Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Vấn đề con người trong xây dựng CNXH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.03 KB, 28 trang )

CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

LỜI MỞ ĐẦU
Từ xa xưa, con người là một khách thể hết sức phong phú được
nhiều ngành khoa học quan tâm nghiên cứu. Mỗi ngành khoa học có cách
nghiên cứu và nhìn nhận khác nhau.Do vậy, vấn đề con người luôn được
coi là chủ đề trung tâm từ cổ đại đến hiện đại của môn “khoa học của mọi
khoa học” - triết học.
Triết học nghiên cứu về con người và giải đáp những vấn đề chung
của con người như bản chất con người là gì? Vị trí vai trò của con người
đối với thế giới như thế nào? Mối quan hệ giữ cá nhân và xã hội trong đời
sống con người ra sao?... bằng cách tổng hợp các yếu tố thành hệ thống.
Để có thể giải mã được rõ ràng những điều trên, điều tiên nhất là
chúng ta cần phải tìm hiểu rõ bản chất của loài người. Đây là vấn đề luôn
được các nhà triết học đi sâu và tìm cách lý giải.
Thông qua đó, ta không chỉ hiểu rõ được sinh vật nhỏ bé song có
ảnh hưởng rất to lớn tới sự tồn tại và phát triển của trái đất; mà còn giúp
cho con người ngày càng hoàn thiện hơn về cả mặt thể và trí.

1


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

Trong giai đoạn toàn cầu hoá hiện nay, cái giúp cho con người vượt
qua những khó khăn, thử thách, giải thoát con người khỏi những thách đố
và vướng mắc của cuộc sống, đáp ứng nhu cầu thường nhật và lâu dài
của nhân loại không chỉ là kinh tế, kỹ thuật hiện đại và công nghệ cao, mà
còn là triết học. Triết học giúp cho con người tìm ra lời giải không chỉ cho
những thách đố muôn thuở, mà còn cho những vấn đề hoàn toàn mới do
quá trình toàn cầu hoá đặt ra. Triết học là một hệ thống các ý kiến bao hàm


toàn diện về bản chất con người và bản chất của cái thực tại mà chúng ta
đang sống trong đó. Nó là một hướng dẫn viên cho cuộc sống, vì các vấn
đề nó khởi sự rất cơ bản và lan tỏa, định đoạt tiến trình mình chọn trong
đời và cách cư xử với người khác.

I.

Triết học về con người trong triết học trước Mác.

Trong lịch sử tư tưởng nhân loại đã từng tồn tại rất nhiều quan điểm
khác nhau xung quanh vấn đề nguồn gốc và bản chất con người. Trước
Mác không những chủ nghĩa duy tâm mà cả chủ nghĩa duy vật trực quan,
siêu hình cũng không nhận thức đúng bản chất con người. Từ buổi sơ khai
của mình, do hạn chế về nhận thức, con người đã không hiểu được sức
mạnh của thiên nhiên. Sợ hãi trước sức mạnh đó, con người đã thờ trời,
thờ đất, thờ núi sông, thờ muông thú, nhiều lúc cũng đã coi những thứ ấy
là nguồn gốc, là tổ tiên của mình. ( tôtem giáo ).

1.

Trong triết học phương Đông.

Từ thời kỳ xã hội cổ đại, con người bắt đầu tìm hiểu nguồn gốc của
mình và có những ý thức ban đầu về sức mạnh của bản thân mình. Nói
chung, các tôn giáo đều quan niệm con người do thần thánh, thượng đế

2


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688


sinh ra, cuộc sống con người do đấng tối cao an bài, sắp đặt. Có những
trào lưu triết học duy tâm không trực tiếp giải thích nguồn gốc con người từ
trời, từ thần thánh hay từ con vật linh thiêng nào đó, nhưng đã giải thích
một cách không kém phần bí hiểm. Trong triết học trung hoa, vấn đề bản
tính con người được coi là vấn đề được quan tâm hàng đầu. Giải quyết
vấn đề này, từ góc độ hoạt động thực tiễn chính trị, đạo đức, xã hội, Nho
gia đã đi đến kết luận bản tính của con người là Thiện. Phật gia thì cho
rằng bản tính của con người là Bất Thiện. Từ góc độ khác, Đạo gia lại đi
tới kết luận về bản tính tự nhiên của con người. Trong triết học Ấn Độ, từ
góc độ suy tư về con người và đời người, Đạo phật kết luận về bản tính Vô
Thường, Vô Ngã và tính hướng thiện của con người. Các hệ thống phổ
biến nhất có nhiều ý kiến lộ ý chỉ đạo triết lý là các tôn giáo như đạo Phật,
thiên chúa giáo, đạo Do thái, và hồi giáo. Từ các triết học các tôn giáo
không khác nhau ở các chủ thể họ xưng hô mà ở cái phương pháp họ
dùng để xưng hô. Các tôn giáo có cơ sở của họ trong các câu chuyện
hoang đường có từ lâu trước khi có sự khám phá các phương pháp điều
tra hợp lí và dứt khoát. Nhiều tôn giáo ngày nay thỉnh cầu tới niềm tin thần
bí và sự thiên khải — các cách thức về lòng tin quả quyết có căn cứ vững
chắc không lệ thuộc vào luận lý và phương pháp khoa học, ít ra cho những
câu hỏi lớn nhất. Nhưng phần lớn các tôn giáo thì trong các nguồn gốc của
họ tiền luận lý chứ không phải là kháng luận lý, biên bản các vấn đề triết lý
của người kể truyện chứ không phải của một khoa học gia.

2.

Trong triết học phương Tây.

Chủ nghĩa duy vật lựa chọn góc độ KHTN để lý giải về bản chất con
người.Các nhà triết học cổ đại coi con người như vạn vật trong giới tự


