Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Chuyên đề: Những nội dung cơ bản của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.18 KB, 12 trang )

CHUYÊN ĐỀ
NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG
CÁCH HỒ CHÍ MINH
Kính thưa tất cả các đồng chí!
Theo hướng dẫn của Ban Tuyên giáo Trung ương, Hướng dẫn số 19, ngày 17/11/2016,
chuyên đề toàn khóa 2016- 2020 theo tinh thần chỉ đạo tại Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị được xác
định là “ Những nội dung cơ bản của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Đây là nội
dung chính của chuyên đề toàn khóa được đặt ra từ năm đầu và thực hiện xuyên suốt trong
quá trình học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Vào ngày 12/ 10/2016, Ban Tuyên giáo Trung ương đã tổ chức Hội nghị Báo cáo viên toàn
quốc bằng hình thức trực tuyến quán triệt Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị và triển khai chuyên đề “
những vấn đề cơ bản, cốt lõi về tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” do Giáo sư- Tiến
sỹ Hoàng Chí Bảo, Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương trình bày. Tại Hội nghị này, Ban
Thường vụ tỉnh ủy đã tổ chức 02 điểm cầu trung tâm tỉnh để tổ chức cho đông đảo cán bộ chủ
chốt cấp tỉnh, cấp huyện cùng tham dự. Theo dó, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy đã tổ chức ghi âm,
ghi hình làm thành đĩa VCD toàn văn bài báo cáo của Giáo sư- Tiến sỹ Hoàng Chí Bảo, và đã
sao gởi đến tất cả các tổ chức cơ sở đảng trong toàn tỉnh để làm tài liệu sinh hoạt, học tập đến
toàn thể cán bộ, đảng viên. Theo kế hoạch, tới đây đĩa VCD này sẽ tiếp tục in sao gởi đến tất
cả các trường học, cơ sở đào tạo trong toàn tỉnh kèm tập sách “ Những tấm gương điển hình
tiên tiến toàn tỉnh trong học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh giai đoạn 20112015” để học tập, sinh hoạt. Như vậy, về cơ bản, bước đầu toàn tỉnh đã triển khai một số nội
dung quan trọng và căn bản đáp ứng yêu cầu chỉ đạo của Trung ương.
Để thống nhất về mặt nội dung yêu cầu của việc học tập, sinh hoạt chuyên đề toàn khóa ngay
từ năm đầu, đồng thời nhằm đảm bảo tính nhất quán, tính toàn diện của nội dung do Ban Thường vụ
Tỉnh ủy chính thức triển khai, tại Hội nghị toàn tỉnh lần này- tôi xin được báo cáo những vấn đề cơ
bản của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ chí Minh như sau:

I. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Theo Từ điển Triết học, "Tư tưởng là sự phản ánh hiện thực trong ý thức, là biểu hiện của
quan hệ của con người với thế giới xung quanh".1
Theo nghĩa phổ thông nhất, tư tưởng là suy nghĩ, ý nghĩ. Trong cụm từ “tư tưởng Hồ Chí
Minh”, thuật ngữ “tư tưởng” có ý nghĩa ở tầm khái quát triết học. Nó được dùng với nghĩa là “học


thuyết”, là một hệ thống những quan điểm, quan niệm, luận điểm được xây dựng trên một nền tảng

1

Từ điển Triết học, NXB Sự Thật, Hà Nội, 1976, tr. 877


triết học nhất quán, đại biểu cho ý chí, nguyện vọng của một giai cấp, một dân tộc, được hình thành
trên cơ sở hiện thực, thực tiễn nhất định và trở lại chỉ đạo hoạt động thực tiễn, cải tạo hiện thực.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh”
là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của Cách mạng Việt Nam,
là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của
nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại.
Như vậy, định nghĩa về tư tưởng Hồ Chí Minh như trên thể hiện bốn nội dung chủ yếu sau:
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ
bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ
nghĩa.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa MácLênin vào điều kiện cụ thể của nước ta.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết hợp tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng
dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong suốt hơn 70
năm qua và tiếp tục soi sáng con đường chúng ta tiến lên xây dựng một nước Việt Nam hòa bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ và xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ
bản của cách mạng Việt Nam. Về cơ bản, gồm 09 nội dung cốt lõi đó là:
1. Tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Toàn bộ cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh và mong muốn của Người là mục
tiêu giành độc lập, tự do cho đất nước, đem lại hạnh phúc cho nhân dân, làm cho nhân dân "ai cũng
có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành". Để thực hiện mục tiêu đó cần thực hiện sự giải phóng

