Câu 1: Học thuyết giá trị của C.Mác; nội dung, cơ chế hoạt động, chức
năng, biểu hiện của quy luật giá trị, ý nghĩa đối với Việt Nam
Một trong những nội dung trọng tâm của học thuyết kinh tế của chủ nghĩa Mác Lênin là chỉ rõ các quy luật kinh tế của quá trình ra đời, phát triển và tất yếu diệt vong
của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong tiến trình phát triển của lịch sử nhân
loại, trên cơ sở đó chỉ ra tính tất yếu của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Để làm rõ điều
đó, kinh tế chính trị học Mác - Lênin bắt đầu từ việc xây dựng học thuyết giá trị,
nghiên cứu quy luật giá trị bắt đầu từ phạm trù hàng hóa có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
sâu sắc trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam.
1. Một số khái niệm
- Hàng hóa là sản phẩm của lao động được sản xuất ra để thỏa mãn nhu cầu nào
đó của con người và dùng để trao đổi (mua - bán) với nhau.
- Tiền tệ là một hàng hóa đặc biệt, hàng hóa tiền tệ khác hàng hóa thông thường
ở chỗ nó có giá trị sử dụng đặc biệt, nó đo lường được giá trị của hàng hóa khác.
- Cạnh tranh là sự ganh đua đấu tranh về kinh tế giữa các chủ thể tham gia sản
xuất kinh doanh.
- Thị trường là tổng hòa các mối quan hệ mua - bán trong xã hội, được hình
thành do những điều kiện lịch sử kinh tế - xã hội nhất định.
- Cung - cầu và giá cả:
+ Cung: là khối lượng hàng hóa và dịch vụ mà các chủ thể kinh tế đem ra bán
trên thị trường trong một thời kỳ nhất định, căn cứ vào mức giá cả, khả năng sản xuất
và chi phí sản xuất xác định.
+ Cầu là khối lượng hàng hóa và dịch vụ mà người tiêu dùng mua trong một thời
kỳ tương ứng với giá cả, thu nhập và các biến số kinh tế xác định.
+ Quan hệ cung - cầu là quan hệ giữa người bán và người mua, là những quan hệ
có vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường.
+ Giá cả hàng hóa là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa.
2. Nội dung học thuyết giá trị của C.Mác bao gồm:
Học thuyết giá trị là xuất phát điểm trong toàn bộ lý luận kinh tế của c. Mác.
Bằng việc phân tích hàng hoá, Mác vạch ra quan hệ giữa người với người thông qua
quan hệ trao đổi hàng hoá, đó chính là lao động, cơ sở của giá trị hàng hoá.
- Chất của giá trị: Giá trị của hàng hoá là lượng lao động xã hội cần thiết của
người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá. Giá trị trao đổi chỉ là hình thái biểu
hiện của giá trị hàng hoá.
Giá trị của hàng hoá được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết, vì một
loại hàng hoá đưa ra thị trường là do nhiều người sản suất ra nhưng mỗi người sản xuất
do điều kiện sản xuất, trình độ tay nghề là không giống nhau, nên thời gian lao động cá
biệt để sản xuất ra hàng hoá của họ khác nhau, do đó lượng giá trị cá biệt của hàng hoá
1
mà từng người sản xuất ra là khác nhau. Để trao đổi hàng hoá đó với nhau, không thể
căn cứ vào giá trị cá biệt của hàng hoá mà phải căn cứ vào giá trị xã hội của nó, vào
lượng lao động xã hội cần thiết hay thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra
hàng hoá đó.
- Lượng giá trị hàng hóa: được tính bằng thời gian lao động xã hội cần thiết: là
thời gian cần thiết để sản xuất ra một hàng hoá trong điều kiện bình thường của xã hội,
tức là với một trình độ kỹ thuật trung bình và cường độ lao động trung bình so với
hoàn cảnh xã hội nhất định.
Thời gian lao động xã hội cần thiết không phải cố định, nó phụ thuộc vào năng
suất lao động xã hội và chất lượng của lao động. Năng suất lao động xã hội là năng lực
sản xuất của lao động được tính bằng số lượng sản phẩm được sản xuất ra trong một
đơn vị thời gian, hoặc lượng thời gian cần thiết để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.
Năng suất lao động tỷ lệ nghịch với thời gian lao động xã hội để sản xuất ra hàng hoá
hay tỷ lệ nghịch với giá trị của hàng hoá. Chất lượng của lao động hay mức độ phức
tạp của lao động tỷ lệ thuận với giá trị của hàng hoá. Theo mức độ phức tạp của lao
động có thể chia lao động thành lao động giản đơn và lao động phức tạp. Lao động
giản đơn là lao động của bất kỳ một người bình thường nào có khả năng lao động cũng
có thể thực hiện được. Lao động phức tạp là lao động đòi hỏi phải được huấn luyện,
đào tạo thành lao động lành nghề.
3. Cơ chế hoạt động của quy luật giá trị
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế căn bản của sản xuất và trao đổi hàng hoá. Ở
đâu có sản xuất hàng hoá thì ở đó có sự tồn tại và phát huy tác dụng của quy luật giá
trị. Theo quy luật giá trị sản xuất và trao đổi hàng hoá phải theo nguyên tắc ngang giá,
dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết.
- Việc sản xuất và trao đổi hàng hoá thể hiện sự liên hệ giữa những người sản
xuất riêng lẻ với nhau, do thị trường làm trung gian. Sự phát triển của sản xuất và trao
đổi hàng hoá tất yếu sẽ dẫn đến sự xuất hiện của tiền tệ. Tiền là sản phẩm của lưu
thông hàng hoá, bắt đầu từ những hành vi trao đổi riêng lẻ ngẫu nhiên, qua nhiều bước,
cuối cùng đến hình thái tiền tệ. Giá trị của hàng hóa biểu hiện ra bên ngoài dưới hình
thức tiền tệ là giá cả của hàng hóa đó.
- Thông qua sự vận động của giá cả hàng hóa trên thị trường sẽ thấy được sự
hoạt động của quy luật giá trị. Giá cả tự động xoay quanh giá trị hàng hóa và biểu hiện
sự tác động của quy luật giá trị trong điều kiện sản xuất và trao đổi hàng hóa. Giá trị là
cơ sở của giá cả, còn giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị nên trước hết giá cả
phụ thuộc vào giá trị. Hàng hoá nào nhiều giá trị thì _giá cả của nó sẽ cao và ngược lại.
- Ngoài ra, giá cả hàng hóa còn phụ thuộc vào các yếu tố khác như quan hệ cung
- cầu, mức độ cạnh tranh, sức mua của tiền tệ, tình trạng độc quyền v.v… trên thị
trường. Tác động của các nhân tố trên làm cho giá cả hàng hóa trên thị trường xoay
quanh giá trị của nó. Nếu xét từng trường hợp cá biệt giá cả có thể bằng, lớn hơn hoặc
nhỏ hơn giá trị, nhưng nếu xét trên phạm vi thì tổng giá cả bằng tổng giá trị của chúng.
3. Tác dụng của quy luật giá trị
Một là, điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa.
2
Trong sản xuất, nếu ngành nào đó cung không đáp ứng cầu, giá cả tăng lên vượt
quá giá trị thì người sản xuất sẽ đổ xô vào ngành đó và ngược lại. Nhờ đó, các tư liệu
sản xuất và sức lao động được phân phối qua lại một cách tự phát vào các ngành sản
xuất khác nhau.
Trong lưu thông, quy luật giá trị có tác dụng điều tiết nguồn hàng từ nơi có giá
cả thấp đến nơi có giá cả cao.
Hai là, kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, thúc đẩy lực lượng sản
xuất phát triển.
Trong kinh tế hàng hóa, người nào có chi phí lao động cá biệt nhỏ hơn chi phí
lao động xã hội sẽ thu được nhiều lợi ích và thắng lợi trong cạnh tranh. Vì vậy, mỗi
người sản xuất đều phải luôn tìm cách cải tiến kỹ thuật hoàn thiện quản lý, tổ chức…
nâng cao năng suất lao động. Đầu tiên, việc cải tiến kỹ thuật chỉ diễn ra ở một số
người, nhưng do cạnh tranh thì kỹ thuật của toàn xã hội được phát triển. Vậy là, quy
luật giá trị đã thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Ba là, phân hóa những người sản xuất hàng hóa nhỏ làm nảy sinh quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa.
Sự phân hóa những người sản xuất nhỏ là kết quả tất yếu của sản xuất hàng hóa.
Bởi vì, trong quá trình cạnh tranh theo đuổi giá trị những người có điều kiện sản xuất
thuận lợi… năng suất lao động cao, hao phí lao động cá biệt thấp hơn hao phí lao động
xã hội cần thiết, nhờ đó thu được lợi nhuận cao… có điều kiện mở rộng sản xuất kinh
doanh. Ngược lại, những người không có điều kiện thuận lợi, gặp rủi ro trong kinh
doanh bị thua lỗ phá sản trở thành người làm thuê.
Quy luật giá trị hoạt động trong nền sản xuất hàng hóa giản đơn với những tác
dụng trên, đã tạo ra những tiền đề cho sự ra đời sản xuất tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên,
trong thực tiễn lịch sử sự ra đời của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được đẩy
nhanh bởi yếu tố mang tính chủ quan đó là quá trình “tích lũy nguyên thủy của tư bản”.
4. Ý nghĩa:
- Nhận thức tính khách quan của phát triển kinh tế thị trường trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Cần nhận thức được tính hai mặt trong phát triển nền kinh tế thị trường. Từ đó
không ngừng hoàn thiện pháp luật và các chính sách, công cụ và đòn bẩy kinh tế nhằm
khuyến khích cạnh tranh lành mạnh, chống độc quyền và hạn chế bớt những khuyết tật
của kinh tế thị trường.
- Thừa nhận các quy luật kinh tế khách quan của kinh tế thị trường
Quy luật giá trị, giá cả, quy luật cạnh tranh; quy luật cung - cầu và quy luật phân
chia lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường hiện đại. Một mặt tôn trọng tính khách quan
của quy luật, mặt khác có sự tác động nhằm giảm thiểu những khiếm khuyết của quy
luật kinh tế khách quan như phân hóa giàu nghèo, khủng hoảng, thất nghiệp, lạm phát
trong nền kinh tế thị trường.
- Hiểu rõ các phạm trù của học thuyết giá trị thặng dư trong bối cảnh của
thế giới hiện đại
3
Hiểu phạm trù “bóc lột” trong bối cảnh mới.
Hiểu rõ tính quy luật sự thay đổi cấu tạo hữu cơ với thị trường sức lao động
trong bối cảnh thế giới hiện đại.
Hiểu rõ lý luận bần cùng hóa trong bối cảnh mới.
Hiểu rõ tính khách quan và khốc liệt của quy luật cạnh tranh trong sự phân chia
lợi nhuận giữa các loại tư bản.