3


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

nhiên, không có gì là thần bí, đều được cấu tạo từ vật chất. Đêmôcrit cho
rằng con người được cấu tạo từ nguyên tử. Linh hồn cũng được cấu tạo từ
nguyên tử nhưng là 1 loại nguyên tử đặc biệt nhỏ bé, hình cầu, hết sức
linh động.Các nhà triết học cổ điển Đức mà tiêu biểu là Phoiơbắc quan
niệm rằng : vấn đề mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại là vấn đề bản chất
của con người, chỉ có con người mới có tư duy. Các nhà duy vật Pháp thế
kỷ XVIII và Phoiơbắc đều phê phán mạnh mẽ quan điểm duy tâm, thần bí
và tìm cách giải thích nguồn gốc, bản chất con người theo quan điểm duy
vật. “ Không phải Chúc đã tạo ra con người theo hình ảnh của Chúa mà
con người đã tạo ra Chúa theo hình ảnh của con người”. Lời nói sắc sảo
này của Phoiơbắc đã được Mác và Ăngghen đánh giá cao. Phê phán chủ
nghĩa duy tâm của Hêghen, phoi ơ bắc đã đạt tới Chủ nghĩa duy vật khi
khẳng định rằng ý thức cũng như tư duy của con người chỉ là sản phẩm
của khí quan vật chất nhục thể, tức là bộ óc, rằng vật chất không phải là
sản phẩm của tình thần mà chính tinh thần là sản phẩm tối cao của vật
chất. Song Phoi ơ bắc đã không còn giữ được quan điểm duy vật của mình
khi đi vào phân tích những vấn đề về bản chất con người, về lịch sử xã hội
loài người. Phoi ơ bắc không xem xét con người trong các mối quan hệ xã
hội nhất định của họ, trong những điều kiện sinh hoạt nhất định của họ,
những điều kiện làm cho họ trở thành những con người đúng như nó đang
tồn tại. Phoi ơ bắc xem xét con người tách rời với hoạt động thực tiễn
trong điều kiện lịch sử nhất định. Ông chỉ coi con người là “đối tượng cảm
tính” mà không phải là những thực thể đang hoạt động. Phoi ơ bắc không
biết đến những quan hệ người với người nào khác ngoài tình yêu, tình bạn

hơn nữa lại là tình yêu, tình bạn lý tưởng hóa. Trong chủ nghĩa duy tâm,
các nhà triết học chú trọng góc độ hoạt động lý tính của con người. Với
Platon, đó là bản chất bất tử của linh hồn thuộc thế giới ý niệm tuyệt đối.

4


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

Với Đề Cactơ, đó là bản tính phi kinh nghiệm của lý tính. Hêghen cho rằng
con người là hiện thân của ý niệm tuyệt đối. Điều này mang tính phiến diện
trong phương pháp tiếp cận. Có thể nói các quan niệm trên là những quan
niệm trừu tượng về con người.

II. Quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin về con người.
Mác khẳng định rằng : “Bản chất con người là tổng hòa các quan hệ
xã hội trên nền tảng sinh học của nó. Con người không phải là cái gì đó
đồng nhất, tuyệt đối về chất, mà đó là sự đồng nhất bao hàm trong mình
sự khác biệt giữa 2 yếu tố đối lập nhau : Con người với tư cách là sản
phẩm của giới tự nhiên là sự phát triển tiếp tục của giới tự nhiên; Mặt khác,
con người là 1 thực thể xã hội được tách ra như 1 lực lượng đối lập với
giới tự nhiên.

1.

Con người là một bộ phận của tự nhiên.

Con người là một thực thể sống được thiên nhiên phú cho những
sức mạnh bẩm sinh và sức sống. Con người là đại biểu thuộc bậc thang
cao nhất của tiến hóa vật chất. Con người bình đẳng với các sinh vật khác

trên trái đất và cùng chung sống dưới mái nhà chung. Con người bị chi
phối bởi các quy luật chung của thế giới tự nhiên, sinh vật. Con người hòa
hợp với thiên nhiên, học hỏi thiên nhiên. Con người là một thực thể tự
nhiên hoạt động, bằng lao động con người đấu tranh với thiên nhiên, cải
tạo thiên nhiên và cũng bằng lao động con người sáng tạo ra chính bản
thân minh. Ví như vấn đề môi trường hiện nay đang là mối nguy cơ đe dọa
lớn mà cả nhân loại đang phải gánh chịu. Nó do chính con người tạo nên

5


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

bởi sự thiếu hiểu biết và ý thức sai, hành động sai trái chứkhông phải do
thiên nhiên. Có thể nói, thiên nhiên tồn tại được lâu dài hay không cũng
phụ thuộc phần lớn vào con người. Cái gọi là tính người là sản phẩm của
lao động của chính bản thân con người. Vì là thực thể tự nhiên hoạt động
nên con người đã tự hình thành cho mình những sức mạnh, những sức
mạnh này tồn tại trong con người dưới dạng các tư chất và những năng
lực.
2.

Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt

xã hội.
Với quan điểm duy vật triệt để và phương pháp biện chứng, Mác đã
đưa ra một quan niệm hoàn chỉnh về khái niệm con người, cũng như về
bản chất con người. Mác phân biệt rõ hai mặt trong khái niệm con người :
mặt sinh vật và mặt xã hội.
Trước hết, Mác thừa nhận con người là một động vật cao cấp nhất,

sản phẩm của sự tiến hóa lâu dài của giới sinh vật như tiến hóa luận của
Đác Uyn chỉ ra. Như mọi động vật khác, con người là một bộ phận của
thiên nhiên, tìm thức ăn, nước uống … từ trong thiên nhiên. Con người
phải “đấu tranh” để tồn tại, ăn uống, sinh đẻ… Tuy nhiên, Mác không trừ
quan điểm cho rằng : Cái duy nhất tạo nên bản chất con người là bản năng
sinh vật của nó. Con người vốn là một sinh vật có đầy đủ những đặc trưng
của sinh vật, nhưng lại có nhiều điểm phân biệt căn bản với các sinh vật
khác. Trước Mác và cùng thời đã có nhiều nhà tư tưởng lớn đã đưa ra
nhưng xitêu chí phân biệt người và động vật có sức thuyết phục, chẳng
hạn như Phranklin cho rằng con người khác con vật ở chỗ con người biết
sử dụng công cụ lao động, Arixtốt đã gọi con ngươờ là “một động vật có
tính xã hội”, Pascal nhấn mạnh đặc điểm của con người la sức mạnh của

6


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

con người là ở chỗ con người biêế suy nghĩ. Các nhận định trên đều đúng
khi nêu lên một khía cạnh về bản chất con người, nhưng những nhận định
đó đều phiến diện, không nói lên được nguồn gốc của những đặc điểm ấy
và mối quan hệ biện chứng giữa chúng với nhau.
Triết học Mác xem xét vấn đề bản chất con người một cách toàn
diện, cụ thể, xem xét bản chất con người không phải một cách chung
chung, trừu tượng mà trong tính hiện thực, cụ thể của nó, trong quá trình
phát triển của nó. Con người là một bộ phận của tự nhiên, nhưng trong mối
quan hệ với tự nhiên con người hoàn toàn khác con vật. Mác phân biệt rõ
ràng : “ Con vật chỉ tái sản xuất ra bản thân nó, còn con người thì tái sản
xuất ra toàn bộ giới tự nhiên”. Câu nói sâu sắc này nêu lên tính tất yếu của
sự hòa hợp giữa con người với tự nhiên; bởi tự nhiên là “ thân thể vô cơ

