Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

chứng minh luật lao động là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.83 KB, 15 trang )

A.LỜI MỞ ĐẦU
Lao động là hoạt động quan trọng nhất của con người ,tạo ra của cải vật
chất và các giá trị tinh thần của xã hội .Lao động có năng suất ,chất lượng cao
là yếu tố quyết định của đất nước .và khi nói đến luật lao động có thể được
hiểu trên nhiều phương diện khác nhau đó có thể là dưới góc độ khoa học luật
lao động ,môn học luật lao động cũng có thể là ở phương diện ngành luật lao
động .Tuy nhiên theo quan điểm truyền thống thường hay xác định luật lao
động ở phương diện ngành luật và đây là một trong những phương pháp tiếp
cận khi nghiên cứu và giảng dạy pháp luật.Như vậy ở khía cạnh ngành luật thì
luật lao động là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt Nam
,bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ lao động giữa
người lao động làm công ăn lương và người sử dụng lao động thuê mướn có
trả công lao động và những quan hệ xã hội khác có liên quan trực tiếp đến
quan hệ lao động.Để hiểu rõ hơn tại sao lại nói luật lao động là một ngành
luật độc lập thì nhóm em đã chọn đề tài:chứng minh luật lao động là một
ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật việt nam.
-Để được xác định là một ngành luật độc lập thì ngành luật đó phải có
đối tượng điều chỉnh riêng,phương pháp điêù chỉnh ,nguyên tắc hoạt động
riêng,nguồn luật riêng và luật lao động cũng không ngoại lệ .Như vậy để
khẳng định luật lao động là ngành luật độc lập thì ta phải căn cứ vào các yếu
tố sau:
I,Đối tượng điều chỉnh
1.khái quát chung về đối tượng điều chỉnh
- Khái niệm: Đối tượng điều chỉnh của một ngành luật là một hoặc một nhóm
quan hệ cùng loại có cùng đặc điểm, tính chất được các quy phạm pháp luật
của ngành luật đó điều chỉnh
-Do xuất phát từ chức năng khác nhau ,mục đích hướng đến của các ngành
luật không giống nhau mà mỗi ngành luật đều có đối tượng điều chỉnh riêng
nên đối tượng điều chỉnh là một trong những căn cứ để xác định một ngành
luật độc lập.
- Nếu như đối tượng điều chỉnh của luật hiến pháp là những quan hệ xã hội


cơ bản và quan trọng nhất gắn liền với việ xác định chế độ chính trị, kinh tế,
văn hóa -xã hội, quốc phòng - an ninh, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam
- Đối tượng điều chỉnh của bộ luật dân sự là quan hệ tài sản và quan hệ nhân
thân phát sinh giữa các chủ thể của luật dân sự, nhằm đáp ứng những lợi ích
vật chất hoặc tinh thần cho chính chủ thể tham gia quan hệ đó cũng như chủ
thể khác
- Đối tượng điều chỉnh của luật hành chính là những quan hệ xã hội chủ yếu
và cơ bản hình thành trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước, hay nói


cách khác đối tượng điều chỉnh của luật hành chính là những quan hệ xã hội
hầu hết phát sinh trong hoạt động chấp hành và điều hành của nhà nước
-Đối tượng điều chỉnh của luật thương mại là các quan hệ xã hội phát sinh
giữa thương nhân với thương nhân ,giữa thương nhân với cơ quan nhà nước
có thẩm quyền ,trong nội bộ thương nhân với nhau.
- Đối tượng điều chỉnh của luật hình sự là quan hệ xã hội phát sinh giữa Nhà
nước và người phạm tội khi người này thực hiện hành vi tội phạm
- Thì đối tượng điều chỉnh của luật lao động là mối quan hệ phát sinh giữa
một bên là người lao động làm công ăn lương với một bên là cá nhân hoặc tổ
chức sử dụng, thuê mướn có trả công cho người lao động và các quan hệ khác
có liên quan chặt chẽ hoặc phát sinh từ quan hệ lao động. Đối tượng điều
chỉnh của luật lao động bao gồm hai nhóm quan hệ xã hội đó là:
* Quan hệ lao động
* Quan hệ liên quan trực tiếp với quan hệ lao động
2.Đối tượng điều chỉnh của luật lao động
2.1 Quan hệ lao động
- Trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay tồn tại rất nhiều các quan
hệ lao động nhưng luật lao động chỉ điều chỉnh quan hệ lao động làm công ăn

lương trên cơ sở thuê mướn trả công sức lao động giữa người lao động với
người sủ dụng lao động thuộc mọi thành phần kinh tế
+Về bản chất đây là mối quan hệ giữa một bên là người lao động để thỏa
mãn mục tiêu lợi nhuận với một bên là người lao động có nhu cầu việc làm để
đảm bảo thu nhập trong quá trình sử dụng sức lao động này, tính ổn định hoàn
toàn phụ thuộc vào các bên
+ Cơ sở pháp lý làm phát sinh quan hệ lao động này là việc giao kết hợp
đồng giữa các bên. Người lao động cam kết làm việc cho người sử sụng lao
động để được trả lương còn người sử dụng lao động là trả lương để duy trì
quan hệ lao động và mục tiêu lợi nhuận theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng
, thiện chí, hợp tác đảm bảo các quyền và nghĩa vụ của mỗi bên mà không có
sự can thiệp của bên thứ 3 .
+ Trong quan hệ lao động này khi xảy ra các xung đột về quyền, nghĩa vụ
thì việc giải quyết các tranh chấp sẽ được thực hiện thông qua phương thức
thương lượng , hòa giải, trọng tài, tòa án theo thủ tục giải quyết tranh chấp lao
động do luật lao động điều chỉnh
- Các quan hệ lao động gần gũi với luật lao động
Các quan hệ lao động gần gũi với luật lao động bao gồm quan hệ lao động
giữa cán bộ, công chức với nhà nước trong bộ máy nhà nước và đơn vị hành
chính sự nghiệp; Quan hệ lao động giữa xã viên và hợp tác xã trong hợp tác
xã; Quan hệ lao động giữa người lao động và người thuê mướn lao động
nhằm hoàn thành một công việc chỉ tính kết quả việc


+ Quan hệ lao động giữa cán bộ, công chức với nhà nước trong bộ máy nhà
nước và đơn vị hành chính sự nghiệp
* Người lao động là công chức là những người lao động trong bộ máy nhà
nước và hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Vừa là người lao động làm công
ăn lương vừa là người đại diện cho quyền lực Nhà nước nên phải tuân thủ kỷ
luật , mệnh lệnh cấp trên, bảo vệ hình ảnh của cơ quan .