- Vận dụng học thuyết giá trị trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Phát huy mặt tích cực: Phát triển kinh tế hàng hóa làm cho phân công và hiệp tác
lao động xã hội ngày càng sâu sắc. Mối liên hệ giữa các ngành các vùng ngày càng
chặt chẽ… từ đó sẽ xóa bỏ được tính chất bảo thủ, trì trệ của nền kinh tế, đẩy mạnh quá
trình xã hội hóa sản xuất trên phạm vi quốc gia và quốc tế.
Tuy nhiên, kinh tế hàng hóa cũng có những khuyết tật như: khủng hoảng kinh tế,
phân hóa giàu nghèo, chạy theo lợi ích kinh tế dẫn đến phá hủy tài nguyên môi
trường…
- Nhận thức tính khách quan của các quy luật kinh tế trong phát triển kinh
tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước
Việt Nam trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung, bao cấp sang nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cần thiết phải có vai trò kinh tế của
Nhà nước để điều tiết nền kinh tế nhằm phát huy mặt tích cực và hạn chế những khuyết
tật của kinh tế thị trường nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa mà nước ta đang hướng tới./.
Câu 2: Lý luận về hàng hóa sức lao động của C. Mác; Nguồn gốc, bản chất
của giá trị thặng dư, các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư TBCN, hình thức
biểu hiện của giá trị thặng dư, biểu hiện của quy luật giá trị thặng dư, ý nghĩa
thời đaị của học thuyết giá trị thặng dư, ý nghĩa thực tiễn đối với Việt Nam?
Trong xã hội tư bản, mối quan hệ giữa tư bản và lao động là mối quan hệ cơ bản,
sâu sắc nhất, xuyên qua tất cả các quan hệ sản xuất của xã hội đó. Gía trị thặng dư,
phần giá trị do lao động của công nhân làm thuê sáng taọ ra ngoài sức lao động bị nhà
tư bản chiếm không, phản ánh mối quan hệ sản cơ bản nhất đó.Gía trị thặng dư do lao
động không công của công nhân làm thuê sáng tạo ra là nguồn gốc làm giàu của giai
cấp các nhà tư bản, sản xuất ra giá trị thặng dư là cơ sở tồn tại của chủ nghĩa tư bản.
Toàn bộ hoạt động của nhà tư bản hướng đến tăng cường việc tạo ra giá trị thặng dư
Việc nghiên cứu phạm trù giá trị thặng dư và các phương pháp sản xuất ra giá trị
thặng dư có ý nghĩa quan trọng, là chìa khóa dẫn đến những vấn đề khác trong phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
1. Lý luận về hàng hóa sức lao động của C. Mác:
- Điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa
4
Sức lao động là toàn bộ thể lực và trí lực tồn tại trong một con người và được
vận dụng trong quá trình sản xuất ra giá trị sử dụng nào đó. Trong bất cứ xã hội nào,
sức lao động cũng đều là điều kiện cơ bản của sản xuất. Nó chỉ trở thành hàng hóa khi
đồng thời tồn tại đủ hai điều kiện sau:
Một là, người lao động phải tự do về thân thể, phải làm chủ được sức lao động
của mình và có quyền đem bán sức lao động của mình cho người khác như một hàng
hóa, tức là người đó được tự do đi làm thuê trong một khoảng thời gian nhất định.
Hai là, người lao động không có tư liệu sản xuất cần thiết để kết hợp với sức lao
động của mình, buộc phải bán chính sức lao động tồn tại trong cơ thể của mình, vì
không còn cách nào khác để sinh sống. Sự tồn tại đồng thời hai điều kiện nói trên tất
yếu biến sức lao động thành hàng hóa. Sức lao động biến thành hàng hóa là điều kiện
quyết định để biến thành tư bản.
Việc tồn tại đồng thời hai điều kiện trên tất yếu biến sức lao động thành hàng hóa.
- Cũng như những hàng hóa khác, hàng hóa sức lao động có hai thuộc tính là giá
trị và giá trị sử dụng.
Giá trị hàng hóa sức lao động do thời gian lao động cần thiết để sản xuất và tái
sản xuất sức lao động quyết định. Nó được xác định bằng giá trị của những tư liệu sinh
hoạt về vật chất và tinh thần cần thiết để duy trì đời sống bình thường của công nhân
và gia đình anh ta, cộng với những phí tổn học tập để người công nhân có một trình độ
nhất định.
Giá trị sử dụng sức lao động là sự thỏa mãn nhu cầu người mua sức lao động,
tức là người mua tiêu dùng trong quá trình lao động, khác với hàng hóa thông thường,
quá trình sử dụng hàng hóa sức lao động có thể tạo ra giá trị lớn hơn giá trị của bản
thân nó, phần dôi ra ngoài giá trị sức lao động chính là tạo ra giá trị thặng dư. Giá trị sử
dụng của hàng hóa sức lao động là một giá trị sử dụng đặc biệt. Như vậy mâu thuẫn
của công thức tư bản được giải quyết.
- Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là giá trị sử dụng mà là giá
trị, không phải là giá trị đơn thuần mà là giá trị thặng dư.
- Quá trình lao động với tư cách là quá trình tư bản tiêu dùng sức lao động có hai
đặc trưng:
Một là, người công nhân lao động dưới sự kiểm soát của nhà tư bản giống như
những yếu tố khác của SX được nhà tư bản sử dụng sao cho hiệu quả nhất.
Hai là, sản phẩm làm ra thuộc sở hữu của nhà tư bản, chứ không phải của người
công nhân.
2. Nguồn gốc, bản chất của giá trị thặng dư:
+ Nguồn gốc:
Trong xã hội, sức lao động là yếu tố sản xuất chủ yếu, sức lao động là toàn bộ
những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong một con người đang sống và được
người đó đem ra vận dụng. Ví dụ như: phát minh khoa học, cải tiến kỹ thuật hay lao
động sản xuất ra của cái vật chất, … khi sức lao động trở thành hàng hóa giá trị sử
5
dụng của hàng hóa sức lao động chỉ thể hiện ra trong quá trình tiêu dùng sức lao động,
tức là quá trình lao động tạo ra hàng hóa.
Trong quá trình ấy, chính lao động tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn giá trị
của bản thân hàng hóa sức lao động, tức là tạo ra giá trị thặng dư. Gía trị thặng dư là
một bộ phận giá trị mới do lao động của công nhân tạo ra, dôi ra ngoài giá trị sức lao
động, là kết quả lao động không công của người lao động. Do đó, nếu quá trình lao
động dừng lại ở điểm mà giá trị sức lao động thì chỉ có sản xuất giá trị giản đơn, khi
quá trình lao động vượt qua điểm đó mới có SX giá trị thặng dư. Vậy, nhân tố quyết
định việc SX giá trị thặng dư theo quan điểm của chủ nghĩa Mác là nhân tố sức lao
động của người công nhân (chủ yếu là giá trị sử dụng sức lao động).
Muốn SX ra giá trị thặng dư (m), trước hết nhà tư bản đưa ra thị trường những
thứ cần thiết như: tư liệu sản xuất, sức lao động của người công nhân…Sau khi có
được hai loại hàng hóa đó, nhà tư bản kết hợp với nhau trong quá trình sản xuất và tạo
ra giá trị mới lớn hơn giá trị ban đầu mà nhà tư bản bỏ ra, phần lớn hơn đó được gọi là
giá trị thặng dư (m).
+ Bản chất giá trị thặng dư:
Nói chung, trong nền sản xuất hàng hóa dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản
xuất, giá trị sử dụng không phải là mục đích. Giá trị sử dụng được sản xuất chỉ vì nó là
vật mang giá trị trao đổi. Nhà tư bản muốn sản xuất ra một giá trị sử dụng có một giá
trị trao đổi, nghĩa là một hàng hóa. Hơn nữa, nhà tư bản muốn sản xuất ra một hàng
hóa có giá trị lớn hơn tổng giá trị tư liệu sản xuất và giá trị sức lao động mà nhà tư bản
đã bỏ ra để mua, nghĩa là muốn sản xuất ra một giá trị thặng dư.
Vậy quá trình sản xuất TBCN là sự thống nhất giữa quá trình SX ra giá trị sử
dụng và quá trình SX ra giá trị thặng dư. Quá trình lao động với tư cách là quá trình
nhà tư bản tiêu dùng sức lao động có hai đặc trưng:
Một là, người công nhân lao động dưới sự kiểm soát của nhà tư bản giống như
những yếu tố khác của sản xuất được nhà tư bản sử dụng sao cho nó hiệu quả nhất.
Hai là, sản phẩm làm ra thuộc sở hữu của tư bản, chứ không phải của người
công nhân.
3. Các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tư bản chủ nghĩa:
+ Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối: được tiến hành bằng cách kéo
dài tuyệt đối thời gian lao động trong ngày của người công nhân trong điều kiện thời
gian lao động cần thiết ( hay mức tiền công mà nhà tư bản tả công cho công nhân là
không đổi).Mặt khác sức lao động là thứ hàng hóa đặc biệt vì vậy ngoài yếu tố vật chất
người công nhân đòi hỏi phải có thời gian cho những nhu cầu sinh hoạt về tinh thần,
vật chất, tôn giáo của mình. Từ đó tất yếu dẫn đến phong trào của giai cấp vô sản đấu
tranh đòi giai cấp tư sản phải rút ngắn thời gian lao động trong ngày.
+ Phương pháp SX giá trị thặng dư tương đối: được tiến hành bằng cách rút
ngắn thời gian lao động cần thiết để trên cơ sở đó mà kéo dài tương ứng thời gian lao
động thặng dư, trong điều kiện độ dài của ngày lao động không đổi. Để rút ngắn thời
gian lao động cần thiết thì các nhà tư bản phải tìm ra mọi biện pháp, đặc biệt là áp
dụng tiến bộ công nghệ vào trong quá trình sản xuất để nâng cao năng suất lao động xã
6
hội, giảm giá thành và tiến tới giảm giá cả thị trường của sản phẩm, đặc biệt nâng cao
năng suất lao động xã hội trong những ngành, những lĩnh vực sản xuất ra vật phẩm tiêu
dùng để nuôi sống người công nhân, từ đó tiến tới hạ thấp giá trị sức lao động
4. Hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư
Lợi nhuận là hình thái chuyển hóa của giá trị thặng dư do lao động sống tạo ra
được quan niệm là do toàn bộ tư bản ứng trước sinh ra. Nếu quan sát bề ngoài thì lợi
nhuận và giá trị thặng dư cũng là một, nhưng bản chất thì giá trị thặng dư ở bên trong
được tạo ra trong quá trình sản xuất, còn lợi nhuận là hình thức biểu hiện ra ở bên
ngoài thông qua trao đổi. Tỷ suất lợi nhuận là tỷ lệ phần trăm giữa giá trị thặng dư với
chi phí sản xuất TBCN.
