Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

ĐỀ CƯƠNG ôn THI học PHẦN tâm lý học HOẠT ĐỘNG CHUYÊN NGÀNH tâm lý học SAU đại học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (878.48 KB, 100 trang )

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP PHẦN TÂM LÝ HỌC HOẠT ĐỘNG
1. Quan điểm của các nhà Tâm lý học Mác xít về nhu cầu
Nhu cầu và động cơ là hạt nhân của nhân cách, nó chi phối mọi hành vi, hoạt động
của con người trong cuộc sống.Vì vậy, nghiên cứu về nhu cầu có ý nghĩa khởi điểm,
xuất phát quan trọng khi xem xét, đánh giá và phát triển tâm lý, nhân cách.
Cũng vì tầm quan trọng của nó mà nhu cầu trở thành một khái niệm cơ bản trong
tâm lý học. Nghiên cứu về nhu cầu có nhiều quan điểm, trường phái khác nhau, đặc biệt
là ở TLH phương Tây và TLH Xô viết. Sau đây, xin làm rõ quan điểm của … về nhu cầu.
1.1. A.N. Leonchiev
Cũng như những đặc điểm tâm lý khác của con người, nhu cầu cũng có nguồn gốc
trong hoạt động thực tiễn.Theo ông, nhu cầu thực sự bao giờ cũng có tính đối tượng:
nhu cầu bao giờ cũng là nhu cầu về một cái gì đó. Ông cho rằng, các nhu cầu phát triển
thông qua môi giới trung gian của quá trình phản ánh. Mối giới trung gian đó luôn mang
tính chất kép: những đáp ứng các nhu cầu chủ thể sẽ xuất hiện trước chủ thể với tư cách
là những dấu hiệu khách quan mang tính chất tín hiệu; bản thân các trạng thái có tính
chất nhu cầu cùng được báo hiệu, phản ánh cùng chủ thể.
Trong mối quan hệ giữa đối tượng thoả mãn nhu cầu và nhu cầu, ông cho rằng: đối
tượng tồn tại một khách quan và không xuất hiện khi chủ thể mới chỉ có cảm giác thiếu
hụt hay đòi hỏi. Chỉ khi chủ thể thực sự hoạt động thì đối tượng thoả mãn nhu cầu mới
xuất hiện và lộ diện ra. Nhờ có sự lộ diện ấy mà nhu cầu mới có tính đối tượng của nó.
Với tư cách là một cá nhân, chủ thể khi sinh ra đã có nhu cầu. : Nhu cầu, với tính
chất là sức mạnh nội tại thì chỉ có thể được thực thi trong hoạt động. Lúc đầu nhu cầu
chỉ xuất hiện như là một điều kiện, một tiền đề cho hoạt động, chỉ đến khi chủ thể thực
sự bắt đầu hành động với đối tượng thì lập tức xảy ra sự biến hoá của nhu cầu, nó không
còn tồn tại một cách tiềm tàng. Sự phát triển của hoạt động càng đi bao xa bao nhiêu thì
nhu cầu càng chuyển hoá bấy nhiêu thành kết quả của hoạt động.
Ông phê phán việc tách nhu cầu ra khỏi hoạt động vì như vậy sẽ coi nhu cầu là
điểm xuất phát của hoạt động. Mối liên hệ giữa hoạt động với nhu cầu được ông mô tả
bằng sơ đồ:
Hoạt động - Nhu cầu - Hoạt động. Luận điểm này đáp ứng được quan điểm
Macxit về nhu cầu. Luận điểm này cho rằng nhu cầu của con người được sản xuất ra.


Đó là luận điểm có ý nghĩa đối với tâm lý học.
Có 2 sơ đồ:
+ Nhu cầu -> Hoạt động -> Nhu cầu (của các nhà duy vật trước Mác)
+ Hoạt động -> Nhu cầu -> Hoạt động
Ông so sánh nhu cầu con người và nhu cầu của động vật. với động vật sự thỏa
mãn nhu cầu phụ thuộc vào tự nhiên. Ông còn cho rằng: nhu cầu của con người không
chỉ được sản xuất ra mà còn được cải biến ngày trong quá trình sản xuất và tiêu thụ và
đó là mấu chốt để hiểu được bản chất của các nhu cầu của con người. Nó đa dạng và
phong phú hơn rất nhiều nhu cầu động vật.
Khi xem xét mối quan hệ giữa nhu cầu với động cơ, ông cho rằng: khi mà đối
tượng của nhu cầu xuất hiện thì có được chức năng thúc đẩy, hướng dẫn hoạt động, tức
là trở thành động cơ. Nói cách khác, nội dung đối tượng của nhu cầu chính là động cơ
của hoạt động.
1.2. X.L. Rubinstein


con người có nhu cầu sinh vật, nhưng bản chất của con người là sản phẩm của xã
hôi, vì thế cần phải xem xét đồng thời nhu cầu với các vấn đề cơ bản của con người.Nhu
cầu thể hiện sự liên kết và sự phụ thuộc của con người với thế giới xung quanh. Nó là
sự đòi hỏi cái gì đó nó nằm ở ngoài cơ thể.
Hoạt động thỏa mãn nhu cầu phải có sự thống nhất giữa yếu tố khách quan và yếu
tô chủ quan: Khả năng đáp ứng những đòi hỏi ấy một mặt phụ thuộc vào thế giới đối
tượng, trong những điều kiện cụ thể, mặt khác nó phụ thụôc vào sự nỗ lực, năng lực của
chính chủ thể. Do đó, do đó, khi nói đến nhu cầu sẽ xuất hiện hai hệ thống là: thế giới
đối tượng và trạng thái tâm lý của chủ thể.
Chính vì sự liên kết và phụ thuộc của con người với thế giới khách quan mà nhu
cầu vừa mang tính tích cực, vừa mang tính thụ động. Có nhu cầu sẽ thúc đẩy con người
tích cực hành động nhưng có được thỏa mãn hay không lại phải phụ thuộc vào sự xuất
hiện của đối tượng.
Sự hình tành nhu cầu có sự tham gia của ý thức và trải qua các giai đoạn khác nhau:

+ Ý hướng: xuất hiện trạng thái thiếu thốn, khởi đầu của nhu cầu.
+ Ý muốn: khi chủ thể ý thức rõ về đối tượng, thấy đối tượng nào có thể thỏa mãn,
xacs định rõ hoạt động nào có thể thỏa mãn nhwg chủ thể đang phải tìm kiếm phowng
thức thỏa mãn.
+ Ý định: ý thức đầy đủ tất cả đối tượng, phương thức, phương tiện, điều kiện để
thỏa mãn nhu cầu. Ở giai đoạn này chủ thể sẵn sàng hành động.
1.3. A.G. Covaliov
Gần với quan ddiemr của TLH hiện đại. Nhu cầu là đòi hỏi của các cá nhân và các
nhóm xã hội khác nhau muốn có những điều kiện nhất định để sống và phát triển....
Nguồn gốc, tính tích cực hoạt động của con người chính là do nhu cầu. Nhu cầu nguyên
nghĩa là trạng thái thiếu thốn về cái gì đó, ban đầu là vô hướng nhưng khi thấy đối
tượng thì chỉ còn một hướng, các hướng khác mất đi và xuất hiện động cơ.
Ông đưa ra 5 quy tắc hình thành nhu cầu:
+ Chỉ nảy sinh củng cố trong quá trình luyện tập có hệ thống trong 1 hoạt động cụ
thể.
+ Chỉ được phát triển khi mà phương tiện thỏa mãn đa dạng phong phú
+ Nhu cầu tinh thần được hình thành khi mà hoạt động thỏa mãn phù hợp (vừa
sức) với chủ thể, đặc biệt trong giai đoạn đầu.
+ Điều kiện quan trọng nhất để phát triển nhu cầu tinh thần là chuyển từ hoạt động
nhớ lại sang hoạt động sáng tạo.
+ Nhu cầu được củng cố khi chủ thể ý thức được ý nghĩa với bản thân và xã hội.
Nhu cầu bảo vệ tổ quốc...
4. Vấn đề nhu cầu của Maslow
Nhu cầu là một trong những hiện tượng tâm lý quan trọng nhất của con người, là
đòi hỏi, mong muốn, nguyện vọng của con người về vật chất và tinh thần để tồn tại và
phát triển, nó là nguồn gốc tạo nên tính tích cực trong hoạt động của mỗi cá nhân. Việc
săn bắn, hái lượm của con người ngay từ thời tiền sử cũng nhắm đến mục đích thỏa mãn
nhu cầu sinh tồn. Nhu cầu và tìm cách thỏa mãn nhu cầu là một trong bản năng cội rễ
sâu nhất của con người. Mọi tổ chức, đoàn thể xã hội muốn tồn tại và phát triển đều
phải hiểu được nhu cầu và thỏa mãn được nhu cầu của các thành viên trong đó.

Tùy theo trình độ nhận thức, điều kiện, môi trường sống, những đặc điểm tâm
sinh lý, mỗi người có những nhu cầu khác nhau. Trong giai đoạn hiện nay, cùng với sự


tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế - xã hội, nhu cầu của mỗi cá nhân cũng có sự
biến đổi và phát triển. Ngoài những mong muốn và nguyện vọng chung về những vấn
đề vĩ mô, mỗi người đều có những khát khao và mong muốn cho riêng bản thân. Biết
khai thác những khía cạnh này, cán bộ lãnh đạo, chỉ huy ở các đơn vị bộ đội có thể tạo
ra động lực to lớn cho mỗi quân nhân và tập thể quân nhân, phát huy hết sở trường và
tính sáng tạo của họ hướng vào xây dựng đơn vị chính quy, vững mạnh toàn diện. Nói
cách khác, nắm bắt tâm lý và nhu cầu của quân nhân, trên cơ sở đó tìm ra những giải
pháp đáp ứng những nhu cầu, tạo ra động cơ cho họ cống hiến hết mình vì nhiệm vụ
(Đắc nhân tâm) là một trong những việc quan trọng nhất đối với người lãnh đạo, chỉ huy
ở đơn vị cơ sở hiện nay.
Theo nhà tâm lý học A.Maslow, nhu cầu của con người khá phong phú và đa
đạng, được chia ra thành 5 cung bậc cơ bản trong mô hình “Tháp nhu cầu” của ông theo
thứ tự từ dưới lên : nhu cầu sinh lý, nhu cầu an toàn, nhu cầu xã hội (hội nhập), nhu cầu
được tôn trọng và nhu cầu tự hoàn thiện, tự khẳng định bản thân. Học thuyết của ông
được thừa nhận và ứng dụng rộng rãi trong quản lý tại các nước tiên tiến, tuy nhiên tại
Việt Nam học thuyết này còn khá mới mẻ, và ít người biết tới.
Việc nghiên cứu, phân tích và hiểu rõ học thuyết nhu cầu của A.Maslow và vận
dụng, phát huy những ưu điểm của thuyết nhu cầu trong lãnh đạo, quản lý, giáo dục bộ
đội là có ý nghĩa rất to lớn đối với người lãnh đạo chỉ huy bộ đội cũng như đối với
những nhà nghiên cứu, người giảng viên trong các nhà trường quân đội hiện nay.
Xuất phát từ cơ sở trên đây, trong phạm vi bài thu hoạch này tác giả sẽ làm rõ:
"Học thuyết nhu cầu của A.Maslow và ý nghĩa vận dụng trong quản lý - giáo dục bộ
đội hiện nay".
NỘI DUNG
Nhà tâm lý học Abraham Maslow (1908-1970) được xem như một trong những
người tiên phong trong trường phái Tâm lý học nhân văn (humanistic psychology),

trường phái này được xem là thế lực thứ 3 (the Third Force) khi thế giới lúc ấy đang
biết đến 2 trường phái tâm lý chính: Phân tâm học (Psychoanalysis) và Chủ nghĩa hành
vi (Behaviorism).
Năm 1943, ông đã phát triển một trong các lý thuyết mà tầm ảnh hưởng của nó
được thừa nhận rộng rãi và được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau, bao gồm cả
lĩnh vực giáo dục. Đó là lý thuyết về Thang bậc nhu cầu (Hierarchy of Needs) của con
người. Trong lý thuyết này, ông sắp xếp các nhu cầu của con người theo một hệ thống
trật tự cấp bậc, trong đó, các nhu cầu ở mức độ cao hơn muốn xuất hiện thì các nhu cầu
ở mức độ thấp hơn phải được thỏa mãn trước.
1. Tổng quan về lý thuyết Thang bậc nhu cầu của Maslow (Maslow’s
Hierarchy of Needs)
* Trong thời điểm đầu tiên của lý thuyết, Maslow đã sắp xếp các nhu cầu của
con người theo 5 cấp bậc:
Nhu cầu cơ bản (basic needs)
Nhu cầu về an toàn (safety needs)
Nhu cầu về xã hội (social needs)
Nhu cầu về được quý trọng (esteem needs)
Nhu cầu được thể hiện mình, tự khẳng định mình (self-actualizing needs)