* Cơ sở pháp lý xác định mối quan hệ giữa công chức với Nhà nước là quyết
định tuyển dụng có tính chất hành chính chứ không phải là thỏa thuận giữa
các bên trê cơ sở giao kết hợp đồng
* Trường hợp xảy ra xung đột về quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong quan
hệ này là phải thực hiện thông qua con đường hành chính mang nặng tính chất
mệnh lệnh , quyền lực của nhà nước thuộc đối tượng điều chỉnh của ngành
luật hành chính
+ Quan hệ lao động giữa xã viên và hợp tác xã trong hợp tác xã
* Quan hệ này xã viên vừa là người lao động vừa là quản lý sở hữu tư liệu
sản xuất trong hợp tác xã
* Cơ sở pháp lý xác lập quan hệ này là việc xác lập kết nạp của xã viên
vào hợp tác xã chứ không phải bằng hình thức tuyển dụng theo quy định của
nhà nước hay theo thỏa thuận giao kết hợp đồng . Nên việc xác lập thực hiện
quan hệ đó là kết nạp, khen thưởng , quản lý, điều hành đều do trực tiếp hợp
tác xã quyết định theo điều lệ của hợp tác xã và quy định của pháp luật hợp
tác xã
*Trường hợp xảy ra mâu thuẫn ,xung đột giữa các chủ thể trong hợp tác xã sẽ
được giải quyết trong nội bộ hợp tác xã hoặc thông qua các cơ quan tài phán
kinh tế ,theo thủ tục giải quyết tranh chấp kinh doanh
+ Quan hệ lao động giữa người lao động và người thuê mướn lao động nhằm
hoàn thành một công việc chỉ tính kết quả công việc
* Đây là quan hệ lao động người thuê mướn chỉ tính đến kết quả công việc
mà không quan tâm quá trình tạo ra kết quả đó , và người lao động được trả
công khi thực hiện công việc đó theo sản phẩm hay theo hình thức công nhận
* Cơ sở pháp lý để xác định qua hệ đó là sự thỏa thuận giữa các chủ thể
thông qua việc giao kết hợp đồng dân sự và điều chỉnh bởi pháp luật dân sự
* Trong quan hệ pháp luật này khi xảy ra xung đột thì việc giải quyết tranh
chấp trên cơ sở quy định của pháp luật dân sự do luật dân sự điều chỉnh
2.2Các quan hệ xã hội có liên quan trực tiếp với quan hệ lao động
Luật lao động Việt Nam không chỉ điều chỉnh quan hệ lao động mà

ngoài ra, nó còn điều chỉnh một số quan hệ xã hội liên quan trực tiếp đến quan
hệ lao động. Đó là những quan hệ phát sinh từ quan hệ lao động, gắn liền với
việc sử dụng lao động hoặc làm ảnh hưởng trực tiếp đến các quan hệ lao
động. Theo pháp luật hiện hành, những quan hệ liên quan trực tiếp đến quan
hệ lao động thuộc đối tượng điều chỉnh của luật lao động bao gồm: .


a.quan hệ về việc làm
Quan hệ việc làm là quan hệ xã hội được hình thành để thiết lập quan
hệ lao động bởi vì không có việc làm thì không có sự làm việc ,không có yếu
tố trả lương vì thế quan hệ việc làm cũng thuộc đối tượng điều chỉnh của luật
lao động
Quan hệ việc làm là quan hệ xã hội được hình thành giữa người lao
động có nhu cầu việc làm với người sử dụng lao động có nhu cầu về nhân
công để đảm bảo mục tiêu lợi nhuận
Quan hệ việc làm thể hiện ở ba loại chủ yếu sau đây:
* Quan hệ giữa Nhà nước và người lao động : quan hệ này được thể hiện ở
chỗ nhà nước là người tổ chức ,xác lập ,thực hiện các chính sách việc làm
,nhà nước có trách nhiệm tham gia cùng với người sử dụng lao động giải
quyết việc làm cho người lao động ,nhà nước ban hành các quy định pháp luật
,chế độ chính sách và giám sát việc thực hiện các quan hệ đó .
*Quan hệ giữa người sử dụng lao động và người lao động trong việc giải
quyết và đảm bảo việc làm cho người lao động theo cam kết của các bên và
quy định trong pháp luật lao động .Theo đó pháp luật quy định người lao
động được hưởng quyền tự do lựa chọn việc làm ,nơi làm việc,công việc để
làm…Người sử dụng lao động cũng có quyền tuyển dụng ,sử dụng và phân bổ
người lao động theo yêu cầu,tính chất công việc .
*quan hệ giữa các trung tâm giới thiệu việc làm ,các cơ sở dịch vụ việc làm
với người lao động,người sử dụng lao động và tổ chức ,cá nhân khác có nhu
cầu.