Tỷ suất lợi nhuận và tỷ suất giá trị thặng dư khác nhau về chất và về lượng. Tỷ
suất giá trị thặng dư là chỉ tiêu phản ánh mức độ sinh lời của tiền công, tỷ suất lợi
nhuận là chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của việc đầu tư tư bản. Lợi nhuận và tỷ suất lợi
nhuận là động lực kinh tế của kinh tế thị trường.
Lợi nhuận của tư bản thương nghiệp là một bộ phận giá trị thặng dư do công
nhân trong lĩnh vực công nghiệp tạo ra mà nhà tư bản công nghiệp nhường cho nhà tư
bản thương nghiệp vì đã thay nhà tư bản công nghiệp phụ trách khâu lưu thông hàng
hóa. Về thực chất, lợi tức là một phần của lợi nhuận mà nhà tư bản hoạt động thu được
nhờ sử dụng tư bản đi vay phải trả cho nhà tư bản cho vay.
Địa tô là một bộ phận lợi nhuận siêu ngạch ngoài lợi nhuận bình quân do công
nhân nông nghiệp tạo ra mà nhà tư bản thuê đất phải nộp cho người sở hữu ruộng đất.
5. Biểu hiện của quy luật giá trị thặng dư
+ Quy luật tích lũy tư bản: Quá trình tích lũy tư bản tất yếu dẫn đến hai hiện
tượng đối lập nhau là tích lũy sự giàu có, xa hoa về phía GCTS và tích lũy sự bần
cùng, khốn khó về phía GCCN. Sự bần cùng hóa của GCCN được hiểu theo 2 xu
hướng: Bần cùng hóa tuyệt đối là biểu hiện mức sống của GCCN bị giảm, hoặc tăng
nhưng tăng chậm hơn so với mức tăng của nhu cầu (đây là xu hướng đang diễn ra
nhanh trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay); Bần cùng hóa tương đối hiểu hiện tỷ lệ
thu nhập của GCTS tăng nhanh cùng tỷ lệ thu nhập của GCCN giảm trong tổng sản
phẩm quốc dân.
+ Quy luật về sự hình thành giá cả sản xuất của hàng tiêu dùng: Lợi nhuận bình
quân và giá cả sản xuất được hình thành thông qua cạnh tranh giữa các ngành nhằm
giành giật nơi đầu tư có lợi, kết quả hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân ( là con số
trung bình của tất cả những tỷ suất lợi nhuận ở các ngành khác nhau). Lợi nhuận bình
quân là lợi nhuận mà tư bản thu được theo tỷ suất lợi nhuận chung, không kết cấu
thành hữu cơ của nó như thế nào. Khi hình thành được lợi nhuận bình quân thì giá cả
thị trường của hàng hóa chuyển thành giá cả sản xuất của hàng hóa (bằng chi phí sản
xuất cộng với lợi nhuận bình quân). Khi hình thành giá cả sản xuất của hàng hóa thì
mối quan hệ giữa giá trị của hàng hóa với giá cả của hàng hóa được chuyển thành mối
quan hệ giữa giá cả sản xuất của hàng hóa với giá cả của hàng hóa khi xét trên phạm vi
toàn xã hội thì tổng số giá cả hàng hóa bằng tổng giá trị của hàng hóa.
7
6. Ý nghĩa thời đại của học thuyết giá trị thặng dư, ý nghĩa thực tiễn đối với
Việt Nam:
6.1. Ý nghĩa thời đại của học thuyết giá trị thặng dư,
Trong CNTB, có một loại hàng hóa mới xuất hiện đó là hang hóa sức lao động, khi
đó xuất hiện quan hệ SX mới: quan hệ giữa nhà tư bản và công nhân lao động làm thuê.
Thực chất là nhà tư bản chiếm đoạt giá trị thặng dư của công nhân lao động làm thuê.
Việc nghiên cứu giá trị thặng dư đã vạch rõ bản chất bóc lột của CNTB. Trong
điều kiện hiện nay, do sự phát triển của công ty cổ phần, một bộ phận nhỏ công nhân
cũng có cổ phiếu và trở thành cổ đông, đã xuất hiện quan niệm cho rằng không có bóc
lột giá trị thặng dư, CNTB ngày nay đã thay đổi bản chất. Một số học giả đưa ra thuyết
“CNTB nhân dân”. Song trên thực tế, công nhân chỉ có một số cổ phiếu không đáng
kể, họ chỉ là người sở hữu danh nghĩa không có vai trò chi phối doanh nghiệp, phần
lớn lợi tức cổ phần vẫn nằm trong tay các nhà tư bản, thu nhập của công nhân chủ yếu
vẫn là tiền lương.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn đối với Việt Nam:
+ Trong thời kỳ qua độ nền kinh tế nước ta, trong một chừng mực nào đó, quan
hệ bóc lột chưa thể bị xóa bỏ ngay, sạch trơn theo cách tiếp cận giáo điều và xơ cứng
cũ. Càng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần chúng ta càng thấy rõ, chừng nào
quan hệ bóc lột còn có tác dụng giải phóng sức sản xuất và thúc đẩy lực lượng sản xuất
phát triển , thì chừng đó chúng ta còn phải chấp nhận sự hiện diện của nó.
+ Trong thực tế nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay,
mọi phương án tìm cách định lượng rành mạch, máy móc và xơ cứng về mức độ bóc
lột trong việc hoạch định các chủ trương chính sách, cũng như có thái độ phân biệt đối
xử với tầng lớp doanh nhân mới đều xa vời thực tế và không thể thực hiện được. Điều
có sức thuyết phục hơn cả hiện nay là quan hệ phân phối phải được thể chế hóa bằng
luật. Đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước pháp quyền XHCN, lấy
luật làm công cụ và cơ sở để điều chỉnh các hành vi xã hội nói chung, mà còn là hành
vi bóc lột nói riêng.
+ Mặt khác cũng phải bảo vệ những quyền chính đáng của người lao động lẫn
giới chủ sử dụng lao động bằng luật và bằng các chế tài thật cụ thể mới bảo đảm công
khai, minh bạch và bền vững. Những mâu thuẫn về lợi ích trong quá trình sử dụng lao
động là một thực tế, việc phân xử các mâu thuẫn ấy như thế nào để tránh những xung
đột không cần thiết cũng lại là một yêu cầu cấp thiết hiện nay, thể hiện trong bản chất
của chế độ mới.
Câu 3: Tích lỹ tư bản, các nhân tố ảnh hưởng tới quy mô tích l ũy tư bản,
các quy luật của tích lũy tư bản, ý nghĩa đối với Việt Nam.
Lý luận giá trị thặng dư là phát kiến vĩ đại của C.Mác. Nhờ phát hiện này, cuộc
cách mạng của kinh tế chính trị học mới được hình thành, xây dựng nên kinh tế chính
8
trị học Mác - Lênin. Tính khoa học của lý luận giá trị thặng dư được phát triển trên cơ
sở lý luận giá trị lao động…. tích lũy, tích tụ và tập trung tư bản.
1. Tích lũy tư bản
a) Khái niệm: Tích luỹ tư bản là quá trình biến một phần giá trị thặng dư thành
tư bản phụ thêm để mở rộng sản xuất. Tích luỹ tư bản là quá trình tư bản hoá giá trị
thặng dư. Nguồn gốc duy nhất của tư bản tích lũy là giá trị thăng dư và tư bản tích lũy
chiếm tỉ lệ ngày càng lớn trong toàn bộ tư bản. Không chỉ vậy, quá trình tích lũy đã
làm cho quyền sở hữu trong nền kinh tế hàng hóa biến thành quyền chiếm đoạt tư bản
chủ nghĩa, điều này dẫn đến kết quả là nhà tư bản chẳng những chiếm đoạt một phần
lao động của công nhân, mà còn là người sở hữu hợp pháp lao động không công đó.
b) Tính tất yếu khách quan của tích luỹ tư bản
- Đáp ứng nhu cầu của tái sản xuất mở rộng nền kinh tế TBCN.
- Để có ưu thế trong cạnh tranh.
- Đẩy mạnh ứng dụng khoa học - kỹ thuật, đổi mới công nghệ.
c) Thực chất của tích luỹ tư bản được thể hiện thông qua quá trình tái sản xuất tư
bản chủ nghĩa
- Tái sản xuất
+ Khái niệm: Tái sản xuất là quá trình sản xuất được lặp đi lặp lại và đổi mới
không ngừng.
+ Nội dung của tái sản xuất:
+ Tái sản xuất ra của cải vật chất.
+ Tái sản xuất ra sức lao động.
+ Tái sản xuất ra quan hệ sản xuất.
+ Loại hình tái sản xuất: Tái sản xuất được chia thành tái sản xuất giản đơn và
tái sản xuất mở rộng.
Tái sản xuất giản đơn là sự lặp lại quá trình sản xuất với quy mô như cũ. Tái sản
xuất giản đơn TBCN là quá trình sản xuất được lặp lại với quy mô
tư bản như cũ, nhà tư bản tiêu dùng hết giá trị thặng dư.
Tái sản xuất mở rộng là quá trình sản xuất được lặp lại với quy mô lớn
hơn trước. Tái sản xuất mở rộng TBCN là quá trình sản xuất được lặp lại với quy mô
tư bản lớn hơn trước, nhà tư bản không tiêu dùng hết giá trị thặng dư mà biến một phần
giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm để mở rộng sản xuất.
- Thực chất của tích lũy tư bản: là tái sản xuất ra tư bản với quy mô ngày một
lớn hơn.
+ Số tư bản ứng ra ban đầu dù là tài sản chính đáng của nhà tư bản thì qua
quá trình tích luỹ tư bản (tái sản xuất mở rộng) nó cũng vô cùng nhỏ bé so với số tư
bản đã tích lũy được.
+ Nguồn gốc duy nhất của tích luỹ tư bản là giá trị thặng dư
2. Những nhân tố ảnh hưởng tới quy mô tích lũy tư bản
Quy mô tích lũy phụ thuộc vào khối lượng giá trị thặng dư và tỉ lệ phân chia giá
trị thặng dư thành tư bản phụ thêm và tư bản tiêu dùng của nhà tư bản.
9
Với một khối lượng giá trị thặng dư nhất định thì quy mô của tích lũy phụ thuộc
vào tỉ lệ phân chia khối lượng giá trị thặng dư đó thành quỹ tích lũy và quỹ tiêu dùng
của nhà tư bản. Nếu tỉ lệ phân chia đó đã được xác định, thì quy mô của tích lũy tư bản
phụ thuộc vào khối lượng giá trị thăng dư. Do đó những nhân tố ảnh hưởng đến khối
lượng giá trị thặng dư cũng chính là nhân tố quyết định quy mô của tích lũy tư bản.
