Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

TIỂU LUẬN TÂM LÝ HỌC văn hóa GIỮ nước đặc TRƯNG tâm lý TRUYỀN THỐNG của NGƯỜI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.73 KB, 25 trang )

1

“Văn hóa giữ nước – Đặc trưng tâm lý truyền
thống của dân tộc Việt Nam”.
Lịch sử dựng nước và giữ nước lâu đời với những chiến tích vẻ vang,
rất đáng tự hào của dân tộc đã tạo nên cho nhân dân Việt Nam truyền thống
yêu nước cao quí. Truyền thống đó là nguồn sức mạnh tinh thần to lớn cổ vũ
và động viên mọi người Việt Nam vươn lên trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Chính lịch sử đó, đã là cái nền móng bền vững của truyền thống
vinh quang nhân dân Việt Nam.
Dựng nước và giữ nước là nội dung cơ bản, xuyên suốt toàn bộ tiến trình
lịch sử Việt Nam. Kể từ khi hình thành quốc gia - dân tộc Việt Nam đến nay,
nhân dân ta đã liên tục, bền bỉ, kiên cường chiến đấu chống lại các thế lực xâm
lược, đô hộ để giải phóng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ lãnh thổ và những giá trị
văn hoá của dân tộc. Qua hàng ngàn năm chống ngoại xâm, ông cha ta đã xây
dựng và hun đúc nên văn hoá giữ nước, được xem như là đặc trưng tiêu biểu của
tâm lý truyền thống dân tộc Việt Nam.
Tìm hiểu văn hoá giữ nước Việt Nam với những giá trị của nó là việc làm
có ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất quan trọng. Trước hết nó giúp chúng ta nhận
thức đầy đủ, sâu sắc hơn lịch sử đất nước, đặc biệt là lịch sử đấu tranh bảo vệ
những giá trị cao quý của nhân dân là độc lập, chủ quyền, hoà bình…Từ đó tăng
thêm lòng tự hào, tự tôn dân tộc, ra sức học tập, vận dụng và phát triển những
bài học Văn hóa giữ nước của quá khứ vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa trong giai đoạn cách mạng mới.

I. Những điều kiện hình thành và phát triển văn hoá giữ nước Việt Nam


2
Truyền thống văn hoá dân tộc là kết quả tổng hợp của mọi lĩnh vực hoạt
động xã hội, mọi tập thể và cá nhân trong một quốc gia dân tộc. Mỗi lĩnh vực


hoạt động, mỗi vùng đất, mỗi con người Việt Nam đều có đóng góp vào truyền
thống dân tộc. Những nhân tố cơ bản hình thành và phát triển văn hoá giữ nước
Việt Nam là: điều kiện tự nhiên, điều kiện lịch sử và con người Việt Nam.
1. Vai trò của điều kiện tự nhiên đối với sự hình thành và phát triển
văn hoá giữ nước Việt Nam
Trong tác phẩm Việt Nam văn hóa sử cương, Giáo sư Đào Duy Anh viết:
“Chính về những điều kiện tự nhiên và địa lý khiến mỗi dân tộc sinh hoạt ở trên
những cơ sở kinh tế khác nhau, cho nên cách sinh hoạt cũng thành khác nhau
vậy. Bởi thế muốn nghiên cứu văn hoá của một dân tộc, trước hết phải xét xem
dân tộc ấy sinh trưởng ở trong những điều kiện địa lý thế nào. Các điều kiện địa
lý có ảnh hưởng lớn đối với cách sinh hoạt của người ta, song người là giống
hoạt động cho nên cũng có thể dùng sức mạnh mà xử trí và biến những điều
kiện ấy cho thích hợp với những điều kiện cần thiết cho mình. Cách sinh hoạt vì
thế mà cũng biến chuyển và khiến văn hoá biến chuyển theo”1.
Việt Nam nằm ở Đông Nam châu Á, bên bờ biển Đông, phía Bắc giáp
Trung Quốc, phía Tây và Tây Nam giáp các nước Cộng hòa dân chủ nhân dân
Lào và Vương quốc Campuchia, phía Đông và phía Nam giáp Biển Đông
(Thái Bình Dương) với 3260 km đường bờ biển và khoảng trên 3000 hòn đảo
lớn nhỏ. Việt Nam có diện tích khoảng 331.590 km 2 đất liền và khoảng
700.000 km2 thềm lục địa, phần biển rộng gấp nhiều lần so với phần đất liền.
Do có vị thế tự nhiên đặc biệt như vậy nên Việt Nam sớm trở thành cửa ngõ,
yết hầu giao thông quan trọng, là chiếc cầu nối giữa Châu Á và Thái Bình
Dương, giữa Đông Nam Á lục địa và Đông Nam Á hải đảo, nơi giao điểm của
các luồng đường, luồng hàng từ Đông sang Tây, từ Nam lên Bắc, nơi tiếp xúc
và giao thoa của nhiều nền văn hóa, văn minh lớn trên thế giới.

1

Đào Duy Anh - Việt Nam văn hoá sử cương. Nxb Văn hoá Thông tin, H, 2000, tr.10.



3
Một trong những điều kiện nữa là là phải lo vấn đề thuỷ lợi. Minh chứng
hùng hồn nhất là hệ thống đê điều vĩ đại ở đồng bằng Bắc Bộ được đào đắp và
thường xuyên hoàn thiện từ đời này qua đời khác. Theo Giáo sư Phan Ngọc, số
lượng đất đào đắp để tạo nên hệ thống đê ở Bắc Bộ Việt Nam nhiều gấp ba lần
kênh đào Xuy - ê mà ở đó 120 ngàn dân Ai Cập đã chết vì đói, vì bệnh tật.
Người nông dân Việt Nam một mặt phải chống chọi với nắng mưa, bão tố “sáng chống bão giông, chiều ngăn nắng lửa”, mặt khác, phải bám chặt vào đất
“sống ngâm da, chết ngâm xương” để làm ra lúa gạo nuôi sống con người. Cố
Giáo sư Đào Duy Anh viết: “Những vấn đề sinh tử tồn vong của dân tộc ta là
thuộc về nông nghiệp”. Đất, nước, lúa là nguồn sống, nguồn sinh sôi phát triển.
Vì thế mà tâm lý truyền thống Mẹ được hình thành - Mẹ đất, Mẹ nước, Mẹ lúa,
và chung nhất là Mẹ Tổ Quốc.
Từ thực tiễn đấu tranh để thích ứng, hoà nhập với thiên nhiên, sống
quần tụ lâu dài theo làng xã, trồng lúa nước, người Việt đã dần dần định hình
và phát triển những phẩm chất tốt đẹp, trở thành những giá trị văn hoá truyền
thống tốt đẹp của dân tộc.
Trước hết là tình yêu quê hương đất nước. Quê hương đất nước như là
một phần máu thịt của người Việt Nam. Có lẽ không có một người Việt Nam
nào lại không có ấn tượng sâu sắc, đẹp đẽ và luôn tươi mới về mảnh đất quê
hương, nơi mình được sinh ra, nuôi dưỡng trong những năm tháng tuổi thơ.
Cây đa, bến nước, mái đình, dòng sông, đồng lúa và cây nêu ngày Tết…luôn
luôn sống động trong ký ức của mỗi con người Việt Nam. Quê hương đất
nước của người Việt Nam không chỉ là nơi ở, nơi làm ăn sinh sống mà còn là
nơi “chôn rau cắt rốn”, nơi có mồ mả tổ tiên. Đó là “sợi dây” nối tiếp không
bao giờ dứt của cuộc sống. Vì vậy, hai tiếng “quê hương” trong tâm thức của
người Việt Nam vô cùng thiêng liêng và sâu thẳm. Càng đi xa, càng da diết
nhớ quê cha đất tổ:
Đêm xa nước nghe tiếng bầu, tiếng trúc
Hồn ta ơi náo nức muốn quay về.