triệt để: Đó là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Chính vì mục tiêu cao
cả đó, Người đi tìm đường cứu nước và đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho cách mạng Việt
Nam, đóng góp quan trọng vào sự nghiệp giải phóng nhân dân lao động trên toàn thế giới.
2. Tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại.
Người đã chỉ ra rằng: "Muốn cứu nước, giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác
con đường cách mạng vô sản". Người đã giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc và giai cấp, quốc gia và
quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại. Những tư tưởng quan trọng này xuất phát
từ một đòi hỏi thực tiễn bức xúc: Phải chống chủ nghĩa thực dân, phải gắn liền cách mạng thuộc địa
với cách mạng ở chính quốc. Con đường để giữ vững độc lập, tự do, hạnh phúc, ấm no cho dân tộc
là con đường đi lên xã hội chủ nghĩa, phải tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên mọi lĩnh vực.
Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở


bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng
chủ đạo trong toàn bộ di sản lý luận Hồ Chí Minh.
3. Tư tưởng về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc.
Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin: Cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng, Hồ Chí Minh đã đưa vai trò của nhân dân lên tầm cao mới: Nhân dân là chủ thể sáng tạo ra
lịch sử, là người chủ thực sự của đất nước; coi nhân tố con người là nguồn lực cơ bản tạo nên sức
mạnh vô địch để kháng chiến, kiến quốc. Người thường nói: Dễ trăm lần không dân cũng chịu; khó
vạn lần dân liệu cũng xong. Sức mạnh của nhân dân được nhân lên gấp bội khi thực hiện được khối
đại đoàn kết toàn dân tộc, trên nền tảng liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và
đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng tạo nên sức mạnh vô địch của cách mạng Việt Nam.
Người khẳng định: "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công"..
4. Tư tưởng về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước thật sự của dân, do
dân, vì dân.
Dân chủ là bản chất của chế độ XHCN. Dân chủ là mục tiêu, là động lực của cách mạng
XHCN. Thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng, trong nhân dân là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu
của Đảng và Nhà nước ta. Nhà nước là công cụ chủ yếu để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của

mình. Do đó, Hồ Chí Minh coi trọng việc xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, của dân, do
dân, vì dân. Nhà nước ta mang bản chất giai cấp công nhân, có tính dân tộc và nhân dân sâu sắc do
Đảng lãnh đạo, hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, thống nhất quyền lực; đội ngũ cán bộ
Nhà nước phải có đức, có tài, phải thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, là công bộc của
nhân dân, vì nhân dân mà phục vụ. Để xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân, Chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn chỉ rõ phải kiên quyết đấu tranh chống tham ô, lãng phí, quan liêu. Coi tham ô, lãng phí,
quan liêu là ba thứ "giặc nội xâm" rất nguy hiểm.
5. Tư tưởng về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân.
Vận dụng sáng tạo tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin về bạo lực cách mạng, Hồ Chí Minh
luôn coi bạo lực cách mạng là sức mạnh tổng hợp của nhân dân, bao gồm các hình thức: Chính trị,
quân sự và sự kết hợp giữa chính trị và quân sự. Trong quá trình đấu tranh giành và giữ chính quyền,
giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, bên cạnh việc chăm lo xây dựng lực lượng chính trị, phải chăm
lo xây dựng, củng cố lực lượng vũ trang, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân
dân, thực hành chiến tranh nhân dân với sức mạnh tổng hợp. Người nhấn mạnh: Quân sự phải phục
tùng chính trị, lấy chính trị làm gốc. Quân đội ta là quân đội nhân dân, từ nhân dân mà ra, vì nhân
dân mà phục vụ, quân đội ta là đội quân chính trị, đội quân chiến đấu, đội quân công tác. Lực lượng
vũ trang nhân dân đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng.
6. Tư tưởng về phát triển kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân.
Suốt đời Hồ Chí Minh phấn đấu cho độc lập dân tộc và hạnh phúc của nhân dân. Người chỉ
rõ: Nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì!


Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: "Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh
tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân".
7. Tư tưởng về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư.
Hồ Chí Minh luôn chăm lo giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên và mọi người dân về phẩm
chất đạo đức cách mạng. Người đặt lên hàng đầu tư cách "Người cách mệnh" và bản thân Người
cũng là một tấm gương sáng về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. Người
coi đạo đức như là gốc của cây, là nguồn của các dòng sông. Người cộng sản mà không có đạo đức