* Sau đó, vào những năm 1970 và 1990, sự phân cấp này đã được Maslow
hiệu chỉnh thành 7 bậc và cuối cùng là 8 bậc:
Nhu cầu về sinh lý (Physiology): thức ăn, nước uống, quần áo, nơi ở, tình dục.
Nhu cầu về an toàn (Safety): cảm giác yên tâm, không phải lo lắng, sợ hãi.
Nhu cầu được giao lưu tình cảm và được trực thuộc (Belongingness and love): muốn
được thuộc về một nhóm, muốn có gia đình, bạn bè thân hữu tin cậy.
Nhu cầu được quý trọng, kính mến (Esteem): cảm thấy được thăng tiến trong
đời, được công nhận, khen thưởng và nể phục.
Nhu cầu về nhận thức, hiểu biết (Cognition): Học hỏi, tiếp thu để hiểu biết, đóng
góp cho Xã Hội, giúp ích cho người khác.

Nhu cầu về thẩm mỹ (Aesthetics): Muốn ăn ngon, mặc đẹp, thưởng thức, hưởng
thụ, du lịch.
Nhu cầu về tự thể hiện bản thân (Self-actualization): biết chính xác bản thân
mình là ai, đang làm gì, mình muốn gì và cần gì. Một trạng thái của sự thành đạt.
Nhu cầu về tự tôn bản ngã (Self-transcendence): hướng đến trực giác siêu nhiên,
lòng vị tha, hòa hợp bác ái (tâm linh).

Hệ thống cấp bậc nhu cầu của Maslow thường được thể hiện dưới dạng một hình
kim tự tháp, các nhu cầu ở bậc thấp thì càng xếp phía dưới.
2. Phân tích thang nhu cầu A.Maslow
Trong bài thu hoạch này, tác giả sử dụng phiên bản 5 bậc để phân tích và giải
thích nhu cầu của con người trong các lĩnh vực đời sống thực tiễn.


2.1. Nhu cầu cơ bản (basic needs):
Nhu cầu này còn được gọi là nhu cầu của cơ thể (body needs) hoặc nhu cầu sinh
lý (physiological needs), bao gồm các nhu cầu cơ bản của con người như ăn, uống, ngủ,
không khí để thở, tình dục, các nhu cầu làm cho con người thoải mái,…đây là những
nhu cầu cơ bản nhất và mạnh nhất của con người. Trong hình kim tự tháp, chúng ta thấy
những nhu cầu này được xếp vào bậc thấp nhất: bậc cơ bản nhất.

Maslow cho rằng, những nhu cầu ở mức độ cao hơn sẽ không xuất hiện trừ khi
những nhu cầu cơ bản này được thỏa mãn và những nhu cầu cơ bản này sẽ chế ngự, hối
thúc, giục giã một người hành động khi nhu cầu cơ bản này chưa đạt được.
Ông cũng đã sớm nhận ra điều này khi cho rằng: “Có thực mới vực được đạo”, cần
phải được ăn uống, đáp ứng nhu cầu cơ bản để có thể hoạt động, vươn tới nhu cầu cao hơn.
Chúng ta có thể kiểm chứng dễ dàng điều này khi cơ thể không khỏe mạnh, đói
khát hoặc bệnh tật, lúc ấy, các nhu cầu khác chỉ còn là thứ yếu.
2.2. Nhu cầu về an toàn, an ninh (safety, security needs):
Khi con người đã được đáp ứng các nhu cầu cơ bản, tức các nhu cầu này không

còn điều khiển suy nghĩ và hành động của họ nữa, họ sẽ cần gì tiếp theo? Khi đó các
nhu cầu về an toàn, an ninh sẽ bắt đầu được kích hoạt. Nhu cầu an toàn và an ninh này
thể hiện trong cả thể chất lẫn tinh thần.
Con người mong muốn có sự bảo vệ cho sự sống còn của mình khỏi các nguy
hiểm. Nhu cầu này sẽ trở thành động cơ hoạt động trong các trường hợp khẩn cấp, nguy


khốn đến tính mạng như chiến tranh, thiên tai, gặp thú dữ,…Trẻ con thường hay biểu lộ
sự thiếu cảm giác an toàn khi bứt rứt, khóc đòi cha mẹ, mong muốn được vỗ về.
Nhu cầu này cũng thường được khẳng định thông qua các mong muốn về sự ổn
định trong cuộc sống, được sống trong các khu phố an ninh, sống trong xã hội có pháp luật,
có nhà cửa để ở,…Nhiều người tìm đến sự che chở bởi các niềm tin tôn giáo, triết học cũng
là do nhu cầu an toàn này, đây chính là việc tìm kiếm sự an toàn về mặt tinh thần.
Các chế độ bảo hiểm xã hội, các chế độ khi về hưu, các kế hoạch để dành tiết kiệm,
…cũng chính là thể hiện sự đáp ứng nhu cầu an toàn này.
* Thông qua việc nghiên cứu 2 cấp bậc nhu cầu trên chúng ta có thể rút ra nhiều
kết luận thú vị:
Muốn kìm hãm hay chặn đứng sự phát triển của một người nào đó, cách cơ bản
nhất là tấn công vào các nhu cầu bậc thấp của họ. Nhiều người làm việc chịu đựng các
đòi hỏi vô lý, các bất công, vì họ sợ bị mất việc làm, không có tiền nuôi bản thân và gia
đình, họ muốn được yên thân,…
Muốn một người phát triển ở mức độ cao thì phải đáp ứng các nhu cầu bậc thấp
của họ trước: đồng lương tốt, chế độ đãi ngộ hợp lý, nhà cửa ổn định,…Chẳng phải ông
bà chúng ta đã nói: “An cư mới lạc nghiệp” hay sao?
Một đứa trẻ đói khát cùng cực thì không thể học tốt, một đứa trẻ bị stress thì
không thể học hành, một đứa trẻ bị sợ hãi, bị đe dọa thì càng không thể học. Lúc này,
các nhu cầu cơ bản, an toàn, an ninh được kích hoạt và nó chiếm quyền ưu tiên so với
các nhu cầu học hành. Các nghiên cứu về não bộ cho thấy, trong các trường hợp bị sợ
hãi, bị đe doạ về mặt tinh thần và thể xác, não người tiết ra các hóa chất ngăn cản các
quá trình suy nghĩ, học tập.

2.3. Nhu cầu về xã hội (social needs):
Nhu cầu này còn được gọi là nhu cầu mong muốn thuộc về một bộ phận, một tổ
chức nào đó (belonging needs) hoặc nhu cầu về tình cảm, tình thương (needs of love).
Nhu cầu này thể hiện qua quá trình giao tiếp như việc tìm kiếm, kết bạn, tìm người yêu,
lập gia đình, tham gia một cộng đồng nào đó, đi làm việc, đi chơi picnic, tham gia các
câu lạc bộ, làm việc nhóm, …
Nhu cầu này là một dấu vết của bản chất sống theo bầy đàn của loài người chúng
ta từ buổi bình minh của nhân loại. Mặc dù, Maslow xếp nhu cầu này sau 2 nhu cầu
phía trên, nhưng ông nhấn mạnh rằng nếu nhu cầu này không được thoả mãn, đáp ứng,
nó có thể gây ra các bệnh trầm trọng về tinh thần, thần kinh. Nhiều nghiên cứu gần đây
cũng cho thấy, những người sống độc thân thường hay mắc các bệnh về tiêu hóa, thần
kinh, hô hấp hơn những người sống với gia đình. Chúng ta cũng biết rõ rằng: sự cô đơn
có thể dễ dàng giết chết con người. Nhiều em ở độ tuổi mới lớn đã lựa chọn con đường
từ bỏ thế giới này với lý do: “Những người xung quanh, không có ai hiểu con!”.


Để đáp ứng cấp bậc nhu cầu thứ 3 này, trong giáo dục cũng như trong lao động
xã hội, nhà trường thường cho trẻ cùng chơi chung các trò chơi tập thể, nhà trường áp
dụng các phương pháp làm việc theo nhóm, các phương pháp giảng dạy dựa trên vấn
đề, các tổ chức Đoàn, Đội trong nhà trường được giao trách nhiệm tập hợp các em, định
hướng các em vào những hoạt động bổ ích. Các kết quả cho thấy: các hoạt động chung,
hoạt động ngoài trời đem lại kết quả tốt cho tinh thần và hiệu suất cho công việc được
nâng cao.
Kinh nghiệm giảng dạy của nhiều giáo viên cũng đưa đến kết luận: phần lớn các
em học sinh sống trong các gia đình hay bất hòa, vợ chồng lục đục, thiếu quan tâm, tình
thương của gia đình thường có kết quả học tập không cao như các em học sinh khác.
2.4. Nhu cầu về được quý trọng (esteem needs):
Nhu cầu này còn được gọi là nhu cầu tự trọng (self esteem needs) vì nó thể hiện
2 cấp độ: nhu cầu được người khác quý mến, nể trọng thông qua các thành quả của bản
thân, và nhu cầu cảm nhận, quý trọng chính bản thân, danh tiếng của mình, có lòng tự

trọng, sự tự tin vào khả năng của bản thân. Sự đáp ứng và đạt được nhu cầu này có thể
khiến cho một đứa trẻ học tập tích cực hơn, một người trưởng thành cảm thấy tự do hơn.
Chúng ta thường thấy trong công việc hoặc cuộc sống, khi một người được
khích lệ, tưởng thưởng về thành quả lao động của mình, họ sẵn sàng làm việc hăng say
hơn, hiệu quả hơn. Nhu cầu này được xếp sau nhu cầu “thuộc về một tổ chức”, nhu cầu
xã hội phía trên. Sau khi đã gia nhập một tổ chức, một đội nhóm, chúng ta luôn muốn
được mọi người trong nhóm nể trọng, quý mến, đồng thời chúng ta cũng phấn đấu để
cảm thấy mình có “vị trí” trong nhóm đó.
Kinh nghiệm giáo dục cũng chỉ ra rằng: các hành động bêu xấu học sinh trước
lớp, cho các học sinh khác “lêu lêu” một em học sinh bị phạm lỗi,… chỉ dẫn đến những
hậu quả tồi tệ hơn về mặt giáo dục, tâm lý.
Nhà sư phạm lỗi lạc Makarenko trong suốt cuộc đời dạy dỗ trẻ em hư, khi được
hỏi bí quyết nào để sửa trị các em, ông nói “Tôi chỉ đúc kết trong một công thức ngắn
gọn: Tôn trọng và yêu cầu cao”. Bản chất tâm lý con người ai cũng muốn được tôn