Những nhân tố đó là:
Một là, trình độ bóc lột sức lao động: là tỉ lệ giữa lượng tư bản ứng ra mua sức
lao động công nhân và lượng giá trị thu về từ lao động đó. Nhà tư bản nâng cao trình
độ bóc lột băng cách cắt xẽn vào tiền công của công nhân. Như vậy công nhân không
nhưng bị nhà tư bản chiếm đoạt lao động thăng dư, mà còn bị chiếm đoạt một phần lao
động tất yếu, bị cắt xén một phần tiền công.Ngoài ra việc nâng cao bóc lột được thực
hiện bằng cách tăng cường độ lao động và kéo dài ngày lao động. Việc làm này rõ ràng
làm tăng giá trị thăng dư, do đó làm tăng bộ phận giá trị thặng dư tư bản hóa, tức làm
tăng tích lũy.
Hai là, trình độ năng suất lao động xã hội.Năng suất lao động xã hội tăng lên,
thì giá cả tư liệu sản xuất và tư lệu tiêu dùng giảm xuống. Sự giảm này đem lại hai hệ
quả cho tích lũy tư bản: Một là, với khối lượng giá trị thặng dư nhất định, phần giành
cho tích lũy có thể tăng lên, nhưng tiêu dùng của các nhà tư bản không giảm, thậm chí
có thể cao hơn trước; hai là, một lượng giá trị thặng dư nhất địnhdành cho tích lũy có
thể chuyển hóa thành một khối lượng tư liệu sản xuất và sức lao động phụ thêm lớn
hơn. Như vậy năng suất lao động tăng sẽ làm tăng thêm những yếu tố vật chất của tư
bản, do đó làm tăng quy mô của tích lũy.
Ba là, sự chênh lệch ngày càng tăng giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng.
Trong quá trình sản xuất, tư liệu lao động (máy móc, thiết bị) tham gia toàn bộ vào vào
quá trình sản xuất, nhưng chúng chỉ hao mòn dần, do đó giá trị của chúng được chuyển
dần từng phần vào sản phẩm. Do đó, nếu không kể đến phần giá trị của máy móc
chuyển vào sản phẩm trong từng thời gian, thì máy móc phục vụ không công chẳng
khác gì lực lượng tự nhiên. Máy móc thiết bị ngày càng hiện đại, thì sự chênh lệch giữa
tư bản sử dụng và tư bản tiêu dụng càng lớn .Sự phục vụ không công đó của lao động
quá khứ là nhờ lao động sống nắm lấy và làm cho chúng hoạt động. Chúng được tích
lũy lại cùng với quy mô ngày càng tăng của tích lũy tư bản.
Bốn là, quy mô của tư bản ứng trước. Với mức bóc lột không đổi, thì khối lượng
giá trị thặng dư do số lượng công nhân bị bóc lột quyết định. Do đó quy mô của tư bản
ứng trước, nhất là bộ phận tư bản khả biến càng lớn, thì giá trị thặng dư bóc lột được
do đó tạo điều kiện tăng thêm quy mô của tích lũy tư bản. Đối với sự tích lũy cả xã hội
thì quy mô của tư bản ứng trước chỉ là nhỏ nhưng rất quan trọng. C.Marx đã nói rằng
tư bản ứng trước chỉ là một giọt nước trong dòng sông của sự tích lũy mà thôi.
3. Quy luật tích lũy tư bản
Quá trình tích lũy tư bản tất yếu dẫn đến hai hiện tượng đối lập nhau là tích lũy
sự giàu có, xa hoa về phía giai cấp tư sản và tích lũy sự bần cùng khốn khó về phía giai
cấp công nhân . Các yếu tố phản ảnh nội dung quy luật tích lũy tư bản.
a) Tích luỹ tư bản là quá trình làm cho cấu tạo hữu cơ của tư bản ngày càng tăng
– Cấu tạo kỹ thuật của tư bản: là tỷ lệ giữa số lượng tư liệu sản xuất với số
lượng lao động cần thiết để sử dụng các tư liệu sản xuất đó.
10
– Cấu tạo giá trị của tư bản: là tỷ lệ về số lượng giá trị giữa tư bản bất biến
và tư bản khả biến (hay giữa giá trị tư liệu sản xuất và giá trị sức lao động) cần thiết để
tiến hành sản xuất (c/v).
– Cấu tạo hữu cơ của tư bản:
+ Cấu tạo hữu cơ của tư bản là cấu tạo giá trị của tư bản, do cấu tạo kỹ
thuật quyết định và phản ảnh sự thay đổi của cấu tạo kỹ thuật. Ký hiệu là c/v.
+ Trong quá trình tích lũy, cấu tạo hữu cơ của tư bản (c/v) ngày một tăng.
c/v tăng do: + c tăng nhanh, v tăng chậm; + c tăng, v không đổi ; + c tăng, v
giảm;+ Cấu tạo hữu cơ tư bản tăng, hay là trong quá trình tích luỹ tư bản (c)
luôn tăng tuyệt đối và (v) giảm tương đối. Đây là nguyên nhân tiềm ẩn của nạn thất
nghiệp trong xã hội tư bản.
b) Tích luỹ tư bản là quá trình làm cho tích tụ và tập trung tư bản ngày càng
tăng.
Tích tụ, tập trung tư bản phát triển đã phản ảnh nội dungquy luật tích lũy . Thực
chất là làm tăng quy mô tư bản để tái sản xuất nhằm tăng cường bóc lột theo cả chiểu
rộng và chiều sâu
c) Tích luỹ tư bản là quá trình làm bần cùng hóa giai cấp công nhân. Lý luận về
bần cùng hóa của C.Mác được tiếp cận theo hai nội dung
– Phân biệt giữa bần cùng hóa tương đối và bần cùng hóa tuyệt đối:
+ Bần cùng hóa tương đối: là sự giảm sút tỷ trọng thu nhập của giai cấp
công nhân so với thu nhập của các nhà tư bản (nói cách khác là sự chênh lệch thu nhập
ngày càng lớn giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân).
+ Bần cùng hóa tuyệt đối: là sự giảm sút mức sống của công nhân xuống
dưới mức sống tối thiểu của xã hội.
- Tiếp cận trong nghiên cứu về mối quan hê giữa thay đổi cấu tạo hữu cơ của tư
bản với thị trường sức lao động . Hình thành “nạn nhân khẩu thừa tương đối trong chủ
nghĩa tư bản”. Mối quan hệ này tất yếu diễn ra theo ba chiều hướng sau :
một là số công nhân được sa thải của ngành náy , nơi này sẽ kiếm được việc ở
ngành khác nơi khác khi đó, cầu về sức lao động trên thị trường không đổi .
Hai là số công nhân bị sa thải lớn hơn số công nhân được thu hút vào làm việc
Ba là số công nhân sa thải nhỏ hơn số công nhân được thu hút vào làm việc .
Từ đó nếu xét theo thời gian dài với quy mô toàn xã hội thì cầu về sức lao động
trên thị trường tăng lên chậm chạp . Nếu xét theo định kỳ có hoạt động bù trừ lẫn nhau
và hình thành nên trong xã hội TBCN nạn nhân thừa tương đối chia làm ba loại sau : là
nhân khẩu thừa di động, nhân khẩu thừa tiềm năng và nhân khẩu thừa ngưng trệ . Vì
vậy hiểu đúng bản chất của lý luận bầng cùng hóa trong điều kiện thế giáo hiện nay
phải xem xét trên bình diện tổng quát nhất : công nhân có việc và công nhân thất
nghiệp; công nhân kỹ thuật và công nhân thường; công nhân chính quốc và công nhân
thuộc địa phụ thuộc.
d) Xu hướng lịch sử của tích lũy tư bản là CNTB đã thúc đẩy mạnh mẽ việc xã
hội hóa sản xuất và phát triển LLSX. Nhưng trong quá trình phát triển đó cũng là quá
trình phát triển mọi mâu thuẩn của CNTB, nhất là mâu thuẩn cơ bản – mâu thuẩn giữa
tính chất xã hội của sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất ngày
11
càng gay gắt . Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, tất yếu sẽ tiến lên một xã hôi cao hơn
để giải phòng LLSX xã hội.
4. Ý nghĩa đối với Việt Nam
Tích lũy tư bản có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển của đất nước. Tuy nhiên
do điều kiện kinh tế xã hội ngày càng có nhiều thay đổi, mặt khác chúng ta đang trên
con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội nên việc tiến hành các biện pháp duy trì, tăng
cường tích lũy có nhiều sự khác biệt. Để giải quyết vấn đề tích lũy ta cần thực hiện
đồng bộ những biện pháp sau:
a) Giải quyết đúng đắn mối quan hệ tích lũy - tiêu dùng
Tích lũy bao nhiêu để tạo cơ sở cho phát triển, tiêu dùng bao nhiêu để đảm bảo
nhu cầu, nó thể hiện cụ thể mối quan hệ giữa xây dựng kinh tế và cải thiện đời sống,
giữa lợi ích lâu dài và trước mắt, giữa lợi ích của nhân dân và lợi ích của toàn xã hội...
Sử dụng hiệu quả các nguồn vốn
b) Tăng cường tích lũy vốn trong nước và có biện pháp thu hút vốn đầu tư nước
ngoài
Cần hướng mạnh vào giải phóng triệt để và khơi thông các nguồn lực trong xã
hội, khuyến khích các thành phần kinh tế bỏ vốn đầu tư phát triển kinh doanh để tạo ra
năng lực sản xuất, hạ tầng kinh tế - xã hội, trên cơ sở đó nâng cao tiềm lực tài chính
quốc gia. Đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư gián tiếp thông qua thị trường tài chính trong
nước.
c) Quản lý có hiệu quả các nguồn thu
Từng bước nâng cao tỷ trọng thuế thu nhập, thuế tài sản trong cơ cấu hệ thống
thuế. Nâng tỷ trọng thuế trực thu trong tổng thu ngân sách nhà nước, trong đó tăng tỷ
trọng thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân bằng cách mở rộng đối
tượng nộp thuế. Mặt khác, đẩy mạnh cải cách hành chính công khai hóa và đơn giản
hóa thủ tục hành chính thuế; mở rộng áp dụng cơ chế tự khai, tự tính và tự nộp thuế;
hiện đại hóa công tác quản lý thuế, triển khai các dịch vụ tư vấn, hỗ trợ tính thuế và
nộp thuế; hạn chế thất thu thuế ở mức thấp nhất, bảo đảm thu đúng, thu kịp thời các
khoản thu ngân sách nhà nước./.
Câu 4: Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, nguyên nhân hình thành,
bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, các biểu hiện của chủ nghĩa
tư bản độc quyền nhà nước, ý nghĩa đối với Việt Nam.
Chủ nghĩa tư bản là một nền kinh tế thị trường, Mác - Ănghen đã chỉ ra các đặc
điểm của nền kinh tế thị trường TBCN, hàng hóa, tiền tệ, sức cạnh tranh, quan hệ cung
- cầu, các loại thị trường, vai trò quyết định của chủ thể sản xuất và trao đổi hàng hóa.