của con người”. Tính loài của con người không phải tính loài trừu tượng.
Nó cũng có những là tính xã hội và loài người chính là “xã hội người”. Con
người có tính xã hội trước hết bởi bản thân hoạt động sản xuất của con
người là hoạt động mang tính xã hội. Trong hoạt động sản xuất, con người
không thể tách khỏi xã hội. Hoạt động của con vật chỉ phục vụ nhu cầu trực
tiếp của nó, còn hoạt động của con người gắn liền với xã hội và phục vụ
cho cả xã hội, trong đó có bản thân mình. Hoạt động của con người không
phải hoạt động theo bản năng như động vật mà là hoạt động có ý thức. Tư
duy con người phát triển trong hoạt động và giao tiếp xã hội, trước hết là
trong hoạt động lao động sản xuất.
Yếu tố sinh học trong con người là điều kiện đầu tiên quy định sự tồn
tại của con người. Con người là 1 bộ phận của tự nhiên, là kết quả của
quá trình phát triển và tiến hóa lâu dài của môi trường tự nhiên.
Điều quy định sự khác biệt giữa con người với thế giới loài vật là
phương diện xã hội của nó. Mác khẳng định “ Có thể phân biệt con người

7


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

với súc vật, bằng ý thức, bằng tôn giáo, nói chung bằng bất cứ cái gì cũng
được. Bản thân con người bắt đầu bằng sự tự phân biệt với súc vật ngay
khi con người bắt đầu sản xuất ra tư liệu sinh hoạt của mình… Sản xuất ra
tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra
chính đời sống vật chất của mình. Thông qua hoạt động sản xuất vật chất,
con người đã làm thay đổi, cải biến giới tự nhiên :” Con vật chỉ sản xuất ra
bản thân nó, còn con người thì tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên.” Nhờ
đó, ta có thể rút ra kết luận : Lao động là yếu tố quyết định, hình thành bản
chất xuất hiện của con người, đồng thời hình thành nhân cách cá nhân

trong cộng đồng xã hội. Bởi vì lao động là nguồn gốc của nên văn minh vật
chất và tinh thần. Lao động là nguồn gốc trực tiếp của sự hình thành ý
thức. Trong lao động, con người quan hệ với nhau trong sản xuất, phân
công lao động, phân phối sản phẩm.
Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát
triển của con người chịu sự chi phối của 3 quan hệ :
+ Hệ thống quy luật tự nhiên quy định phương diện sinh học của con
người.
+ Hệ thống các quy luật tâm lý ý thức hình thành và vận động trên
nền tảng sinh học của con người.
+ Hệ thống các quy luật xã hội quy định quan hệ xã hội giữa người
với người.
Ba quy luật trên không tách rời mà hòa quyện vào nhau tạo nên “chất
nhân” với tư cách là sự thống nhất của mặt tự nhiên và mặt xã hội trong 1
con người hiện thực.
Tóm lại, con người khác con vật về bản chất ở cả ba mặt : quan hệ
với thiên nhiên, quan hệ với xã hội, quan hệ với bản thân. Cả ba mối quan
hệ đó đều mang tính xã hội, trong đó quan hệ xã hội là quan hệ bản chất

8


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

nhất, bao quát nhất trong mọi hoạt động của con người, cả trong lao động
sinh con đẻ cái và trong tư duy.

3. Bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội.
Khi phê phán quan niệm của Phoi ơ bắc, Mác đã khái quát :” Bản
chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng

biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những
quan hệ xã hội.”
Sự hoạt động và phát triển của con người khác loài vật ở 3 phương
diện chính. Đó là con người quan hệ với tự nhiên, quan hệ với xã hội, quan
hệ với chính bản thân con người. Suy đến cùng, cả 3 mối quan hệ đều
mang tính xã hội trong đó quan hệ giữa con người với con người là quan
hệ bản chất. Không có con người trừu tượng, thoát ly mọi điều kiện, hoàn
cảnh, lịch sử xã hội. Con người là cụ thể, xác định, sống trong điều kiện
lịch sử nhất định, một thời đại nhất định. Và chỉ khi tham gia các quan hệ
xã hội, con người mới bộc lộ toàn bộ bản chất xã hội của mình.
Ở đây, ta không phủ định mặt tự nhiên trong đời sống con người,
song mặt tự nhiên tồn tại trong sự thống nhất với mặt xã hôi.

4.

Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử.

Con người là sản phẩm của lịch sử, của sự biến hóa lâu dài của giới
hữu sinh vì không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con người. Có thể nói,
con người chính là chủ thể của lịch sử. Thông qua hoạt động thực tiễn, con
người tác động vào tự nhiên, cải biến tự nhiên, thúc đẩy sự phát triển của
lịch sử xã hội. Trong quá trình cải biến tự nhiên, con người cũng làm ra lịch
sử của mình. Hoạt động lao động sản xuất vừa là điều kiện cho sự tồn tại

9


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

của con người, vừa là phương thức để làm biến đổi đời sống và bộ mặt xã

hội. Thông qua hoạt động vật chất, tinh thần, con người thúc đẩy xã hội
phát triển từ thấp đến cao phù hợp với mục tiêu và nhu cầu do con người
đặt ra. Mỗi sự vận động và tiến lên của lịch sử sẽ quy định tương ứng với
sự vận động và biến đổi của bản chất con người.

III. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và việc xây
dựng con người mới.
“Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết tinh của lòng yêu nước thương dân,
tinh hoa của Khổng Giáo, Phật Giáo, Lão Giáo, tinh hoa của tư tưởng dân
chủ và nhân văn của cách mạng tư sản ở Phương Tây và ở Trung Quốc,
và chủ nghĩa Mác - Lê Nin.Tư tưởng của Người như kim chỉ nam giúp
chúng ta vững tin hơn vào tương lai, không bị gục ngã”. Bạn Vũ Xuân
Dũng, lưu học sinh Việt Nam tại Nhật Bản gửi tâm sự nhân dịp kỉ niệm
ngày sinh nhật Bác Hồ - vị cha già dân tộc.

1.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người.