trọng, chạm đến lòng tự trọng là chạm đến điều sâu và đau nhất, là điểm tử huyệt nhất
của con người (cho dù đó là đứa trẻ khó dạy, chưa ngoan).
Chỉ tôn trọng mà không yêu cầu là không ổn. Khi được tôn trọng là đã cho con
người ở đúng vị trí “Người” nhất của mình. Do vậy, cần có trách nhiệm buộc phải sống
và hành xử đúng đắn với sự tôn trọng đó.
2.5. Nhu cầu được thể hiện mình (self-actualizing needs):
Khi nghe về nhu cầu này: “thể hiện mình” chúng ta khoan vội gán cho nó ý
nghĩa tiêu cực. Không phải ngẫu nhiên mà nhu cầu này được xếp đặt ở mức độ cao nhất.
“Thể hiện mình” không đơn giản có nghĩa là nhuộm tóc lòe lẹt, hút thuốc phì phèo, “xổ
nho” khắp nơi, nói năng khệnh khạng, …
Maslow mô tả nhu cầu này như sau: “self-actualization as a person's need to be
and do that which the person was “born to do” (nhu cầu của một cá nhân mong muốn
được là chính mình, được làm những cái mà mình “sinh ra để làm”). Nói một cách đơn
giản hơn, đây chính là nhu cầu được sử dụng hết khả năng, tiềm năng của mình để tự

khẳng định mình, để làm việc, đạt các thành quả trong xã hội.
Chúng ta có thể thấy nhiều người xung quanh mình, khi đã đi đến đoạn cuối của
sự nghiệp thì lại luôn hối tiếc vì mình đã không được làm việc đúng như khả năng, mong
ước của mình. Hoặc có nhiều trường hợp, một người đang giữ một vị trí lương cao trong
một công ty, lại vẫn dứt áo ra đi vì muốn thực hiện các công việc mà mình mong muốn,
cái công việc mà Maslow đã nói “born to do”. Đó chính là việc đi tìm kiếm các cách thức
mà năng lực, trí tuệ, khả năng của mình được phát huy và mình cảm thấy hài lòng về nó.
Nhu cầu này cũng chính là mục tiêu cao nhất mà giáo dục hiện đại nhắm đến.
Trong báo cáo của Unesco Learning: the Treasure Within, vấn đề học tập đã được mô tả
qua 4 trụ cột của giáo dục (The Four Pillars of Education):
- Learning to know: Học để biết.
- Learning to do: Học để làm.
- Learning to live together: Học để chung sống.
- Learning to be: Học để tự khẳng định mình.

3. Những hạn chế khi vận dụng lý thuyết thuyết nhu cầu A.Maslow.
Lý thuyết cấp bậc nhu cầu của Maslow được các nhà quản trị vận dụng rộng rãi
trong các lĩnh vực: Kinh tế, chính trị, xã hội, giáo dục v.v... đặc biệt là trong quản trị
nguồn nhân lực. Tuy nhiên, việc vận dụng thuyết cấp bậc nhu cầu của Maslow có một
số hạn chế nhất định:


Thứ nhất, nhu cầu của con người rất đa dạng và rất khó phân biệt một cách
rõ ràng theo các cấp bậc nhu cầu.
Nhu cầu của mỗi cá nhân rất đa dạng, phong phú. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra
rằng không có tồn tại phân cấp nhu cầu. Con người có thể có nhu cầu ở nhiều cấp bậc
khác nhau cùng một lúc. Ví dụ, khi uống một ly cà phê, người ta có nhu cầu sinh lý là
được tỉnh táo, đã khát nhưng họ cũng có nhu cầu về an toàn như uống vào không bị bồn
chồn, khó chịu và thậm chí họ cũng không đi uống một mình mà uống chung với bạn bè
thì đây là nhu cầu về xã hội. Hoặc trong tập thể quân nhân, mỗi quân nhân sẽ có nhu

cầu đồng thời ở nhiều cấp bậc khác nhau như nhu cầu về sinh lý: phụ cấp, tiền lương,
tiền thưởng; nhu cầu về an toàn: bảo đảm sức khỏe, cuộc sống ổn định; nhu cầu về xã
hội: môi trường làm việc lành mạnh, cống hiến hết mình vì tập thể; nhu cầu về tự trọng:
được tôn trọng; nhu cầu tự thể hiện: cơ hội phát triển cá nhân. Chính vì vậy việc áp
dụng phân cấp nhu cầu theo tháp nhu cầu của Maslow rất khó thực hiện trong thực tế.
Thứ hai, nhu cầu con người không gia tăng từ thấp đến cao, nhà lãnh đạo,
quản lý sẽ mắc sai lầm nếu tìm cách thỏa mãn nhu cầu con người từ thấp đến cao.
Theo mô hình này, con người ta sẽ bước lên nhu cầu ở thang bậc cao hơn khi và
chỉ khi các nhu cầu ở bậc thấp hơn đã được thỏa mãn. Tuy nhiên, trong thực tế nhiều
người sẵn sàng hy sinh những nhu cầu bậc thấp để thỏa mãn như cầu bậc cao hơn. Ví
dụ, các nhà lãnh đạo các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc họ sẵn sàng hy sinh nhu cầu
về sinh lý, nhu cầu an toàn để thỏa mãn nhu cầu cầu xã hội, nhu cầu tự khẳng định. Họ
hy vọng việc thỏa mãn nhu cầu ở cấp cao trong tương lai sẽ thỏa mãn nhu cầu ở cấp
thấp. Ở nước ta, rất nhiều người lao động sẵn sàng bỏ công việc ở công ty liên doanh
hoặc có vốn đầu tư nước ngoài với mức lương cao để về làm việc cho các cơ quan,
doanh nghiệp trong nước với mức lương thấp hơn, thăng tiến chậm hơn. Người quân
nhân trong quân đội nhân dân Việt Nam, sẵn sàng bỏ qua nhu cầu an toàn, nhu cầu
sinh lý để đạt đến nhu cầu xã hội: "sẵn sàng hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì
Chủ nghĩa Xã hội...". Vì vậy, việc vận dụng lý thuyết cấp bậc nhu cầu Maslow để
thỏa mãn nhu cầu từ thấp đến cao sẽ bị hạn chế.
Thứ ba, sắc thái văn hóa ảnh hưởng tới xuất hiện nhu cầu và trật tự cấp bậc
nhu cầu nhưng lý thuyết cấp bậc nhu cầu của Maslow chưa đề cập đến yếu tố này.
Nhu cầu của con người gắn liền với điều kiện môi trường và văn hóa đặc trưng
bản địa. Văn hóa là một khái niệm tương đối phức tạp. Tuy nhiên chúng ta tạm thời có
thể hiểu văn hóa là một hệ thống các giá trị chung cho mọi thành viên của xã hội hay
cộng đồng. Tùy theo dân tộc khác nhau mà văn hóa khác nhau. Văn hóa sẽ ảnh hưởng
đến lối sống và hành vi tiêu dùng. Điều này có nghĩa văn hóa sẽ tác động đến nhu cầu
của con người. Người lãnh đạo, chỉ huy sẽ thất bại nếu không chú ý đến yếu tố văn hóa
bản địa. GS. Hellmut Schutte cho rằng nhu cầu tự thể hiện mình sẽ khó được chấp nhận
trong các xã hội châu Á. Ví dụ trong văn hóa Việt Nam thái độ khiêm tốn, tự xóa bỏ bản

thân, nhún nhường được xem là một giá trị tích cực; nhưng trong văn hóa phương Tây,
thái độ tự khẳng định thường được đề cao hơn, được xem là một giá trị tích cực. Theo
lời kể của giáo sư Edward Baker, trong một cuộc phỏng vấn, thấy một người trình bày ý
kiến rất hay, ông hỏi: "Nếu tôi đề nghị với viện cấp học bổng cho anh học luôn lên tới
tiến sĩ thì anh nghĩ sao?". Anh chàng ứng viên này "khiêm tốn" trả lời: "Dạ... Tôi sợ
mình không đủ khả năng". Kết quả anh ta không nhận được học bổng nào cả. Như vậy
trong trường hợp này việc ứng xử được xem là phù hợp với các giá trị văn hóa Việt
Nam lại không đưa đến một kết quả mong muốn ở môi trường văn hóa khác. Một vấn
đề khác biệt của văn hóa Việt Nam với các nền văn hóa phương Tây là mối quan hệ xã


hội, gia đình, huyết tộc đóng vai trò quan trọng. Con người Việt Nam có thể theo đuổi
để thỏa nhu cầu xã hội trước khi thỏa mãn nhu cầu về sinh lý và an toàn. Đối với họ tiền
lương, tiền thưởng chưa phải là điều quan trọng để giữ chân họ lại. Chính vì vậy việc
vận dụng lý thuyết cấp bậc nhu cầu của Maslow trong những nền văn hóa khác nhau
còn hạn chế.
Tóm lại, lý thuyết cấp bậc nhu cầu của Maslow đã lý giải nhiều vấn đề liên
quan đến nhu cầu con người. Tuy nhiên việc vận dụng lý thuyết này trong thực tế
còn một số hạn chế nhất định. Chính vì vậy, khi vận dụng lý thuyết này trong các
lĩnh vực đời sống thực tiễn cần phải chú ý vận dụng một cách phù hợp.
4. Ý nghĩa học thuyết nhu cầu của A.Maslow đối với người lãnh đạo, chỉ
huy trong quản lý, giáo dục bộ đội hiện nay.
Con người cá nhân hay con người trong tổ chức đều hành động theo nhu cầu.
Chính sự thỏa mãn nhu cầu làm họ hài lòng và khuyến khích họ hành động. Đồng thời
việc nhu cầu được thỏa mãn và thỏa mãn tối đa là mục đích hành động của con người.
Theo cách xem xét đó, nhu cầu trở thành động lực quan trọng và việc tác động vào nhu
cầu cá nhân sẽ thay đổi được hành vi của con người. Nói cách khác, người lãnh đạo hoặc
quản lý có thể điều khiển được hành vi của nhân viên bằng cách dùng các công cụ hoặc
biện pháp để tác động vào nhu cầu hoặc kỳ vọng của họ làm cho họ hăng hái và chăm chỉ
hơn với công việc được giao, phấn chấn hơn khi thực hiện nhiệm vụ và tận tụy hơn với

nhiệm vụ đảm nhận. Trong trường hợp ngược lại việc không giao trọng trách cho nhân
viên là cách thức giảm dần nhiệt huyết của họ và cũng là cách thức để nhân viên tự hiểu
là mình cần tìm việc ở một nơi khác khi làm việc là một nhu cầu của người đó.
Để đáp ứng những nhu cầu cơ bản của quân nhân cần được thực hiện thông qua
việc tổ chức tốt và quan tâm đến đời sống vật chất, tinh thần của họ, bảo đảm các khoản
phúc lợi khác như khen thưởng theo danh hiệu thi đua, thưởng khi lập công hay phát
minh sáng kiến...
Để đáp ứng nhu cầu an toàn, lãnh đạo, chỉ huy cần bảo đảm điều kiện làm việc
thuận lợi, bảo đảm công việc được duy trì ổn định và đối xử công bằng đối với mọi
quân nhân.
Để bảo đảm đáp ứng nhu cầu quan hệ, cần tạo điều kiện cho quân nhân làm việc
theo tổ, nhóm, được tạo cơ hội để mở rộng giao lưu giữa các đơn vị, kết nghĩa với các
đoàn thể, tổ chức trên đại bàn đóng quân..., khuyến khích mọi người cùng tham gia ý
kiến nhằm mục đích chung xây dựng cơ quan, tổ chức, đơn vị. Cũng để đáp ứng nhu
cầu phát triển quan hệ, cơ quan, đơn vị cần có các hoạt động vui chơi, giải trí, văn hóa
văn nghệ, thể dục thể thao nhân các ngày nghỉ, dịp kỷ niệm hoặc các ngày lễ lớn.
Để thỏa mãn nhu cầu được tôn trọng, lãnh đạo, chỉ huy cần có cách quản lý, ứng
xử phụ hợp, tôn trọng về nhân cách, phẩm chất quân nhân. Cần có cơ chế và chính sách
khen ngợi, tôn vinh sự thành công và phổ biến kết quả đạt được của cá nhân thành viên
một cách rộng rãi. Đồng thời, nquân nhân cũng cần được cung cấp kịp thời thông tin
phản hồi, và sử dụng vào những vị trí công việc mới có mức độ và phạm vi ảnh hưởng
lớn hơn.
Đối với nhu cầu tự khẳng định, tự hoàn thiện bản thân, lãnh đạo chỉ huy đươn vị
cần công khai, công bằng trong giao nhiệm vụ, tạo cơ hội tốt nhất để mỗi quân nhân
phát triển những thế mạnh cá nhân. Đồng thời, quân nhân cần được phát hiện năng
khiếu, năng lực, sở trường để đưa đi đào tạo và phát triển, cần được khuyến khích tham


gia vào quá trình phát huy sáng kiến trong công việc và được tạo điều kiện để họ tự phát
triển nghề nghiệp.