thì dù tài giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Cốt lõi của đạo đức cách mạng trong tư
tưởng Hồ Chí Minh là trung với nước, hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do, vì
CNXH.
8. Tư tưởng về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau.
Người coi bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết
"Vì lợi ích mười năm trồng cây; vì lợi ích trăm năm trồng người". Người nói: Đảng cần phải chăm
lo, giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng CNXH vừa
"hồng" vừa "chuyên".
9. Tư tưởng về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Theo Hồ Chí Minh, muốn làm cách mạng trước hết phải có Đảng cách mạng, Đảng có vững
cách mạng mới thành công. Đảng muốn vững phải có chủ nghĩa chân chính làm cốt, chủ nghĩa như
trí khôn của người, như la bàn của con tầu. Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, của nhân
dân lao động và của cả dân tộc. Muốn vậy, Đảng phải trong sạch, vững mạnh về mọi mặt: Chính trị,
tư tưởng và tổ chức, kiên định mục tiêu, lý tưởng; có đường lối cách mạng đúng đắn; thực hiện
nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hành tự phê bình và phê bình; thực sự đoàn kết nhất trí;
mỗi đảng viên phải không ngừng rèn luyện đạo đức cách mạng, nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ để thật sự xứng đáng là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, xứng đáng với niềm tin yêu
của quần chúng nhân dân.
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh có nội dung rất phong phú, toàn diện và sâu sắc về những
vấn đề rất cơ bản của cách mạng Việt Nam, đã và đang soi đường cho thắng lợi của cách mạng Việt
Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt
Nam, cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Dưới ngọn
cờ tư tưởng Hồ Chí Minh, cách mạng Việt Nam đã vững bước tiến lên giành những thắng lợi lịch sử
có ý nghĩa thời đại sâu sắc.
Hiện nay, đất nước ta đang thực hiện đổi mới, mở cửa và hội nhập, công nghiệp hoá, hiện đại
hoá. Bên cạnh thuận lợi, chúng ta cũng có nhiều khó khăn, do đó mỗi người cần nghiên cứu, học
tập, nắm vững chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nắm vững đường lối, quan điểm của
Đảng và pháp luật của Nhà nước để kiên định mục tiêu lý tưởng cách mạng: Độc lập dân tộc gắn



liền với chủ nghĩa xã hội vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh,
như Bác Hồ hằng mong muốn.
Giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện rõ nét qua 02 cấp độ ở tầm cao sau:
1/Tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng con đường giải phóng và phát triển của dân tộc
Thứ nhất, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của
cách mạng Việt Nam; là sản phẩm của dân tộc và thời đại, trường tồn, bất diệt, là tài sản vô giá của
dân tộc ta. Tư tưởng của Người không chỉ tiếp thu, kế thừa những giá trị, tinh hoa văn hóa của loài
người, trong đó chủ yếu là chủ nghĩa Mác - Lênin, mà còn giải đáp nhiều vấn đề của thời đại, của sự
nghiệp cách mạng Việt Nam và thế giới. Trong suốt chặng đường hơn một nửa thế kỷ, tư tưởng Hồ
Chí Minh đã trở thành ngọn cờ dẫn dắt cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Trong bối cảnh của thế giới ngày nay, tư tưởng Hồ Chí Minh giúp chúng ta nhận thức đúng
những vấn đề lớn có liên quan đến việc bảo vệ nền độc lập dân tộc, phát triển xã hội và bảo đảm
quyền con người; độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội vì lợi ích con người. Tư tưởng Hồ
Chí Minh là nền tảng vững chắc để Đảng ta vạch ra đường lối cách mạng đúng đắn, là sợi chỉ đỏ dẫn
đường cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta, thực hiện có hiệu quả những nhiệm vụ đối với mỗi
thời kỳ cách mạng.
Thứ hai, tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô giá của dân tộc Việt Nam. Giá trị của
tư tưởng Hồ Chí Minh là ở chỗ trung thành với những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác –
Lênin và vận dụng những nguyên lý đó vào điều kiện cụ thể của nước ta, đề xuất những vấn đề mới
do thực tiễn đặt ra và giải quyết một cách linh hoạt, khoa học, hiệu quả, theo nguyên tắc "lý luận
không phải là một cái gì cứng nhắc, nó đầy tính chất sáng tạo; lý luận luôn luôn cần được bổ sung
bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn sinh động"(1).
Giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh ở chỗ đã được kiểm nghiệm trong thực tiễn. Ngày nay, tư
tưởng đó, bao gồm một hệ thống những quan điểm lý luận, tư tưởng về chiến lược, sách lược cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân, cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, về sự cải biến cách mạng
đối với thế giới, về đạo đức, phong cách, phương pháp Hồ Chí Minh, về việc hiện thực hóa các tư
tưởng ấy trong đời sống xã hội... vừa phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp đấu tranh giải
phóng trong thời đại cách mạng vô sản, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải
phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Tư tưởng Hồ Chí Minh

mãi mãi sống với chúng ta, vì đã thấm sâu vào quần chúng nhân dân, được kiểm nghiệm qua thực
tiễn cách mạng, ngày càng tỏa sáng, chiếm lĩnh trái tim, khối óc của hàng triệu, hàng triệu con
người.
2/Tư tưởng Hồ Chí Minh đóng góp tích cưc đối với sự phát triển của thế giới
Thứ nhất, tư tưởng Hồ Chí Minh phản ánh khát vọng thời đại. C. Mác đã khái quát: "Mỗi
thời đại xã hội đều cần có những con người vĩ đại"(2).
Từ nghiên cứu lý luận, áp dụng vào những điều kiện cụ thể, Hồ Chí Minh đã hình thành một
hệ thống các luận điểm chính xác và đúng đắn về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc


ở thuộc địa, góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Việc xác
định đúng đắn những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam trong tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó
có cả các vấn đề về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội, về hòa bình, hợp tác, hữu nghị
giữa các dân tộc... có giá trị to lớn về mặt lý luận và đang trở thành hiện thực trong giải quyết nhiều
vấn đề quốc tế ngày nay.
Thứ hai, tìm ra các giải pháp đấu tranh giải phóng loài người. Đóng góp lớn nhất của Hồ Chí
Minh đối với thời đại là từ việc xác định con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc mình, đã chỉ ra
một con đường cách mạng, một hướng đi và tiếp theo đó là phương pháp "đại đoàn kết", "đại hòa
hợp" để thức tỉnh hàng trăm triệu người bị áp bức trong các nước thuộc địa và phụ thuộc.
Giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với thế giới còn thể hiện ở chỗ, ngay từ rất sớm, Người
đã nhận thức đúng sự biến chuyển của thời đại, đặt cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa vào
phạm trù cách mạng vô sản và hoạt động không mệt mỏi cho phong trào cách mạng thế giới. Những
tư tưởng trên đây của Hồ Chí Minh đã, đang và sẽ mãi mãi là chân lý sáng ngời, góp phần vào sự
kiến tạo và phát triển của nhân loại.
Thứ ba, tưởng Hồ Chí Minh cổ vũ các dân tộc đấu tranh vì những mục tiêu cao cả. Tư tưởng
và cuộc đời hoạt động cách mạng phong phú của Người đã là một tấm gương sáng cổ vũ các dân tộc
trên thế giới tham gia cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc, hòa bình và tiến bộ xã hội. Năm 1987, Khóa
họp Đại hội đồng UNESCO về kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã công nhận
Người là anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất.
II. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH

Đạo đức là tổng hợp những nguyên tắc, qui tắc, chuẩn mực xã hội, nhờ đó con người tự giác
điều chỉnh hành vi và cách ứng xử trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội nhằm bảo đảm
quan hệ lợi ích của cá nhân và cộng đồng xã hội. Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội. Điều đó
nói rằng đạo đức nảy sinh do nhu cầu xã hội, phản ánh tồn tại xã hội và hình thức biểu hiện là
nguyên tắc, qui tắc, chuẩn mực xã hội mà những nguyên tắc, qui tắc, chuẩn mực này định hướng,
đánh giá, điều chỉnh hành vi của con người cho phù hợp với yêu cầu của xã hội nhất định. Góp phần
bảo vệ trật tự kỷ cương xã hội. Bất cứ một chế độ xã hội nào cũng đặt ra việc điều chỉnh hành vi của
con người cho phù hợp yêu cầu xã hội được xem là đạo đức khi nó phản ánh xu hướng tiến bộ xã
hội.
Về vị trí của đạo đức trong đời sống xã hội và của mỗi người theo quan niệm của Bác Hồ:
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định đạo đức là gốc của người cách mạng, muốn làm cách
mạng phải lấy đạo đức làm gốc. Người viết: "Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới
là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức
tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải
có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang"(3).
Hồ Chí Minh coi đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển con người, như gốc của cây,
như ngọn nguồn của sông, suối. Người viết: "Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có


nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức,
không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân" (4).
Hồ Chí Minh quan niệm, đạo đức cách mạng là chỗ dựa giúp cho con người vững vàng
trong mọi thử thách. Theo Người, có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại,
cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước... khi gặp thuận lợi và thành công cũng vẫn giữ vững tinh thần
gian khổ, chất phác, khiêm tốn, "lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ", lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt
chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ; không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không
hủ hóa.
Đối với Đảng, đội tiên phong của giai cấp công nhân, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu phải
xây dựng Đảng ta thật trong sạch, Đảng phải "là đạo đức, là văn minh", "Đảng ta là một Đảng cầm
quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm

chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là
người đày tớ thật trung thành của nhân dân" (5).
Về những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người Việt Nam, quan điểm đạo đức Hồ Chí
Minh đã bao quát những mối quan hệ cơ bản của con người trong xã hội, bao gồm 04 lĩnh vực căn
bản như sau:
Một là, với đất nước, dân tộc phải "Trung với nước, hiếu với dân".
Trung, hiếu là phẩm chất đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam và phương Đông, được
Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển trong điều kiện mới. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh,
trung với nước, hiếu với dân là điều chủ chốt của đạo đức cách mạng. Trung với nước là trung thành
vô hạn với sự nghiệp dựng nước và giữ nước, đấu tranh giành độc lập dân tộc và làm cho đất nước
"sánh vai với các cường quốc năm châu". Nước là của dân, dân là chủ đất nước, cho nên "trung với
nước" là trung với dân, trung thành với lợi ích của nhân dân, "bao nhiêu quyền hạn đều của dân";
"bao nhiêu lợi ích đều vì dân"...
Hiếu với dân là Đảng, Chính phủ, cán bộ nhà nước phải là "đầy tớ trung thành của dân";
phải "tận trung với nước, tận hiếu với dân".
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, trung với nước, hiếu với dân phải gắn bó với dân, gần dân, dựa
vào dân, lấy dân làm gốc. Phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, quan tâm cải thiện dân sinh,
nâng cao dân trí, làm cho dân hiểu rõ trách nhiệm và quyền lợi của người làm chủ đất nước.
Hai là, với mọi người phải "Yêu thương con người, sống có nghĩa, có tình".
Trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, yêu thương con người xuất phát từ truyền thống nhân
nghĩa của dân tộc, kết hợp với chủ nghĩa nhân văn của nhân loại, chủ nghĩa nhân đạo cộng sản. Yêu
thương con người thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân trong quan hệ xã hội, là phẩm chất
đạo đức cao đẹp nhất.
Yêu thương con người là phải quan tâm đến những người lao động bình thường, chiếm số
đông trong xã hội. Yêu thương con người là phải làm mọi việc để vì con người, vì mục tiêu " ai cũng


có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành"; dám hy sinh, dám dấn thân để đấu tranh giải phóng
con người.
Yêu thương con người là phải tin vào con người. Với mình thì chặt chẽ, nghiêm khắc; với

người thì độ lượng, rộng rãi, nâng con người lên, kể cả với người lầm đường, lạc lối, mắc sai lầm,
khuyết điểm.
Yêu thương con người là giúp cho mỗi người ngày càng tiến bộ, sống cao đẹp hơn. Yêu
thương con người phải thực hiện tự phê bình, phê bình chân thành, giúp nhau sửa chữa khuyết điểm.
Ba là, với mình phải thực sự "Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư".
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư trong tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh là mối quan
hệ "với tự mình". Hồ Chí Minh quan niệm cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức tính cần có của con
người, mang một lẽ tự nhiên, như trời có bốn mùa, đất có bốn phương và Người giải thích cặn kẽ, cụ
thể nội dung từng khái niệm.
Cần là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao; lao
động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm. Phải thấy rõ
"lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của mỗi chúng ta".
Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của dân, của nước, của bản
thân mình, tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ; "không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi, không phô
trương, hình thức...".
Liêm là "luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân", "không xâm phạm một đồng xu, hạt
thóc của Nhà nước, của nhân dân"; "không tham địa vị, không tham tiền tài, không tham sung
sướng, không tham tâng bốc mình...".
Chính là không tà, là thẳng thắn, đúng đắn. Đối với mình không tự cao, tự đại; đối với người
không nịnh trên, khinh dưới, không dối trá, lừa lọc, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn
kết. Đối với việc thì để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà. Được giao nhiệm vụ gì quyết
làm cho kỳ được, "việc thiện dù nhỏ mấy cũng làm; việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh".
Chí công vô tư là "khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì
mình nên đi sau", "lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ".
Cần, kiệm, liêm, chính có quan hệ chặt chẽ với nhau và với chí công vô tư. Cần, kiệm, liêm,
chính sẽ dẫn đến chí công vô tư. Ngược lại, đã chí công vô tư, một lòng vì nước, vì dân, vì Đảng thì
nhất định sẽ thực hiện được cần, kiệm, liêm, chính.
Bốn là, mở rộng quan hệ yêu thương con người đối với toàn nhân loại, người cách mạng
phải có "tinh thần quốc tế trong sáng".
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh về tình đoàn kết quốc tế trong sáng là sự mở rộng quan hệ

đạo đức giữa người với người và với toàn nhân loại vì Người không chỉ là " người Việt Nam nhất"
như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng khẳng định, mà còn là "nhà văn hóa lớn của thế giới", "chiến sĩ
lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế".