Tư tưởng Hồ Chí MInh về con người là 1 quá trình phát triển từ thấp
đến cao, từng bước sâu sắc và hoàn thiện hơn từ phạm vi dân tộc vươn
tới tầm nhân loại, hướng tới việc giải phóng con người và mưu cầu hạnh
phúc cho con người. Với Hồ Chí Minh, con người bao giờ cũng là vốn quý
nhất, là tâm điểm mà xã hội cần tập trung giải quyết. Hồ Chí Minh nói cán
bộ là cái gốc của mọi công việc. Cây có đơm hoa kết trái, cành lá sum suê,
đều ở cái gốc đó mà ra. Nhưng muốn có cán bộ, trước hết phải xây dựng
con người. Muốn trở thành cán bộ, trước hết phải trở thành con người.
Những năm 20, dưới sự áp bức bóc lột của CNĐQ, xã hội được chia ra

10



CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

làm hai kiểu người. Một là đế quốc thực dân tàn bạo. Hai là những người
lao động bị áp bức bóc lột nặng nề. “Dù màu da có khác nhau trên đời này
có 2 loại người: giống người bị bóc lột và giống người bị bóc lột.”
Cuối những năm 40, căn cứ vào đạo đức cách mạng Người đã đưa
ra khái niệm: “ Trên trái đất có muôn triệu người. Song số người ấy có thể
chia làm 2 hạng: Người thiện và người ác.”
Cuối cùng, Người khẳng định :” Bọn Việt gian bán nước… “, bọn phát
xít thực dân là ác quỷ ma tà” vào 1 nhóm, còn tất cả những kiểu người
khác vào 1 nhóm.
Trên cơ sở phân chia như vậy, Hồ Chí Minh cũng cho rằng những
người bị bóc lột, những người đi theo điều thiện dù màu da, tiếng nói có
khác nhau nhưng có thể coi nhau như an hem 1 nhà, có thể “đại đoàn kết”,
“đại hòa hợp” trong “1 TG đại đồng”.
Theo Hồ Chí Minh, người ta sinh ra vốn tốt cả, nhưng về sau do ảnh
hưởng của gia đình, bạn bè, xã hội, mà dần dần mỗi người một khác.
Đồng thời, ngay trong “mỗi con người đều có thiện có ác trong long”. Vì
vậy, “ Ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa
mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi... Đối với mỗi thói hư tật xấu trừ hạng
người phản lại tổ quốc và nhân dân, ta cũng phải giúp họ tiến bộ bằng
cách làm cho phần thiện trong con người họ nảy nở còn phần ác bị đẩy lùi
chứ không phải đập cho tơi bời.” ( HCM toàn tập)
Từ đó, Hồ Chí Minh đã rút ra được định nghĩa về chữ Người. Xét
theo nghĩa hẹp, Chữ “ Người “ là gia đình, bạn bè, anh em. Xét theo nghĩa
rộng : Chữ “Người” là đồng bào cả nước, là cả loài người. Tuy nhiên, chữ
Người mà HCM quan tâm trước hết là tuyệt đại bộ phận dân tộc và thành
phần chủ yếu là người lao động.


11


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

2.

Xây dựng con người mới trong tư tưởng HCM.

Đầu những năm 1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định hằng tháng
mời các Ủy viên Bộ Chính trị đến nhà sàn trong Phủ Chủ tịch để ăn bánh,
uống chè, tiến hành phê bình và tự phê bình. Người bắt đầu là Chủ tịch.
Việc này chỉ làm được vài lần, vì sau các Ủy viên Bộ Chính trị... không hào
hứng. Người nói, thế là mất "cả bánh" lẫn "chè ngon"!... Chuyện đã qua cả
nửa thế kỷ, nhưng ngẫm lại mới thấy, để xây dựng tính kỷ luật cho lãnh
đạo không phải chuyện đơn giản, nếu mỗi người không biết tự nhìn lại
chính mình. Có thể nói, xây dựng con người mới là chiến lược hàng đầu
của cách mạng; là quan điểm mang tính tầm vóc chiến lược, cơ bản, lâu
dài nhưng cũng rất cấp bách.
a/ Yêu cầu con người mới.
Người khẳng định rằng:” Nếu xây dựng XHCN trước hết cần có
những con người XHCN.” Con người XHCN phải do CNXH tạo ra.Hồ Chí
Minh quan niệm về con người XHCN có 2 mặt gắn bó chặt chẽ với nhau.
Đó là việc kế thừa những giá trị tốt đẹp của con người truyền thống. Thứ
hai là hình thành những phẩm chất mới như có tinh thần XHCN, có đạo
đức cách mạng, có trí tuệ, có bản lĩnh để làm chủ, có tác phong XHCN, có
lòng nhân ái, vị tha, độ lượng.
b/ Biện pháp xây dựng con người mới .
Nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo. HCM khẳng định :” Một

dân dốt là một dân tộc yếu.
Nội dung là phương pháp giáo dục phải toàn diện cả đức, trí, thể, mỹ
phải đặt đạo đức, lý tưởng và tình cảm cách mạng, lối sống XHCN lên
hàng đầu. Hai mặt đức, tài phải thống nhất với nhau.

12


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

“Trồng người” là công việc trăm năm, không thể nóng vội, 1 sớm 1
chiều, cũng không thể tùy tiện đến đâu hay đến đó.

IV. Vai trò của con người trong sự nghiệp xây dựng CNXH
ở VN.
1.

Vai trò của nguồn lực con người.

a/ Trong lĩnh vực kinh tế.
Quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế của bất kỳ quốc gia nào,
trong bất kỳ hoàn cảnh lịch sử nào cũng đều chịu tác động, ảnh hưởng của
nhiều nhân tố khác nhau, đặc biệt là nhân tố con người.Trong lĩnh vực kinh
tế cần xem xét con người với tư cách là LLSX và vai trò trong QHSX.Lênin
chỉ ra rằng: “LLSX hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người
lao động.” Ngày nay, toàn cầu hóa, khu vực hóa đã làm cho cạnh tranh trở
nên gay gắt và khốc liệt hơn. Đó là cuộc cạnh tranh không chỉ về sản
phẩm, mà cả về nguồn nhân lực. Chính điều này đòi hỏi các quốc gia phải
nhanh chóng tạo ra đội ngũ những người lao động có trình độ chuyên môn,
kỹ năng nghề nghiệp, tri thức khoa học, công nghệ, phẩm chất đạo đức,

nhân cách và sự hiểu biết những nét đặc thù về văn hóa để có thể tham
gia vào các giai đoạn khác nhau của quá trình sản xuất sản phẩm mang
tính quốc tế. Còn những quốc gia chỉ dựa vào lao động giản đơn, hoặc lợi
thế so sánh truyền thống (tài nguyên, giá nhân công…) đang có nguy cơ
tụt hậu rất xa. Do đó, cần phải nâng cao trình độ lao động, tức là phải
chuyển dịch nhanh tỷ lệ lao động giản đơn sang lao động phức tạp. Việc
nâng cao tri thức của người lao động sẽ làm tăng năng lực khoa học và
công nghệ; tiếp đến tăng cường năng lực nội sinh về khoa học - công
nghệ, từng bước làm chủ và sáng tạo các công nghệ mới, tạo ra nhiều