Như vậy để có thể tác động hợp lý vào nhu cầu của quân nhân tạo ra động lực
phấn đấu tốt nhất cho họ, đòi hỏi lãnh đạo, chỉ huy đơn vị cần nghiên cứu và tìm hiểu cụ
thể nhu cầu của tập thể cũng như của mỗi quân nhân và có biện pháp hữu hiệu để đáp
ứng, nghĩa là họ cần biết “chiều” họ một cách hợp lý hướng đến sự cống hiến tốt nhất
của họ trong thực hiện chức trách nhiệm vụ nhằm không ngừng phát triển, hoàn thiện,
khẳng định bản thân, và đó cũng chính là quá trình họ phấn đấu, cống hiện cao nhất để
xây dựng cơ quan đơn vị.
KẾT LUẬN
Giống như bao lý thuyết khác, lý thuyết nhu cầu A.Maslow không phải là một
sự tuyệt đối hóa và toàn vẹn, bản thân lý thuyết còn có những điểm hạn chế nhất định và
cũng nhận được nhiều ý kiến trái ngược và phản bác. Song trong gần 70 năm qua, Học
thuyết nhu cầu A.Maslow đã được nghiên cứu phổ biến và được vận dụng vào nhiều lĩnh
vực khác nhau của đời sống xã hội, đặc biệt là trong quản trị học. Học thuyết của chủ yếu
đi sâu tìm hiểu tâm lý con người, tìm ra các điều kiện giú p họ thoả mãn nhu cầu của bản
thân để làm động lực trong công việc. Đây là thuyết đạt đến đỉnh cao của việc nhận dạng
nhu cầu tự nhiên của con người mà hiện nay chưa có thuyết nào thay thế.
Thông qua lý thuyết về Thang bậc nhu cầu được đề xướng bởi nhà tâm lý học
Abraham Maslow, mỗi chúng ta có thể rút ra nhiều điều thú vị về những nhu cầu, giá trị
trong cuộc sống. Đặc biệt, qua việc nghiên cứu lý thuyết này, giúp cho nhà giáo dục:
người giáo viên, người lãnh đạo, chỉ huy đơn vị biết nhận diện nhu cầu và biết cách tác
động nhằm thỏa mãn nhu cầu của mỗi quân nhân và tập thể quân nhân, tạo động lực để
họ phấn đấu nhằm tự khẳng định bản thân và xây dựng đơn vị, xây dựng tập thể.
2. Vấn đề nhu cầu trong tâm lý học hiện nay.
Để tồn tại và hoạt động, con người cũng cần có những điều kiện và phương tiện
nhất định. Tất cả những đòi hỏi ấy gọi là nhu cầu của cá nhân.
2.1. Khái niệm:
Theo từ điển Tâm lí học do GS,TS Vũ Dũng chủ biên, NXB Từ điển bách khoa
Hà Nội 2008, thì: “Nhu cầu là trạng thái của cá nhân, xuất phát từ chỗ nhận thấy những
đối tượng cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của mình và đó là nguồn gốc tính tích
cực của cá nhân”

GS, VS Phạm Minh Hạc cho rằng: Nhu cầu là một thuộc tính của nhân cách, biểu
thị mối quan hệ tích cực của cá nhân với hoàn cảnh, là những đòi hỏi mà cá nhân thấy
cần phải được thỏa mãn trong điều kiện nhất định để có thể tồn tại và phát triển
Từ điển Tâm lí học quân sự do Viện Khoa học xã hội và nhân văn quân sự, Bộ
Quốc Phòng biên soạn định nghĩa: Nhu cầu là trạng thái của chủ thể phản ánh sự cần
thiết về một cái gì đó cần được thỏa mãn; là những đòi hỏi khách quan của con người
trong cuộc sống và hoạt động
GS,TS Nguyễn Quang Uẩn định nghĩa: “Nhu cầu là sự đòi hỏi tất yếu mà con
người thấy cần được thỏa mãn để tồn tại và phát triển”
Như vậy, có rất nhiều quan niệm và cách tiếp cận khác nhau về nhu cầu, mỗi
quan niệm đều có cách tiếp cận riêng nhưng đều đã cố gắng lý giải một cách khoa học
về các loại nhu cầu, đặc điểm của nhu cầu, sự hình thành và phát triển nhu cầu...Các tác
giả đều khẳng định: Nhu cầu của con người và xã hội là một hệ thống đa dạng, bao gồm
nhu cầu tồn tại (ăn uống, mặc, ở, duy trì nòi giống, tự vệ…); nhu cầu phát triển (học tập,


giáo dục, văn hóa…); nhu cầu chính trị, đạo đức, tôn giáo; nhu cầu được tham vấn, trợ
giúp về mặt tâm lí… Nhu cầu của con người xuất hiện như những đòi hỏi khách quan
của xã hội, do xã hội quy định, đồng thời nhu cầu mang tính cá nhân với những biểu
hiện phong phú và phức tạp.
=> Nhu cầu là sự cần thiết của con người về một cái gì đó cần được thỏa mãn
để tồn tại và phát triển, là những đòi hỏi khách quan của con người trong cuộc sống
và hoạt động.
Nhu cầu biểu thị sự gắn bó và tính tích cực của cá nhân với thế giới xung quanh.
2.2. Chức năng: Nhu cầu có 2 tư cách
- Khởi động cho hoạt động
- Hướng dẫn hoạt động trong môi trường đối tượng.
2.3. Điều kiện xuất hiện nhu cầu
- Ý hướng ước ao
- Đối tượng xuất hiện, tạo hướng cụ thể cho nhu cầu

2.4. Các mặt của nhu cầu
- Hưởng thụ
- Cống hiến
2.5. Đặc điểm nhu cầu
- Nhu cầu bao giờ cũng có đối tượng: tức nhu cầu về một cái gì đó. Khác nhau ở
mọi người.
- Nội dung của nhu cầu do những điều kiện và phương thức thoả mãn nó quy định.
Xã hội càng phát triển càng nhiều nhu cầu… Cải tạo nhu cầu cần cải tạo điều kiện và
phương thức.
- Nhu cầu của con người mang tính xã hội, rất đa dạng: Nhu cầu vật chất gắn liền
với sự tồn tại của cơ thể như: nhu cầu ăn, ở, mặc… Nhu cầu tinh thần bao gồm: nhu cầu
nhận thức, nhu cầu thẩm mĩ, nhu cầu lao động, nhu cầu giao lưu và nhu cầu hoạt động
xã hội.
- Có chu kì và bão hòa: Khi một nhu cầu nào đó được thoả mãn, không có nghĩa là
nhu cầu ấy chấm dứt mà nó vẫn tiếp tục tái diễn, nếu người ta vẫn còn sống vả phát
triển trong điều kiện và phương thức sinh hoạt như cũ. Sự tái diễn đó thường mang tính
chu kì. Tính chu kì này do sự biến đổi có tính chu kì của hoàn cảnh xung quanh và của
trạng thái cơ thể gây ra.
- Có nhu cầu tích cực và tiêu cực
- Phát triển, biến đổi theo sự phát triển cá nhân.
- Các mức độ nhu cầu:
+ Mức độ thấp: đối tượng còn mơ hồ chưa được xác định cụ thể - chỉ mới xác định
về loại. Ví dụ: con người cảm thấy cần ăn, cần giải trí... nhưng ăn cái gì? giải trí cái gì ở
đâu? chưa được xác định.
+ Cụ thể hơn: một nhu cầu nào đó được nhận thức về mặt đặc trưng từ đó xác định
ý nghĩa của nó đối với đời sống. Trên cơ sở đó sẽ định hướng cho hoạt động của con
người. Ví dụ: nhu cầu đọc sách, nhu cầu giao tiếp với ai đó.
+ Có sự tham gia của tư duy tạo ra phương tiện để thoả mãn nhu cầu, có ý chí dẫn
đến hành động để đạt được sự thoả mãn nhu cầu ấy.
3. Các quan điểm khác nhau về hoạt động trong tâm lý học.

3.1. Tâm lý học phi Mác xít
* Phân tâm học


* Hành vi
3.2. Tâm lý học Mác xít
Trên cơ sở những luận điểm cơ bản của Chủ nghĩa M-L: về con người, bản chất
con người, hoạt động và ý thức, TLHMX đã đưa ra quan điểm về hoạt động:
Cuộc sống của con người là chuỗi hoạt động kế tiếp nhau, đan xen vào nhau nên
hoạt động được coi là phương thức tồn tại của con người trong thế giới.
Hoạt động là quá trình tích cực, có mục đích của con người nhằm sản xuất ra
các giá trị vật chất, tinh thần nhằm thỏa mãn nhu cầu của cá nhân và xã hội.
- Hoạt động của con người không phải là tổng số các phản ứng của cơ thể mà là
tính tích cực, có mục đích của chủ thể, là hoạt động mang bản chất xã hội lịch sử, có sản
phẩm. Trong thành phần của hoạt động có "tâm lý" ở dạng các mục đích, ý nghĩa, ý
nhân cách, trải nghiệm, ý chí…
- Hoạt động của con người là thể thống nhất, gồm 3 khía cạnh cơ bản sau:
+ Con người sống thì phải hoạt động, hoạt động là đơn vị, là thước đo đời sống
tâm lý của con người; hoạt động càng nhiều thì đời sống tâm lý con người càng phong
phú, càng phát triển, con người càng tích lũy nhiều kinh nghiệm và càng hoàn thiện.
+ Hoạt động của con người là hoạt động có đối tượng, là sự tác động qua lại giữa
chủ thể và khách thể, thông qua 2 quá trình đó mà tâm lý, ý thức con người hình thành,
phát triển.
+ Hoạt động của con người gắn liền với xã hội và mang bản chất xã hội.
=> Quan niệm hoạt động như vậy là chìa khóa để nhận thức...
Định nghĩa về hoạt động theo A.N.Leonchiev: Hoạt động là một quá trình thực
hiện sự chuyển hoá lẫn nhau giữa hai cực: chủ thể - khách thể. Theo nghĩa rộng, nó là
đơn vị phân tử, chứ không phải là đơn vị cộng thành của đời sống chủ thể nhục thể. Đời
sống của con người là một hệ thống (một dòng) các hoạt động thay thế nhau.
Hoạt động theo nghĩa hẹp hơn, tức là ở cấp độ tâm lý học, là đơn vị của đời sống,

mà khâu trung gian là phản ánh tâm lý có chức năng hướng dẫn chủ thể trong thế giới
đối tượng.
Có ba điểm cần lưu ý trong định nghĩa trên về hoạt động:
Thứ nhất. Ở cấp độ rộng nhất của nó, hoạt động là khâu trung gian giữa con
người với thế giới, trong đó diễn ra quá trình chuyển hoá lẫn nhau giữa chủ thể với đối
tượng.
Thứ hai: ở cấp độ tâm lý học, hoạt động được nghiên cứu với tư cách là sự phản
ánh tâm lý, được hình thành, phát triển và có chức năng định hướng chủ thể trong quá
trình chuyển hoá.
Thứ ba: hoạt động là đơn vị phân tử chứ không phải là phản ứng hay tổng hợp các
phản ứng. Nó là một hệ thống có cơ cấu, có những chuyển hoá và chuyển biến chức
năng bên trong của cơ cấu đó, có sự phát triển. Dưới góc độ tâm lý học, nó là hệ thống
cơ cấu phản ánh tâm lý định hướng chủ thể trong quan hệ với thế giới. Điều này được
bộc lộ qua đặc trưng và cấu trúc của hoạt động).
4. Các tính chất đặc thù của hoạt động, đặc trưng cơ bản của hoạt động, cấu
trúc tâm lý của hoạt động.
Dưới góc độ TLH, xuất phát từ quan điểm cho rằng cuộc sống của con người là
chuỗi hoạt động kế tiếp nhau, đan xen vào nhau nên hoạt động được coi là phương thức
tồn tại của con người trong thế giới.