4
Cần cù sáng tạo là một nét đặc sắc của con người Việt Nam. Có thể do
hoàn cảnh sống khó khăn, khắc nghiệt là nhân tố khách quan tạo cho người Việt
Nam bản tính cần cù, vì không cần cù chăm chỉ thì không có cái ăn (tay làm hàm
nhai). Người Việt bao giờ cũng thức khuya dậy sớm, “tham công tiếc việc”, “bán
mặt cho đất, bán lưng cho trời” để đổi lấy miếng cơm manh áo. Lao động là
hành vi văn hoá đầu tiên của con người. Nó không chỉ có ý nghĩa kinh tế, mà
còn mang ý nghĩa thẩm mỹ, đạo đức và khoa học. Không lao động thì không biết
quý trọng người lao động và thành quả lao động. Cần cù luôn gắn với sáng tạo.
Sản xuất nông nghiệp luôn phụ thuộc vào thiên nhiên, nếu không biết vận dụng
các yếu tố “nước, phân, cần, giống”, “nhất thì, nhì thục” cho phù hợp thì sẽ bị
mất mùa. Đồng thời phải biết kết hợp trồng trọt với chăn nuôi.
Với một dân tộc luôn có tình yêu thiên nhiên, yêu con người, yêu lao
động…thì dân tộc ấy tất yếu phải có cuộc sống lạc quan. Những thành quả lao
động sản xuất và chiến đấu chống ngoại xâm là ngọn lửa bất diệt thắp sáng tinh
thần lạc quan của nhân dân ta. Tinh thần lạc quan nảy sinh trên cơ sở nắm vững
hiện thực và xu thế phát triển tất yếu của nó. Lịch sử Việt Nam có những thời kỳ
đen tối kéo dài “tưởng như không có đường ra”, nhưng nhân dân vẫn tin tưởng
vào chiến thắng của chính nghĩa, của lương tri và lẽ phải; của quy luật khách
quan. Niềm tin, niềm lạc quan, và tình yêu lớn là điểm tựa giúp nhân dân ta vượt
qua những thử thách gay go, quyết liệt, kể cả khi vận nước “ngàn cân treo sợi
tóc”. Càng khó khăn gian khổ thì ý chí quyết tâm của nhân dân ta càng cao. Từ
đó mà nảy sinh trăm ngàn biện pháp để tháo gỡ khó khăn, giải quyết tình thế.
2. Vai trò của điều kiện lịch sử đối với sự hình thành và phát triển văn
hoá giữ nước Việt Nam
Giáo sư Trần Quốc Vượng viết: “Văn hoá, xét ở mỗi cá nhân, cũng như ở
mỗi cộng đồng, còn là do lịch sử hun đúc nên, những số phận, vận mệnh lịch sử
văn hoá khác nhau tạo nên những chủ nghĩa khác nhau”2. Nằm ở vị trí trung tâm,

đầu cầu của khu vực Đông Nam Á lục địa, Việt Nam thực sự trở thành của ngõ
2

Trần Quốc Vượng - Văn hoá Việt nam, tìm tòi và suy ngẫm, Nxb Văn hoá dân tộc, H, 2000, tr. 96.


5
giao thông quan trọng giữa Đông Nam Á lục địa và Đông Nam Á hải đảo; giữa
đại lục châu Á với châu Á - Thái Bình Dương. Đồng thời, con đường hải cảng
quốc tế do các nước tư bản phương Tây lập nên từ thế kỷ XVII – XVIII, con
đường tơ lụa trên biển cũng lấy biển Đông và các hải cảng Việt Nam làm thương
điếm quan trọng. Vị thế chiến lược đầu cầu lục địa và hải cảng giao tiếp đó tạo
cho nước ta nhiều lợi thế để phát triển và giao lưu kinh tế, văn hoá. Nhưng cũng
vì vị thế đó mà Tổ Quốc ta, nhân dân ta luôn phải đối phó với những cuộc thôn
tính và xâm lược của các cường quốc Đông - Tây từ xưa đến nay. Việt Nam đã
từng là nơi chặn đứng vó ngựa của quân xâm lược Mông - Nguyên, đã từng là
“tiền đồn” của phe xã hội chủ nghĩa ở Đông Nam Á - nơi đối đầu giữa lực lượng
cách mạng với những lực lượng phản động quốc tế hung hãn nhất.
Bản chất con người Việt Nam là cần cù lao động, sáng tạo và nhân ái,
mong muốn yên lành để xây dựng cuộc sống. Nhưng kẻ thù không để chúng ta
yên. Khi ngọn lửa chiến tranh xâm lược bùng cháy thì cuộc sống của cả dân tộc
và của mỗi người dân đều bị đảo lộn. Việc chuyển trạng thái từ thời bình sang
thời chiến không loại trừ bất kỳ đối tượng nào, ở bất cứ khu vực nào.
Cuộc đấu tranh cho độc lập, tự do ở Việt Nam từ khi lập nước đến nay
diễn ra thường xuyên, liên tục với sự hy sinh mất mát vô cùng to lớn. Hàng ngàn
năm Bắc thuộc, các tập đoàn phong kiến phương Bắc thay nhau xâm lược, thống
trị, bóc lột và đồng hoá dân tộc ta với những chính sách cực kỳ tàn bạo. Nhưng
nhân dân ta không chịu cúi đầu. Các cuộc khởi nghĩa liên tiếp diễn ra đã chứng
tỏ sức sống mãnh liệt của dân tộc: chứng tỏ mục tiêu độc lập, tự do là động lực
thôi thúc cực kỳ mạnh mẽ khiến nhân dân ta không sợ bất cứ kẻ thù nào, không

sợ bất cứ sự hy sinh mất mát nào. Chiến thắng Bạch Đằng chấm dứt thời Bắc
thuộc và thắng lợi của những cuộc kháng chiến chống xâm lăng của nhân dân ta
kỷ nguyên Đại Việt không chỉ là thắng kẻ thù về quân sự mà còn chiến thắng cả
trên mặt trận văn hoá; đã bảo vệ được truyền thống - bản sắc văn hoá dân tộc,
làm thất bại âm mưu huỷ diệt và đồng hoá văn hoá của các thế lực bành trướng,
xâm lược.


6
Từ năm 1858 đến 1975, dân tộc Việt Nam lại phải đối đầu và kết cục đã
chiến thắng “hai đế quốc to” là Pháp và Mỹ. Trong 30 năm chiến đấu (1946
1975) của nhân dân ta ở thời đại Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước truyền thống
đã phát triển thành chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Do đó, chưa bao giờ sức
mạnh vật chất và tài trí của dân tộc lại được thể hiện rực rỡ đến như thế. Chúng
ta đã bảo vệ trọn vẹn nền độc lập của Tổ Quốc, đưa đất nước vào kỷ nguyên
mới. Đó là thành quả lớn nhất của nhân dân Việt Nam.
Bão táp của cuộc đấu tranh chống ngoại xâm đã tôi luyện nên những
con người Việt Nam kiên cường bất khuất. Hiểu rõ giá trị cao quý của độc
lập, tự do cho nên dù phải hi sinh, chiến đấu lâu dài, gian khổ như thế nào,
nhân dân Việt Nam cũng quyết giành cho bằng được.
Sự nghiệp vĩ đại và vĩnh cửu của nhân dân Việt Nam là dựng nước và
giữ nước đã tạo nên ý thức thường trực trong mỗi con người Việt Nam là phải
cố kết cộng đồng chặt chẽ - phải đoàn kết lại - “Một cây làm chẳng nên non.
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”. Tinh thần đoàn kết, cố kết cộng đồng của
người Việt cũng được hình thành từ rất sớm. Không đoàn kết thì không thể
chống lại sự hung hãn của thiên nhiên (bão tố, lũ lụt, hạn hán…). Đặc biệt,
không có sức mạnh đoàn kết thì không thể chiến đấu thắng lợi chống các thế
lực xâm lược và đô hộ. Có thể nói, mọi thành tựu của dân tộc từ buổi đầu
dựng nước đến nay và về sau đều là kết quả của sức mạnh cố kết cộng đồng,
sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc.