13


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

công nghệ mới có giá trị, nâng cao khả năng, vai trò làm chủ các tri thức
mới và năng lực sáng tạo của mọi người, tăng cường năng lực nội sinh về
khoa học - công nghệ, tức nâng cao khả năng và vai trò làm chủ các tri
thức mới và năng lực sáng tạo của người lao động. Để phát huy năng lực
nội sinh, không chỉ tăng số lượng lao động một cách đơn thuần mà cần
phải tăng cả về chất lượng, cơ cấu, loại hình lao động sao cho phù hợp với
sự phát triển của khoa học - công nghệ và nhu cầu nền kinh tế quốc dân.
Trong quá trình lao động xây dựng CNXH, người lao động đã trở thành
những người làm chủ đất nước, làm chủ trong quá trình quản lý sản xuất
và phân phối sản phẩm.
b/ Trong lĩnh vực chính trị.
Trong tác phẩm Chính trị, Aristotle đã khẳng định, con người theo
bản năng tự nhiên đã có tính chính trị. Khi người dân có tri thức, năng lực,
thấy được trách nhiệm của mình trong việc lựa chọn những người có đức,
có tài vào cơ quan nhà nước sẽ góp phần xây dựng nhà nước vững mạnh.

Cán bộ nhà nước có hiểu biết lý luận, thực tiễn, thấy được trách nhiệm của
mình với nhân dân, sẽ hết long phụng sự nhân dân và tôn trọng quyền làm
chủ của nhân dân được dân mến, dân tin, dân ủng hộ. HCM khẳng định:”
Khi người dân…. biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của
mình, dám nói, dám làm”, “ thì việc gì khó mấy họ cũng làm được, hi sinh
mấy họ cũng không sợ.”
c/ Lĩnh vực văn hóa.
Tất cả chúng ta đều đồng ý là sự phát triển kinh tế càng ngày càng
tăng sau đổi mới đã làm cho cuộc sống dân chúng khá lên, và đến năm

14


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

2010 chúng ta sẽ thoát khỏi nhóm các nước đói nghèo. Nhưng không
nhiều người chú trọng vào văn hóa, như là động lực của kinh tế, như ý
kiến của UNESCO. Không chỉ là động lực mà văn hóa còn là định hướng
và là kết quả nhân văn của một nền kinh tế lành mạnh. Bởi vì văn hóa là
yếu tố căn bản nhất để định nghĩa con người: con người là một sinh vật có
văn hóa.Ít người thấy rõ sự tác động đó của văn hóa vào kinh tế. Thí dụ tai
nạn giao thông, chủ yếu do thiếu văn hóa, không chấp hành luật lệ giao
thông, say sưa, chạy ẩu, giành khách… đã làm giảm 1,5 - 2% GDP mỗi
năm ở nước ta. Còn nhiều tệ nạn xã hội làm cho đất nước nghèo đi như xả
rác gây ô nhiễm, phá rừng, bệnh AIDS… Chỉ lấy một thí dụ như: dịch cúm
gia cầm ở Bạc Liêu, Cà Mau. Xem ti vi mới thấy nếu vịt chết mà chịu khó
đốt hay chôn thì chắc lây lan ít, thay vì thế lại vất bừa trên kênh lạch.
Chúng ta sẽ mất bao nhiêu tiền để ngăn chặn và dứt trừ nạn dịch? Mỗi
năm ngành đường sắt tốn 800 triệu để thay kính vỡ trên toa vì bị ném đá
từ dưới đường.Chỉ lo phát triển kinh tế mà ít chú trọng đến phát triển văn

hóa thì xây dựng một lại phá gần nửa, có thêm thì lại mất cái không đáng
mất. Giàu có chưa chắc đã có một cuộc sống tốt đẹp nếu không có một
trình độ văn hóa tương đương. Có những người ngoại thành bán đất, mua
xe cho con cái rồi chạy ẩu, chết. Cha thì uống rượu nhiều sanh đau gan,
chết. Còn nội thành thì có khi hư hỏng ăn chơi.Người ta kính trọng một
nước hay một con người không chỉ do một yếu tố duy nhất là giàu mà còn
nhiều yếu tố khác: nước đó có bao nhiêu Nobel về khoa học hay văn
chương, hiện có bao nhiêu nhà làm phim, bao nhiêu nhà nghệ thuật, bao
nhiêu nhà trí thức có tiếng nói ảnh hưởng đến dân chúng, có nhà chính trị
kinh tế nào làm thay đổi vận mệnh của một đất nước?Khi xây dựng kinh tế,
văn hoá là một yếu tố quyết định. Nhìn sang Tây phương, một số nhà xã
hội học hàng đầu đã nói chủ nghĩa tư bản là kết quả của cuộc cách mạng

15


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

công nghiệp và chủ nghĩa Thanh giáo Tin lành (Puritanism) vào cuối thế kỷ
XVI (xem Thuyết khổ hạnh và tinh thần của Chủ nghĩa tư bản của Max
Weber). Ngay thời hiện tại, chủ trương phải làm giàu để giúp đỡ người
khác của nền văn hóa tin lành, (trái với Thiên chúa ca ngợi sự nghèo khó,
xem đó là một đức hạnh) - vẫn còn ảnh hưởng: 2 tỷ phú giàu nhất và nhì
thế giới, trong đó một người là Bill Gates đã cho đi nửa gia tài và nói sẽ
cho hết vào cuối đời và một tỷ phú khác đã cho tất cả gia tài vào việc từ
thiện. Nếu xem xét kỹ hơn thì ngay cả những đức tính của những nhà kinh
tế cũng có phần đóng góp rất lớn cho văn hóa. Trong cuốn Nghệ thuật
lãnh đạo lấy từ kinh Thánh (The Bile leadership - Nhà xuất bản Tri thức,
2006) của Lorin Woolfe giảng dạy về quản lý và lãnh đạo tại Hiệp hội Quản
trị Mỹ AMA, chúng ta thấy những đức tính và khả năng lãnh đạo trong kinh

tế được xếp theo mười chương: 1. Chính trực và lương thiện, 2. Mục đích,
3. Lòng nhân ái và lòng tốt, 4. Tính khiêm nhường, 5. Kỹ năng giao tiếp, 6.
Kỹ năng quản lý hiệu quả công việc, 7. Phát triển đội ngũ, 8. Lòng can
đảm, 9. Công bằng và bình đẳng, 10. Phát triển đội ngũ lãnh đạo.Chúng ta
thấy có những nhà quản lý kinh tế thành công với những tư tưởng thật
đẹp. Max De Pree, cựu chủ tịch hãng Herman Miller đã viết: “Mục tiêu của
tôi là khi người ta nhìn vào chúng tôi không chỉ là một tập đoàn mà là cả
một nhóm người làm việc thân thiết trong một mối quan hệ giao ước với
nhau, họ sẽ nói, “những người này là món quà cho tâm hồn”. Kế nghiệp
ông là Kermit Campbell, đã bổ sung rằng sứ mệnh thật sự của công ty
không phải là tạo ra sản phẩm mà là “giải phóng tâm hồn con người”.
Nhưng cũng trong cuốn sách này L. Woolfe nói: “Thời kỳ nhà tiên tri
Jeremiah là thời kỳ suy tàn hơn cả nước Mỹ cuối thế kỷ XX” (trang 38). Tại
sao nước Mỹ có những nhà kinh tế hàng đầu với những tư tưởng nhân
văn như thế, với những phương tiện mà không nước nào có được, lại