b.Quan hệ học nghề:
Học nghề ,đào tạo bồi dưỡng ,nâng cao kĩ năng nghề nghiệp là tạo điều
kiện cho người lao động có việc làm và duy trì ổn định về công việc đó ,do đó
vấn đề học nghề cũng thuộc đối tượng điều chỉnh của luật lao động.
Quan hệ học nghề là quan hệ xã hội được hình thành giữa người học
nghề có nhu cầu với cơ sở dạy nghề nhằm mục đích nâng cao kiến thức nghề
nhất định
Quan hệ học nghề vừa là quan hệ ảnh hưởng trực tiếp với quan hệ lao
động thường đan xen với quan hệ lao động hoặc nhiều khi phát sinh trước tạo
điều kiện cho quan hệ lao động được hình thành nghĩa là có một số trường
hợp họ tham gia học nghề trước để trau dồi kĩ năng có tay nghề cao rồi mới
tham gia làm việc nếu như vậy cơ hội tìm kiếm việc làm sẽ tốt hơn .Nhưng
cũng có một số trường hợp quan hệ việc làm xuất hiện sau khi quan hệ lao
động được hình thành nhằm nâng cao trình độ nghề nghiệp để giữ được việc
làm và thăng tiến trong công việc ,đồng thời chất lượng của quan hệ học nghề
có ảnh hưởng trực tiếp đến cơ hội và tính bền vững của việc làm ,đến trình độ
chuyên môn và mức thu nhập của người lao động trong quan hệ lao động.Mặt
khác ta có thể nhìn thấy ở một khía cạnh nào đó có nhiều người tham gia học


nghề chỉ mang tính chất đào tạo ,giáo dục mà không tham gia làm việc ,việc
học của họ không phục vụ cho việc làm .Chính vì thế có thể nói quan hệ học
nghề vừa là quan hệ phát sinh từ quan hệ lao động vừa là quan hệ độc lập
c.quan hệ bồi thường thiệt hại
Trong quan hệ lao động là có sự khác nhau về địa vị giữa các chủ thể
và các xung đột về quyền và nghĩa vụ, khi thực hiện các nghĩa vụ đó thì phải
có các nghĩa vụ bồi thường do đó bồi thường thiệt hại cũng thuộc đối tượng
điều chỉnh của luật lao động
Quan hệ bồi thường thiệt hại do luật lao động điều chỉnh được hình
thành giữa một bên trong quan hệ đó gây thiệt hại về tài sản ,sức khoẻ hay vi

phạm khác cho phía bên kia thì phải có nghĩa vụ bồi thường được các quy
phạm pháp luật điều chỉnh
Các quan hệ bồi thường thiệt hại do luật lao động điều chỉnh bao gồm:
Quan hệ bồi thường thiệt hại về tài sản, Quan hệ bồi thường do vi phạm hợp
đồng, Quan hệ bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe người lao động.
d.Quan hệ về đại diện lao động
Quan hệ đại diện lao động là mối quan hệ xã hội giữa tổ chức đại diện
tập thể người lao động với người sử dụng lao động hoặc đại diện của người sử
dụng lao động nhằm đại diện bảo vệ quyền và lợi ích cho người lao động
được các quy phạm pháp luật lao động điều chỉnh do đó quan quan hệ đại
diện lao động cũng thuộc đối tượng điều chỉnh của luật lao động.
Tham gia vào quan hệ lao động thì giữa các chủ thể có địa vị khác nhau
,người lao động luôn phải phụ thuộc vào người sử dụng lao động do đó để hạn
chế sự lạm dụng của người sử dụng lao động ,duy trì ổn định quan hệ lao
động và thoả mãn được mục tiêu cho mỗi bên thì cần có sự tham gia của tổ
chức đại diện tập thể người lao động.
Như vậy công đoàn với tư cách là đại diện cho tập thể NLĐ, tham gia
vào mối quan hệ với bên sử dụng lao động nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của NLĐ như: việc làm, tiền lương, tiền thưởng và các chế độ khác.
Ngoài ra, Công đoàn còn là người đại diện cho lực lượng lao động xã hội
trong mối quan hệ với Nhà nước khi hoạch định chính sách, pháp luật, trong
việc kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật lao động.
e.Quan hệ bảo hiểm xã hội
Trong quan hệ lao động luôn tiềm ẩn các rủi ro làm cho người lao động
gặp rất nhiều khó khăn vì vậy để đảm bảo đời sống cho người lao động khi
họ mất hoặc giảm khả năng lao động, hay hết tuổi lao động được Nhà nước
đảm bảo bằng nhiều loại quỹ khác nhau, trong đó có quỹ bảo hiểm xã hội ,do
đó quan hệ bảo hiểm xã hội cũng thuộc tượng điều chỉnh của luật lao động
Quan hệ bảo hiểm xã hội gồm :quan hệ trong việc tạo thành quỹ bảo
hiểm, quan hệ trong việc chi trả bảo hiểm xã hội.

f.Quan hệ giải quyết tranh chấp lao động và đình công


Trong quan hệ lao động việc đảm bảo quyền lợi nghĩa vụ của mỗi bên
trên cơ sở thoả thuận và đảm bảo thực hiện nó nhưng cũng do việc đảm bảo
các quyền và nghĩa vụ đó là nguyên nhân dẫn đến xung đột của mỗi bên ,đặc
biệt trong lĩnh vực lao động thì giữa các bên có địa vị xã hội khác nhau do đó
việc xảy ra mâu thuẫn là không thể tránh khỏi vì vậy việc giải quyết các tranh
chấp lao động và đình công cũng thuộc đối tượng điều chỉnh của luật lao
động.
Quan hệ về giải quyết tranh chấp lao động và đình công là quan hệ xã
hội được hình thành giữa cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao
động và giải quyết đình công với các bên trong quan hệ lao động.
Trong quá trình thực hiện quan hệ lao động thì giữa các chủ thể có thể
xảy ra những bất đồng ,xung đột giữa cá nhân hay tập thể lao động về quyền
và lợi ích .Trường hợp không thể giải quyết tranh chấp bằng thương lượng thì
sẽ giải quyết bằng con đường toà án ,có thể yêu cầu cơ quan có thẩm quyền
giải quyết các tranh chấp đó để đảm bảo quyền lợi ích hợp pháp cho các chủ
thể đó.
g.Quan hệ quản lý nhà nước về lao động
Trong quan hệ lao động nhằm duy trì quan hệ giữa các chủ thể và thoả
mãn mục tiêu ,lợi ích cho các chủ thể thì cần phải có sự tham gia của các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền vì thế quản lý nhà nước về lao động cũng thuộc
đối tượng điều chỉnh của luật lao động.
Quan hệ về quản lí lao động là quan hệ quan hệ giữa Nhà nước hoặc cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền với các cấp, ngành, doanh nghiệp hoặc
NSDLĐ trong việc chấp hành các quy định của pháp luật về sử dụng lao
động. Trong quá trình thực hiện chức năng quản lý lao động của mình, Nhà
nước có quyền kiểm tra, thanh tra, xử lý các trường hợp vi phạm pháp luật lao
động.Ngoài ra trong phạm vi quyền hạn nhất định người sử dụng lao động