Nền kinh tế thị trường TBCN phát triển đúng quy luật: tự do cạnh tranh tất yếu dẫn đến
độc quyền, từ độc quyền tư nhân sẽ xuất hiện độc quyền tập thể và độc quyền nhà
nước. Đó là quá trình thay đổi về lượng chưa đủ để thay đổi về chất của phương thức
sản xuất TBCN.
Cuối thế kỷ XIX đầu XX, diễn ra cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất với sự
tham gia của các cường quốc TBCN. Chiến tranh cùng với khủng hoảng kinh tế là
12
những biểu hiện mới của TBCN, là những mốc lịch sử thế giới, thể hiện CNTB đang
chuyển sang giai đoạn CNĐQ và đây là giai đoạn phát triển tột cùng của PTSX TBCN.
Các nước đế quốc sẽ cạnh tranh quyết liệt hơn và chiến tranh đế quốc là không thể
tránh khỏi. Nguy cơ chiến tranh đế quốc ngày một rõ đã đẩy nhanh quá trình nhà nước
can thiệp ngày một sâu vào kinh tế dẫn đến sự xuất hiện CNTB độc quyền nhà nước ở
các nước tư bản lớn - một hình thức biểu hiện của CNTB độc quyền.
1. Nguyên nhân ra đời và bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà
nước
- Về nguyên nhân:
Một là: Sự phát triển của LLSX dẫn đến quy mô của nền kinh tế ngày càng lớn,
tính chất xã hội hoá của nền kinh tế ngày càng cao đòi hỏi phải có sự điều tiết của xã
hội đối với sản xuất và phân phối, một kế hoạch hoá tập trung từ một trung tâm. Nhà
nước phải dùng các công cụ khác nhau để can thiệp, điều tiết nền kinh tế.
Hai là: Sự phát triển của phân công lao động xã hội đã làm xuất hiện một só
ngành mà các tổ chức độc quyền tư bản tư nhân không thể hoặc không muốn kinh
doanh vì đầu tư lớn, thu hồi vốn chậm và ít lợi nhuận (như năng lượng, giao thông vận
tải, giáo dục, nghiên cứu khoa học cơ bản...). Nhà nước tư sản trong khi đảm nhiệm
kinh doanh những ngành đó, tạo điều kiện cho các tổ chức độc quyền tư nhân kinh
doanh các ngành khác có lợi hơn.
Ba là: sự thống trị của độc quyền đã làm sâu sắc thêm sự đối kháng giai cấp giữa
giai cấp tư sản và giai cấp vô sản, nhân dân lao động. Nhà nước phải có chính sách để
giải quyết những mâu thuẫn đó: Trợ cấp thất nghiệp, điều tiết thu nhập quốc dân, phát
triển phúc lợi xã hội.
Bốn là: Sự tích tụ và tập trung tư bản cao dẫn đến mâu thuẫn giữa các tổ chức
độc quyền với nhau, mâu thuẫn giữa tư bản độc quyền với các tổ chức kinh doanh vừa
và nhỏ….trở nên gay gắt cần có sự điều tiết, can thiệp của nhà nước.
Năm là: Cùng với xu thế quốc tế hóa đời sống kinh tế, sự bành trướng của các tổ
chức liên minh độc quyền quốc tế vấp phải những hàng rào quốc gia dân tộc và xung
đột lợi ích giữa các đối thủ trên thị trường thế giới, đòi hỏi có sự điều tiết các quan hệ
chính trị, kinh tế quốc tế của nhà nước tư sản. Nhà nước tư sản có vai trò quan trọng để
giải quyết các quan hệ đó.
Ngoài ra, việc thi hành chủ nghĩa thực dân mới, cuộc đấu tranh với CNXH hiện
thực và tác động của cách mạng khoa học- công nghệ, đòi hỏi có sự can thiệp trực tiếp
của nhà nước vào đời sống kinh tế.
-Về bản chất
Để xác định được bản chất của CNTB độc quyền nhà nước cần phải tiếp cận một
cách tổng thể từ các góc độ khác nhau, từ mối quan hệ LLSX và QHSX; từ lợi ích các
13
giai cấp trong XH Tư sản; rộng hơn cả là từ mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và
chính trị trong điều kiện của CNTB độc quyền.
+ Xét về góc độ quan hệ giữa LLSX và QHSX thì CNTB ĐQNN là sự thay đổi
về lượng rất cơ bản của QHSX TBCN. Những bộ phần khổng lồ của LLSX trong các
nước tư bản không còn có thể thích ứng với cái vỏ chật hẹp của sở hữu tư nhân cũng
như sở hữu tập thể (công ty cổ phần TBCN) nữa. Nhưng không thể thiếu được nó trong
nền kinh tế vì đó chính là những bộ phần có tính chất nền tảng của sản xuất, kinh
doanh Do vậy sở hữu nhà nước là hình thức phù hợp duy nhất được lựa chọn mà vẫn
không đe dọa lợi ích của tư bản tư nhân.
+ CNTB như bất kỳ một chế độ xã hội - chính trị nào khác sẽ không tồn tại nổi
một ngày nếu không có từ bên trong nó những cơ chế tự điều tiết; gián tiếp qua đó định
kỳ khắc phục những mâu thuẫn tích tụ dần dần từ lâu và giải quyết những khủng hoảng
phát sinh. Trên thực tế, CNTB ĐQNN tạo ra không chỉ những tiền đề vật chất để điều
tiết cả vĩ mô đối với nền kinh tế TBCN mà còn tạo nên những tiền đề về tinh thần để
điều tiết xã hội như: ý thức công dân, nhà nước pháp quyền, dân chủ tư sản, lý luận
quản lý xã hội, phúc lợi công cộng…
+ Xét về góc độ lợi ích của các giai cấp cũng vậy, CNTB ĐQNN là hình thức
thích hợp nhất để bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản trong điều kiện nền dân chủ tư sản
đã phát triển đến trình độ cao hơn hẳn. Khi mà những biểu hiện độc tài, chuyên chế
đều không thể được chấp nhận một cách dễ dàng trong một xã hội mà dân trí đã được
nâng cao và gắn liền với nó là dân chủ, công khai và các quyền cơ bản của mọi công
dân được mặc nhiên nhận thức ở mức được hợp lý hóa. Trong những điều kiện đó thì
nhà nước tư sản sở hữu những bộ phận quan trọng nhất của cải vật chất trong xã hội và
sử dụng nó để đáp ứng các nhu cầu về hàng hóa công cộng, thực thi các chức năng
KTXH là hoàn toàn có thể được chấp nhận của mọi giai cấp trong xã hội. Quyền lợi
ích kỷ của giai cấp tư sản cũng sẽ được che giấu đi một cách tinh vi hơn qua các đơn
đặt hàng của nhà nước được đưa ra đấu thầu, qua các ưu tiên đầu tư của ngân sách nhà
nước được Quốc hội thông qua.
+ Xét về góc độ mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị thì CNTB
ĐQNN là hình thức phát triển cao nhất của mối quan hệ biện chứng giữa độc quyền
kinh tế của tư bản tư nhân và độc quyền chính trị của GCTS trong xã hội tư sản hiện
đại. Nói cách khác CNTBĐQ là sự dung hợp giữa sức mạnh các tổ chức kinh tế độc
quyền và nhà nước tư bản thành một cơ chế thống nhất nhằm làm giàu cho các tổ chức
độc quyền và cứu nguy cho CNTB.
Mác - Lê nin khẳng định, CNTB là một nấc thang phát triển khổng lồ về LLSX.
Với sự xuất hiện CNTB ĐQBB thì ngay trong lòng CNTB đã thực sự tạo nên không
chỉ một LLSX tiên tiến, hiện đại mà LLSX đó lại còn được “xã hội hóa một bước quan
trọng”. Bước quan trọng đó chính là do không thể đảm đương, làm chủ trực tiếp hoặc
do không có được lợi nhuận thỏa đáng cho nên TBTN buộc phải chuyển những khâu
cơ bản nhất của quá trình sản xuất xã hội cho nhà nước tư sản, chấp nhận sở hữu nhà
nước đối với phần lớn các bộ phần cấu thành quan trọng của nền kinh tế. Theo cách
14
này, CNTB ĐQNN đã tham gia tạo nên những tiền đề vật chất chủ yếu, cơ bản của xã
hội mới thay thế cho CNTB.
2. Những biểu hiện chủ yếu của CNTB độc quyền nhà nước
CNTB ĐQNN không đồng nhất giữa các nước TB khác nhau nhưng nó tồn tại
thống nhất trong sự đa dạng ở mỗi nước có thể mang thêm những sắc thái đặc thù song
về cơ bản có thể khái quát chung các hình thức biểu hiện cụ thể sau:
a) Sở hữu của NNTS và vai trò của khu vực kinh tế nhà nước trong nền kinh tế
thị trường TBCN
Tại đa số các nước TB phát triển những bộ phận quan trọng nhất của nền KT đã
thuộc về sở hữu của NN, đó là hệ thống kết cấu hạ tầng KT - XH, là dự trữ quốc gia,
hệ thống tài chính tiền tệ và các tài sản quốc gia khác. Đồng thời cũng có một số lượng
nhất định các doanh nghiệp nhà nước cung cấp hàng hóa công cộng, cổ phần nhà nước
trong các ngân hàng, tập đoàn lớn và một số doanh nghiệp do NN quốc hữu hóa các
doanh nghiệp tư nhân vì những lý do khác nhau. Về cơ bản KTNNTS đảm nhận vai trò
chủ yếu trong các lĩnh vực không thể có lợi nhuận hoặc lợi nhuận rất thấp, còn những
lĩnh vực kinh doanh có lợi nhuận cao thuộc về đặc quyền kinh doanh của các tập đoàn
độc quyền tư nhân, sự tồn tại lâu dài của một số bộ phận doanh nghiệp NN ở các nước
TBCN phát triển chủ yếu liên quan đến các ngành, các lĩnh vực có lợi nhuận quá thấp,
hoặc nhiều rủi ro, không hấp dẫn được tư nhân.