Hoạt động là quá trình tích cực, có mục đích của con người nhằm sản xuất ra các
giá trị vật chất, tinh thần nhằm thỏa mãn nhu cầu của cá nhân và xã hội.
- Thực chất, hoạt động là mối quan hệ tác động qua lại giữa con người (chủ thể) và
thế giới (khách thể) để tạo ra sản phẩm cả về phía khách thể, cả về phía chủ thể. Trong
mối quan hệ này có 2 quá trình diễn ra đồng thời, bổ sung và thống nhất với nhau tạo
nên sự phát triển tâm lí người.
Có nhiều cách phân loại hoạt động dựa trên những phương diện khác nhau:
- Chia một cách tổng quát nhất, loài người có hai loại hoạt động: lao động và giao
tiếp.

Cách phân loại này căn cứ vào quan hệ giữa người với đồ vật (chủ thể và khách
thể) và quan hệ giữa người với người (chủ thể và chủ thể).
- Xét về phương diện phát triển cá thể, người ta thấy trong đời người có ba loại
hình hoạt động kế tiếp nhau. Đó là các loại hoạt động: vui chơi; học tập; lao động và
hoạt động xã hội.
- Xét về phương diện sản phẩm: lý luận và thực tiễn
Tóm lại, con người có nhiều hoạt động, có những hoạt động chung của con người,
có những hoạt động riêng từng lĩnh vực. Các hoạt động này có quan hệ gắn bó mật
thiết với nhau.
4.1. Các tính chất đặc thù của hoạt động
-1 Hoạt động của con người mang tính xã hội:
Trong khi tiến hành một hoạt động nào đó, con người phải thực hiện một loạt các
hành động cụ thể mà việc gọi tên các hành động đó cũng như cách làm thế nào đều do
xã hội quy định, trong những điều kiện xã hội lịch sử cụ thể của lao động quy định.
-2 Hoạt động của con người mang tính mục đích:
Khác với bản năng con vật là có tính mục đích do ý thức đề ra và chỉ có thể đạt
đến kết quả nhờ ý thức đóng vai trò là nhân tố tổ chức, chọn lựa các điều kiện, phương
tiện thực hiện. Bất kì một hoạt động nào đều bao gồm những hành động được liên kết
lại, bị chi phối bởi một mục đích chung nhằm đạt kết quả mà mục đích đề ra.
-3 Hoạt động của con người có tính kế hoạch:
Hoạt động không đơn thuần là một tập hợp các hành động hay các cử động. Những
hành động trong một hoạt động có quan hệ qua lại chặt chẽ với nhau theo một trật tự
nhất định, được tổ chức theo một kế hoạch cụ thể.
-4 Hoạt động của con người có tính hệ thống:
Hoạt động của con người diễn ra theo thời gian, không gian, theo sự phân chia có
hệ thống của xã hội. Những tiêu chí này luôn bộc lộ rõ ở hoạt động lao động (cơ bản,
chủ yếu của con người).
-5 Hoạt động của con người có tính sáng tạo:
Anghen: động vật chỉ lợi dụng tự nhiên, gây ra những biến đổi trong tự nhiên đơn
thuần bằng sự có mặt của chúng. Con người tạo ra những biến đổi trong tự nhiên, bắt tự

nhiên phục vụ cho mục đích của mình và thống trị tự nhiên.
4.2. Đặc trưng cơ bản của hoạt động
-1 Tính đối tượng:
Đặc trưng cơ bản của hoạt động là tính đối tượng của nó
+ Hoạt động, như trên đã nói, là quá trình tác động vào thế giới, cụ thể là vào một
cái gì đó. Như vậy, bản thân khái niệm hoạt động đã bao hàm cả đối tượng của hoạt
động. Ví dụ, lao động bao giờ cũng có đối tượng của lao động. Hoạt động học tập là


nhằm vào tri thức, kĩ năng, kĩ xảo... để biết, hiểu, tiếp thu và đưa vào vốn kinh nghiệm
của bản thân, tức là lĩnh hội các tri thức kĩ năng, kĩ xảo ấy. Do đó, nói một cách đầy đủ
về khái niệm là hoạt động có đối tượng.
Đối tượng của hoạt động là cái đang sinh thành trong quan hệ sinh thành của hoạt
động và thông qua hoạt động của chủ thế.
Đối tượng của hoạt động không phải là một cái gì đó sẵn có, tác động trực tiếp lên
chủ thể mà nó xuất hiện, biến đổi và chuyển hóa trong hoạt động. Đối tượng nó xuất
hiện 2 lần…
+ Kết thúc quá trình hoạt động, đối tượng được chủ thể chiếm lĩnh (chủ thể hóa)
và chủ thể lại được vật hóa thành đối tượng, là đối tượng của hoạt động tiếp theo.
-2 Tính chủ thể:
+ Hoạt động bao giờ cũng do chủ thể tiến hành
+ Tính chủ thể biểu hiện ở tính tích cực, sáng tạo của cá nhân như tính quy định
của kinh nghiệm đối với việc nảy sinh các hình ảnh tâm lý (nhu cầu, tâm thế, cảm xúc,
mục đích, động cơ…). Các yếu tố này sẽ quy định xu hướng, tính lựa chọn của hoạt
động, ý nhân cách và quy định thái độ của chủ thể đối với.
-3 Tính gián tiếp
+ Trong hoạt động lao động người ta dùng công cụ lao động để tác động vào đối
tượng lao động. Công cụ lao động giữ vai trò trung gian giữa chủ thể lao động và đối
tượng lao động, tạo ra tính chất gián tiếp trong hoạt động lao động.
Tương tự như vậy, tiếng nói, chữ viết, con số và các hình ảnh tâm lí khác là công

cụ tâm lí được sử dụng để tổ chức, điều khiển thế giới tinh thần ở mỗi con người. Công
cụ lao động và công cụ tâm lí đều giữ chức năng trung gian trong hoạt động và tạo ra
tính chất gián tiếp của hoạt động.
-4. tính mục đích
Đặc trưng để phân biệt hoạt dộng của người và vật
4.3. Cấu trúc tâm lý của hoạt động.
4.3.1. Quan điểm của Tâm lý học hành vi: hoạt động của con người và động vật
có cấu trúc chung là S-R.
4.3.2. Tâm lý học Mác xít
Tâm lý học Mác xít đã lấy Chủ nghĩa Mác-Leenin làm nền tảng tư tưởng và lấy
hoạt động của con người làm đối tượng nghiên cứu. Trên cơ sở những luận điểm cơ bản
của Chủ nghĩa M-L: về con người, bản chất con người, hoạt động và ý thức đã xây dựng
lên nền tâm lý học Mx.
Vwgotxki: là người đầu tiên có tư tưởng phân tích, mô tả cấu trúc hoạt động dưới
góc độ tâm lý học và đạt được những kết quả nhất định. Ông đã phân tích các khái
niệm: công cụ - thao tác - mục đích - động cơ.
Leonchiev tiếp tục phát triển tư tưởng và thành quả đó và Ông là người đã xây
dựng lên lý thuyết hoạt động tâm lý, trong đó có quan điểm về cấu trúc hoạt động.
* Cơ sở: Tư tưởng về cấu trúc hoạt động của Mac: quá trình lao động có 3 yếu cơ
bản: Hoạt động có mục đích: chủ thể; động cơ; Đối tượng lao động; Tư liệu lao động....
* Nội dung:
Tất cả các hoạt động của con người đều cùng có một cấu trúc chung như sau:
Sơ đồ cấu trúc của hoạt động
1. Hoạt động Động cơ
1.1.
Hành
động Mục đích


1.2. Thao tác


Phương thức

Cuộc sống con người là một dòng các hoạt động. Dòng hoạt động này phân tích ra
thành các hoạt động riêng tương ứng với động cơ của hoạt động.
Hoạt động cấu tạo bởi các hành động là quá trình tuân theo mục đích
Cuối cùng là hành động do các thao tác hợp thành, các thao tác phụ thuộc vào các
phương tiện.
Như vậy là trong từng hoạt động riêng biệt ta có hai hàng tương ứng từng thành
phần với nhau:
Nội dung đối tượng của hoạt động (KHÁCH THỂ): Động cơ, Mục đích, Phương
thức.
“Đơn vị” của hoạt động (CHỦ THỂ): Hoạt động cụ thể, Hành động, Thao tác.
Có thể phân tích cấu trúc hoạt động theo nhiều cách:
- Theo trục hoạt động ↔ động cơ, hành động ↔ mục đích, thao tác ↔ phương
tiện
- Trục: động cơ-mục đích-phương tiện trong mối quan hệ với hoạt động – hành
động – thao tác.
Động cơ - hoạt động
Động cơ là đối tượng (vật chất hay tinh thần), mà chủ thể cần chiếm lĩnh thông
qua hoạt động, nhằm thoả mãn một nhu cầu được vật hoá trong đối tượng đó.
Trong quan hệ với chủ thể với tư cách là hoạt động, đối tượng chính là động cơ
của hoạt động, kích thích chủ thể tiến hành hoạt động để chiếm lĩnh nó.
Mục đích - Hành động
Mục đích là đối tượng mà chủ thể ý thức cần phải chiếm lĩnh nó, làm phương tiện
để thoả mãn nhu cầu hoạt động.
Mục đích có chức năng hướng dẫn chủ thể tới đối tượng thoả mãn nhu cầu.
Phương tiện – Thao tác
Phương tiện có chức năng kỹ thuật.
Như vậy, cấu trúc có... và có thể phân tích theo các trục khác nhau. Dù phân tích

theo kiểu nào cũng phải thường xuyên ghi nhớ: hoạt động là đơn vị phân tử, chứ không
phải là đơn vị hợp thành. Vì vậy, cấu trúc của hoạt động không phải là sự kết hợp của
các bộ phận tạo thành một khối chỉnh thể mà là cấu trúc chức năng và chuyển hoá chức
năng của các đơn vị của hoạt động. Nói cách khác chức năng và chuyển hoá chức năng
là bản chất trong cấu trúc hoạt động, là chìa khoá để giải mã khía cạnh phản ánh tâm lý
của hoạt động và của các đơn vị phân tử của nó.
=> Việc phát hiện cấu trúc chung của hoạt động có ý nghĩa hàng đầu trong việc
giải quyết hàng loạt vấn đề lý luận và thực tiễn của tâm lý học.
- Lý luận: KHẳng định sự thống nhất giữa cái khách quan và chủ quan, giữa đối
tượng và chủ thể. Đồng thời khẳng định trong hoạt động bao giờ cũng chứa đựng nội
dung tâm lý và tâm lý vận hành phat triển trong hd.
- Thực tiễn: Vận dụng vào giáo dục cho thấy, hoạt động của học sinh là hoạt động
có tổ chức và bắt đầu từ bên ngoài có tính vật chất và có thể kiểm soát được. Vì vậy,
bản chất giáo dục là tổ chức, điều khiển, điều chỉnh hoạt động của học sinh.
Mặt khác, khẳng định nội dung tâm lý, nhân cách học sinh có nguồn gốc từ bên
ngoài… phát huy tính chủ thể.