3. Con người Việt Nam - chủ thể sáng tạo văn hoá giữ nước Việt Nam.
Những nét chung, đặc sắc về văn hoá, tâm lý dân tộc Việt Nam đã được
nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước nghiên cứu. Học giả Phan Kế Bính
viết: “Nước ta học theo Khổng giáo, cho nên trọng nhất là luân lý cương
thường. Bất cứ đàn ông, đàn bà hễ giữ được luân lý cương thường là hay, mà
trái với luân lý cương thường là dở… Dân tình rất yêu sự yên ổn; quý hồ làm
ăn cho đủ đóng đủ góp với làng nước; ra đến đình thì không ai nói động đến
mình là mãn nguyện rồi… Từ người sang đến người hèn, ai cũng lấy lễ nghĩa


7
làm trọng”3. Trong cuốn sách “Bộ mặt mới của nhà Phật” xuất bản tại Tôkyô
những năm 70 thế kỷ XX, một nhà báo Mỹ viết: Về mặt lịch sử, ở Việt Nam
có ba khối người chính là: người miền Bắc, người miền Trung và người miền
Nam. Người miền Bắc nổi tiếng về mặt nghị lực, khôn ngoan và sâu sắc,
người miền Trung có tiếng về sự nhiệt thành và lòng kiên nghị. Họ yêu mến,
thù ghét và cầu nguyện một cách hăng say. Gần đây nhất, nghệ sĩ nhiếp ảnh
điền dã người Mỹ Robert Paliotti đã có nhận xét: Người Việt Nam dễ cảm
thông và hoà đồng, Có lẽ chính vì tinh thần ấy làm cho các bạn không bị
nhiễu, và trải qua bao biến cố, các bạn vẫn là mình, không bị các thế lực bên
ngoài thống trị.
Điều kiện tự nhiên, hoàn cảnh lịch sử và con người Việt Nam có quan
hệ biện chứng với nhau, trong đó, con người (chủ thể văn hoá) giữ vai trò
quyết định. Điều kiện tự nhiên và hoàn cảnh lịch sử là những nhân tố khách
quan quy định phương thức sống của con người. Song, con người không chỉ
là sản phẩm của hoàn cảnh mà còn là chủ thể sáng tạo ra hoàn cảnh. Con
người luôn phát huy tính năng động chủ quan và lựa chọn phương thức hành
xử phù hợp với mình.
Qua hàng ngàn năm đấu tranh với thiên nhiên, lao động sản xuất, và
chiến đấu chống kẻ thù xâm lược đã hun đúc nên tâm hồn, cốt cách con người

Việt Nam. Đó là những con người chất phác, giản dị, yêu lao động, yêu thiên
nhiên, yêu con người, yêu cuộc sống; bền bỉ dẻo dai, chịu đựng gian khổ,
khắc phục khó khăn. Triết lý sống của con người Việt Nam là “sống cho phải
đạo”, tức là luôn luôn theo con đường nhân nghĩa, thuận với đạo trời đất, sao
cho “thiên thời, địa lợi, nhân hoà”. Đó là những con người hiền lành, thật thà:
dù nghèo khó vẫn thanh cao, “đói cho sạch, rách cho thơm”, “giấy rách phải
giữ lấy lề”. Đặc biệt, người Việt Nam không bao giờ khuất phục trước cường
quyền, bạo lực. Trước kẻ thù xâm lược, người Việt Nam đồng tâm hiệp lực
chiến đấu với sức mạnh phi thường “thà chết không chịu làm nô lệ”, “chết
3

Phan Kế Bính - Việt Nam phong tục, Nxb TP HCM, 1992, tr 328, 329,330.


8
vinh còn hơn sống nhục”. Theo nguyên lý đạo đức của người Việt Nam,
không có tội lỗi nào lớn bằng tội phản bội Tổ quốc cũng như không có một
nỗi nhục nhã nào có thể so với nỗi nhục của kẻ phản bội Tổ quốc.
Chính sự tương tác biện chứng giữa ba nhân tố nói trên đã tạo ra nền
văn hoá Việt Nam phong phú, đa dạng với bề dầy truyền thống rất tự hào;
trong đó, truyền thống yêu nước và đoàn kết trong văn hoá giữ nước Việt
Nam là một bộ phận hợp thành và đã đạt tới những đỉnh cao rực rỡ.
II. Nội dung của văn hóa giữ nước – đặc trưng tâm lý truyền thống
của dân tộc Việt Nam.
1. Lòng yêu nước nồng nàn
Trong hệ thống những giá trị văn hoá giữ nước Việt Nam thì lòng yêu
nước là giá trị tiêu biểu nhất, chi phối và định hướng phát triển các giá trị
khác, cũng như chi phối sự phát triển của văn hoá giữ nước nói chung. Mỗi
dân tộc trên thế giới đều có quan niệm về lòng yêu nước. Có dân tộc không còn
đất nước thì lòng yêu nước có chăng chỉ là một sự hoài vọng về một thời xa xưa.

Có dân tộc lòng yêu nước của họ lại có màu sắc chủ nghĩa đại dân tộc.
Yêu nước là một tình cảm, một trạng thái tâm lý tự nhiên của con người
như tình yêu quê hương, xứ sở, sự gắn bó với ngôn ngữ và niềm tự hào về
truyền thống... Yêu nước là một tình cảm xã hội, mà nội dung là tình yêu và
lòng trung thành đối với Tổ quốc, lòng tự hào về quá khứ và hiện tại của Tổ
quốc, ý chí bảo vệ những lợi ích của Tổ quốc. Yêu nước cũng có quá trình
phát triển cùng với lịch sử phát triển của quốc gia dân tộc, theo quá trình đó
thì tình cảm yêu nước có tính chất cảm tính ấy dần dần trở thành lý tính có nội
dung tư tưởng, lý luận.
Nhân dân Việt Nam gọi nước Việt Nam bằng hai tiếng tiếng thiêng
liêng: Tổ quốc. Tổ quốc Việt Nam có lãnh thổ riêng do thiên nhiên ban tặng
và được tạo dựng, bồi đắp, giữ gìn bằng xương máu, mồ hôi của cả dân tộc
trong suốt chiều dài của lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nuớc đầy khí
phách, anh dũng, ngoan cường. Tổ quốc là đây với đất liền, bầu trời, biển


9
khơi, hải đảo…phân định rạch ròi với các nước láng giềng bằng đường biên
giới trên đất liền, khoảng không và ngoài biển khơi. Mỗi tấc đất, tấc biển đều
là xương thịt Tổ quốc. Lòng yêu nước là một trong những giá trị tạo nên bản
sắc văn hóa Việt Nam phải được thẩm thấu và trở thành nội dung tư tưởng
của mỗi tác phẩm báo chí. Mỗi tên đất, tên làng, tên núi, tên sông, tên suối,
tên biển, tên đảo, tên người của Việt Nam đều thiêng liêng như hai tiếng
Việt Nam.
Một đất nước sinh ra và phát triển trong cuộc vật lộn không cân sức, trải
qua nhiều biến cố như vậy, cho nên, mọi hoạt động vật chất, tinh thần của dân
tộc ta luôn phải tuân theo quy luật xuyên suốt: dựng nước đi đôi với giữ nước.
Điều đó khiến cho nhân dân Việt Nam sớm hình thành lòng yêu nước nồng nàn
với những nội dung đặc sắc.
Nhận định về chủ nghĩa yêu nước truyền thống trong lịch sử dân tộc, Chủ

tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một
truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì
tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó
lướt qua mọi sự nguy hiểm khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ
cướp nước” 4.
Nghiên cứu quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước lâu dài của dân
tộc ta, có thể có đầy đủ cơ sở để đi tới một nhận định có tính khái quát: Chủ
nghĩa yêu nước là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử Việt Nam từ cổ đại
đến hiện đại. Ở đây, bản chất Việt Nam được bộc lộ rõ ràng, đầy đủ, tập trung
nhất hơn bất cứ ở lĩnh vực nào. Yêu nước đã trở thành một triết lý xã hội và
nhân sinh của người Việt Nam, là đạo lý của dân tộc Việt Nam, một truyền
thông sâu bền, cao đẹp, không còn dừng lại ở trình độ một nhận thức, một
tình cảm, mà đã trở thành một chủ nghĩa, một lực lượng tinh thần vô cùng
mạnh mẽ, có tác dụng to lớn trong việc động viên, cổ vũ mọi người dân sẵn

4

Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995, tr. 171.