16


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

không thể tạo ra một xã hội lý tưởng? Hẳn là vì văn hóa, vì bảng giá trị
sống còn thiếu những điều căn bản nào đó, và vì triết học có những lỗ
hổng lớn ở nhân sinh quan và bản thể luận. Có lẽ vì thế mà những triết gia
hàng đầu của Tây phương ở thế kỷ XX như Karl Jasper, Martin
Heidegger… những nhà triết học như Heinzich Zimmer, Francois Jullien…
đều tìm hiểu, đối thoại với và tìm cách bổ sung bằng minh triết Đông
phương. Hiện giờ Phật giáo đang phát triển mạnh ở Âu Mỹ, không chỉ
bằng những quan niệm lý thuyết mà chủ yếu là bằng sự thực hành có
phương pháp, chúng ta không biết có lấp đầy những lổ hổng chết người đó

không. Cái đó cũng tùy thuộc vào vận mệnh của những nước đang đứng
đầu và đang phát triển khoa học kỹ thuật và sự sung túc vật chất.Văn hóa
là động lực và cũng là mục tiêu của kinh tế, chính trị và xã hội. Chả thế mà
theo Platon, lý tưởng là một nhà vua đồng thời là một triết gia. Ở Đông
phương, một minh quân lý tưởng là một nhà hiền triết, với Trung Hoa là
đạo “nội thánh ngoại vương”. Văn hóa có khi là yếu tố quyết định trong
phương thức tiến hành hoạt động chính trị, xã hội và kinh tế. Như
Mahatma Gandhi, khi tranh đấu cho nền độc lập Ấn Độ đang bị Anh cai trị,
ông đã chọn sách lược bất bạo động là một yếu tố văn hóa Ấn Độ nói
chung và Phật giáo nói riêng. Lịch sử cho thấy sách lược đó có kết quả
nhanh chóng, bớt hao tổn, và đem lại cái mà ngày nay gọi là “cả hai cùng
thắng”.Hiện giờ khoa học kỹ thuật là tài sản chung của nhân loại, nhưng sử
dụng khoa học kỹ thuật đó như thế nào là vấn đề văn hoá. Chẳng hạn có
những nước giàu nhờ chế tạo và buôn bán vũ khí, hay trả cho công lao
của công nhân và nông dân quá rẻ. Kinh tế không thể tự mình giải quyết
được hố ngăn cách giữa một số quá ít quá giàu và đa số nghèo, như một
số nước giàu nhất cho thấy, mặc dù họ cũng đứng nhất về những lý thuyết
kinh tế. Phải chăng chúng ta đều cần những yếu tố văn hóa để kinh tế

17


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

không là sự chia rẽ con người và có sự ổn định bền vững. Sử dụng khoa
học kỹ thuật thế nào để đưa lại hạnh phúc chân thực cho con người, đó là
định hướng của văn hóa. Chúng ta thấy khoa học kỹ thuật là chung, thế
giới là “phẳng”, nhưng Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ và Trung Quốc đều có
hướng đi riêng, độc lập nhưng không cô lập, và họ đã khá thành công. Đó
là bản sắc văn hóa. Họ giàu có lên nhưng vẫn giữ được sự ổn định xã hội,

ít ly dị, gia đình vẫn là tế bào căn bản của xã hội, những phong tục, lễ lạt
và tính tình vẫn không thay đổi nơi cốt lõi.Nhìn một cách sâu hơn, tất cả
mọi nền văn hóa, mặc dầu có những ưu khuyết điểm riêng, đều có hướng
đi chung khiến cho tất cả đều “đồng quy nhi thù đồ” (khác đường nhưng
quy hướng về một chỗ, lời của Khổng Tử). Mọi nền văn hoá đều có giá trị
chung, ước mơ chung là làm cho con người hoàn thiện hơn, cao đẹp hơn,
hiểu biết hơn, nhiều yêu thương hơn… Chỗ đồng quy đó là
Chân Thiện Mỹ. Mặc dầu có những điểm yếu, điểm mạnh riêng, có trình độ
cao thấp khác nhau, nhưng tất cả đều nhắm đến Chân Thiện Mỹ cho nhân
loại và hành tinh này. Chính vì ước mơ chung đó nên văn hóa là tác nhân
có thể đưa đến đối thoại (nền văn hóa không thể và không muốn đối thoại,
không thể và không muốn cùng đưa nhau tiến bộ là một nền văn hoá kém,
chưa tiến bộ, nhất là trong thời đại toàn cầu hóa ngày nay), đưa đến cảm
thông, đưa đến hòa hợp, đưa đến “tứ hải giai huynh đệ” (bốn biển là anh
em, lời của Khổng giáo) cho thế giới. Đây là điều khoa học kỹ thuật và
những thành tựu kinh tế không thể làm, bởi vì một thế giới đồng dạng về
mặt vật chất, xe hơi, điện thoại di động, internet… mà chưa có tinh thần đối
thoại, khoan dung, cảm thông, tinh thần cùng hướng về Chân Thiện Mỹ,
tinh thần văn hóa, thì vẫn chưa thể cùng sống hạnh phúc nơi trái đất nhỏ
hẹp này được.

18


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

Dưới CNXH, nhân dân lao động đã trở thành người làm chủ trong
đời sống văn hóa xã hội.Quần chúng nhân dân lao động cũng là những
người góp phần xây dựng nên những công trình văn hóa, những người
sáng tạo ra các tác phẩm nghệ thuật: Tác phẩm “ Truyện Kiều “ của

Nguyễn Du; Bộ phim “Áo lụa Hà Đông”; … C ó thể nói con người không
chỉ là chủ thể của hoạt động SX vật chất mà còn là chủ thể của quá trình
sản xuất tinh thần xã hội.Bằng hoạt động thực tiễn, trước hết là lao động
sản xuất, con người cải tạo tự nhiên, biến đổi xã hội, bắt tự nhiên phục vụ
cho mình và làm đẹp cho tự nhiên, đồng thời cải tạo chính bản thân mình.