+ Xác định những nội dung cụ thể khi hình thành hành động học tập
+ Nắm động cơ biết động lực thúc đẩy
+ Nắm mục đích biết trình độ quán triệt nhiệm vụ
+ Nắm thao tác có thể điều chỉnh
(*Rubin: Phản ứng sinh lý, vận động máy móc + thao tác có ý thức và hành vi ứng
xử có ý thức.
* Galperin: Hành đông có 2 phần: Phần định hướng và phần thực hiện. Phần định
hướng quyết định.
* Lomov: động cơ, mục đích, lập kế hoạch hoạt động, xử lý thông tin hiện thời,
hình ảnh thao tác, ra quyết định hành động, kiểm tra kết quả và điều chỉnh hành động.
Hoạt động cùng nhau cũng giống về cấu trúc nhưng nội dung phong phú hơn).
5. Quan niệm về mục đích và tạo mđ, cơ chế chung của tạo mục đích.

5.1. Quan niệm về mục đích và tạo mục đích.
* Cơ sở triết học
- Trong triết học duy tâm có trường phái mục đích luận, cho rằng mục đích sinh ra
thế giới. (cũng như cảm giác luận, ý chí luận).
- Chủ nghĩa Duy vật mác xít: con người theo đuổi mục đích trong lịch sử, trong
hoạt động cải tạo tnxh, con người bao giờ cũng được mđ dẫn đường chỉ lối.
C.Mac cho rằng: lịch sử cá nhân là lịch sử của mục đích sống.
Lenin: Thật ra mục đích con người là do thế giới khách quan san sinh ra...
* Tâm lý học ngoài Mác xít
- Ngay từ thời cổ đại Aristote đã đưa ra khái niệm về cái tự đích, đây là khái niệm
duy tâm nhưng nó đánh dấu đây là thuật ngữ tâm lý học, hoạt động con người để nhằm
vào cái tự đích đó. Về cơ bản, sau A thì thuật ngữ chưa được làm rõ.
- Cuối 19 đầu 20 các nhà TLH phương tây quan tâm nhiều đến mục đích và coi đó
là khái tâm lý học.
- Theo Levin: (Gestalt): hành vi con người bao giờ cũng có tính hướng đich, bao
giờ cũng nhằm mục đích nào đó.
- Skinner: đã phát triển theo thuyết hành vi Watson: Kích thích - Phản ứng - Củng
cố. Trong củng cố có nói tới tính hướng mục đích.
- Tâm lý học thực dụng Mỹ Tolman: mục đích là kết quả có lợi, vì sự đạt được nó
mà hành vi con người phát triển.
- Điều khiển học: mục đích là sự mô tả về kết quả cuối cùng của một hệ thống
chức năng.
* Quan điểm của Tâm lý học Mác xit:
Leonchiev: đưa ra thuyết hoạt động, trong đó mục đích là một thành phần trong
cấu trúc hoạt động. Phải giải quyết mục đích trong mối quan hệ với động cơ, hành động,
phương tiện, điều kiện, thao tác.
Vấn đề mục đích trong nhân cách: đây là quan niệm, xuất phát điểm của nhà tâm
lý học Xoviet. Gievenhev: ngoài mục đích cụ thể gắn với hành động hoạt động thì mục
đích còn tồn tại còn có loại mục đích tồn tại trong khoảng thời gian khá dai, dưới dạng
khái quát phản ánh ước mơ, dự định hoài bão con người, gọi là mục đích sống của nhân

cách. Đây là yếu tố cấu thành lên xu hướng nhân cách: những mục đích chủ yếu, tồn tại
song song với hệ thống động cơ bền vững của con người.


- Khái niệm: Mục đích chính là biểu tượng của con người về kết quả hoạt động,
là hình ảnh chủ quan về kết quả tương lai của con người.
+ Là hình ảnh chủ quan được tạo dựng trong ý thức con người về kết quả tương lai
của hành động, phù hợp với đông cơ của hoạt động, được hình thành và hoàn thiện
trong suốt quá trình hoạt động và cuộc sống của con người.
+ Là những dự đoán về kết quả tương lai có ích với cá thể gắn với hệ động cơ
+ Là sự mô tả hình thức tình huống cuối cùng trong quá trình hoạt động có hệ thống
- Các cấp độ biểu hiện của mục đích:
+ Cấp độ chung nhất: mục đích trong hoạt động
+ Các viễn cảnh  dự định (có phương thức thực hiện)  chí hướng (có ý chí
quyết tâm để thực hiện).
- Quan hệ giữa mục đích với một số yếu tố tâm lý khác
+ Mục đích và động cơ: mục đích bao giờ cũng gắn với động cơ, cùng một động
cơ có thể chi phối nhiều mục đích khác nhau, khi mục đích được thực hiện thì động cơ
và mục đích trùng nhau.
+ Mục đích và lĩnh hội kinh nghiệm xã hội lịch sử: mục đích được hình thành, lĩnh
hội thông qua giao tiếp với người khác, hình thành trong quá trình lĩnh hội kinh nghiệm
xã hội lịch sửa. Đồng thời khi đã lĩnh hội và có kinh nghiệm xã hội lịch sử, cá nhân có thể
đề ra mục đích, dự đoán kết quả tương lai chính xác hơn.
5.2. Cơ chế chung của tạo mục đích:
Cơ chế chung của hình thành mục đích: mục đích cá nhân hình thành trong
hoạt động, trong sự tác động cả nhân tố khách quan và chủ quan, trong sự quy định
cả nhân tố bên trong và bên ngoài.
- Nhân tố bên ngoài: tự nhiên và xã hội (chính trị, kinh tế, văn hóa, tính chất hoạt
động)
- Nhân tố bên trong: nhóm hệ thống phẩm chất năng lực của cá nhân (những kinh

nghiệm đã được lĩnh hội)
+ Nhóm giá trị và định hướng giá trị thể hiện sự kỳ vọng của nhân cách (quy định
mạnh đến sự hình thành mục đích): các loại kỳ vọng: kỳ vọng quá mức (ước mơ, lý
tưởng ko thể thực hiện được), kỳ vọng phù hợp: tính khả thi, hiện thực của mục đích, kỳ
vọng thấp.
+ Hệ thống nhu cầu cá nhân: sự phong phú về hệ thống nhu cầu chi phối đến sự
hình thành mục đích.
Thực chất, cơ chế chung của tạo mục đích là sự chuyển hóa từ ngoài vào trong
theo các bước sau:
+ B1: Cá nhân trên cơ sở ý thức được kết quả tương lai và gắn kết quả tương lai
với động cơ để hình thành mục đích (nhận thức); biến những dự đoán ko chủ định thành
mục đích trong giai đoạn chuẩn bị hành động thực tế.
+ B2: nhìn nhận xem xét lại: cấu tạo lại mục đích khi ko đạt được kết quả theo dự
kiến; tiếp nhận mục đích đặt ra bởi tổ chức, tập thể, người khác.
+ B3: hiện thực hóa mục đích, tiến dần đến kết quả: Chọn một trong số nhiều mục
tiêu đặt ra để thực hiện, biến những động cơ thành động cơ mục đích (động cơ hành
động); phân tách từng loại mục đích trung gian; chuyển mục đích sơ bộ thành mục đích
cuối cùng, tạo ra thứ bậc trình tự của các mục đích.
Vấn đề đặt ra với quân nhân nói chung và cán bộ sĩ quan trong giáo dục,
huấn luyện bộ đội


Lý thuyết mục đích là cơ sở phân tích hoạt động giáo dục, huấn luyện ở đơn vị cơ
sở hiện nay, vận dụng cần tình đến những vấn đề sau:
- Hình thành mục đích, viễn cảnh, chí hướng, dự định cho quân nhân trong hoạt
động quân sự
- Cho đội ngũ cán bộ sĩ quan, đặc biệt là sĩ quan trẻ
- Công tác giáo dục tuyên truyền biến những yêu cầu hoạt động quân sự vốn khách quan
thành mục đích hoạt động của mỗi quân nhân, những mục đích phải sáng rõ.
- Hình thành định hướng giá trị phù hợp, những kỳ vọng đúng đắn cho sĩ quan, cho

quân nhân.
- Tạo điều kiện và đáp ứng tốt điều kiện về vật chất và tinh thần, những phương
tiện cần thiết cho Qn, đây là cơ sở để Qn biến mđ của họ thành hiện thực.
Cơ chế tâm lý của quá trình tạo mục đích
Tài liệu: hoạt động ý thức nhân cách, những vấn đề lý luận và phương pháp luận tâm lý
học Lomov, tuyển tập tâm lý học phạm minh hạc (phương pháp tiếp cận hoạt động,
nhân cách), Tâm lý học quân sự, Nxb QĐND 89.
1. Những quan niệm khác nhau về mục đích và cơ chế tạo mục đích.
Trong triết học duy tâm có trường phái mục đihc luận, cho rằng mục đích sinh ra thế
giới. (cũng như cảm giác luận, ý chí luận).
Chủ nghĩa Duy vật mác xít: con người theo đuổi mục đích trong lịch sử, trong hoạt
động cải tạo tnxh, con người bao giờ cũng được mục đích dẫn đường chỉ lối.
C.Mac cho rằng: lịch sử cá nhân là lịch sử của mục đích sống.
Leenin: Thật ra mục đích con người là do thế giới khách quan san sinh ra...
Quan niệm của tâm lý học phi mác xít: ngay từ thời cổ đại Aristote đã đưa ra khái niệm
về cái tự đích, đây là khái niệm duy tâm nhưng nó đánh dấu đây là thuật ngữ tâm lý học,
hoạt động con người để nhằm vào cái tự đích đo. Về cơ bản, sau A thì thuật ngữ chưa
được làm rõ.
Cuối 19 đầu 20 các nhà TLH phương tây quan tâm nhiều đến mục đích và coi nó làm
tâm lý học.
- Theo Levin: nhà TLH theo Gestalt sang Mỹ:hành vi con người bao giờ cũng có tính
hướng đihcs, bao giờ cũng nhằm mục đích nào đó.
- Skinner: đã phát triển theo thuyết hành vi Woatson: phản ứng hướng vào kích thích có
lợi R-S.
- Tâm lý học thực dụng Mỹ Tonmen: mục đích là kết quả có lợi, vì sự đạt được nó mà
hành vi con người phát triển.
- Điều khiển học: mục đích là sự mô tả về kết quả cuối cùng của một hệ thống chức
năng.
Quan điểm của Tâm lý học Mác xit:
- Leonchiev: đưa ra thuyết hoạt động, trong đó mục đích là một thành phần trong cấu

trúc hoạt động. Phải giải quyêt mục đích trong mối quan hệ với động cơ, hành động,
phương tiện, điều kiện, thao tác.
Vấn đề mục đich trong nhân cách: đây là quan niệm, xuất phát điểm của nhà tâm lý học
Xooviet Gievenhev: ông là nhà tâm lý học quân sự liên xô: ngoài mục đích cụ thể gắn
với hành động hoạt động thì mục đích còn tồn tại dwois dạng khái quát phản ánh ước
mơ, dự định hoài bão con người, gọi là mục đích sống của nhân cách. Đây là yếu tố cấu
thành lên xu hướng nhân cách.