10
sàng đứng lên bảo vệ Tổ quốc khi có nguy cơ xâm lược từ ngoài tới, hay kiên
trì góp hết tinh thần và sức lực vào sự nghiệp dựng nước.
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam tuyệt nhiên không phải là một cái gì trừu
tượng, mà là một sản phẩm đích thực của chính lịch sử Việt Nam, nó bắt nguồn
từ những điều kiện cụ thể của Việt Nam, về hoàn cảnh địa lý, về khí hậu, về đời
sống kinh tế, văn hóa – xã hội, về lịch sử. Cũng cần phải thấy yêu nước là một
tình cảm và tư tưởng phổ biến mà dân tộc nào cũng có. Duy chỉ khác nhau là ở
mỗi quốc gia, mỗi dân tộc thì tư tưởng và tình cảm yêu nước bị hình thành và
phát triển trong những điều kiện không giống nhau, sớm muộn, đậm nhạt khác

nhau mà thôi.
Nền tảng và biểu hiện cao nhất của lòng yêu nước là tinh thần tự tôn, tự
lập, tự cường. Trong hoàn cảnh khắc nghiệt, một nước nhỏ bên cạnh nước lớn
luôn tìm cách xâm lược, đô hộ, đồng hoá các nước xung quanh, dân tộc ta sớm
có ý thức tự lập, tự cường vươn lên đặt nước mình Nam quốc ngang hàng với
Bắc quốc. Con người Việt Nam đâu phải bẩm sinh đã có tinh thần dân tộc, có ý
thức tự lập, tự cường. Ý thức, tinh thần đó được hình thành trong quá trình sinh
tồn. Điều đặc sắc là đất nước vừa được xây dựng, lại bị kẻ ngoại xâm lớn mạnh,
có nền văn hoá phát triển rực rỡ với các thủ đoạn tàn bạo, thâm độc đô hộ, mà
cái nguồn mạch tự tôn, tự lập, tự cường trong nhân dân không hề bị mai một,
vẫn âm thầm tồn tại, phát triển, khi có dịp lại bùng phát như lẽ tự nhiên.
Năm 40, Hai Bà Trưng khởi nghĩa với lời thề: “báo nợ nước, đem lại
nghiệp xưa họ Hùng”. Dù đây là lời của Trưng Trắc, Trưng Nhị hay là lời của
nhân dân, thì vẫn thể hiện ý chí độc lập, mục tiêu cứu nước, cứu nhà của cuộc
tổng khởi nghĩa. Điều có ý nghĩa lớn là vào thời điểm đầu công nguyên, nước
ta mới có khoảng một triệu người, giữa mênh mông hoang dã, phải đọ sức với
đế chế Hán mà tổ tiên ta vẫn hiên ngang khẳng định sự tồn tại của mình, phủ
nhận cái lý thuyết “bá chủ thiên hạ” của các “thiên tử” Trung hoa. Ý chí đó là
trường tồn, nhưng hành động giành quyền tự chủ trong tương quan lực lượng
quá chênh lệch thì không thể một lần, hai lần mà thành công. Đến Lý Bí lãnh


11
đạo cuộc khởi nghĩa giành độc lập năm 544 đã xưng hoàng đế: Lý Nam Đế ngang hàng với hoàng đế phương Bắc. Đây là một bước phát triển mới của ý
chí quyết giành độc lập dân tộc, đặt vị thế nước ta ngang hàng với Trung
Quốc, không chấp nhận quan hệ “phiên thuộc” với “thiên triều”.
Chính ý chí quyết tâm giành lại nền độc lập dân tộc được lưu giữ và
ngày càng được vun đắp bằng xương máu trong hàng trăm năm đã trở thành
sức sống lâu bền, không thế lực nào, hoàn cảnh nào làm mai một. Chính giá
trị tinh thần ấy là nguồn gốc sâu xa nhất để dân tộc ta thoát khỏi đêm trường

nô lệ. Chiến thắng Bạch Đằng (năm 938) là bước ngoặt lớn trong lịch sử dân
tộc. Kết thúc hơn một nghìn năm đấu tranh gian khổ hy sinh, bất khuất của
nhân dân ta, đất nước ta bước sang kỷ nguyên mới. Tinh thần tự tôn, tự lập, tự
cường, qua thử thách đã được bồi bổ, nền độc lập ngang hàng với các nước
lớn mạnh khác được khẳng định hiên ngang.
Nói đến tinh thần tự tôn, tự lập dân tộc ta ở giai đoạn văn hoá Đại Việt,
không thể không nói đến “Bài thơ thần” của Lý Thường Kiệt xuất hiện trong
cuộc kháng chiến chống Tống thế kỷ XI. “Bài thơ thần” được xem như bản
tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc Việt Nam:
Nam quốc sơn hà, Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đặng hành khan thủ bại hư
Bài thơ bất hủ trên là một lời tuyên bố đanh thép của dân tộc ta: khẳng
định quyền độc lập thiêng liêng bất khả xâm phạm, ngang hàng với các dân tộc
khác. Qua cuộc đấu tranh lâu dài và chiến thắng quân xâm lược phương Bắc,
dân tộc ta đã cảnh cáo nghiêm khắc mọi âm mưu xâm lược của nước ngoài.
Thế kỷ XIII, đế quốc Mông Nguyên với những đoàn quân xâm lược
khét tiếng thiện chiến và tàn bạo, đánh đâu thắng đó, chinh phục nhiều quốc
gia, lập thành một đế quốc rộng lớn từ bờ biển Thái Bình Dương đến bờ Hắc
Hải. So đế quốc Mông Nguyên với nước “An Nam nhỏ bé” có khác nào đặt


12
hòn núi đá lên trên quả trứng! Thế mà trong 30 năm, đế quốc Mông Nguyên
đã ba lần xuất quân xâm lược Đại Việt với cả quyết tâm trả thù, nhưng cả ba
lần đều thất bại thảm hại. Sức mạnh chiến thắng của Đại Việt do đâu? đó là ý
chí độc lập tự do, là tinh thần tự tôn, tự lập, kiên cường, bất khuất của dân tộc
ta lại được kết tụ và được thể hiện bằng lời vang vọng muôn người như một
đồng thanh “Quyết đánh” trong Hội nghị Diên Hồng (1285), thể hiện bằng

lời: “Nếu bệ hạ muốn hàng, xin chém đầu thần trước đã” (Trần Quốc Tuấn),
bằng hình ảnh người thiếu niên Trần Quốc Toản bóp nát quả cam mà không
biết chỉ vì chưa đủ tuổi cầm quân đánh giặc. Truyền thống tự tôn, tự lập dân
tộc thường trực trong mỗi người dân Đại Việt được chuyển hoá thành ý chí,
thành năng lượng sức mạnh vật chất được thích bằng chữ “Sát Thát” trên
cánh tay mỗi binh sĩ.
Đặc biệt đến thời Lê, đỉnh cao của văn minh Đại Việt trên mọi lĩnh vực
kinh tế, chính trị - xã hội, văn hoá, khoa học… đều phát triển rực rỡ. Ý thức tự
tôn, tự lập, tự cường dân tộc càng phát triển mạnh mẽ, thể hiện một dân tộc đã
trưởng thành, tự tin ở chính mình. Sau khi chiến thắng giặc Minh xâm lược,
Nguyễn Trãi đã viết bài Bình Ngô đại cáo, trong đó nêu bật yếu tố nền tảng của
sự tồn tại, phát triển đất nước:
“ …Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Bờ cõi sông núi đã riêng,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Trải Triệu, Đinh, Lý, Trần, bao đời dựng nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, mỗi bên hùng cứ một phương.
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Xong hào kiệt bao giờ cũng có…”5
Như thế, theo ông, một nước độc lập bao giờ cũng gồm ba yếu tố căn
bản: Có lãnh thổ riêng, có nền văn hoá riêng và có những người “hào kiệt”,
5

Hoàng Minh: Bình Ngô đại cáo, Tìm hiểu về Tổ tiên ta đánh giặc, Nxb. QĐND, H. 1977, tr. 193.