Trong trường hợp xảy ra thua lỗ của khu vực tư nhân thì cũng là lực lượng KT
chủ trốt cứu giúp các tập đoàn tư nhân lớn thoát khỏi phá sản, các doanh nghiệp vừa và
nhỏ hầu như không có được sự giúp đỡ như vậy. Bên cạnh đó cũng tồn tại một số
lượng không nhỏ doanh nghiệp NN đặc trưng cho PTSX TBCN đó là doanh nghiệp
NN hình thành từ quốc hữu hóa các doanh nghiệp tư nhân, sau khi DNNN mới được
hình thành kia sau khi dùng ngân sách trả nợ, đổi công nghệ tới lúc đó có sức cạnh
tranh mới đó cũng là lúc sẽ được đem tư nhân hóa thông qua đấu giá công khai thuộc
về người trả giá cao nhất. Đó là hiện tượng phổ biến trong nền KTTT TBCN, sự
chuyển hóa từ SH tư nhân sang NN rồi lại từ NN thành tư nhân của một doanh nghiệp
gây thiệt hại cho NSNN nhưng lại mang lại lợi ích cho giới cầm quyền và chủ doanh
nghiệp.
b) Mối quan hệ nhân sự giữa quan chức NN và các tổ chức TB độc quyền
Dưới CNTB NN quan hệ nhân sự là một trong những biểu hiện đặc trưng nhất,
cụ thể là các tập đoàn tư nhân lựa chọn để tài trợ kinh phí cho các ứng viên có nhiều
tiềm năng vào các chức vụ của bộ máy NN, luật pháp TS cho phép sự quyên góp này,
khi đã thành công thì tất nhiên các quan chức trong quá trình thực thi nhiệm vụ sẽ đền
đáp lại dưới nhiều hình thức. Do vậy không ít trường hợp một số tập đoàn gây ảnh
hưởng đến các chính sách đối nội, đối ngoại của NN theo hướng có lợi cho họ chứ
không phục vụ cho lợi ích chung của XH.
15
c) Điều tiết kinh tế của NNTS
Các chính sách KT của NN trong điều kiện của CNTB độc quyền NN phần lớn
chỉ mang tính điều tiết trừ những trường hợp đặc biệt NNTS mới điều hành KT bằng
sắc lệnh và các biện pháp hành chính. Điều tiết của NN bao gồm sử dụng các công cụ
kinh tế vĩ mô thuế, lãi suất, tỷ giá hối đoái… NNTS sử dụng ngân sách để đầu tư kích
cầu nền KT khi cần thiết đối với các lĩnh vực như tiêu dùng, tạo việc làm mới, khắc
phục thảm họa thiên tai… Điều tiết bằng công cụ phi kinh tế như định hướng ưu tiên
trong chính sách quốc gia, khuyến khích lThập các quỹ từ thiện. Tuy nhiên về cơ bản
điều tiết kinh tế của NNTS vẫn luôn luôn thể hiện bản chất giai cấp của nó, lợi ích lớn
nhất mà mọi hoạt động kinh tế của NNTS là đều được định hướng ưu tiên hàng đầu
cho các tập đoàn TB độc quyền lớn, cho tầng lớp giàu có nhất trong XH TS.
d) Thực thi các chức năng XH của NNTS
Dưới chế độ TBĐQNN chính phủ và thiết chế cơ bản trong bộ máy NN tham gia
ngày càng sâu vào lĩnh vực XH, những chức năng XH cơ bản của NN ngày càng được
mở rộng chính phủ đứng ra quản lý và chi tiêu các quỹ xã hội lớn điều đó giải phóng
cho các ông chủ tư nhân và các tập đoàn khỏi đương đầu trực diện với người lao động
và các tổ chức của họ. Thông qua việc thực thi cũng xiết chặt thêm một bước kỷ cương
pháp quyền TS.
3. Ý nghĩa đối với Việt Nam
Việt Nam chưa kinh qua CNTB, cho nên tất niên cũng không thể có được
“những tiền đề vật chất” của CNXH nhiều như ở các nước đã có một lịch sử phát triển
lâu dài của CNTB, lại càng thua kém hơn nhiều về những tiền đề vật chất đó trong
quan hệ so sánh với các nước tư bản phát triển như G7. Nhưng Việt Nam có một ưu
thế rất cơ bản là đã giải quyết xong vấn đề hàng đầu của mọi cuộc cách mạng, đó là
giành chính quyền về tay nhân dân. Vấn đề cốt lõi là phải sử dụng chính quyền nhà
nước đã có để làm những gì mà CNTB chưa kịp làm ở Việt Nam, đó là CNH, HĐH đất
nước và hội nhập quốc tế.
Do vậy kinh tế Nhà nước phải đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường
có nhiều thành phần là một tất yếu khách quan đối với Việt Nam. Những ngành, lĩnh
vực có ý nghĩa then chốt đối với nền kinh tế quốc dân mà các nước TBCN nhà nước
phải sở hữu thì ở Việt Nam cũng phải vậy.
Bên cạnh đó những ngành, lĩnh vực có lợi nhuận cao càng cần phải tập trung vào
tay nhà nước. Đặc biệt là trong khai thác các tài nguyên quốc gia như: dầu khí, khoáng
sản… không thể để cho tư nhân tự do khai thác như ở các nước TBCN. Tuy nhiên,
cũng do đặc điểm chưa kinh quan CNTB nên điểm xuất phát để quá độ lên CNXH ở
Việt Nam là rất thấp.
Quá độ lên CNXH bỏ qua chế bộ TBCN là con đường có nhiều khó khăn gấp
bội. Những cơ sở vật chất kỹ thuật, lực lượng lao động mà chế độ cũ tạo ra trước cách
16
mạng thành công không có nhiều nhưng càng cần phải coi trọng dùng với tư cách là
“Những tiền đề vật chất của CNXH” để quản lý và sử dụng tốt hơn trong công cuộc
xây dựng CNXH.
Trong thời kỳ đổi mới, quan hệ với các nước TBCN của Việt Nam cũng đã có
rất nhiều thay đổi, đường lối đa phương hóa, đa dạng hóa trong quan hệ đối ngoại của
Đảng đã mở ra bước ngoặc cơ bản trong quan hệ kinh tế đối ngoại. Việt Nam quan hệ
đầy đủ về mọi mặt với các tầng nấc; đối tác chiến lược, đối tác toàn diện,… với các
nước không phân biệt chế độ chính trị - xã hội là một hướng đi đúng đắn trong bối
cảnh toàn cầu hóa, khu vực hóa kinh tế. Việc kế thừa, khai thác các “tiền đề vật chất”
thông qua các quan hệ kinh tế quốc tế là hết sức cần thiết. Những gì có lợi sự nghiệp
xây dựng và phát triển đất nước có thể có được từ các nước TBCN đều cần phải quan
tâm, khai thác và sử dụng.
Hợp tác với các nước TBCN và các công ty tư bản trên cơ sở cùng có lợi không
phải là sự lựa chọn con đường phát triển TBCN mà chính là phương thức xây dựng
CNXH với sự trợ giúp từ các thành tựu của “nền văn minh tư sản”. Sự kiên trì định
hướng XHCN trong quá trình phát triển không phải là trở ngại kinh tế và chính trị cho
việc mở rộng sự hợp tác và phát triển của Việt Nam với tất cả các nước TBCN. Đó là
một thực tế đã đang và sẽ tiếp tục được chứng minh trong công cuộc đổi mới./.
Câu 5: Những nhận thức mới về sở hữu trong quá trình đổi mới ở Việt
Nam? Tác dụng thực tiễn của những nhận thức mới về sở hữu ở Việt Nam?
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là thời kỳ cải biến cách mạng
sâu sắc, toàn diện và triệt để về mọi mặt từ xã hội cũ sang xã hội mới. Sự phát triển của
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tạo nên tính đa dạng hóa các loại hình sở hữu ở
Việt Nam. Trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần,
vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN ở
nước ta hiện nay, vấn đề sở hữu, các hình thức sở hữu và đổi mới quan hệ sở hữu luôn
thu hút sự quan tâm. Nó không chỉ có ý nghĩa lý luận mà còn mang ý nghĩa thực tiễn
sâu sắc. Vì vậy, nghiên cứu "những nhận thức mới về sở hữu làm cơ sở cho sự nghiệp
đổi mới kinh tế ở Việt Nam" có vai trò quan trọng đối với sự nghiệp phát triển kinh tế ở
nước ta. Nghiên cứu vấn đề này chúng ta thấy được ý nghĩa lý luận cũng như thực tiễn
của nó hết sức sâu sắc.
Sở hữu là một hình thức chiếm hữu nhất định về của cải vật chất, trước hết là về
tư liệu sản xuất, được hình thành trong lịch sử, là quan hệ giữa người với người về
chiếm hữu của cải trong xã hội.
1. Những nhận thức mới về sở hữu làm cơ sở cho sự nghiệp đổi mới kinh tế
ở nước ta.
- Phân biệt giữa hai phạm trù: Sở hữu và chiếm hữu.
Sở hữu là quan hệ giữa người với người về chiếm hữu tư liệu sản xuất và của cải
làm ra, sở hữu là hình thức xã hội của hành vi chiếm hữu trong các hình thái kinh tế xã hội nhất định. Còn chiếm hữu là quan hệ giữa người với giới tự nhiên, con người
chiếm hữu những vật thể của tự nhiên để tồn tại.
17
Sở hữu là một phạm trù kinh tế khách quan và là một phạm trù lịch sử, nó biến
đổi tùy thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và do lực lượng sản xuất
quy định. Còn chiếm hữu là hành vi tồn tại cùng với sự tồn tại và phát triển của con
người, là một phạm trù vĩnh viễn, nghĩa là nó tồn tại trong tất cả các giai đoạn khác
nhau của lịch sử nhân loại.
- Các góc độ nhận thức và vận dụng khác nhau về quan hệ sở hữu.
Ở góc độ chủ thể sở hữu: Sở hữu chỉ ra rằng, của cải trong xã hội thuộc về của
ai? C.Mác cho rằng, người ta chỉ có thể trả lời bằng sự phân tích phê phán của khoa
kinh tế chính trị, môn học này bao quát toàn bộ những quan hệ sở hữu ấy, không phải
trong biểu hiện pháp quyền của chúng với tư cách là những quan hệ ý chí, mà còn
trong hình thái hiện thực của chúng, tức với tư cách là quan hệ sản xuất. Như vây, theo
C.Mác phạm trù sở hữu phản ánh sự thống nhất giữa hai mặt: sở hữu với tư cách là
quan hệ pháp lý (hình thức pháp lý) của quan hệ sản xuất và sở hữu với tư cách quan
hệ kinh tế hiện thực.
Với các góc độ nhận thức phạm trù sở hữu như trên, việc giải quyết vấn đề sở
hữu trong thực tiễn chú ý các điểm dưới đây:
Phải tôn trong quy luật kinh tế khách quan, quan hệ sản xuất phải phù hợp với
tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sở hữu vận động và
biến đổi cùng với sự vận động và biến đổi của những điều kiện kinh tế - xã hội, mà
trước hết là lực lượng sản xuất.
Không nên đồng nhất sở hữu với tư cách quan hệ pháp lý của quan hệ sản xuất
với sở hữu với tư cách là quan hệ kinh tế hiện thực.
Quan hệ sở hữu vận động, phát triển và tái tạo trong các khâu của quá trình tái
sản xuất xã hội.