=> Có thể nói mục đihcs chish là biểu tượng của con người về kết quả hoạt động, là
hình ảnh chủ quan về kết quả tương lai của con người.
Biểu hiện: Là dự đoán về kết quả tương lai có ích với cá thể gắn với hệ động cơ
Là sự mô tả hình thức tình huôngcuối cùng trong quá trình hoạt động có hệ
thống
Là hình ảnh chủ quan về phù hợp với động cơ
+ Leonchiev: mục đích là một thành phần của cấu trúc hoạt động, gắn liền với
hành động
Giải quyết trong mối quan hệ với động cơ
======================== hành động
======================== phương thức (điều kiện, phương tiện)
- Vấn đề mục đích trong nhân cách, xu hướng nhân cách: quan điểm xuất phát từ
nhà tâm lý học người Nga Genenhac, ngoài mục đích gắn với hoạt động, hành động,
còn có loại mục đích tồn tại trong khoảng thời gian khá dai, mục đích sống của nhân
cách. Nó cấu thành nên xu hướng nhân cách: những mục đích chủ yếu, tồn tại song song
với hệ thống động cơ bền vững của con người.
Rút ra những kết luận về mục đích:
- Mục đích là biểu tượng về kết quả hành động: mđ là những dự đoán về kết quả
tương lai gắn với cá thể
Mđ là sự mô tả hình thức tình huống cuối cùng trong quá trình hoạt động có hệ thống.
Mđ là hình ảnh chủ quan tạo dựng trong ý thức con người về kết quả tương lai của

hành động, được tạo dựng trong suốt quá trình hoạt động và cuộc sống của con người.
- Các cấp độ biểu hiện của mục đích:
Cấp độ chung nhất: mục đích trong hoạt động
Các viễn cảnh  dự định (có phương thức thực hiện)  chí hướng (có ý chí
quyết tâm để thực hiện).
- Quan hệ giữa mục đích với một số yếu tố tâm lý khác
+ Mục đích và động cơ, tâm thế: mục đích bao giờ cũng gắn với động cơ, cùng
một động cơ có thể chi phối nhiều mục đích khác nhau, khi mục đích được thực hiện thì
động cơ và mục đích trùng nhau
+ Mục đích và lĩnh hội kinh nghiệm xã hội lịch sử: mục đích được lĩnh hội hình
thành thông qua giao tiếp với người khác, hình thành trong quá trình lĩnh hội kinh
nghiệm xh ls, nhờ có kn xhls cá nhân có thể đề ra mục đích, dự đoán kết quả tương lai
chính xác hơn.
2. Cơ chế tâm lý của quá trình tạo mục đích
Cơ chế chung của hình thành mục đích: mục đích cá nhân hình thành trong hoạt
động trong sự tác động cả nhân tố khách quan và chủ quan, trong sự quy định cả nhân tố
bên trong và bên ngoài.
Với tâm lý học, nhấn mạnh sự quy định cả nhân tố bên trong và bên ngoài
Nhân tố bên ngoài: tự nhiên và xã hội (chính trị, kinh tế, văn hóa, tính chất hoạt
động)
Nhân tố bên trong: nhóm hệ thống phẩm chất năng lực của cá nhân (những kinh
nghiệm đã được lĩnh hội)
Nhóm giá trị và định hướng giá trị thể hiện sự kỳ vọng của
nhân cách (quy định mạnh đến sự hình thành mục đích): các loại kỳ vọng: kỳ vọng quá
mức (ước mơ, lý tưởng ko thể thực hiện được), kỳ vọng phù hợp: tính khả thi, hiện thực
của mục đích, kỳ vọng thấp.


Hệ thống nhu cầu cá nhân: sự phong phú về hệ thống nhu cầu
chi phối đến sự hình thành mục đích.

Sự chuyển hóa: từ ngoài vào trong
- Quá trình tạo thành mục đích: sự hình thành mục đích theo các bước sau:
+ B1: cá nhân trên cơ sở ý thức được kết quả tương lai và gắn kết quả tương lai
với động cơ để hình thành mục đích (nhận thức), biến những dự đoán ko chủ định thành
mục đích trong giai đoạn chuẩn bị hành động thực tế.
+ B2: nhìn nhận xem xét lại: cấu tạo lại mục đích khi ko đạt được kết quả theo dự
kiến, tiếp nhận mục đích đặt ra bởi tổ chức, tập thể, người khác.
+ B3: hiện thực hóa mục đích, tiến dần đến kết quả: con người luôn có xu hướng
chọn nhiều mục đích, mục tiêu đặt ra để thực hiện, có xu hướng phân tách từng loại mục
đích trung gian, chuyển mục đích sơ bộ thành mục đích cuối cùng, biến những động cơ
thành động cơ mục đích (động cơ hành động) tạo ra thứ bậc trình tự của các mục đích.
3. Vấn đề đặt ra với quân nhân nói chung và cán bộ sĩ quan trong giáo dục,
huấn luyện bộ đội
Lý thuyết mục đích là cơ sở phân tích hoạt động giáo dục, huấn luyện ở đơn vị cơ
sở hiện nay, vận dụng
cần tình đến những vấn đề sau:
- Hình thành mục đích, viễn cảnh, chí hướng, dự định cho quân nhân trong hoạt
động quân sự
- Cho đội ngũ cán bộ sĩ quan, đặc biệt là sĩ quan trẻ
- Công tác giáo dục tuyên truyền biến những yêu cầu hoạt động quân sự vốn
khách quan thành mục đích hoạt động của mỗi quân nhân, những mục đích phải sáng rõ.
- Hình thành định hướng giá trị phù hợp, những kỳ vọng đúng đắn cho sĩ quan,
cho quân nhân.
- Tạo điều kiện và đáp ứng tốt điều kiện về vật chất và tinh thần, những phương
tiện cần thiết cho quân nhân, đây là cơ sở để quân nhân biến mục đích của họ thành hiện
thực.
6. Quan hệ giữa mục đích với động cơ và lĩnh hội kinh nghiệm xã hội lịch sử.
+ Mục đích và động cơ: mục đích bao giờ cũng gắn với động cơ, cùng một động
cơ có thể chi phối nhiều mục đích khác nhau, khi mục đích được thực hiện thì động cơ
và mục đích trùng nhau.

+ Mục đích và lĩnh hội kinh nghiệm xã hội lịch sử: mục đích được hình thành, lĩnh
hội thông qua giao tiếp với người khác, hình thành trong quá trình lĩnh hội kinh nghiệm
xã hội lịch sửa. Đồng thời khi đã lĩnh hội và có kinh nghiệm xã hội lịch sử, cá nhân có thể
đề ra mục đích, dự đoán kết quả tương lai chính xác hơn.
7. Vấn đề động cơ
Động cơ được coi là hạt nhân của nhân cách, giữ vị trí quan trọng trong cấu trúc
nhân cách.
- Phương Tây : Thường đồng nhất nhu cầu và động cơ
- TLH mác xít : Động cơ là đối tượng có khả năng đáp ứng nhu cầu đã được chủ
thể tri giác, biểu tượng, tư duy, có chức năng thúc đẩy, định hướng hoạt động nhằm thoả
mãn nhu cầu
- Các quan điểm về bản chất, vai trò
+ Quan điểm duy tâm : Tìm nguồn gốc động cơ trong tư duy, ý thức
+ Quan điểm duy vật :


. Động cơ là phản ánh tâm lý về đối tượng có khả năng thoả mãn nhu cầu của chủ
thể
. Các động cơ đặc trưng của con người mang tính lịch sử xã hội
- Cấu trúc hệ động cơ là cấu trúc vĩ mô. Mỗi động cơ tham gia vào hệ động cơ
cũng được coi là một tiểu hệ thống trọn vẹn, có cấu trúc riêng của nó
Cấu trúc động cơ bao gồm các yếu tố liên tục và đứt đoạn, thể hiện tính đặc thù của
cuộc sống con người
- Quan hệ động cơ và ý thức
Liên quan tới hiểu bản chất động cơ người. Xét về quá trình hình thành động cơ
đặc trưng của con người không tách rời ý thức.
- Động cơ và quá trình hình thành nhân cách
Việc hình thành có định hướng ở nhân cách những hệ động cơ nhất định phải xuất
phát từ những quan điểm có tính phương pháp luận về tính lịch sử xã hội của động cơ.
Muốn hình thành động cơ cần bắt đầu từ xây dựng môi trường xã hội với con

người đang sống. Hình thành động cơ phải chú ý tới hình thành nội dung động cơ và lực
động cơ.
- Phân loại động cơ :
+ Theo A. N Leonchiev:
. Động cơ đối tượng
. Động cơ ngoài đối tượng
+ Theo Lomov :
. Động cơ gần
. Động cơ xa
. Động cơ tiềm tàng
. Động cơ ưu thế
+ Động cơ bên trong, động cơ bên ngoài
+ Động cơ nhận thức, động cơ sáng tạo, động cơ xã hội
+ Động cơ cá nhân, động cơ nhóm, động cơ xã hội...

Phạm trù hoạt động trong các tác phẩm của Rubinstein.
Trong lịch sử tâm lý học Liên Xô, thập kỷ thứ tư của thế kỷ XX được xem như là
những năm tiếp tục xây dựng lại tâm lý học trên cơ sở của chủ nghĩa Mác Lênin. Hoạt
động khoa học của X.L.Rubinstêin (1889-1960), nhà tâm lý học Liên Xô nổi tiếng,
người đã có những đóng góp đáng kể cho khoa học tâm lý Liên Xô và thế giới, thật sự
bắt đầu từ thập kỷ đó. Các nhà tâm lý học Liên Xô ngày càng thấy rõ hơn là phải xây
dựng tâm lý học mác-xít, như Vưgốtxki đã chỉ ra từ hồi 1925, bằng con đường riêng của
mình. Nền tâm lý học này đòi hỏi phải có phương pháp tiếp cận riêng của mình, có khả
năng thể hiện tinh thần ấy vào các công trình nghiên cứu, các công trình thực nghiệm và
các công trình lý luận, và khám phá ra được các quy luật của cuộc sống tâm lý ở con
người.
Vai trò to lớn của Rubinstêin trong việc hình thành lý thuyết tâm lý học Liên Xô
theo nhận xét đúng của Chéplốp và Svác, là ở chỗ các công trình của ông, nhất là các
công trình ban đầu viết trong thập kỷ thứ tư và đầu thập kỷ thứ năm, thể hiện một cách
rõ nét xu thế chung của tâm lý học Liên Xô - nền tâm lý học đi vào nghiên cứu các quá



trình tâm lý theo phương pháp tiếp cận hoạt động. Rubinstêin, "một trong những nhà lý
luận kiệt xuất của khoa học tâm lý Liên Xô" đi đến phương pháp tiếp cận đó từ sự phân
tích những ý kiến của Mác về tâm lý học. Phân tích một loạt các công trình nghiên cứu,
các quan niệm tâm lý của Rubinstêin, trong chương này, chúng tôi muốn nêu lên công
lao và sự đóng góp của ông trong sự phát triển quan niệm về hoạt động.
Rubinstêin là một trong những nhà tâm lý học đầu tiên thấy rõ nhiệm vụ hàng đầu
trong khi cải tổ tâm lý học là nhiệm vụ xây dựng được cơ sở triết học mới của khoa học
tâm lý theo lập trường mác-xít - lêninnít. Bài báo rất cơ bản của ông Những vấn đề tâm
lý học trong các tác phẩm của Các Mác (1934) là một tác phẩm quan trọng thực hiện
nhiệm vụ ấy. Trong bài báo này, ông phân tích những ý kiến về các vấn đề tâm lý học
trong tác phẩm đầu tay của Mác Bản thảo kinh tế- triết học năm 1844. Với bài báo ấy,
Rubinstêin xuất hiện nhằm người đầu tiên phát hiện ra một tác phẩm của Mác có ý
nghĩa trực tiếp nhất đối với tâm lý học. "Những ý kiến Mác phát biểu về nhưng vấn đề
tâm lý học - Rubinstêin viết - tập trung vào bản thảo năm 1844 của Người: chỉ có trong
tác phẩm ấy chúng ta mới tìm thấy cả một hệ thống các luận điểm trực tiếp đề cập đến
tâm lý học". Với sự phân tích sâu sắc những ý kiến của Mác về các vấn đề tâm lý học,
Rubinstêin đã có sự đóng góp vô giá vào việc tiếp tục thực hiện chương trình xây dựng
tâm lý học Liên Xô. Theo mục đích đặt ra trong tập sách này, có thể nói rằng, ý nghĩa
cơ bản của bài báo là phương pháp tiếp cận hoạt động vận dụng vào tâm lý học với tư
cách là phương pháp tiếp cận xuất phát từ Mác đã có một sự xác nhận mới về mặt lý
luận và được biểu đạt một cách rõ ràng, rành mạch.
Tư tưởng cho rằng chỉ có nền tâm lý học nào được vũ trang bằng một luận điểm
khoa học về con người mới có thể trở thành nền tâm lý học chân chính về con người là
sợi chỉ đỏ xuyên suốt các công trình của Rubinstêin (Những vấn đề tâm lý học trong các
tác phẩm của Các Mác; Về cơ sở triết học của tâm lý học, (các bản thảo đầu tay của Các
Mác về các vấn đề tâm lý học), Cội rễ triết học của tâm lý học thực nghiệm, Những ý
nghĩ về tâm lý học v.v...). Chúng ta chỉ có thể tìm thấy luận điểm khoa học ấy trong học
thuyết triết học của Mác. Rubinstêin đã chỉ ra rằng học thuyết duy vật biện chứng về

