngày càng tăng lên sau chiến tranh
lạnh, Trung Quốc cũng còn phải tính đến các nước khác trong khu vực. Như vậy
một số người đã bắt đầu cho rằng trên một bình diện rộng hơn đã xuất hiện
nhiều yếu tố ràng buộc và kiềm tỏa đối với chính sách đối ngoại của Trung
Quốc.
Xem ra, Trung Quốc khó lòng chấp nhận những kiềm tỏa mới này, nhất là khi
dường như thời đại mới đang đem lại cho Trung Quốc những vận hội mới. Sự
kiện Thiên An Môn cũng như những cuộc tranh cãi dai dẳng giữa Trung Quốc
và các nước phương Tây về dân chủ, nhân quyền đã và đang làm dấy lên ở
Trung Quốc khái niệm truyền thống về nội loạn, ngoại loạn, tức là Trung Quốc
càng trở nên nhậy cảm hơn đối với những vấn đề an ninh và chủ quyền quốc gia.
Điều đó có nghĩa mục tiêu về đảm bảo an ninh và chủ quyền quốc gia vẫn là một
điểm quan trọng trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc. Mặt khác, trong
khi dường như không còn nước nào còn tính đến chuyện gây chiến với Trung
Quốc, mối quan tâm giờ đây lại ở một khía cạnh khác: Hiện đại hóa quân sự của
Trung Quốc lại gây nhiều lo ngại trong khu vực. Như vậy, một yếu tố mới đã
nẩy sinh trong mục tiêu tăng cường địa vị quốc tế của chính sách đối ngoại
Trung Quốc. Khi địa vị trên trường quốc tế của Trung Quốc được công nhận
rộng rãi, cộng đồng quốc tế giờ đây đang quan sát xem liệu Trung Quốc có đủ
khả năng đảm đương công việc của một cường quốc có trách nhiệm trong cộng

22



đồng các nước trên thế giới hay không? Điều đó có nghĩa là việc tìm kiếm an
ninh quốc gia và địa vị quốc tế vốn đã khó, nhưng việc duy trì chúng cũng khó
khăn không kém, nhất là khi địa vị quốc tế lớn càng đòi hỏi trách nhiệm lớn.
Mặt khác, dư luận quốc tế cho rằng một số vấn đề trong chính sách đối ngoại
của Trung Quốc vẫn chưa được làm sáng tỏ thực sự và diễn biến trong tương lai
vẫn là điều cộng đồng quốc tế rất quan tâm.

V. NghÖ thuËt “ ngò tri” cña §Æng TiÓu B×nh
1. Nếm mật, nằm gai, chờ đợi thời cơ
Khi Đại Cách mạng văn hóa ở Trung Quốc nổ ra, Đặng Tiểu Bình trở thành một
trong những mục tiêu công kích kịch liệt của Hồng vệ binh. Trong các bài báo
của tổ chức này, ông bị gọi là “tên đi theo đường lối tư bản số hai của “Trung
Quốc” (sau Lưu Thiếu Kỳ).
Giang Thanh (vợ Mao Trạch Đông) tố cáo Đặng Tiểu Bình có 10 tội lớn, quy
về 4 hạng mục: coi thường Mao Trạch Đông, phản đối cải cách giáo dục cao
đẳng, văn hóa và nghệ thuật; có ý đồ phá hoại sự lãnh đạo của tập thể; thực hiện
“độc tài tư sản” và khủng bố trắng.
Cuộc vận động đấu tố Đặng Tiểu Bình đạt đến đỉnh điểm vào mùa hè năm
1967. Hàng ngàn Hồng vệ binh được phép tiến hành ngay “đại hội đấu tố” tại
nhà ở của Đặng Tiểu Bình. Ông bị bắt quỳ xuống đất, hai cánh tay giương cao
về phía sau (đây là cách xử tội “đi máy bay” mà Hồng vệ binh rất thích).
Sau đó, Đặng Tiểu Bình bị giải trừ mọi chức vụ Đảng và chính quyền, chỉ còn
danh hiệu đảng viên thường. Tháng 10/1969, khi bị giam lỏng vừa vặn 2 năm,
Đặng Tiểu Bình bị đuổi ra khỏi Trung Nam Hải, đưa đến Nam Xương, thủ phủ
tỉnh Giang Tây.
Cuộc sống rất khắc khổ nhưng ông không vì thế mà nhụt chí. Trong 2 năm
“nằm gai nếm mật” ở Giang Tây, vị lãnh đạo bị thất sủng này đọc rất nhiều tác