2.

Thực trạng con người ở VN trong những năm qua.

a/ Ưu điểm.
Sau CM T8 – 1945, người dân VN từ địa vị những người bị mất
nước, nhiều nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, đều có quyền bầu
cử và ứng cử. Trình độ học vấn nâng cao từ 5% trước đây tới nay gần
90% dân số biết chữ. Tổng số trường đại học và cao đẳng trong cả nước
lên tới 255 trường. Đào tạo được đội ngũ tri thức đông đảo, hơn 10 nghìn
người có trình độ trên đại học, hơn 1 triệu người có trình độ đại học đang
công tác trong các lĩnh vực của ĐS XH.Tuổi thọ trung bình của người VN
tăng lên nhiều so với trước đây, từ 68,5 tuổi (2003)  69 tuổi (2004) 
70,5 tuổi (2005).
Bên cạnh đó, tính tích cực xã hội, tính tự chủ, sự năng động, sáng
tạo của con người VN đã được nâng lên. Thanh niên ngày nay tự chủ, tự
tin, linh hoạt trong cuộc sống, có ham muốn làm giàu, có ý chí vươn lên
trong cuộc sống. Họ làm việc có hiệu quả hơn, học những gì cần, làm
những gì thấy có lợi và quyết tâm hoàn thành mục đích đề ra. Theo số liệu
điều tra của Uỷ ban quốc gia về thanh niên VN : mẫu thanh niên lý tưởng

19



CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

hiện nay, ngoài sự hiểu biết sâu xa về chuyên môn, xã hội chiếm tỷ lệ
86.9%, sự năng động sang tạo chiếm 83%, tỷ lệ biết làm giàu chiếm 36%.
M Các thanh niên tiêu biểu : Hoàng Minh Tiến, Vụ Bản, Nam Định. Gương
thanh niên điển hình tiên tiến năm 2005, triệu phú tuổi 30 . Võ Quốc Thắng
– Giám đốc gạch ĐT-LA. Hồ Quang Hà - Chủ tịch hội doanh nghiệp trẻ Hà
Nội - người Vn đầu tiên ghi danh công ty của mình trên thị trường chứng
khoán New York… Nhờ đó, con người có nhiều cơ hội để thể hiện tài năng
của mình và tích cực nâng cao trình độ quản lý kính tế, xã hội. Chỉ số phát
triển con người (HDI) ở VN từ 112(2004) -> 108 (2005) trong 177
nước.Mức thu nhập bình quân / người từ 2300 USD (2001) -> 2490 USD
(2005).Tỷ lệ hộ đói nghèo giảm 1 nửa từ 58.1% năm 1993 -> 24.1% năm
2004.Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng dưới 5 tuổi giảm còn 24% 2005.
Con người hiện nay có tinh thần dân tộc cao, có suy nghĩ hành động
thực tế hơn, giàu lòng nhân ái, biết sống vì mọi người. Các quĩ vì người
nghèo được lập lên ở mọi nơi. Những nạn nhân mắc bệnh màu da cam
nhận được sự cảm thông, chia xẻ từ khắp mọi vùng miền trên trái đất.
Nhiều ngôi nhà tình nghĩa được dựng lên. Các nạn nhân của các vùng
thiên tai luôn nhận được sự cứu trợ kịp thời, …
b/ Khuyết điểm.
- Tuyệt đối hóa tính xã hội, coi nhẹ mặt tự nhiên, không quan tâm
đúng mức tới nhu cầu vật chất, lợi ích cá nhân của người lao động.
- Nhấn mạnh tính giai cấp 1 cách phiếm diện, sai lệch nên không chú
ý kế thừa những giá trị của nhân loại. Nhiều gia đình ít chú ý tới giáo dục
gia phong, gia lễ cho con cái => tạo ra những khiếm khuyết về nhân cách
trong 1 bộ phận thanh niên hiện nay (không chịu học tập rèn luyện, thiếu

20



CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

quyết tâm phấn đấu vươn lên lập nghiệp, không ít thanh niên đi vào con
đường nghiện hút, cờ bạc, tệ nạn xã hội…).
- Tình trạng quan liêu trong bộ máy nhà nước, 1 bộ phân cán bộ
tham nhũng cửa quyền, vi phạm quyền ự do dân chủ của công dân, làm
biến dạng nhân cách con người, không ít kẻ cơ hội, hữu khuynh chui vào
tổ chức Đảng, cơ quan nhà nước gây ra những tác động xấu đang làm xói
mòn long tin của quần chúng đối với Đảng và nhà nước ta.
- Trong GDĐT, phương pháp giáo dục chưa kích thích được tính
sang tạo của người học, chưa thực sự gắn kết lý luận với thực tiễn CS cho
nên không ít sinh viên ra trường khó xin việc.
- Cơ cấu đào tạo giữa các ngành nghề chưa hợp lý dẫn đến tình
trang vừa thừa vừa thiếu cán bộ hiện nay.


Nguyên Nhân:

Nước ta là nước nông nghiệp lạc hậu đi lên CNXH, năng suất lao
động thấp, đời sống nhân dân còn khó khăn,… không đủ điều kiện để đảm
bảo cho con người phát triển toàn diện. Trải qua nhiều năm đấu tranh,
không có điều kiện chăm sóc con người. Bên cạnh đó, người dân còn chịu
ảnh hưởng của phong tục tập quán, thói quen sản xuất hànghóa nhỏ, thiếu
ý thức tổ chức kỷ luật, cách nhìn thiển cận,… Nền kinh tế thị trường mở
rộng, giao lưu quốc tế dẫn đến lối sống thực dụng. Sự đầu tư cho giáo dục
còn hạn chế. Tình trạng tiêu cực trong giáo dục còn phổ biến, chất lượng
giáo dục còn hạn chế. Những yếu kém trong quản lý nhà nước, hệ thống
pháp luật chưa đồng bộ. Đảng và nhà nước còn phạm nhiều sai lầm trong
việc xác định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất – kĩ thuật, bố

trí cơ cấu kinh tế, trong cải tạo và sự dụng các thành phần kinh tế, trong
việc điều haàn cơ chế quản lý kinh tế, trong việc thực hiện chuyên chính vô

21


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

sản, buông lỏng trên nhiều mặt về cải tạo quản lý kinh tế, xã hội về đấu
tranh tư tưởng văn hóa và cả trên mặt đấu tranh chống lại những âm mưu
thủ đoạn phá hoại của kẻ thù.