hoạt động của con người là hạt nhân của luận điểm này. Đồng thời, ông chỉ ra rằng phải
dùng luận điểm của Mác về con người để giải quyết những vấn đề cơ bản của tâm lý
học như vấn đề ý thức và hoạt động, vấn đề cái tâm lý và thế giới đối tượng, vấn đề
nhân cách, v.v...
Rubinstêin viết: “Con người không phải là con người trừu tượng hay là sự trừu
tượng về con người như ở Phơbách, mà là con người thực, con người cụ thể, sống trong
một hoàn cảnh cụ thể, được hình thành và phát triển một cách lịch sử, trong các mối
quan hệ xã hội nhất định đối với những người khác - con người ấy đứng ở trung tâm của
luận điểm triết học của Mác. Vấn đề con người và khôi phục các quyền của con người
một cách đầy đủ đó là vấn đề chủ yếu. Chính vì vấn đề con người là trung tâm của bản
thảo 1844 nên tâm lý học quan tâm sâu sắc và trực tiếp với toàn bộ bản thảo, chứ không
phải chỉ quan tâm tới những ý kiến trực tiếp đề cập đến các hiện tượng tâm lý (tình cảm,
v.v...)".
Vì vậy vấn đề con người giữ một vị trí xứng đáng trong luận điểm của
Rubinstêin. Tác phẩm cuối cùng đang viết dở của ông Con người và thế giới là đỉnh cao
của sự phân tích vấn đề này. Hoàn toàn đồng ý với ý kiến của Sôrôkhôva cho rằng
"muốn hiểu thêm sự nghiệp sáng tác của Rubinstêin thì phải nghiên cứu tác phẩm cuối
cùng của ông", nhưng chúng tôi chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu của mình trước hết
trong di sản tâm lý học vô cùng phong phú của nhà tâm lý học xô-viết kiệt xuất này.


Còn tác phẩm Con người và thế giới, thì theo sự đánh giá công bằng của Sôrôkhôva, "về
cơ bản là một công trình triết học". Chúng tôi chủ yếu quan tâm đến chỗ Rubinstêin đã
chỉ ra rằng lập trường xuất phát của tâm lý học khoa học phải là luận điểm mác-xít về
con người và hoạt động của con người chính ý kiến này đã đưa ông tới bản thảo 1844
của Mác, và các ý kiến khác của Mác về các vấn đề tâm lý học. Nhà tâm lý học Liên Xô
đã tìm trong những ý kiến này luận điểm khoa học về con người với hạt nhân là lý
thuyết mác-xít về hoạt động của con người. Thực chất của lý thuyết này là "hiểu con
người là kết quả của lao động bản thân".
Rubinstêin thường xuyên nhấn mạnh rằng luận điểm mác-xít về hoạt động của

con người là điểm xuất phát của việc cải tổ tâm lý học. Phải tiến hành cải tổ một cách
cơ bản chính quan niệm về ý thức và hoạt động của con người theo ánh sáng của luận
điểm đó, đồng thời coi đây là phương thức đúng đắn để giải quyết cuộc khủng hoảng
của tâm lý học hồi đó là cuộc khủng hoảng phương pháp luận. Rubinstêin là một trong
những người đầu tiên trong tâm lý học Liên Xô đã đối lập một cách có ý thức và hết sức
rõ ràng quan niệm của chủ nghĩa hành vi về hành vi như là tổng các cử động cơ thể với
quan niệm hoạt động như là "biện chứng của chủ thể và khách thể". Phải lấy quan niệm
sau làm cơ sở cho tất cả các khái niệm của tâm lý học mác-xít.
Khuyết điểm của tâm lý học hành vi là do quan niệm của nó về hoạt động, và do
nó muốn hoạt động của con người nói chung phải tuân theo quy luật của tâm lý học sinh
vật. Nói cách khác, khuyết điểm của chủ nghĩa hành vi, theo Rubinstêin, có thể tóm tắt
như sau:
1) Chủ nghĩa hành vi chỉ nghiên cứu hành vi mà loại trừ ý thức, do đó, tất nhiên
dẫn đến quan niệm máy móc về hoạt động của con người;
2) Trong cuộc đấu tranh chống tâm lý học duy tâm, thuyết hành vi cho rằng
không thể quan sát khách quan tâm lý, ý thức được;
3) Thuyết hành vi không tính đến đặc thù của hoạt động của con người. Vì vậy,
"kết quả rõ ràng - Rubinstêin viết - là tâm lý học hành vi chỉ có thể làm cho cuộc khủng
hoảng trong tâm lý học sâu sắc thêm, chứ không giải quyết được khủng hoảng ấy; và
những vấn đề phương pháp luận cũng chủ yếu được đặt ra rõ nét hơn, chứ không được
giải quyết". Ông đề nghị phải khắc phục quan niệm về hành vi và ý thức của toàn bộ
tâm lý học trước mác-xít, và coi đó là yêu cầu bức bách để giải quyết các vấn đề
phương pháp luận.
"Hoạt động của con người - Rubinstêin viết - không phải là phản ứng đối với kích
thích bên ngoài, thậm chí không phải quá trình làm việc với tính chất là những thao tác
của chủ thể tác động lên khách thể, mà đó là "sự chuyển hoá của chủ thể thành khách
thể", đồng thời cũng là sự chuyển hoá từ khách thể vào chủ thể. Nói theo ngôn từ của
Mác khi còn trẻ, hoạt động của con người được hiểu là đối tượng hoá chủ thể và tách
đối tượng khỏi đối tượng.
Theo luận điểm mác-xít về hoạt động của con người, mối quan hệ qua lại giữa

con người và thực tiễn xung quanh được xác định là sự tác động qua lại có nội dung
hoạt động. Tác động này là cái thứ nhất, tâm lý là cái thứ hai. Tác động ấy giống như
nhu cầu đối với một cái gì đấy ở ngoài con người - nhu cầu về một khách thể có thể thoả
mãn nhu cầu ấy. Trong quá trình hiện thực hoá mối quan hệ này, con người cải tạo thiên
nhiên bằng hoạt động của mình, và sản xuất ra thế giới đối tượng. Như vậy, sản phẩm
đối tượng là do con người tạo ra, là "những lực lượng bản chất" của con người được đưa
ra ngoài thành sản phẩm. Sản phẩm là sự khẳng định của một trong những lực lượng
bản chất của con người. Đồng thời, "chỉ nhờ có sự phong phú được mở ra trong đối


tượng của tổn tại người - Mác viết trong bản thảo 1844 - mà sự phong phú của tình cảm,
tính chủ quan người được phát triển, và phần nào lần đầu tiên được nảy nở...". Tóm lại,
sự tác động qua lại có nội dung hoạt động giữa con người và thế giới bên ngoài được
xem như là quá trình đối tượng hoá chủ thể (con người tạo ra sản phẩm) và quá trình
tách đối tượng khỏi đối tượng (con người lĩnh hội các thao tác nằm trong đối tượng, các
quan hệ sau đối tượng). Quá trình thứ nhất là quá trình con người dùng tri thức, kỹ
năng, kỹ xảo, v.v... của mình để tham gia vào việc sáng tạo ra thế giới đối tượng. Quá
trình thứ hai được hiểu là quá trình hình thành ý thức, tâm lý, tức là hình thành chính tri
thức, kỹ năng, kỹ xảo, v.v... của con người - hình thành nhân cách nói chung. Chính
trong "sự biện chứng khách thể và chủ thể" tức là trong hoạt động đối tượng, hay nói
đúng hơn, phải bằng hoạt động đối tượng của bản thân mới hình thành nên con người
với toàn bộ các quá trình và thuộc tính tâm lý của người với tư cách là chủ thể của hoạt
động cải tổ thế giới, và hoạt động, đến lượt mình, lại sinh ra chính tâm lý của con người.
Quan niệm như vậy về hoạt động là chìa khoá để nhận thức bản chất của ý thức, tâm lý
và các quy luật của chúng. Nhờ vậy, tâm lý học có khả năng nghiên cứu ý thức một
cách khách quan; nó là một bộ phận tổ thành của đối tượng tâm lý học.
Trong tâm lý học mác-xít, ý thức (và tâm lý nói chung) được xác định là "ý thức
của chính các cá thể sống thực" nảy sinh từ những biến đổi trong các quan hệ thực giữa
con người và môi trường. Nguồn gốc sự phát triển của thế giới tâm lý người gắn liền
với các biến đổi ấy. Đấy chính là thực chất của phương pháp tiếp cận hoạt động vận

dụng vào các vấn đề tâm lý học. Chỉ có phương pháp tiếp cận này mới mang lại cho tâm
lý học khả năng thực sự để vượt qua chướng ngại vật do tâm lý học trước mác-xít đã tạo
ra hàng thế kỷ, vượt qua sự ngăn cách giữa cái bên trong và cái bên ngoài, tâm lý và
hành vi, ý thức và hoạt động, cái xã hội và cái cá thể, v.v... Khả năng đó xuất hiện là
nhờ có "luận điểm xuất phát cho rằng bản chất bên trong của ý thức người - Rubinstêin
viết - hình thành trong quá trình con người tác động vào thế giới bên ngoài, trong quá
trình thực tiễn xã hội. Trong thực tiễn ấy diễn ra sự xâm nhập giữa hành động và đối
tượng, diễn ra sự hình thành chủ thể và ý thức thông qua sản phẩm của thực tiễn xã
hội". Hoàn toàn khác với luận điểm duy tâm truyền thống, quan niệm mác-xít coi ý thức
của con người là sự minh chứng của cuộc sống thực, ý thức là sản phẩm do đời sống
sinh ra. Nội dung và ý của ý thức với tư cách là một cấu tạo tâm lý có thực được xác
định bởi công việc và cử chỉ của con người".
Trong khi làm sáng tỏ nội dung của luận điểm mác-xít cho rằng tâm lý người hình
thành trong quá trình con người thực hiện hoạt động qua sản phẩm của hoạt động đó,
Rubinstêin đã lĩnh hội được một luận điểm khác của Mác không kém phần quan trọng
đối với việc giải quyết vấn đề đối tượng và phương pháp tâm lý học - đó là luận điểm về
tính chất gián tiếp khách quan của ý thức và tâm lý. Rubinstêin hiểu tính chất này như
sau: thứ nhất, tâm lý học mác-xít bắt đầu hiểu ý thức không phải là cái tồn tại trong thế
giới tâm lý nội tại khép kín tách biệt, mà là cái tồn tại thông qua hoạt động thực tiễn
trong thế giới sự vật, thế giới đối tượng, tức là ý thức hình thành và vận hành trong quá
trình chuyển hoá qua lại giữa chủ thể và khách thể - các quá trình được thực hiện bằng
hoạt động của chủ thể; thứ hai, trong quan hệ đối với môi trường, ý thức và tâm lý
không phải là một thứ tinh thần nào đó có khả năng muốn sáng tạo ra cái gì thì sáng tạo,
không phải là một cái gì đó hoàn toàn thụ động, đứng ngoài lề, mà phải được coi là một
thứ có chức năng tích cực đối với hoạt động tác động vào xung quanh, cũng tức là tác
động vào chính chủ thể của hoạt động đó; thứ ba, từ hai điều kết luận trên rút ra là chỉ
có thể nhận thức được tâm lý, ý thức thông qua hoạt động của con người và sản phẩm



×