Sự tác động qua lại giữa quan hệ sở hữu với quan hệ tổ chức, quản lý và quan hệ
phân phối lưu thông, trong đó quan hệ sở hữu có vai trò quyết định, nhưng quan hệ tổ
chức, quản lý và quan hệ phân phối lưu thông có ảnh hưởng lớn đến quy mô sở hữu và
hiệu quả sản xuất kinh doanh.
- Nhận thức được biến đổi của đối tượng sở hữu
Quan hệ sở hữu luôn luôn ở trạng thái vận động, đối tượng của sở hữu cũng luôn
luôn biến đổi, thích ứng.
Đối tượng của sở hữu ngày càng được mở rộng, không chỉ sở hữu tư liệu sản
xuất, vật phẩm tiêu dùng, mà có sở hữu vốn, tư bản (tài chính, khả năng sinh lời …).
Việc tiền tệ hóa các đối tượng sở hữu chủ yếu là một bước tiến lớn so với quan niệm
các đối tượng sở hữu là hiện vật cụ thể.
- Có sự tách biệt tương đối giữa quyền sở hữu và quyền quản lý kinh doanh
(quyền sử dụng)
Chế độ sở hữu bao gồm các quyền như quyền sở hữu, quyền quản lý kinh doanh,
quyền điều tiết, quyền thực hiện lợi ích kinh tế … Trong tập hợp các quyền đó, có thể
chia ra thành hai nhóm quyền quan trọng là quyền sở hữu và quản lý sản xuất, kinh
18
doanh. Hai nhóm quyền này có thể thống nhất ở một chủ thể, cũng có thể được phân
chia, tách biệt một các tương đối ở những chủ thể khác nhau.
- Đa dạng hóa loại hình và hình thức sở hữu trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội
Trong mỗi phương thức sản xuất bao giờ cũng có một loại hình sở hữu đặc trưng
giữ vai trò chủ đạo, đồng thời cũng còn nhiều hình thức sở hữu khác cùng tồn tại.
Trong mỗi loại hình sở hữu lại có nhiều hình thức sở hữu khác nhau, đan xen nhau.
Những hình thức sở hữu luôn luôn biến động và ngày càng xuất hiện nhiều thêm hình
thức sở hữu mới, hoàn thiện hơn. Kinh tế thị trường hiện đại dựa trên sự kết hợp các
hình thức sở hữu tư nhân - cá nhân, sở hữu tư nhân của nhóm người, sở hữu cổ phần,
sở hữu hỗn hợp và sở hữu nhà nước, nhưng sở hữu cổ phần vẫn là phổ biến, cho nên có
thể nói hình thức sở hữu hiệu quả hơn trong sự phát triển lực lượng sản xuất hiện đại
và công nghệ vẫn là sở hữu cổ phần.
2. Liên hệ tác dụng thực tiễn của những nhận thức về tách biệt tương đối
giữa quyền sở hữu với quyền quản lý kinh doanh và đa dạng hóa các loại hình sở
hữu trong quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam.
2.1. Nhận thức về tách biệt tương đối giữa quyền sở hữu với quyền quản lý
kinh doanh trong quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam.
Quyền SH được thể hiện bằng hệ thống pháp luật (kể cả các nội quy, quy định
dưới luật) tạo nên chế độ sở hữu. Chế độ sở hữu bao gồm các quyền như: quyền sở
hữu, quyền quản lý kinh doanh, quyền điều tiết, quyền thực hiện lợi ích kinh tế, v.v…
Trong tập hợp các quyền đó, có thể chia ra thành hai nhóm quyền quan trọng là quyền
sở hữu và quản lý sản xuất - kinh doanh (quyền sử dụng là phần quan trọng nhất nằm
trong quyền quản lý sản xuất - kinh doanh). Hai nhóm quyền này có thể thống nhất ở
một chủ thể, cũng có thể phân chia tách biệt tương đối ở những chủ thể khác nhau
Lý luận về sự tách biệt tương đối giữa hai nhóm quyền nói trên mở ra một bình
diện mới cho việc vận dụng quan hệ sở hữu vào thực tiễn và làm sáng tỏ những vấn đề
lý luận và thực tiễn quan trọng.
Việc thừa nhận sự tách biệt tương đối giữa quyền SH thuộc về Nhà nước và
quyền QLKD thuộc các DN là nhận thức căn bản để làm sáng tỏ ba vấn đề lý luận
thực tiễn quan trọng sau:
+ Thừa nhận tính khách quan của quan hệ hàng hóa – tiền tệ giữa các DNNN với
nhau và giữa họ với NN.
19
+ Đó là cơ sở để giải quyết quan hệ đất đai, phát triển nền nông nghiệp hàng hóa
nhiều thành phần theo định hướng XHCN.
+ Luận điểm đó là hướng căn bản, lâu dài để xử lý cải cách quản lý DNNN, tách
chủ SH vốn với chủ quản lý KD theo cơ chế thị trường.
2.2. Nhận thức về tách biệt tương đối giữa quyền sở hữu với đa dạng hóa
các loại hình sở hữu trong quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được
thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng khẳng định: Các hình
thức sở hữu hỗn hợp và đan kết với nhau hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng ngày
càng phát triển.
Mỗi PTSX bao giờ cũng có một loại hình SH đặc trưng, giữ vai trò chủ đạo,
đồng thời còn tồn tại các loại hình, hình thức SH khác cùng tồn tại.
Thực tiễn của thế giới đương đại cho thấy, ở bất cứ nước nào, dù mức độ phát
triển kinh tế và chế độ chính trị có khác nhau, vẫn tồn tại khách quan nhiều loại hình,
hình thức SH, trong đó có một loại hình SH giữ vai trò thống trị và là tên gọi chung
của chế độ SH đó. Ví dụ: chế độ SH nô lệ, PK, TBCN…
Trong TKQĐ lên CNXH ở nước ta tồn tại ba loại hình (chế độ) SH cơ bản: SH
toàn dân, SH tập thể và SH tư nhân.
Mỗi loại hình SH lại có nhiều hình thức SH cụ thể khác nhau - luôn biến động
và ngày càng xuất hiện thêm những hình thức SH mới, hoàn thiện hơn.
Nhận thức mới cần phải xác lập một hệ thống đa dạng các loại hình và hình
thức SH…phải coi việc củng cố, hoàn thiện chế độ công hữu XHCN như là mục đích
vừa là phương tiện để xây dựng đất nước phát triển theo định hướng XHCN. Trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cần vận dụng đa dạng loại hình, hình thức sở hữu,
làm cho các hình thức sở hữu cụ thể phù hợp với tính chất và trình độ lực lượng sản
xuất, nhờ đó mà khai thác được mọi tiềm năng của lực lượng sản xuất trong nền kinh tế
nhằm xây dựng một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại với
quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp.
Thực tế những năm đổi mới, chúng ta đã khác phục chế độ công hữu hình thức,
có tính áp đặt, đã làm xuất hiện nhiều hình thức sở hữu phong phú. Nhờ đó, mà khai
thác được tiềm nămg của các thành phần kinh tế, làm cho quan hệ sở hữu phù hợp,
20
thích ứng với trình độ lực lượng sản xuất. Giải quyết đúng quan hệ sở hữu là giữ được
nguồn nuôi dưỡng động lực kinh tế cho sự ổn định kinh tế - xã hội.
Việc đa dạng hóa các hình thức sở hữu có thể coi là một phương tiện để phát
triển kinh tế. Nhưng về lâu dài, phải dần dần củng cố, hoàn thiện chế độ công hữu xã
hội chủ nghĩa để xây dựng nền tảng kinh tế cho sự phát triển theo định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta.Đảng ta đang thúc đẩy mạnh đổi mới, sắp xếp và nâng cao hiệu
quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước, khẩn trương cơ cấu lại ngành nghề kinh
doanh của các tập đoàn kinh tế và các tổng công ty nhà nước, tập trung vào một số
ngành, lĩnh vực theo chốt của nền kinh tế.
Vấn đề sở hữu đặt ra là khách quan mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
Với tính chất đặc điểm của thời kỳ quá độ lên CNXH của nước ta là thực hiện nền kinh
tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà
nước. Trong khi cần phải thúc đầy lực lượng sản xuất còn thấp kém phát triển thì tất
yếu phải thừa nhận các hình thức sở hữu đa dạng tồn tại đan xen, hòa quyện với nhau,
sổ sung và cùng phát triển.
- Nhận thức được sự biến đổi của đối tượng sở hữu
Ngày nay, dưới tác dụng của cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ, lực
lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ, đối tượng của sở hữu xuất hiện một nhân tố mới là
"trí tuệ". Đó là những tri thức, thông tin có vai trò đặc biệt quan trọng đối với quá trình
sản xuất ra của cải vật chất xã hội.
Cho dù đối tượng của sở hữu ngày càng được mở rộng, nhưng điều quan trọng là
trong mỗi giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội, cần phải nắm được đối tượng chủ yếu
của sở hữu, làm chủ những đối tượng sở hữu ấy là điều kiện tiên quyết cho việc làm
chủ các quan hệ kinh tế khác.
21
Trong điều kiện nước ta hiện nay, đối tượng chủ yếu của sở hữu vẫn là những tư
liệu sản xuất chủ yếu như đất đai, tài nguyên, hầm mỏ, nhà máy, các kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội, tiền vốn, các phương tiện kỹ thuật hiện đại… Vì thế, cần nắm vững
những đối tượng sở hữu chủ yếu này để có phương thức quản lý, sử dụng chúng một
cách có hiệu quả nhằm tác động, điều chỉnh các quan hệ kinh tế theo những định
hướng xã hội nhất định. Nhất đối với đất đai, ở nước ta, đất đai thuộc sở hữu toàn dân
do Nhà nước đại diện chủ sở hữu, nhưng Nhà nước giao quyền sử dụng đất cho người
dân, các tổ chức theo những mục đích nhất định thông qua quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất đã được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét duyệt, quyết định. Nhà
nước thu hồi đất do tổ tổ chức, cá nhân đang sử dụng trong trường hợp thật cần thiết do
luật định vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc
gia, công cộng. Việc thu hồi đất phải công khai, minh bạch và được bồi thường theo
quy định của pháp luật hiện hành. Đất đai cần phải được quản lý, sử dụng đúng mục
đích, tiết kiệm, có hiệu quả, bảo vệ môi trường và không làm tổn hại đến lợi ích chính
đáng của những người sử dụng đất xung quanh.
- Đa dạng hóa loại hình và hình thức sở hữu trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cần vận dụng đa dạng loại hình, hình
thức sở hữu, làm cho các hình thức sở hữu cụ thể phù hợp với tính chất và trình độ lực
lượng sản xuất, nhờ đó mà khai thác được mọi tiềm năng của lực lượng sản xuất trong
nền kinh tế nhằm xây dựng một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại với quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp.