23



phẩm Mác - Lênin, các sách cổ kim của Trung Quốc và nước ngoài; nhờ vậy
tích lũy được nhiều kiến thức và kinh nghiệm sống giúp ích cho công tác về sau
này.
Năm 1971, sau khi bất thành trong việc mưu sát Mao Trạch Đông, Lâm Bưu
chạy trốn và chết vì tai nạn máy bay. Lập tức, Đặng Tiểu Bình nhận định rằng,
kẻ thù chính trị chính của ông đã chết và đồng minh chủ yếu của ông (thủ tướng
Chu Ân Lai) địa vị tất nhiên ngày càng ổn định vững chắc. Ông vội viết thư cho
Mao Trạch Đông và Ban Chấp hành Trung ương Đảng thỉnh cầu cho phép trở về
Bắc Kinh công tác.
Không nhận được thư trả lời, tháng 8/1972 ông viết thư lần thứ 2, trong thư tỏ rõ
ủng hộ Đại Cách mạng văn hóa, bởi vì Đại Cách mạng văn hóa đã làm lộ rõ
chân tướng của những người như Lâm Bưu, Trần Bá Đạt. Ông còn kể tỉ mỉ
những tình tiết, sự việc giao đấu với Lâm, Trần trong mấy chục năm qua, đồng
thời cũng nói lên tâm trạng của ông sau khi rèn luyện.
Bức thư được đưa đến tận tay Mao Trạch Đông. Kết quả, tháng 2/1973, Đặng
Tiểu Bình được rời khỏi Giang Tây, trở về Bắc Kinh, được bổ nhiệm làm phó
thủ tướng Trung Quốc, kết thúc một chặng đường gian truân khổ ải trong cuộc
đời hoạt động chính trị của mình.
2. Đào tẩu vi thượng, bảo toàn mạng sống
Cuối tháng 10 đầu tháng 11/1975 , tình hình lại chuyển biến bất lợi cho Đặng
Tiểu Bình. Nguyên nhân thật giản đơn: Mao Trạch Đông cho rằng mọi kế hoạch
mà Đặng Tiểu Bình thực thi lâu nay đã bắt đầu uy hiếp đến truyền thống của
Đại Cách mạng văn hóa. Hơn nữa, Đặng Tiểu Bình ủng hộ hiệu trưởng Trường
Đại học Thanh Hoa đuổi 2 người ủng hộ bè lũ bốn tên (Giang Thanh, Trương
Xuân Kiều, Diệp Văn Nguyên và Vương Hồng Văn). Hai người này viết thư cho
Mao Trạch Đông để cầu cứu và Mao Trạch Đông ủng hộ họ.
Cuối tháng 11/1975, Hoa Quốc Phong, trong một cuộc họp, đã đọc bản tóm tắt
tuyên bố của Mao Trạch Đông. Theo đó, Đặng Tiểu Bình bị tước bỏ mọi chức
vụ trong chính phủ, chỉ còn lại công việc ngoại giao. Bốn tháng tiếp đó, hằng

24


ngày ông đều phải chịu sự đả kích mãnh liệt của những kẻ thù chính trị. Đặng
Tiểu Bình bị buộc phải làm bản tự phê bình.
Song, khác với năm 1966, lần này ông kiên quyết chống lại. Ông suy nghĩ: Mao
Trạch Đông không còn sống bao lâu nữa và một khi Mao chết thì không ai đủ
uy quyền bắt ông phải tự làm nhục mình. Ông cũng nhận định: Nếu tự phê bình
mình về bất kỳ hành vi nào thì sau khi Mao chết, nhận định xảy ra một cuộc đấu
tranh chính trị và ông nhất định sẽ thất bại trong cuộc đấu tranh này.
Gặp phải áp lực từ “bè lũ bốn tên”, đối sách của Đặng Tiểu Bình là không nói
một câu nào, “im lặng là vàng”. Trong một lần bị “bè lũ bốn tên” liên tiếp tấn
công, Đặng Tiểu Bình đáp lại bằng cách tắt máy nghe của mình (Đặng Tiểu
Bình vốn bị nặng tai) và khi bị yêu cầu trả lời thì ông tuyên bố là không được
nghe một tí gì họ nói nên không thể trả lời được.
Trong tháng 2 và 3/1976, “bè lũ bốn tên” càng tăng cường tấn công Đặng Tiểu
Bình. Chúng cho rằng, án của Đặng có tính chất “mâu thuẫn đối kháng” cho nên
có thể bắt và thi hành bạo lực đối với ông. Không bó tay chịu chết, Đặng Tiểu
Bình đã chủ động lên kế hoạch bí mật chạy trốn. Với sự tháp tùng của Hứa Thế
Hữu, ủy viên Bộ Chính trị - tư lệnh quân khu Quảng Châu, ông đáp máy bay đi
Quảng Châu, thoát hiểm một cách ngoạn mục. “Bè lũ bốn tên” vô cùng tức tối
chẳng biết Đặng Tiểu Bình đi đâu.

25


×