Đoàn kết quốc tế trong sáng theo Hồ Chí Minh trước hết là đoàn kết với nhân dân lao động
các nước vì mục tiêu chung: đấu tranh giải phóng con người khỏi ách áp bức, bóc lột. Đó là tình
đoàn kết quốc tế giữa những người vô sản toàn thế giới vì một mục tiêu chung, "bốn phương vô sản
đều là anh em"; là đoàn kết với các dân tộc vì hòa bình, công lý và tiến bộ xã hội.
Đoàn kết quốc tế gắn liền với chủ nghĩa yêu nước. Chủ nghĩa yêu nước chân chính sẽ dẫn
đến chủ nghĩa quốc tế trong sáng.
Về những nguyên tắc xây dựng và thực hành đạo đức, theo Hồ Chí Minh, thể hiện ở 03 điểm
cốt lõi sau:
Một là, nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức.
Đối với mỗi người, lời nói phải đi đôi với việc làm. Nói đi đôi với làm trước hết là sự nêu
gương tốt. Sự nêu gương của thế hệ đi trước với thế hệ đi sau, lãnh đạo với nhân viên, đảng viên
phải nêu gương trước quần chúng. Người nói: "Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên
trán chữ "cộng sản" mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo
đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước"(6).
Hai là, xây đi đôi với chống.
Cùng với việc xây dựng đạo đức mới, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, nhất thiết phải
chống những biểu hiện đạo đức sai trái, xấu xa, không phù hợp với những chuẩn mực của đạo đức
mới. Xây đi đôi với chống, muốn xây phải chống, chống nhằm mục đích xây.
Xây dựng đạo đức mới trước hết phải tác động vào nhận thức, đẩy mạnh việc giáo dục, từ
trong gia đình đến nhà trường, tập thể và toàn xã hội. Những phẩm chất đạo đức chung phải được cụ
thể hóa, sát hợp với từng tầng lớp, đối tượng. Trong các bài viết của mình, Hồ Chí Minh đã nêu rất
cụ thể các phẩm chất đạo đức cơ bản đối với từng giai cấp, tầng lớp, lứa tuổi và nhóm xã hội.
Trong giáo dục, vấn đề quan trọng là phải khơi dậy ý thức đạo đức lành mạnh trong mỗi
người, để mỗi người nhận thức được và tự giác thực hiện. Trong đấu tranh chống lại cái tiêu cực, lạc
hậu phải phát hiện sớm, phải chú ý phòng ngừa, ngăn chặn.

Để xây và chống cần phát huy vai trò của dư luận xã hội, tạo ra phong trào quần chúng rộng
rãi, biểu dương cái tốt, phê phán cái xấu. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn quan tâm để biểu dương
người tốt, việc tốt. Người đã phát động cuộc thi đua "ba xây, ba chống", viết sách "người tốt, việc
tốt" để tuyên truyền, giáo dục về đạo đức, lối sống.
Ba là, phải tu dưỡng đạo đức suốt đời.
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng phải qua đấu tranh, rèn luyện bền bỉ mới thành.
Người viết: "Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ
hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng
trong"(7) và nhấn mạnh "Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức
hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu
lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân"(8).


Trong rèn luyện đạo đức, Hồ Chí Minh coi tự rèn luyện có vai trò rất quan trọng. Người
khẳng định, đã là người thì ai cũng có chỗ hay, chỗ dở, chỗ xấu, chỗ tốt, ai cũng có thiện, có ác ở
trong mình. Vấn đề là dám nhìn thẳng vào con người mình, không tự lừa dối, huyễn hoặc, thấy rõ
cái hay, cái tốt, cái thiện để phát huy và thấy rõ cái dở, cái xấu, cái ác để khắc phục. Tu dưỡng đạo
đức phải được thực hiện trong mọi hoạt động thực tiễn, trong mọi mối quan hệ của mình, trong đời
tư cũng như trong sinh hoạt cộng đồng.
3. Những nội dung chủ yếu của phong cách Hồ Chí Minh
Khái niệm phong cách theo nghĩa hẹp, là chỉ giới hạn trong văn học, nghệ thuật; còn theo
nghĩa rộng được thể hiện trong tất cả các mặt hoạt động của con người. Phong cách luôn là một cái
riêng, độc đáo, có tính hệ thống, ổn định và đặc trưng của chủ thể. Nó bị chi phối bởi các nhân tố
như truyền thống văn hóa, lối sống, thói quen, điều kiện sống, sự trải nghiệm thực tiễn, dấu ấn cá
nhân…Phong cách không được sinh ra bẩm sinh mà chỉ có thể được hình thành bởi sự phấn đấu, tu
dưỡng, rèn luyện, trau dồi không ngừng của chủ thể.
Phong cách của người cách mạng, người cán bộ, đảng viên có quan hệ mật thiết với tư
tưởng, đường lối và phương pháp cách mạng. Tư tưởng, đường lối có tính quyết định nhất, còn
phương pháp là những cách thức có tính nguyên tắc để đưa đường lối vào cuộc sống. Nhưng phương
pháp chỉ được thực hiện thông qua hoạt động cụ thể của những con người cụ thể với những phong