Thực tế những năm đổi mới, chúng ta đã khác phục chế độ công hữu hình thức,
có tính áp đặt, đã làm xuất hiện nhiều hình thức sở hữu phong phú. Nhờ đó, mà khai
thác được tiềm nămg của các thành phần kinh tế, làm cho quan hệ sở hữu phù hợp,
thích ứng với trình độ lực lượng sản xuất. Giải quyết đúng quan hệ sở hữu là giữ được
nguồn nuôi dưỡng động lực kinh tế cho sự ổn định kinh tế - xã hội.
Việc đa dạng hóa các hình thức sở hữu có thể coi là một phương tiện để phát
triển kinh tế. Nhưng về lâu dài, phải dần dần củng cố, hoàn thiện chế độ công hữu xã
hội chủ nghĩa để xây dựng nền tảng kinh tế cho sự phát triển theo định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta.Đảng ta đang thúc đẩy mạnh đổi mới, sắp xếp và nâng cao hiệu
quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước, khẩn trương cơ cấu lại ngành nghề kinh
doanh của các tập đoàn kinh tế và các tổng công ty nhà nước, tập trung vào một số
ngành, lĩnh vực theo chốt của nền kinh tế.
Vấn đề sở hữu đặt ra là khách quan mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
Với tính chất đặc điểm của thời kỳ quá độ lên CNXH của nước ta là thực hiện nền kinh
tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà
nước. Trong khi cần phải thúc đầy lực lượng sản xuất còn thấp kém phát triển thì tất
yếu phải thừa nhận các hình thức sở hữu đa dạng tồn tại đan xen, hòa quyện với nhau,
sổ sung và cùng phát triển.
22
Câu 6: Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở VN, bản chất, đặc trưng của
kinh tế thị trường định hướng XHCN ở VN, mục tiêu phát triển, các giải pháp hoàn
thiện và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở VN, liên hệ thực
tiễn:
1. Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở VN
Kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hóa, trong đó các
yếu tố đầu vào, đầu ra đều thông qua thị trường, các chủ thể trong nền kinh tế chịu tác
động của các qui luật của thị trường và tìm kiếm lợi ích thông qua sự điều tiết của giá
cả thị trường.
Kinh tế thị trường là mô hình kinh tế tất yếu, khách quan của nền sản xuất lưu
thông hàng hóa đã phát triển. Nó ra đời trong tiến trình phát triển của lịch sử, là sản
phẩm của nhân loại. Kinh tế thị trường được thừa nhận là thành tựu chung của nền văn
minh nhân loại, không phải là cái riêng của chủ nghĩa tư bản và KTTT không đồng
nhất với chủ nghĩa tư bản.
Kinh tế thị trường được phát triển ở các hình thức khác nhau trong lịch sử phát
triển, nhưng phổ biến nhất là kinh tế thị trường hỗn hợp và hiện nay có nhiều quốc gia
trên thế giới phát triển theo loại hình này. Kinh tế thị trường hỗn hợp là nền kinh tế vừa
vận hành theo cơ chế thị trường, vừa chịu sự điều tiết của Nhà nước.
Ở Việt Nam, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội những điều kiện chung
để kinh tế hàng hóa xuất hiện vẫn còn tồn tại. Do đó sự tồn tại kinh tế hàng hóa ở nước
ta là một tất yếu khách quan “Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Đây là hình thái kinh tế thị trường
vừa tuân theo những qui luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở được dẫn dắt,
chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của CNXH”.
Vì vậy, bản chất của kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam vừa có
những đặc chưng của nền kinh tế thị trường hỗn hợp, vừa có đặc trưng của định hướng
XHCN.
2. Bản chất, đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng XHCN ở VN
- Bản chất: Nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam là nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Trong nền KTTT định hướng XHCN, cơ chế thị trường
phải được vận dụng đầy đủ, linh hoạt để phát huy mạnh mẽ và có hiệu quả mọi nguồn
lực nhằm phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế, nâng cao đời sống của nhân dân,
khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói, giảm nghèo, tăng cường đồng
thuận xã hội để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh.
- Đặc trưng: Kinh tế thị trường ở Việt Nam là KTTT định hướng XHCN, do đó
quá trình phát triển KTTT đồng thời cũng là quá trình tăng cường các yếu tố bảo đảm
định hướng XHCN.
Các yếu tố định hướng XHCN mang "tính nội sinh" trong quá trình phát triển
KTTT ở Việt Nam là những "dấu hiệu" hay là tiêu chí để nhận biết bản chất và phân
biệt KTTT nước ta với KTTT các nước khác.
7 nội dung định hướng XHCN trong nền KTTT, Đó là: (1)Thực hiện mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; (2)Giải phóng mạnh mẽ và
23
không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân; (3)Đẩy mạnh xóa
đói, giảm nghèo,đồng thời khuyến khích mọi người dân làm giàu chính đáng và giúp
đỡ, tạo điều kiện để người khác thoát nghèo,từng bước khá giả hơn; (4)Phát triển kinh
tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước và kinh
tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân; (5)Thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển;
tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, y tế, giáo dục…giải quyết tốt các vấn
đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người; (6)Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo
kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn
khác và thông qua phúc lợi xã hội; (7)Phát huy quyền làm chủ xã hội của nhân dân bảo
đảm vai trò quản lý,điều tiết nền kinh tế Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới
sự lãnh đạo của Đảng.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một hình thức đặc
thù của kinh tế thị trường, thể hiện sâu sắc mối quan hệ giữa phát triển kinh tế thị
trường với bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế. Đặc trưng cơ bản
nhất của kinh tế thị trường là sự tồn tại của nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần
kinh tế, đa dạng các loại hình doanh nghiệp trong điều kiện phân công lao động xã hội
ngày càng phát triển.
Một trong những nội dung mấu chốt, quan trọng nhất trong định hướng XHCN
nền KTTT của Việt Nam là phát triển bền vững. Phát triển bền vững là một quá trình
phát triển toàn diện kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục…bảo vệ môi trường về sự phát
triển con người.
3. Về mục tiêu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN: Ngoài
mục tiêu của nền KTTT là lợi nhuận thì mục tiêu của nền KTTT định hướng XHCN ở
VN nhằm phát triển lực lượng giải phóng sức sản xuất của XH và từng bước xây dựng
tiền đề vật chất cho CNXH thúc đẩy sản xuất phát triển tạo ra nhiều hàng hóa, phong
phú về chủng loại và nâng cao chất lượng hàng hóa để từng bước cải thiện và nâng cao
đời sống của nhân dân.
Về sở hữu và thành phần kinh tế: “phát triển đa dạng các hình thức sở hữu, các
thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp” và “mọi thành phần kinh tế, các chủ
thể tham gia thị trường đều được coi trọng, cùng phát triển lâu dài, hợp tác cạnh tranh
bình đẳng, lành mạnh và văn minh, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo”
Về chế độ phân phối: Công bằng trong phân phối các yếu tố của sản xuất, tiếp
cận và sử dụng các cơ hội, điều kiện phát triển, phân phối kết quả làm ra chủ yếu theo
kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn
lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội Phân phối
trong nền KTTT định hướng XHCN ở VN là thông qua hệ thống chính sách xã hội
như: Chính sách phúc lợi xã hội, chính sách an sinh xã hội, chính sách bảo trợ xã hội,
chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, trợ cấp cứu trợ cho những đối
tượng, những vùng đặc biệt khó khăn trong sản xuất kinh doanh, thiên tai lũ lụt.
Vai trò của nhà nước trong nền KTTT định hướng XHCN: Sự điều tiết của
nhà nước trong nền KTTT ở nước ta được thông qua xây dựng và thực hiện quy hoạch
chiến lược, kế hoạch và chính sách phát triển kinh tế xã hội theo định hướng XHCN;
từng bước xây dựng những tiền đề vật chất cho CNXH. Đồng thời, để đảm bảo thực
hiện mục tiêu phát triển KTTT định hướng XHCN Nhà nước tạo môi trường thuận lợi
24
cho SXKD. Ngoài ra vai trò của Nhà nước trong nền KTTT định hướng XHCN là sự
điều tiết của Nhà nước vào nền kinh tế nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia, khai thác và sử
dụng có hiệu quả tài nguyên quốc gia (trong ngắn hạn, dài hạn), bảo vệ môi trường;
phát triển kinh tế bền vững; bảo vệ lợi ích của nhân dân, lợi ích người lao động, thực
hiện các chính sách xã hội.
4. Để tiếp tục xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta
phát triển hơn nữa, trong thời gian đến cần tập trung thực hiện tốt các giải pháp
sau:
Một là, thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần
Trên cơ sở đa dạng hóa các hình thức sở hữu, thực hiện nhất quán, lâu dài chính
sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Lấy việc phát triển sức sản xuất,
nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống nhân dân làm mục tiêu quan
trọng để khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế và các hình thức tổ chức sản
xuất kinh doanh. Theo tinh thần đó tất cả các thành phần kinh tế đều bình đẳng trước
pháp luật, đều được khuyến khích phát triển.
Hai là, mở rộng phân công lao động, phát triển kinh tế vàng, tạo lập đồng bộ
các yếu tố thị trường
Mở rộng phân công lao động xã hội nhằm phát triển mạnh mẽ kinh tế hàng hóa,
kinh tế thị trường, khắc phục tình trạng kinh doanh không đúng với pháp luật.
Thúc đẩy, phát triển các vùng kinh tế trọng điểm, tạo động lực, tác động lan tỏa
đến các vùng khác, đồng thời tạo điều kiện phát triển nhanh hơn các vùng kinh tế đang
còn nhiều khó khăn, đặc biệt là các vùng biên giới, hải đảo, tây nguyên, tây bắc, tây
nam.
Tiếp tục phát triển các loại thị trường, trong đó tập trung 5 loại thị trường cơ
bản, đó là thị trường hàng hóa và dịch vụ; thị trường tài chính (bao gồm thị trường vốn
và thị trường tiền tệ theo hướng đồng bộ, có cơ cấu hoàn chỉnh); thị trường bất động
sản (bao gồm thị trường quyền sử dụng đất và bất động sản gắn liền với đất); thị
trường hàng hóa sức lao động, thị trường khoa học công nghê.
Ba là, đẩy mạnh công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ, đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi
kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, giải quyết đồng bộ
các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Phát triển nhanh hơn công nghiệp xây
dựng, dịch vụ.
Bốn là, giữ vững ổn định chính trị, hoàn thiện hệ thống luật pháp, đổi mới
các chính sách tài chính, tiền tệ, giá cả
Giữ vững ổn định chính trị là giữ vững sự lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của
Nhà nước và quyền làm chủ của nhân dân. Điều quan trọng là đổi mới sự quản lý đó để
nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý, trước hết làm tốt chức năng tạo môi trường pháp
lý và cơ chế chính sách thuận lợi để phát huy các nguồn lực xã hội cho phát triển.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy định trong
văn bản pháp luật. Hệ thống pháp luật đồng bộ là công cụ quan trọng để quản lý nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần.
25