13
“những mưu trí, tài thức” - trải qua các đời Hán, Đường, Tống Nguyên của
Bắc quốc, thì Đại Việt cũng qua các triều Đinh, Lý, Trần… cùng tồn tại độc

lập bên nhau. Nước Đại Việt lúc mạnh, thắng được ngoại xâm, cũng có lúc
yếu bị Bắc quốc xâm lược, đô hộ, nhưng anh hùng hào kiệt, tiêu biểu của nền
độc lập tự chủ thì bao giờ cũng có, bảo đảm cho xã tắc muôn đời bền vững.
Đến thế kỷ XVIII là thế kỷ của nông dân Việt Nam. Cuộc khởi nghĩa
nông dân Tây Sơn sau khi đã hoàn thành cuộc đấu tranh giai cấp, đánh đổ hai
tập đoàn phong kiến Trịnh - Nguyễn đem lại thống nhất quốc gia, đã tiến lên
làm nhiệm vụ bảo vệ nền độc lập dân tộc. Trước lúc xuất quân đánh quân
Thanh xâm lược, Nguyễn Huệ đã tuyên bố khẳng định một nguyên tắc hiển
nhiên trong quan hệ các quốc gia dân tộc: Trong khoảng vũ trụ, đất nào sao
ấy, đều đã phân biệt rõ ràng, phương Nam, phương Bắc, chia nhau mà cai
trị… Nam Bắc riêng phận, bờ cõi lặng yên, các vua truyền ngôi lâu dài… Nay
người Thanh lại sang, mưu đồ lấy nước Nam ta đặt làm quận huyện, không
biết trông gương mấy đời Tống, Nguyên, Minh ngày xưa. Vì vậy, ta phải kéo
quân ra đánh đuổi chúng.
Trong lịch sử nước ta, các triều vua trước đây đều được thiết lập trên cơ
sở thắng lợi của một cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, hoặc các vương
triều thay thế nhau thì sau khi thiết lập, đã hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ
chống ngoại xâm bảo vệ độc lập dân tộc, củng có thống nhất quốc gia. Đó
chính là cơ sở chủ yếu tạo nên sức mạnh và sự tiến bộ của các vương triều.
Triều Nguyễn được khôi phục đầu thế kỷ XIX trên cơ sở sự thắng thế của một
thế lực phong kiến suy tàn, dựa vào thế lực ngoại bang. Vì thế, triều Nguyễn
đã đối lập với nhân dân, không khơi dậy được sức mạnh của nhân dân trong
sự nghiệp dựng nước và giữ nước.
Văn hoá giữ nước của dân tộc ta nửa cuối thế kỷ XIX lại mang sắc thái
khác. Mặc dù triều đình nhà Nguyễn hèn yếu, nhưng đông đảo nhân dân ta
vẫn giữ vững và nối tiếp truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xâm, nêu
cao ý chí tự tôn, tự lập, tự cường, tự đứng lên khởi nghĩa chống Pháp xâm


14

lược, chống cả triều đình phong kiến đầu hàng. Các tấm gương như Trương
Định, Nguyễn Trung Trực, Phan Đình Phùng… đã thể hiện rằng: trong sâu
thẳm mỗi con người Việt Nam, cái ý thức con Lạc, cháu Hồng một thời hào
hùng vẫn còn đó.
Vì yêu nước, vì ý chí độc lập, tự tôn dân tộc, những người yêu nước
Việt Nam sẵn sàng từ bỏ cả gia tài nho học của mình, học hỏi, tiếp thu những
tư tưởng mới để tìm con đường cứu nước. Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh và
đỉnh cao là Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh là tiêu biểu cho những con người
như vậy. Cũng bắt đầu từ lòng yêu nước truyền thống, Nguyễn Ái Quốc ra đi
tìm đường cứu nước, Người đã tiếp thu được lý luận cách mạng của thời đại chủ nghĩa Mác - Lênin và đã tìm được con đường cứu nước đúng đắn - con
đường cách mạng vô sản. Từ đây lòng yêu nước của người Việt Nam đã mang
sắc thái mới - đặc trưng của thời đại - gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã
hội. Ý thức tự tôn, tự lập, tự cường dân tộc được củng cố trên cơ sở niềm tin
vững chắc vào sự nghiệp giải phóng, vào tiền đề của dân tộc.
Ý chí “dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng giành cho được độc
lập dân tộc” của cuộc khởi nghĩa giành chính quyền tháng Tám - 1945; tinh
thần “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không
chịu làm nô lệ”; hình tượng người chiến sĩ “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”
của cuộc kháng chiến chống Pháp là sự thể hiện hùng hồn của lòng yêu nước
Việt Nam, của ý thức tự tôn, tự lập, tự cường dân tộc, mãi mãi là bức tượng
đài về một cuộc kháng chiến mà mỗi người dân Việt Nam đều sẵn sàng chiến
đấu hy sinh và độc lập tự do của Tổ quốc.
Có thể khẳng định chủ nghĩa yêu nước là động lực, là chìa khóa của
lịch sử Việt Nam, đoàn kết yêu nước là sức mạnh vô địch của dân tộc. Về vấn
đề này, có thể vận dụng bài học của Bác Hồ về yêu cầu khai thác, phát triển
lòng yêu nước, cũng được trình bày trong Báo cáo Chính trị tại Đại hội lần
thứ II của Đảng (1951): Tinh thần yêu nước cũng như các thứ của quý. Có khi
được trưng bày trong tủ kính, trong bình pha lê, rõ ràng dễ thấy. Nhưng cũng



15
có khi cất giấu kín đáo trong rương, trong hòm. Bổn phận của chúng ta là
làm cho những của quý kín đáo ấy đều được đưa ra trưng bày. Nghĩa là phải
ra sức giải thích, tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo, làm cho tinh thần yêu nước
của tất cả mọi người đều được thực hành vào công việc yêu nước, công việc
kháng chiến. Từ đó có thể khẳng định yêu nước là giá trị cao nhất trong hệ
thống giá trị tinh thần và tâm lý truyền thống của dân tộc Việt Nam.
2. Ý thức cộng đồng, cố kết dân tộc bền vững
Một giá trị xuyên suốt của văn hoá giữ nước Việt Nam là ý thức cộng
đồng, cố kết dân tộc. Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, hiện nay có 54 dân
tộc anh em. Mặc dù có điểm khác nhau và chủng tộc, về văn hoá, về trình độ
phát triển và hoàn cảnh lịch sử, nhưng có điểm chung sống còn là vận mệnh
quốc gia dân tộc. Từ bao đời nay, các dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt
Nam đều gắn bó, thương yêu, đoàn kết giúp đỡ nhau để cùng gánh vác trách
nhiệm đối với quốc gia dân tộc Việt Nam.
Tiềm thức sâu xa nhất của mỗi người, mỗi tộc người ở Việt Nam là về
nguồn gốc của mình, Huyền thoại phổ biến của các dân tộc trên đất nước Việt
Nam là có dòng giống chung, sinh ra từ một bọc, từ một quả bầu…
Ở Việt Nam, từ khi lập nước đến nay - có người Việt là trung tâm hội
tụ các dân tộc anh em. Với tỷ lệ thường là gần 90%, tộc người Việt bao giờ
cũng là động lực và lực lượng chính trong công cuộc giữ nước. Thực tế đó,
bản thân dân tộc Việt cũng như các dân tộc anh em đều ý thức được. Đó là cơ
sở để đoàn kết các dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam chống xâm
lược.
Trong xã hội cũ, cư dân Việt Nam cũng phân chia thành các giai cấp,
các tầng lớp có địa vị và lợi ích khác nhau. Mỗi người, mỗi cộng đồng lại có
niềm tin, tín ngưỡng, hoặc theo tôn giáo khác nhau. Tất cả những sự khác biệt
ấy tạo nên một nền văn hoá đa dạng, phong phú, nhiều màu sắc. Nhưng văn
hoá giữ nước lại hội tụ thống nhất cả nước cùng ý chí, cùng hành động đánh
quân thù.