cũng có quyền quản lý điều hành người lao động ,nâng cao ý thức của người
lao động thông qua việc ban hành các nội quy ,quy định nhưng phải phù hợp
với quy định của pháp luật.
Mục đích của quan hệ này là nhằm đảm bảo quyền lợi của các bên
trong quan hệ lao động và lợi ích chung của xã hội, đảm bảo cho các quan hệ
lao động đã xác lập được hài hòa, ổn định, thúc đẩy phát triển sản xuất.
Như vậy từ sự phân tích ở trên có thể thấy rằng đối tượng điều chỉnh
của luật lao động mang những đặc trưng riêng không giống bất cứ ngành luật
nào,chính điều đó đã góp phần chứng minh rằng luật lao động là một ngành
luật độc lập .Tuy nhiên chỉ đối tượng điều chỉnh không thôi chưa thể bộc lộ rõ
nét tính độc lập của luật lao động mà chúng ta phải kể đến phương pháp điều
chỉnh
II, Phương pháp điều chỉnh
- Khái niệm: Phương pháp điều chỉnh của Luật lao động là những cách


thức, biện pháp mà Nhà nước thông qua luật sử dụng chùng để điều chỉnh các
quan hệ xã hội, sắp xếp các nhóm quan hệ xã hội theo trật tự nhất định để
chúng phát triển theo những định hướng trước.
Các phương pháp điều chỉnh của Luật lao động bao gồm
a - Phương pháp thỏa thuận
Phương pháp này chủ yếu áp dụng trong trường hợp xác lập quan hệ
lao động giữa người lao động với người sử dụng lao động, và trong việc xác
lập thỏa ước lao động tập thể .Xuất phát từ bản chất của quan hệ lao động là
tự do thương lượng, nên khi tham gia vào quan hệ lao động các bên cùng
nhau thỏa thuận các vấn đề liên quan trong quá trình lao động trên cơ sở tự
nguyện, bình đẳng nhằm đảm bảo cho hai bên cùng có lợi và tạo điều kiện để
các bên thực hiện tốt các nghĩa vụ của mình.
Mặc dầu luật lao động ,luật dân sự hay luật thương mại đều thuộc hệ
thống luật tư và phương pháp điều chỉnh thoả thuận là phương pháp chủ yếu

nhưng ở mỗi ngành luật với mục đích hướng đến khác nhau mà phương pháp
thoả thuận cũng mang những điểm không giống nhau .
Do trong quan hệ dân sự hay thương mại các chủ thể đều quan tâm đến tài
sản và các chủ thể tham gia đều bình đẳng và độc lập với nhau về địa vị kinh
tế . Chính vì vậy mà phương pháp thỏa thuận trong luật dân sự được sử dụng
triệt để trong suốt quá trình từ khi xác lập đến khi chấm dứt quan hệ đó .
Ngược lại trong luật lao động các chủ thể tham gia vào quan hệ lao động mục
đích mà các bên chủ thể hướng đến khác nhau:người lao động quan tâm đến
thu nhập để ổn định cuộc sống còn người sử dụng lao động hướng đến lợi
nhuận,không những thế các chủ thể không bình đẳng về địa vị và không độc
lập với nhau về lợi ích kinh tế : khi tham gia vào quan hệ lao động người lao
động luôn bị ràng buộc bởi người sử dụng lao động cả về mặt lợi ích kinh tế
và mặt tổ chức vì vậy mà sự thoả thuận ,bình đẳng ở đây chỉ mang tính tương
đối nên nhà nước bằng pháp luật đã đặt ra những quy định nhằm bảo vệ người
lao động ,nâng cao vị trí của người lao động để họ bình đẳng với người sử
dụng lao động . Chính vì vậy mà phương pháp bình đẳng trong luật lao động
tuy là tự do thương lượng , tự nguyện thỏa thuận nhưng các chủ thể cả quan
hệ lao độngchỉ được thực hiện quyền tự định đoạt của mình trong khuôn khổ
và không trái pháp luật.
b - Phương pháp mệnh lệnh
Phương pháp mệnh lệnh được sử dụng trong lĩnh vực tổ chức và quản lý
lao động, phương pháp này thường được dùng để xác định nghĩa vụ của người
lao động đối với người sử dụng lao động. Trong quan hệ lao động, người sử
dụng lao động trong phạm vi quyền hạn của mình có quyền đặt ra các quy
định như : nội quy, quy chế, những quy định về tổ chức, sắp xếp lao động v.v.
. . buộc người lao động phải chấp hành.
Tuy nhiên phương pháp mệnh lệnh trong lĩnh vực lao động cũng có sự khác
biệt so với lĩnh vực hành chính , hình sự do luật hành chính, hình sự điều