3. Phương hướng và giải pháp phát huy con người ở VN.
a/ Phương hướng.
Đảng ta luôn xác định “ lấy chủ nghiadx Mác – Lênin và tư tưởng
Hồ Chính Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động.” Việc
nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin,
vận dụgn một cách đúng đắn, sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể ở Việt Nam
sẽ đem lại những biến đổi rõ rệt trong sự nghiệp đổi mới đang diễn ra ở
nước ta hiện nay. Đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH, phát triển nên kinh tế
đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn chỉnh một hệ thống cuộc sống XH
phù hợp. Từng bước xây dựng và không ngừng hoàn thiện cơ chế quản lý
của chế độ XHCN.
b/ Biện pháp.


Trong kinh tế:

Giai đoạn phát triển mới đòi hỏi phải tiếp tục khai thác các yếu tố
tăng trưởng theo chiều rộng, nhất là sức lao động, vốn đầu tư và đất đai,

song muốn tiến nhanh và bền vững, phải thật sự tạo được bước phát triển
mạnh mẽ về chất lượng theo chiều sâu , nhất là chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, nâng cấp trình độ công nghệ và quản lý, cả ở tầm vĩ mô và vi mô, để
tăng năng suất, sức cạnh tranh và hiệu quả của hàng hóa, của doanh
nghiệp và của nền kinh tế. Muốn vậy, phải giải quyết những vấn đề chính
dưới đây bằng hành động quyết liệt của các doanh nghiệp và nhân dân,

22


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

với sự tổ chức phối hợp có hiệu quả của các hiệp hội và vai trò thúc đẩy,
hỗ trợ thiết thực của Nhà nước. Nâng cao vị thế của người lao động trong
quá trình sản xuất. Khắc phục tình trạng tách người lao động ra khỏi TLSX,
thực hiện giao đất giao rừng cho người dân. Huy động nhân dân đóng góp
ý kiến xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế xã hội. Chăm lo đời sống vật
chất, tinh thần của người lao động, thực hiện phân phối công bằng, công
khai, dân chủ. Động viên mọi người dân bỏ vốn ra sản xuất, kinh doanh,
khai thác thế mạnh của địa phương, phát triển ngành nghề truyền thống,
phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN. Tăng cường GD, khơi dậy
lương tâm nghề nghiệp, nêu cao trách nhiệm của mỗi người trong SX kinh
doanh, dịch vụ.


Trong lĩnh vực chính trị

Nâng cao trình độ của cán bộ đảng viên về nhận thức chính trị, luật
pháp, nhà nước. Tăng cường vai trò kiểm tra giám sát của quần chúng
nhân dân trong mọi hoạt động của bộ máy nhà nước. Xây dựng cơ chế

quản lý xã hội, quản lý nhà nước để người dân có điều kiện tham gia.
Phân rõ trách nhiệm của từng cấp từng ngành, khắc phục tình trạng chồng
chéo hay buông lỏng quản lý nhà nước trong một số ngành một số địa
phương. Giáo dục tinh thần yêu nước nâng cao ý thức tự cường dân tộc
trách nhiệm công dân bản lĩnh chính trị của mỗi người dân. Kiên quyết đấu
tranh với những hiện tượng tiêu cực, tình trạng vi phạm kỷ cương, phép
nước và những âm mưu chống phá của kẻ thù, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ thành quả cách mạng.
 Trong lĩnh vực xã hội

23


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

Từng bước khắc phục đi tới loại bỏ những phong tục tập quán lạc
hậu, những quan hệ không bình đẳng, xây dựng quan hệ mới giữa người
với người trên tinh thần tương trợ giúp đỡ lẫn nhau.Thực hiện những biện
pháp làm giảm dần khoảng cách chênh lệch giữa các tầng lớp dân cư, các
vùng lãnh thổ.Thực hiện chính sách xoá đói giảm nghèo, tập trung giải
quyết các vấn đề cấp bách về lao động việc làm y tế giáo dục văn hoá.


Trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo
“Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí

đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”.
Chính vì vậy, ta cần phải quan tâm đến vấn đề giáo dục và đào tạo.
Nâng cao chất lượng, đổi mới cơ cấu và mở rộng quy mô giáo dục - đào
tạo ở các cấp học phải có sự đổi mới nội dung và phương pháp giáo

dục,phát triển nhanh đào tạo nghề. Bên cạnh đó, ta còn cần phải tích cực
đổi mới phương pháp dạy và học. Phương pháp dạy phải kích thích được
tính sáng tạo, sự hăng say, tìm tòi nghiên cứu của người học. Phương
pháp học phải độc lập tự chủ, biết kết hợp giữa lý luận và thực tiễn. Ngoài
ra còn cần mở rộng các hình thức đào tạo liên thông; gắn kết giáo dục đào tạo với nghiên cứu khoa học - công nghệ , và cả hai lĩnh vực phải bám
sát nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, đáp ứng nhu cầu nâng cao dân trí,
phát triển các tài năng và nhu cầu đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ và
quản lý. Nâng cao hiệu quả đầu tư của Nhà nước đi đôi với đẩy mạnh xã
hội hóa, huy động toàn xã hội tham gia bằng nhiều hình thức vào sự phát
triển giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ. Triển khai thực hiện kết
luận của Hội nghị Trung ương lần thứ 6 khóa IX về giáo dục - đào tạo và
khoa học - công nghệ, tập trung vào đổi mới và nâng cao năng lực quản lý,
xây dựng đội ngũ giáo viên và nhà nghiên cứu khoa học, công nghệ, sớm

24


CH sè 11 - B1 - §H KTQD Chuyªn Photocopy - §¸nh m¸y - In LuËn v¨n, TiÓu luËn : 6.280.688

loại bỏ những hiện tượng tiêu cực trong dạy, học, thi cử, cấp bằng. Không
chỉ chú trọng vào việc nâng cao, bồi dưỡng tri thức , ta cần phải tăng
cường hơn nữa sự phối hợp của gia đình, nhà trường, xã hội trong đào tạo
thế hệ trẻ, nhằm phát triển được tối đa khả năng tiềm ẩn của giới trẻ, và có
thể tránh những hậu quả đáng tiếc xảy ra.


Trong lĩnh vực tư tưởng văn hoá nghệ thuật
Đảng ta đã khẳng định, văn hoá vừa là mục tiêu vừa là động lực xây

dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Các nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ, nghệ sĩ

cần nâng cao trách nhiệm của mình trong sáng tác nhất là trong giai đoạn
hiện nay. Dư luận xã hội phải lên tiếng ủng hộ những tác phẩm có hình
thức, nội dung hay, phê phán những tác phẩm có hình thức và nội dung
dở.Tăng cường công tác quản lý của nhà nước trong hoạt động sáng tác,
biểu diễn.

25


×