16
Ý thức cố kết cộng đồng, cố kết dân tộc, cả nước đánh giặc trước hết
thể hiện ở sự đoàn kết trong nội bộ lãnh đạo đất nước. Trong xã hội phong
kiến, lúc thường cũng như lúc biến, nhất là khi đất nước có giặc ngoại xâm,
việc đoàn kết trong nội bộ triều đình có vai trò hết sức quan trọng, làm cho
lực lượng cả dân tộc quy về một mối, tạo thành khối đại đoàn kết chống quân
xâm lược.
Từ triều Lý, một chính quyền phong kiến trung ương tập quyền được xây
dựng bài bản. Các vua Lý đều chăm lo sự đoàn kết thống nhất trong nội bộ triều
đình. Hàng năm, triều Lý đều tổ chức lễ Minh Thệ (Hội thề trung thành với vua).
Trước thần vị, các quan đều thề: “Làm con bất hiếu, làm tôi bất trung xin thần
minh giết chết”. Trước cuộc chiến tranh chống Tống, nội bộ vương triều Lý có
sự bất hoà giữa hai người có quyền lực lớn nhất trong triều là Lý Thường Kiệt và
Lý Đạo Thành. Thấy tình trạng bất hoà có quan hệ an nguy với vận mệnh đất
nước, là người đang nắm quyền hành trong triều, Lý Thường Kiệt đã chủ trương
xoá mối bất hoà - Lý Đạo Thành được cử giữ chức Thái phó bình chương quân
quốc sự - ngang chức với Lý Thường Kiệt, chuyên lo việc nội trị để Lý Thường
Kiệt lo việc quân.
Nước Đại Việt đời Trần (1226 - 1400) bị thử thách nghiêm trọng nhất
bởi nạn ngoại xâm trong thời đại phong kiến. Triều Trần cũng tiêu biểu cho
một triều đại xây dựng củng cố sự đoàn kết, gắn bó trong triều đình và tầng
lớp vương hầu quý tộc. Cũng như triều Lý, triều Trần tổ chức hội thề hàng
năm gọi là Tuyên bố điều khoản minh thệ. Trong hoàn cảnh lịch sử thời ấy,
việc mở hội ăn thề có tác dụng nhất định để củng cố lòng trung với vua, gắn
bó trong triều đình. Triều Trần cũng có những mâu thuẫn nội bộ. Điều quyết
định là giải quyết những mâu thuẫn nội bộ đó trước vận mệnh chung của đất
nước. Quan hệ giữa hai vị quan đầu triều là Trần Quang Khải và Trần Quốc
Tuấn không hoà thuận vì vốn đã có vấn đề lịch sử, hai ông lại không hợp

nhau. Trước vận mệnh chung của đất nước, Trần Quốc Tuấn đã chủ động xoá
mối bất hoà và Trần Quang Khải cũng thiện chí đáp lại, hai ông đã gắn bó


17
tình thân mãi mãi. Hình ảnh Trần Quốc Tuấn và Trần Quang Khải “tắm
chung” một nồi nước sau Hội nghị Bình Than mãi là một tấm gương sáng
ngời về việc dẹp hiềm thù riêng, đặt vận mệnh quốc gia dân tộc lên trên, một
lòng phò vua đánh giặc.
Trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và chiến tranh giải phóng.
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn giữ được sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng,
từ đó xây dựng được mặt trận dân tộc thống nhất, xây dựng được khối đoàn
kết dân tộc - khối đoàn kết chưa từng có trong lịch sử Việt Nam - để đánh bại
những tên xâm lược lớn mạnh, hung bạo như thực dân Pháp, phát xít Nhật, đế
quốc Mỹ. Từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn là một tổ
chức chính trị thống nhất về tư tưởng và tổ chức, làm nồng cốt cho khối đại
đoàn kết toàn dân. Trong bản Di chúc lịch sử, chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng
kết: “Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng, một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ
nhân dân, Đảng ta đã đoàn kết tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu
tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đoàn kết là một truyền thống
cực kỳ quý báu của Đảng và nhân dân ta”6.
3. Đoàn kết nội bộ để lãnh đạo công cuộc chống ngoại xâm chính là
một nét tiêu biểu trong văn hoá giữ nước Việt Nam.
Quân đội là người trực tiếp chiến đấu, là lực lượng trực tiếp quyết định
thắng bại trên chiến trường, nên đoàn kết trong quân đội là yêu cầu hết sức quan
trọng. Trải qua nhiều biến cố chống ngoại xâm, tổ tiên ta đã sớm nhận thấy điều
này và chú trọng xây dựng mối đoàn kết trong nội bộ quân đội.
Quân đội đời Trần trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên là một
trong những ví dụ tiêu biểu về một quân đội đoàn kết thống nhất trong thời
phong kiến. Trong suốt cuộc đời huy hoàng với những chiến tích của mình.

Quốc công tiết chế Trần Quốc Tuấn luôn xác định tư tưởng xây dựng quân
đội “phụ tử chi binh” (quân đội cha con). Trong Hịch tướng sĩ, Trần Quốc
Tuấn viết về tình nghĩa trên dưới, trước sau của tướng sĩ trong quân đội:
6

Hồ chí Minh, Toàn tập, t.12, Nxb CTQG, H, 1996, tr479.


18
“Các ngươi ở cùng ta coi giữ binh quyền đã lâu ngày, không có mặc thì ta
cho áo, không có ăn thì ta cho cơm; quan nhỏ thì ta thăng chức, lương ít thì
ta cấp bổng; đi thuỷ thì ta cho thuyền, đi bộ thì ta cho ngựa, lúc trận mạc
xông pha thì cùng nhau sống chết, lúc ở nhà nhàn hạ thì cùng nhau vui
cười…”. Ông gợi lên nỗi khổ nhục chung nếu để mất nước: “Lúc bấy giờ, ta
cùng các ngươi sẽ bị bắt, đau xót biết chừng nào? Chẳng những thái ấp của
ta không còn mà bổng lộc của các ngươi cũng mất; chẳng những gia quyến
của ta bị tan, mà vợ con các ngươi cũng khốn; chẳng những xã tắc tổ tông ta
bị giày xéo mà phần mộ cha mẹ các ngươi cũng bị quật lên, chẳng những
thân ta kiếp này chịu nhục, rồi đến trăm năm sau tiếng dơ khôn rửa, tên xấu
còn lưu, mà đến gia thanh các ngươi cũng chẳng khỏi mang tiếng là tướng
bại trận”7.
Trong Binh thư yếu lược, bộ sách quân sự làm tài liệu huấn luyện tướng
sĩ, Trần Quốc Tuấn viết về Đạo làm tướng: “Người tướng quên mình để báo
ơn vua, mà không làm cho lòng sĩ tốt cũng như mình thì tướng ấy chưa phải là
tướng lập công giỏi. Cùng sĩ tốt ăn uống, thì sau sĩ tốt quên được nỗi đói khát
trên cật ngựa; cùng sĩ tốt cùng lên đài đi giày (cùng hưởng vinh quang) thì sau
sĩ tốt quên được nạn chông gai ở ngoài quan ải; cùng sĩ tốt cùng dạy, cùng
nghỉ thì sau sĩ tốt quên được nỗi lao khổ của chiến chinh, lo cái lo của quân
lính, đau cái đau của quân lính, mà sau quân lính quên được vết thương vì
gươm tên…Đại phần quân đội cần lao, tướng phải đem mình làm trước. Khi

nắng không gương dù, khi rét thì không mặc áo kép, gặp chỗ hiểm trở thì đi
bộ…nhọc hay nghỉ, mình phải cùng với quân lính…Trong quân có người ốm,
tướng phải than hành đem thuốc đến chữa. Trong quân có người chết, tướng
phải thương xót đau buồn, quân thú đi xa thì tướng phải sai vợ con đến thăm
hỏi. Phàm có khao thưởng thì phải chia đều có quan và quân…cho nên tướng
với quân phải có cái ơn hoà rượu, hút máu (rượu ít thì hoà nước sông cùng
Trần Quốc Tuấn, Hịch tướng sĩ, Tuyển tập văn thơ yêu nước chống phong kiến xâm lược, Nxb Văn học, H.
1966, tr. 16.
7