chỉnh .Trong lĩnh vực hành chính , hình sự bao giờ cũng mang mang tính
cứng rắn , thể hiện quyền lực nhà nước và bắt buộc thực hiện bởi sức mạnh
cưỡng chế của Nhà nước, vì thế mà không được thỏa thuận thay đổi . Còn
trong quan hệ lao động phương pháp mệnh lệnh có tính chất mềm dẻo ,linh
hoạt hơn bởi vì nó không thể hiện quyền lực nhà nước mà chỉ thể hiện quyền
uy của người sử dụng lao động với người lao động là chủ yếu trong việc điều
hành quản lý người lao động nên có thể thỏa thuận thay đổi nếu không phù
hợp với địa vị hay tính chất công việc.
c - Phương pháp thông qua các hoạt động Công đoàn tác động vào các
quan hệ phát sinh trong quá trình lao động
Trên thực tế quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động giữa
họ có nhiều sự bất bình đẳng ,trong mối quan hệ này người lao động thường
bị coi là ‘kẻ yếu ‘ và người sử dụng lao động là ‘kẻ mạnh’cho nên tổ chức
Công đoàn - với tư cách là đại diện tập thể người lao động, do người lao động
tự nguyện lập nên - có chức năng đại diện tập thể người lao động trong quan
hệ với người sử dụng lao động, nhằm bảo vệ quyền lợi của người lao động khi
các quyền, lợi ích hợp pháp của họ có nguy cơ bị xâm phạm. Điều này khẳng
định rằng, sự hiện diện của tổ chức Công đoàn là chính đáng, không thể thiếu
được.và sự tham gia của tổ chức đại diện tập thể lao động được thể hiện trong
suốt quá trình tồn tại , thay đổi ,chấm dứt quan hệ lao động và nó quyết định
giá trị pháp lý ,sự vận động của quan hệ theo những mục đích đã được xác
định.Do đó Có thể nói đây là phương pháp điều chỉnh rất đặc thù của Luật lao
động mà chúng ta không thể tìm thấy ở bất cứ ngành luật nào khác. Phương
pháp này được sử dụng để giải quyết những vấn đề phát sinh trong quá trình
lao động có liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của người lao
động.
Như vậy từ sự phân tích ở trên ta cũng có thể thấy rằng phương pháp
điều chỉnh của luật lao động mang những đặc trưng riêng không giống bất cứ
ngành luật nào,chính điều đó đã góp phần chứng minh rằng luật lao động là
một ngành luật độc lập .

III, Các nguyên tắc cơ bản của Luật lao động
Do mỗi ngành luật đều có đối tượng điều chỉnh ,phương pháp điều
chỉnh riêng nên các nguyên tắc hoạt động ở từng ngành luật cũng có nhiều
điểm khác biệt. Chính vì vậy nguyên tắc cơ bản cũng là một trong những căn
cứ để xác định một ngành luật độc lập, và luật lao động ngoài có đối tượng
điều chỉnh, phương pháp điều chỉnh, nguồn luật lao động thì cũng có các
nguyên tắc cụ thể điều chỉnh các quan hệ xã hội về lao động
Khái niệm: Nguyên tắc cơ bản của Luật lao động là những tư tưởng chỉ
đạo xuyên suốt toàn bộ hệ thống quy phạm pháp luật Lao động trong việc
điều chỉnh các quan hệ xã hội về Lao động .
Cơ sở hình thành: các nguyên tắc cơ bản của luật lao động được hình


thành từ những cơ sở
- các quan điểm , tư tưởng đường lối mang tính chất định hướng , chỉ
đạo về lĩnh vực Lao động, sử dụng Lao động , bảo vệ Lao động , thực hiện
quan hệ lao động trong các nội dung, nghị quyết tại các cuộc họp Đại hội, Hội
nghị của Đảng và Nhà nước.
- các văn bản quy phạm pháp luật như văn bản luật và văn bản dưới
luật
- các quan điểm chỉ đạo của tổ chức lao động quốc tế , sự tác động của
hệ thống của hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật quốc gia
- xu thế khu vực hóa, toàn cầu hóa về kinh tế-xã hội trong đó có cả lĩnh
vực lao động
Mỗi một ngành luật độc lập đều có những nguyên tắc cơ bản cụ thể, ví
dụ như bộ luật dân sự,luật tố tụng dân sự, luật thương mại, luật hình sự, luật
tố tụng hình sự, luật hành chính,luật đất đai ,..... Đều có những nguyên tắc cụ
thể
Nếu như luật dân sự bao gồm 5 nguyên tắc là nguyên tắc bình
đẳng( k1đ3 BLDs 2015) ; nguyên tắc tự do cam kết thỏa thuận( k2đ3 BLDS

2015) ; nguyên tắc thiện chí trung thực( K3đ3 BLDS 2015); nguyên tắc tôn
trọng lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của
người khác( k4đ3 BLDS 2015) và nguyên tắc chịu trách nhiệm dân sự
( K5Đ3 BLDS 2015) .
Thì luật thương mại cũng bao gồm 6 nguyên tắc sau: Nguyên tắc bình
đẳng trước pháp luật của thương nhân trong hoạt động thương mại; Nguyên
tắc tự do, tự nguyện thoả thuận trong hoạt động thương mại; Nguyên tắc áp
dụng thói quen trong hoạt động thương mại được thiết lập giữa các bên;
Nguyên tắc áp dụng tập quán trong hoạt động thương mại; Nguyên tắc bảo vệ
lợi ích chính đáng của người tiêu dùng;Nguyên tắc thừa nhận giá trị pháp lý
của thông điệp dữ liệu trong hoạt động thương mại
Hay luật hình sự cũng có 5 nguyên tắc cơ bản, đó là nguyên tắc pháp
chế, nguyên tắc dân chủ, nguyên tắc nhân đạo, nguyên tắc hành vi và nguyên
tắc có lỗi, nguyên tắc phân hóa trách nhiệm dân sự
Luật đất đai bao gồm 5 nguyên tắc : nguyên tắc đất đai thuộc sở hữu
toàn dân do nhà nước là đại diện chủ sở hữu, nguyên tắc thống nhất quản lý
đất đai theo quy hoạch và pháp luật, nguyên tắc sử dụng đất đai một cách hợp
lý, tiết kiệm, cải tạo và bồi bổ đất đai, nguyên tắc quan tâm đến lợi ích của
người sử dụng đất, nguyên tắc ưu tiên bảo vệ và phát triển quỹ đất nông
nghiệp
Và cũng tương tự các ngành luật trên, luật lao động bao gồm 5 nguyên
tắc cơ bản , đó là:
+ Nguyên tắc bảo vệ người lao động
+ Nguyên tắc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp cho người sử dụng


lao động
+ Nguyên tắc kết hợp hài hòa giữa chính sách kinh tế và chính sách xã
hội
+Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa

+ Nguyên tắc tự do lao động , tự do việc làm và tuyển dụng lao động
3.1- Nguyên tắc bảo vệ người lao động
- Đảm bảo quyền được tự do làm việc , nơi làm việc của người lao
động
+ Vấn đề tự do việc làm, nơi làm việc là một trong những nội dung mà
nhà nước, pháp luật quan tâm, vừa mang tính cấp bách , vừa có tính chiến
lược lâu dài trong chính sách phát triển của đất nước
+ Nội dung của nguyên tắc này thể hiện ở chỗ đảm bảo về mặt pháp lý
cho người lao động trong phạm vi , khả năng, nguyện vọng của mình, có cơ
hội để tìm kiếm việc làm, có quyền làm việc, quyền lựa chọn công việc để
làm phù hợp với nhu cầu , khả năng của bản thân với điều kiện sinh hoạt, điều
kiện sống của bản thân và gia đình , phát huy hết những tố chất , khả năng từ
đó đảm bảo năng suất chất lượng và hiệu quả công việc
- Đảm bảo về thu nhập cho người lao động
+ Trong nền KTTT hiện nay, pháp luật không quy định mức tiền
lương mà người sử dụng lao động trả cho người lao động mà tạo điều kiện
cho các chủ thể thỏa thuận với nhau trên cơ sở ý chí của các bên , thời gian,
năng suất , hiệu quả công việc
+ Nội dung: thể hiện rất rõ ở chỗ pháp luật quy định về việc trả
lương như trả lương trên cơ sở thỏa thuận của các bên nhưng không thấp hơn
mức lương tối thiểu , trả lương làm thêm giờ, trả lương đầy đủ và đúng thời
hạn,.....
- Đảm bảo an toàn vệ sinh cho người lao động trong quá trình làm
việc
+ Xuất phát từ quan điểm con người là vốn quý nhất thì bảo vệ
cho người lao động chính là bảo vệ tính mạng sức khỏe cho người lao động là
trách nhiệm của Nhà nước, của doanh nghiệp và của chính bản thân người lao
động
+ Những đảm bảo pháp lý để người lao động thực hiện quyền bảo
hộ lao động như: Đưa ra các tiêu chuẩn hóa về an toàn vệ sinh lao động ,

trang bị các dụng cụ thiết bị cá nhân, khám sức khỏe định kỳ cho người lao
động, bồi dưỡng bằng hiện vật, chế độ nghỉ ngơi
- Đảm bảo quyền được nghỉ ngơi cho người lao động
+ Nghỉ ngơi là một quyền không thể thiếu của người lao động, do đó
pháp luật luôn quan tâm đến quyền nghỉ ngơi này nhằm đảm bảo cho người
lao động tái sản xuất sức lao động ,duy trì ổn định sức lao động , duy trì quan


hệ lao động , đảm bảo quyền, lợi ích của các bên
+ Nội dung: bao gồm nghỉ được hưởng lương, nghỉ không được hưởng
lương, nghỉ theo thỏa thuận với người sử sụng lao động,
- Đảm bảo quyền được gia nhập , thành lập tổ chức công đoàn theo
quy định của pháp luật
+ Người lao động làm việc ở bất cứ doanh nghiệp nào đều có quyền
thành lập , gia nhập và hoạt động trong tổ chức công đoàn . Pháp luật thừa
nhận vai trò của tổ chức công đoàn với tư cách là người đại diệ bảo vệ quyền
và lợi ích cho tập thể người lao động, tôn trọng và tạo điều kiện cho tổ chức
công đoàn thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Pháp luật cũng quy định
người sử dụng lao động không được phân biệt đối xử vì lý do người lao động
thành lập, gia nhập hoạt động trong tổ chứa công đoàn hay dùng các thủ đoạn
để can thiệt vào tổ chức này
- Đảm bảo thực hiện bảo hiểm xã hội cho người lao động
+ Thực hiện bảo hiểm xã hội đối với người lao ddoogj có ý nghĩa thiết
thực, góp phần ổn định cuộc sống cho người lao động. Khắc phục được khó
khăn , tạo tâm lý an toàn và tăng hiệu quả trong sản xuất kinh doanh khi
người lao động gặp các rủi ro
+ Nội dung :thể hiện ở chỗ các chủ thể đều phải tham gia đóng góp. Do
đó để bảo đảm quyền được hưởng bảo hiểm xã hội , luật lao động không chỉ
quy định quyền được hưởng các chế độ bảo hiểm mà còn quy định trách
nhiệm của nhà nước, của các đơn vị sử dụng lao động trong việc đóng góp và

thực hiện các chế độ bảo hiểm xã hội cho người lao động, không được có sự
phân biệt đối xử trong việc thực hiện bảo hiểm . Nếu thực hiện Bảo hiểm mà
không đảm bảo đúng theo quy định thì cũng có quyền yêu cầu cơ quan tổ có
thẩm quyền để bảo vệ cho người lao động
- Đảm bảo quyền được đình công và các quyền khác của người lao
động
+ Đình công là một trong những quyền tất yếu của người lao động
được pháp luật quy định và bảo vệ
+ Quyền được đình công là quyền của tập thể người lao động đấu tranh
để đảm bảo các lợi ích thông qua việc tập thể người lao động ngừng việc
trong một thời gian nhất định, đưa ra những yêu cầu buộc người sử dụng lao
động phải chấp nhận
+ Trong quá trình khai thác sử dụng sức lao động , nếu xảy ra các xung
đột về quyền, nghĩa vụ thì tập thể người lao động cũng có quyền yêu cầu các
cơ quan có thẩm quyền giải quyết để bảo vệ những lợi ích đó. Trường hợp có
sự thiệt hại thì cũng có quyền yêu cầu được bồi thường
3.2 - Nguyên tắc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử
dụng lao động


Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động là tư tưởng
chủ đạo xuyên suốt quá trình xây dựng và áp dụng pháp luật lao động. Bởi lẽ,
người sử dụng lao động là một bên của quan hệ lao động, cùng với việc bảo
vệ người lao động, không thể không tính đến việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của người sử dụng lao động. Điều 57 Hiến pháp 1992 quy định: “ công
dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật”, và Điều 58 Hiến
pháp cũng quy định là công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của
cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác
trong doanh nghiệp hoặc các tổ chức kinh tế khác.
Nếu như người lao động có quyền tự do lựa chọn việc làm, được hưởng

các quyền lợi trong lao động, thì người sử dụng lao động trong bất kỳ thành
phần kinh tế nào cũng có quyền tuyển chọn lao động, quyền tăng hoặc giảm
lao động phù hợp nhu cầu sản xuất, kinh doanh, quyền ban hành nội quy và
các quy chế lao động, có quyền khen thưởng, kỷ luật, chấm dứt hợp đồng lao
động v.v… theo quy định của pháp luật. Nếu tài sản của người sử dụng lao
động bị người lao động làm thiệt hại thì họ có quyền yêu cầu được bồi
thường. Người sử dụng lao động cũng có quyền phối hợp với tổ chức Công
đoàn trong quá trình sử dụng lao động để quản lý lao động dân chủ và hiệu
quả; có quyền thương lượng và ký kết thỏa ước lao động tập thể trong đơn vị
cho phù hợp với tình hình sản xuất, kinh doanh và khả năng kinh tế, tài chính
của đơn vị mình.
Trong quá trình hoạt động, người sử dụng lao động có quyền tham gia
các tổ chức của người sử dụng lao động. Nếu các quyền, lợi ích hợp pháp của
họ bị xâm phạm thì họ có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền bảo vệ cho
mình.
3.3 Nguyên tắc kết hợp hài hòa giữa chính sách kinh tế và chính
sách xã hội
Người lao động là thành viên trong xã hội, tham gia quan hệ lao động
để đảm bảo cuộc sống cho bản thân và gia đình mình, nên các chế độ lao động
không chỉ liên quan đến người lao động mà còn liên quan đến toàn bộ đời
sống xã hội, không những thế hơn bất cứ lĩnh vực nào quan hệ lao động trong
thị trường là sự biểu hiện rõ nét nhất mối quan hệ của kinh tế và xã hội do đó
luật lao động với tư cách là nghành luật điều chỉnh các quan hệ xã hội thuộc
lĩnh vực lao động phải kết hợp hài hòa giữa chính sách kinh tế và chính sách
xã hội. Nội dung kinh tế trong quan hệ lao động là vấn đề tiền lương ,thu nhập
,phúc lợi,lợi nhuận …nội dung xã hội đó là việc làm ,thất nghiệp,đan sinh xã
hội.
Quan hệ lao động vừa có tính kinh tế, vừa có tính xã hội. Khi điều tiết
quan hệ lao động, Nhà nước phải chú ý đến các bên trong quan hệ này, nhất là
người lao động, về tất cả các phương diện như : lợi ích vật chất, tinh thần, nhu

cầu xã hội v. v… và đặt những vấn đề đó trong mối tương quan phù hợp với
điều kiện kinh tế – xã hội của đất nước. Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội


Đảng toàn quốc lần thứ VII đã khẳng định: “ phải có chính sách xã hội là
động lực để phát triển kinh tế, nhưng đồng thời phải có chính sách kinh tế là
cơ sở và tiền đề để thực hiện chính sách xã hội”.
Như vậy, bên cạnh mục tiêu kinh tế như lợi nhuận, tiền lương, sự tăng
trưởng trong sản xuất, kinh doanh, Luật lao động phải giải quyết các vấn đề
xã hội như: việc làm, công bằng, dân chủ, tương trợ cộng đồng ngay trong
quá trình lao động, ngay tại các doanh nghiệp. Nếu pháp luật lao động tách rời
hoặc coi nhẹ chính sách xã hội thì sẽ không hạn chế được những tiêu cực của
cơ chế thị trường; ngược lại, nếu coi trọng các vấn đề xã hội quá mức so với
điều kiện kinh tế thì sẽ không có tính khả thi.
Ở tầm vĩ mô, Chính phủ có sự hỗ trợ về tài chính cho những địa
phương, ngành có nhiều người thiếu việc làm, hoặc mất việc làm do thay đổi
cơ cấu công nghệ. Pháp luật lao động cũng có những ưu tiên về vay vốn, giảm
thuế cho những doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động tàn tật, lao động nữ để
giải quyết các vấn đề xã hội và đảm bảo mục tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp.
Quán triệt nguyên tắc này, pháp luật lao động đã góp phần quan trọng
bảo vệ người lao động, khuyến khích đầu tư, tạo điều kiện phát triển các
doanh nghiệp nhằm tăng trưởng kinh tế đất nước, xây dựng xã hội công bằng
và văn minh
3.4 Nguyên tắc pháp chế:
Để đảm bảo trật tự xã hội cần phải tạo ra một số chế độ trong đó các cơ
quan nhà nước ,cán bộ công chức nhà nước ,các tổ chức và cá nhân trong xã
hội thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật ,các quy phạm pháp luật lao động cũng
cần tuân thủ nguyên tắc pháp chế .
Nguyê tắc này đòi hỏi các văn bản trong hệ thống pháp luật lao động
phải đảm bảo sự thống nhất với nhau .Hệ thống quy phạm pháp luật điều