cách, trình độ khác nhau.
Phong cách có liên quan chặt chẽ với đạo đức; đạo đức được thể hiện qua phong cách; qua
phong cách có thể đánh giá được đạo đức, đánh giá được nhân cách của một con người. Do đó, xây
dựng cho mình một phong cách mới, phong cách mang tính cách mạng và khoa học là công việc của
mỗi người phải phấn đấu bền bỉ suốt đời.
* Phong cách Hồ Chí Minh
Từ Đại hội V (1981) trở về trước, Đảng ta thường dùng khái niệm “tác phong” để nói về
“tác phong Hồ Chủ tịch”. Hai chữ “tác phong” có hàm nghĩa hơi hẹp, mới chỉ nói lên được một mặt
là “phong cách làm việc, phong cách công tác”, tuy ai cũng hiểu rằng ngoài công tác, phong cách
của mỗi người còn được biểu hiện ra ở nhiều lĩnh vực hoạt động khác nữa.
Từ Đại hội VI (1986), hai chữ “tác phong” được thay bằng khái niệm “phong cách” trong
cụm từ “tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” để có thể nói về những đặc trưng đa dạng,
phong phú khác trong hoạt động của Người.
Phong cách Hồ Chí Minh là phong cách của người Việt Nam. Đó là phong cách của một con
người với nhân cách siêu việt, cái tâm trong sáng, cái đức cao đẹp, cái trí minh mẫn, cái hành mực
thước, phong cách của một lãnh tụ, một vĩ nhân, một chiến sĩ cộng sản chân chính, của người công
dân số một của Việt Nam. Đó còn là phong cách của người anh hùng giải phóng dân tộc, đồng thời
cũng là nhà văn hóa kiệt xuất. Phong cách Hồ Chí Minh không phải để cho người đời ca ngợi, sùng
bái mà là tấm gương để mọi người noi theo, học tập. Không phải chỉ người Việt Nam, từ lao động
chân tay đến lao động trí óc, từ già đến trẻ, từ miền xuôi đến miền ngược, từ người tu hành đến các
chính khách, thương gia đều tìm thấy ở Hồ Chí Minh phong cách của chính mình, mà cả người nước


ngoài ở phương Đông hay ở phương Tây cũng cảm thấy gần gũi, không xa lạ với phong cách Hồ
Chí Minh. Đặc biệt, phong cách của Người không chỉ là bài học, là chuẩn mực cho việc xây dựng
phong cách người cán bộ cách mạng mà còn bồi dưỡng nhân cách cho các thế hệ người Việt Nam
hôm nay và mai sau.
Phong cách Hồ Chí Minh là một chỉnh thể với nội dung nhiều tầng ý nghĩa, phát triển theo
lôgíc đi từ suy nghĩ (phong cách tư duy) đến nói, viết (phong cách diễn đạt) và biểu hiện ra qua hoạt
động sống hàng ngày (phong cách làm việc, phong cách ứng xử, phong cách sinh hoạt).

- Phong cách tư duy Hồ Chí Minh là tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo. Độc lập, tự chủ là
sẵn sàng từ bỏ những cái cũ đã qua thực tiễn kiểm nghiệm là sai, những cái cũ lạc hậu, lỗi thời,
những cái cũ đã đúng trước kia nhưng nay không còn phù hợp, để tiến tới đề xuất những cái mới có
thể trả lời được những câu hỏi mà cuộc sống đang đặt ra. Cái sáng tạo ở Hồ Chí Minh là cái mới phù
hợp với quy luật khách quan của cách mạng Việt Nam, cũng như phù hợp với quy luật phát triển
chung của xã hội. Tư duy đó, luôn hướng tầm nhìn ra thế giới, không ngừng nâng cao trình độ văn
hóa, làm giàu trí tuệ của mình bằng những kiến thức rất phong phú, sâu rộng.
- Phong cách làm việc của Hồ Chí Minh bao gồm nhiều nội dung rất phong phú, mà nội
dung chủ yếu là: tác phong quần chúng; tác phong tập thể - dân chủ; tác phong khoa học.
+ Tác phong quần chúng được thể hiện sự sâu sát quần chúng, tin yêu và tôn trọng con
người; chú ý lắng nghe ý kiến và giải quyết những kiến nghị chính đáng của quần chúng; sẵn sàng
tiếp thu phê bình của quần chúng và sửa chữa khuyết điểm của mình.
+ Tác phong tập thể - dân chủ Hồ Chí Minh là tạo ra không khí sôi nổi, hoạt bát, phấn khởi,
hăng hái và đầy sáng tạo. Người thường vạch ra những tệ nạn làm việc không tập thể, không dân
chủ trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, làm cho "nội bộ của Đảng âm u", "uất ức mà hóa ra oán ghét,
chán nản", cấp trên cấp dưới cách biệt nhau, quần chúng xa rời cán bộ, đảng viên .v.v..
+ Tác phong khoa học Hồ Chí Minh tập trung ở những điểm chủ yếu như: làm việc đi sâu, đi
sát cơ sở, có điều tra nghiên cứu, nắm việc, nắm người, nắm tình hình cụ thể... Biết sàng lọc những
thông tin sai lệch, những báo cáo dối trá, những phương án thiếu trung thực. Biết sử dụng bộ máy,
những người cộng sự, những cơ quan giúp việc; thường xuyên đặt ra chương trình, kế hoạch sát hợp,
thiết thực; thường xuyên kiểm tra việc thực hiện của cấp dưới và quần chúng.
- Phong cách diễn đạt Hồ Chí Minh là cách nói, cách viết trong sáng, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ
làm, có sức cuốn hút mạnh mẽ đối với người nghe, người đọc. Bác Hồ thường đặt ra bốn vấn đề khi
nói và viết là: Nói, viết cái gì?; Nói, viết cho ai?; Nói, viết để làm gì?; Nói, viết như thế nào?. Đây là
những vấn đề có tính nguyên tắc, định hướng cho việc nói và viết của mỗi người, nhất là đối với
người lãnh đạo. Mặc dù công việc rất bận nhưng Bác Hồ đã viết hơn 2.000 bài báo, hơn 100 bút
danh khác nhau. Đặc trưng cơ bản trong cách nói, cách viết của Hồ Chí Minh là: chân thực, ngắn
gọn, rõ ràng, trong sáng, giản dị, dễ hiểu, đi thẳng vào vấn đề, không màu mè, lắt léo, quanh co...
Bác Hồ căn dặn phải chống các bệnh hay nói chữ, ham dùng chữ, sính dùng chữ nước ngoài, thậm
chí không hiểu cũng dùng; chống “thói ba hoa”...