19
uống, quân bị ốm đau thì tướng hết lòng chạy chữa)”8. Theo tư tưởng của Trần
Quốc Tuấn “Tướng với quân phải như cha với con một nhà thì mới đánh được”
và bản thân ông là một tấm gương về sự gần gũi thân thương binh lính, ông
thương yêu binh sĩ như anh em ruột thịt, lúc sướng, lúc khổ cùng hưởng, cùng
chịu với anh em. Chỉ huy đánh thắng nhiều trận, có uy tín lớn trong triều nhưng
ông vẫn đơn sơ, trung hậu. Do đó đội quân do ông chỉ huy đoàn kết gắn bó,
đánh đâu thắng đó.
Sự đoàn kết trong quân đội đời Trần là một nguyên nhân làm nên chiến
công hiển hách ba lần đánh thắng quân Nguyên. Cuối đời, Trần Quốc Tuấn dặn
lại đời sau: “Làm thế nào để thu hút được binh lính như cha con một nhà mới có
thể giành chiến thắng được”9.
Từ tư tưởng coi trong sự đoàn kết trong nội bộ quân đội, Nguyễn Trãi
nhận định quân đội nhà Hồ yếu kém là do thiếu đoàn kết, còn nghĩa quân Lam
sơn hùng mạnh tất thắng vì đoàn kết một lòng. Nguyễn Trãi rất tự hào và tin
tưởng vào quân đội của mình: “Quân mạnh hay yếu không cứ ở nhiều…Quân
của tôi chỉ vài chục vạn nhưng hết thảy đều cùng một lòng”. Bản thân Lê Lợi
cũng luôn đồng cam cộng khổ với quân sĩ. Có lần bị vây hãm, Lê Lợi đã phải
giết con ngựa chiến của mình cho quân sĩ ăn. Tất cả lễ vật của dân biếu, Lê

Lợi đều sai đem phân phát cho quân sĩ. Về mặt tổ chức, bộ chỉ huy khởi nghĩa
Lam Sơn đề ra những quy định cụ thể về bảo đảm sự thống nhất hành động,
giúp nhau trong chiến đấu: “Hạ lệnh rằng các quân ra trận, hoặc toán 50
người, toán 100 người, tự lui chạy riêng mà bỏ lại một hai người không cứu
thì chém cả toán, không may có người chết tại trận mà cùng nhau góp sức
khiêng xác ra ngoài thì được tha tội”10. Nghĩa quân Lam Sơn chính là trên cơ
sở cùng chung mục tiêu chiến đấu, lại được giáo dục tư tưởng tinh thần và các
biện pháp tổ chức xây dựng đoàn kết nội bộ, nên lực lượng từ nhỏ đến lớn, từ
yếu thành mạnh, vừa có tinh thần cao, vừa có sức mạnh vật chất lớn. Nhân tố
Binh thư yếu lược, Nxb Công an nhân dân, H, 2002, tr. 52, 53, 59.
Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư, tập 2, Nxb KHXH, H, 1967, tr. 80.
10
Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư, tập 3, Nxb KHXH, H, 1967, tr.40.
8
9


20
đoàn kết bao giờ cũng được phát huy, tạo ra sự thống nhất trong hàng ngũ
nghĩa quân.
Quân đội nhân dân Việt Nam là lực lượng được Đảng Cộng sản Việt
Nam và chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức, giáo dục và rèn luyện. Đó là đội quân
của dân, do dân và vì dân, mang bản chất giai cấp công nhân, có giác ngộ
chính trị sâu sắc, có tổ chức chặt chẽ và kỷ luật nghiêm minh. Tinh thần đoàn
kết thống nhất là một phẩm chất của quân đội ta từ khi mới ra đời đến nay.
Một trong những nội dung của Mười lời thề trong lễ tuyên thệ thành lập Đội
Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân có điều “Xin thề: hết sức ái mộ các
bạn chiến đấu trong đội cũng như ái một bản thân, hết lòng giúp đỡ nhau lúc
thường cũng như lúc ra trận”11.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, người cha thân yêu của các lực lượng vũ trang

luôn quan tâm giáo dục rèn luyện tinh thần đoàn kết nhất trí trong quân đội,
trong lực lượng vũ trang. Người nhắc nhở cán bộ chỉ huy: “mỗi người chỉ huy
về quân sự cũng như về chính trị, phải làm kiểu mẫu, phải giữ đúng đạo đức
quân nhân”. Đối với chính trị viên, người thay mặt cho tổ chức Đảng chăm lo
tinh thần ở mỗi đơn vị, Người căn dặn: “Đối với bộ đội, chính trị viên phải
săn sóc luôn luôn đến sinh hoạt vật chất của họ: ăn, mặc, ở, nghỉ, luyện tập,
công tác, sức chiến đấu. Về mặt tinh thần, phải săn sóc để nâng cao kỷ luật,
bài trừ hủ hoá, phát triển văn hoá và đường lối chính trị trong bộ đội. Đối
với bộ đội, chính trị viên phải thân thiết như một người chị, công bình như
một người anh, hiểu biết như một người bạn”12.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, vô vàn tấm gương cá nhân và đơn
vị đoàn kết hợp đồng, giành khó khăn, thậm chí hi sinh về mình, nhường
thuận lợi cho bạn cùng hoàn thành nhiệm vụ. Lực lượng vũ trang thành một
khối thống nhất làm nòng cốt cho cuộc kháng chiến. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đánh giá: “Ngày nay, quân đội có hàng chục vạn người, cộng với bộ đội địa
phương và dân quân du kích thì lực lượng vũ trang và nửa vũ trang của nhân
11
12

Lịch sử quân đội nhân dân Việt Nam, tập 1, Nxb QĐND, H. 1999, tr. 86.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, t5, Nxb CTQG, H,1995, tr. 392.


21
dân ta có hàng triệu người. Hàng triệu người mà lòng một ý chí: đánh giặc
cứu nước”13.
Truyền thống đoàn kết của quân đội ta được phát huy cao hơn trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ. Trong buổi chiêu đãi mừng quân đội ta 20 tuổi,
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Cán bộ và chiến sĩ thương yêu nhau như ruột thịt,
chia ngọt sẻ bùi”. Đoàn kết thống nhất trong quân đội là nhân tố hết sức quan

trọng, có ý nghĩa quyết định đến thắng lợi trong từng trận đánh cũng như cả cuộc
chiến tranh.
Đoàn kết thống nhất trong nội bộ lãnh đạo đất nước, đoàn kết quân đội
là những yếu tố hết sức quan trọng trong công việc giữ nước. Nhưng trong
hoàn cảnh nước ta, vấn đề hàng đầu quyết định thành công của cuộc kháng
chiến chống ngoại xâm là xây dựng được khối đoàn kết toàn dân đánh giặc.
Những người lãnh đạo đất nước biết trọng dân, thân dân, dựa vào dân,
huy động được toàn dân đồng lòng gắng sức, thì dựng nước và giữ nước giữ
nước thành công. Nếu những người trị vì chỉ biết vơ vét khiến dân tình đói
khổ, đất nước suy vong, sẽ dẫn đến đối lập giữa những người lãnh đạo với
nhân dân thì không những thất bại trong công cuộc giữ nước mà còn bị chính
nhân dân đứng lên lật đổ.
Nhận thức được điều đó với mức độ khác nhau, đúng theo điều kiện cụ
thể từng thời kỳ, ông cha ta đã biết tìm sức mạnh trong việc thắt chặt đoàn kết
toàn dân, huy động lực lượng đông đảo của nhân dân vào sự nghiệp bảo vệ đất
nước. Trong các xã hội có giai cấp bóc lột, bao giờ cũng có mâu thuẫn đối
kháng giữa giai cấp thống trị và quần chúng lao động. Nhưng ở Việt Nam,
mỗi khi có giặc ngoại xâm thì mâu thuẫn dân tộc được đặt lên hàng đầu, Nếu
triều đại phong kiến tiến bộ, biết “nới sức dân” thì hoàn toàn có khả năng hiệu
triệu đông đảo quần chúng chống ngoại xâm, vì người nông dân Việt Nam, dù
bị giai cấp phong kiến bóc lột, nhưng vốn có tinh thần yêu nước nồng nàn,

13

Hồ Chí Minh, Toàn tập, t5, Nxb CTQG, H,1995, tr. 722.


22
vẫn có ý thức của người chủ nhân đất nước. Trước giặc ngoại xâm, họ vẫn
chủ động, tích cực làm chủ đất nước.