chỉnh quan hệ lao động làm công ăn lương và các quan hệ xã hội liên quan
trực tiếp với quan hệ lao động phải bao hàm tương đối đầy đủ các quy định về
những nội dung của quan hệ lao động và tránh sự chồng chéo ,trùng lặp giữa
các quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật khác nhau
Đồng thời ,nguyên tắc pháp chế cũng đòi hỏi đảm bảo được yêu cầu về
giá trị của của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật lao động .Những văn bản
pháp luật có giá trị pháp lý thấp cần phải phù hợp và không trái với những
văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao hơn ,các nghị định không được trái
với các văn bản pháp luạt ,các đạo luật không được trái và phải phù hợp với
hiến pháp …Những văn bản nội bộ của doanh nghiệp như thoả ước lao động
tập thể,hợp đồng lao động ,nội quy doanh nghiệp không được trái với phá
luật.Đặc biệt hợp đồng lao đồng không được trái với pháp luật và thoả ước lao
động.
3.5 Nguyên tắc tự do lựa chọn việc làm và tuyển dụng lao động
Cơ sở của nguyên tắc này xuất phát từ quan điểm chủ trương của đảng


là:xây dựng hệ thống pháp luật về lao động và thị trường sức la động nhằm
đảm bảo quyền lựa chọn chỗ làm việc và nơi cư trú của người lao động ,thực
hiện rộng rãi chế độ hợp đồng lao động,đảm bảo quyền lợi của cả người lao
động và người sử dụng lao động .
Về mặt nội dung của nguyên tắc này hiểu theo nghĩa chung nhất ,khi
một công dân có nhu cầu tham gia thị trường lao động thì pháp luật phải đảm
bảo cho công dân có toàn quyền lựa chọn tư cách tham gia :là người lao đọng
hay người sử dụng lao động.Với tư cách là người lao động điểm a khoản 1
điều 5 bộ luật lao động 2012 đảm bảo họ có quyền:làm việc,tự do lựa chọn
việc làm ,nghề nghiệp ,học nghề ,nâng cao trình độ nghề nghiệp và không bị
phân biệt đối xử.Còn với tư cách người sử dụng lao động điểm a khoản 1
điều 6 bộ luật lao động 2012 quy định họ có quyền :tuyển dụng ,bố trí ,điều
hành lao động theo nhu cầu sản xuất kinh doanh.Như vậy người sử dụng lao

động có quyền quyết định về thời điểm,cách thức tổ chức ,số lượng ,chất
lượng…tuyển dụng lao động và sau đó có quyền sắp xếp ,bố trí ,sử dụng lao
động,chấm dứt quan hệ lao động…theo nhu cầu của đơn vị và không trái quy
định của pháp luật.
Như vậy luật lao động bên cạnh các đối tượng điều chỉnh riêng,phương
pháp điều chỉnh riêng thì luật lao động cũng có hệ thống các nguyên tắc hoạt
động riêng không giống với nguyên tắc của luật dân sự ,thương mại hay luật
hành chính.Do đó nguyên tắc cơ bản đã góp phần làm rõ quan điểm luật lao
động là ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật việt nam
IV, Nguồn của luật lao động:
Ngoài các căn cứ nêu trên, nguồn luật cũng là một trong những cơ sở để xác
định luật lao động là một ngành luật độc lập.
Nguồn là hình thức chứa đựng các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan
hệ xã hội phát sinh. Và nguồn của luật lao động là hệ thống các văn bản quy
phạm pháp luật do nhà nước ban hành đảm bảo thực hiện điều chỉnh các quan
hệ xã hội về lao động và các quan hệ xã hội có liên quan trực tiếp đến quan hệ
lao động
Khác với luật thương mại ,ngoài các văn bản luật và các văn bản dưới luật
thì tập quán thương mại và điều ước quốc tế cũng là một trong những nguồn
của luật thương mại. Còn nguồn chủ yếu của luật lao động chỉ bao gồm các
văn bản luật và các văn bản dưới luật
Các văn bản luật bao gồm Hiến pháp ( Đây là bộ phận cấu thành không thể
thiếu , làm cơ sở để xác định các nguyên tắc, các nội dung định hướng cơ bản
của luật lao động) ,Bộ luật lao động ( bộ luật lao động 1994 sửa đổi bổ sung
2006,2007; bộ luật lao động 2012) và các luật khác như bộ luật dân sự, bộ
luật tố tụng dân sự, luật hợp tác xã, luật công đoàn, luật đầu tư,.......
Các văn bản dưới luật như pháp lệnh( văn bản do ủy ban thường vụ quốc
hội ban hành) , nghị định, nghị quyết của Chính phủ, thông tư, chỉ thị,.......



C.KẾT LUẬN:
Nói tóm lại ,với những yếu tố trên có thể khẳng định rằng luật lao động
là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật việt nam có đối tượng điều
chỉnh ,phương pháp điều chỉnh ,nguyên tắc ,nguồn luật riêng , chính các yếu
tố trên tạo nên nét riêng biệt cho luật lao động không giống bất cứ ngành luật
nào ,nhìn vào các căn cứ trên ta có thể dễ dàng xác định được đó là luật lao
động
D.TÀI LIỆU THAM KHẢO:
-Giáo trình luật lao động việt nam –NXB CAND-TĐHLHN
-Giáo trình luật lao động việt nam-NXB ĐHV-PGS.TS nguyễn hữu chí
(chủ biên) .ThS.lê văn đức
-Bộ luật Lao động 1994 (đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật
35/2002/QH10 ngày 02/4/2002, Luật 74/2006/QH11 ngày 29/11/2006, và
Luật 84/2007/QH11 ngày 02/4/2007);
-Bộ luật lao động 2012
-Luật Bảo hiểm xã hội số 58/2014/QH13
-Luật giáo dục nghề nghiệp 2015
-Dự thảo Luật sửa đổi của Bộ Luật lao động 2012



×