- Phong cách ứng xử Hồ Chí Minh là sự ứng xử trên một bình diện văn hóa cao. Đối với
nhân dân, bạn bè, đồng chí, anh em thì tự nhiên, bình dị, cởi mở, chân tình, vừa chủ động linh hoạt
lại vừa ân cần, tế nhị, bình dị, tự nhiên, làm cho bất cứ ai được gặp Người đều thấy không khí chan
hòa, ấm cúng, thoải mái, không e ngại, sợ sệt, không cảm thấy sự cách biệt giữa lãnh tụ và quần
chúng, giữa vĩ nhân với bình dân. Hồ Chí Minh luôn luôn thể hiện thái độ yêu thương, quý mến con
người, trân trọng con người, khoan dung, khiêm nhường, độ lượng với con người. Chính vì vậy mà
sức cuốn hút, cảm hóa, cảm phục, ngưỡng mộ và thôi thúc mọi người hướng tới cái chân, thiện, mỹ
trong cuộc sống và công tác, học tập, xây dựng và phát triển.
- Phong cách sinh hoạt Hồ Chí Minh có nhiều nét đã trở thành huyền thoại không những đối
với nhân dân Việt Nam mà còn đối với cả thế giới. Đó là sự giản dị, thanh đạm, thanh cao trong sinh
hoạt hằng ngày; đó là cách sống chừng mực, điều độ, ngăn nắp, yêu lao động, rất quý trọng thời
gian, tiết chế ham muốn danh lợi riêng cho mình. Đó là tình thương yêu con người quyện với tình
yêu thiên nhiên, tạo nên tinh thần lạc quan của người chiến sĩ, kết hợp chặt chẽ với những rung động
say mê của một tâm hồn nghệ sĩ.
Học phong cách của Bác nhất là trong điều kiện hiện nay, cố làm sao gây được cho chúng ta
ấn tượng này là: Gần dân, vì dân, thương dân và tin dân. Muốn vậy phải thấu hiểu và thấu cảm
dân; thấu hiểu tâm tư nguyện vọng của dân; thấu cảm cuộc sống của người dân; mà không có một
khoảng cách nào giữa lãnh tụ với nhân dân cả, giữa lãnh tụ với chiến sĩ cả, kể cả những học trò ,
đồng sự gần gũi hàng ngày bên Bác những nhà lãnh đạo cấp cao cả, hết sức dung dị đời thường vĩ
đại mà vẫn giản dị, không có một cái gì cao đạo, hay nói một cách chữ nghĩa Bác rất xa lạ với chủ
nghĩa lãnh tụ, dù Bác là lãnh tụ vĩ đại.
Trong thời gian tới, thực hiện Nghị quyết Đại hội XII, đặc biệt là yêu cầu xây dựng Đảng
trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, việc đẩy mạnh học tập và làm theo
tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là một nhiệm vụ rất quan trọng, cần thiết, góp phần làm
cho tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của
đời sống xã hội, xây dựng văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và bảo
vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh/.




×