Trong lịch sử giữ nước Việt Nam có ba lần mất nước: Âu lạc bị Triệu
Đà xâm lược năm 179 TCN; Đại Việt rơi vào sự thống trị của nhà Minh năm
1407; Mất nước thời nhà Nguyễn năm 1858. Ba lần mất nước ở ba hoàn cảnh
khác nhau, nhưng có thể nhận thấy những thời điểm ấy, triều đình lãnh đạo
đất nước đã không phát huy được sức mạnh của đất nước, sức mạnh tổng hợp
của dân tộc trong đó sức mạnh việc đoàn kết toàn dân.
Cụ Phan Bội Châu qua chiêm nghiệm cuộc đời hoạt động của mình và
các nhà yêu nước đương thời đã rút ra được một chân lý: “Người nước không
đồng tâm thì dù có anh hùng cũng không thể làm gì được”.
Đầu thế kỷ XX lịch sử Việt Nam yêu cầu phải có một tổ chức cách
mạng tiên tiến, có đường lối cứu nước đúng đắn để hiệu triệu toàn dân đứng
lên đấu tranh cứu nước. Dân tộc Việt Nam cùng thời đại mới đã sinh ra bậc vĩ
nhân Hồ Chí Minh. Người là hiện thân của khối đại đoàn kết toàn dân vùng
lên dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đánh bại chủ nghĩa thực
dân cũ và mới, giành độc lập, thống nhất trọn vẹn cho Tổ quốc. Tư tưởng đại
đoàn kết của chủ tịch Hồ Chí Minh là tinh hoa, là di sản quý báu bậc nhất
trong quá trình cách mạng và mãi mãi sau này của dân tộc ta, đặc biệt là trong
công cuộc bảo vệ sự phát triển trường tồn của đất nước. Tổng kết lịch sử giữ
nước Việt Nam, Người viết: “Sử ta dạy cho ta bài học này: lúc nào dân ta
đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại, lúc nào dân
ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng
kết tinh thần yêu nước và đoàn kết là hai yếu tố chủ chốt giành thắng lợi trong
chiến tranh giữ nước. Có thể hiểu đó là hai nội dung căn bản của văn hoá giữ
nước Việt Nam: “Lòng yêu nước và sự đoàn kết của nhân dân là lực lượng vô
cùng to lớn, không ai thắng nổi. Nhờ lực lượng ấy mà tổ tiên ta đã thắng quân
Nguyên, quân Minh, đã giữ vững quyền tự do, dân chủ. Nhờ lực lượng ấy mà
chúng ta cách mạng thành công, giành được độc lập. Nhờ lực lượng ấy mà sức


23

kháng chiến của ta càng ngày càng mạnh. Nhờ lực lượng ấy mà quân và dân ta
quyết chịu đựng muôn nỗi khó khăn thiếu thốn, đói khổ, tang tóc, quyết một lòng
đánh tan quân giặc cướp nước”14.
Tóm lại, những giá trị tiêu biểu như: Lòng yêu nước nồng nàn, ý thức
cộng đồng, cố kết dân tộc cùng với các giá trị khác đã tạo nên văn hoá giữ
nước Việt Nam – một đặc trưng tâm lý truyền thống của dân tộc Việt Nam.
Những giá trị này luôn hoà quyện với nhau tạo nên giá trị tinh thần giữ nước
vừa hiện hữu, vừa lung linh trong đời sống của dân tộc. Đó là “ tâm hồn dân
tộc”, là cốt cách con người Việt Nam, tiềm ẩn bên trong cộng đồng các dân
tộc Việt Nam cũng như trong mỗi con người sống trên mảnh đất này và khi
được khơi dậy sẽ trở thành sức mạnh vô địch trước bất cứ thế lực ngoại xâm
nào. Lòng yêu nước và tinh thần đoàn kết của văn hoá giữ nước Việt Nam đã
hình thành, phát triển qua hàng ngàn năm, đã trở thành, cốt cách, bản sắc của
dân tộc. Các giá trị này sinh ra từ trong điều kiện, địa lý, lịch sử, kinh tế, xã
hội qua các thời đại lịch sử khác nhau. Nó có tính chất bền vững trường tồn
và vĩnh hằng của đất nước, nhưng cũng có tính biến động theo sự phát triển
của thời đại, của cơ sở chế độ xã hội hiện thời. Thế hệ đương đại có trách
nhiệm trân trọng, giữ gìn, phát triển làm phong phú thêm và nâng lên tầm cao
mới truyền thống yêu nước và đoàn kết của dân tộc trong gia đoạn cách mạng
mới.

KẾT LUẬN
Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện
nay đang đặt ra những yêu cầu mới trong giữ gìn và phát huy những giá trị
truyền thống yêu nước và đoàn kết của dân tộc Việt Nam. Xây dựng nền văn
hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc là một đặc trưng cơ bản của chế
14

Hồ Chí Minh, Toàn tập, t6, Nxb CTQG, H,1995, tr. 281 - 282.



24
độ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng. Do đó, giữ vững và phát
huy truyền thống yêu nước và đoàn kết nói chung, văn hóa giữ nước nói riêng
trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay là một tất yếu khách quan của sự
nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Sự phát triển lành mạnh củat truyền thống yêu nước và đoàn kết Việt
Nam gắn liền với vai trò lãnh đạo, định hướng chính trị của Đảng Cộng sản
Việt Nam, với mỗi bước nâng cao chất lượng của nhân tố con người - chủ thể
của quá trình đó. Mỗi bước phát triển của truyền thống yêu nước và đoàn kết
Việt Nam còn gắn liền với cuộc đấu tranh giai cấp, kết hợp chặt chẽ những
nhân tố tích cực và phòng ngừa các nhân tố tiêu cực, cùng với sự chống phá
của kẻ thù trên lĩnh vực tư tưởng, văn hoá.
Để phát huy những giá trị đặc trưng của văn hóa giữ nước trong sự
nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay, cần phải thường xuyên giáo dục, tuyên
truyền, cổ động về vinh dự và trách nhiệm của mỗi tổ chức và cá nhân trong
bảo vệ và phát triển các giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam đã được
hình thành trong lịch sử. Đồng thời chủ động xây dựng môi trường văn hoá xã hội lành mạnh, tạo tiền đề văn hoá - xã hội thuận lợi cho phát huy những
giá trị truyền thống đó đáp ứng với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Khơi
dậy sức mạnh toàn dân đoàn kết, tích cực tham gia các hoạt động xã hội rộng
rãi, tạo thành phong trào thi đua tích cực, chủ động trong giữ gìn, bảo tồn và
phát huy giá trị của văn hóa giữ nước – đặc trưng tâm lý truyền thống của dân
tộc Việt Nam trong tình hình mới.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh, Việt Nam văn hoá sử cương. Nxb Văn hoá Thông tin,
H, 2000, tr.10
2. Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục, Nxb TP HCM, 1992



25
3. Hoàng Đình Châu (chủ biên), Lịch sử tâm lý học và tâm lý học quân
sự, Nxb QĐND, Hà Nội 2003.
4. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, Hà Nội 1995
5. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6, Nxb CTQG, Hà Nội 1995
6. Đỗ Long, Tâm lý học dân tộc – nghiên cứu và thành tựu, Nxb
KHXH, Hà Nội 2001.
7. Hoàng Minh: Bình Ngô đại cáo, Tìm hiểu về Tổ tiên ta đánh giặc,
Nxb. QĐND, H. 1977, tr. 193.
8. Trần Quốc Vượng - Văn hoá Việt nam, tìm tòi và suy ngẫm, Nxb
Văn hoá dân tộc, H, 2000, tr. 96.
9. Trần Quốc Vượng, Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1998.
10. Lịch sử quân đội nhân dân Việt Nam, Tập 1, Nxb QĐND, H. 1999, tr. 86.
11. Binh thư yếu lược, Nxb Công an nhân dân, H, 2002, tr. 52, 53, 59.
12. Trần Quốc Tuấn, Hịch tướng sĩ, Tuyển tập văn thơ yêu nước chống
phong kiến xâm lược, Nxb Văn học, H. 1966, tr. 16.


×