Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

HỆ THỐNG 18 CÂU HỎI ĐÁP ÁN THI TRIẾT HỌC CAO CẤP CHÍNH TRỊ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (425.57 KB, 69 trang )

Câu 1 (tổ 1)
THỰC CHẤT CUỘC CÁCH MẠNG TRONG TRIẾT HỌC DO
C.MÁC VÀ PH.ĂNGGHEN THỰC HIỆN?
Triết học của C.Mác (1818 – 1883) và Ph.Ăngghen (1820 – 1895) là sự
kế thừa những thành tựu vĩ đại của tư tưởng triết học từ thời cổ đại cho đến cuối
thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX, là kết quả của sự phát triển lịch sử tư tưởng triết
học và sự phát triển của khoa học trong điều kiện kinh tế - xã hội của thế kỷ
XIX và cuộc đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản đang diễn ra
mạnh mẽ trong thời kỳ đó.
Vào những năm 40 của thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản phát triển mạnh mẽ,
tạo ra những điều kiện, tiền đề cho sự ra đời của chủ nghĩa Mác nói chung, triết
học Mác nói riêng. Thể hiện ở chỗ:
Về điều kiện kinh tế - xã hội: Sự phát triển của phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa trong cách mạng công nghiệp. Giai cấp vô sản xuất hiện trên vũ
đài lịch sử với tính cách một lực lượng chính trị- xã hội độc lập, không chỉ phát
triển về số lượng mà cả về chất lượng, trực tiếp chống lại giai cấp tư sản, đấu
tranh cho dân chủ và tiến bộ xã hội. Chính vì vậy đã đặt ra nhu cầu về một lý
luận có khả năng dẫn đường cho thực tiễn cách mạng.
Về tiền đề lý luận: Chủ nghĩa Mác nói chung và triết học Mác nói riêng
ra đời trên cơ sở kế thừa toàn bộ những tư tưởng trong lịch sử nhân loại, nhưng
cơ bản nhất và trực tiếp nhất đó là: Triết học cổ điển Đức, với hai nhà triết học
tiêu biểu là Hê-ghen (1770-1831) và Phoiơbắc (1804-1872). Kinh tế chính trị
học tư sản cổ điển Anh với những lý luận kinh tế quan trọng của A.X-mít
(1723-1790) và Đ.Ri-các-đô (1772 – 1823). Chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp
với những đại biểu nổi tiếng như Xanh Ximông (1760 - 1825) và Sáclơ Phuriê
(1772 –1837).
Về tiền đề khoa học tự nhiên: Những luận điểm của chủ nghĩa Mác nói
chung và triết học Mác nói riêng đã được những phát minh khoa học tự nhiên
thời đó làm cơ sở chứng minh, đó là: Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng
lượng của Mikhail Vasilyevich Lomonosov (1711 – 1765) và Antoine Lavoisier
(1743 – 1794). Thuyết tế bào của Theodor Schwann (1810 - 1882) và Matthias


Schleiden (1804-1881). Học thuyết tiến hóa của Charles Darwin (1809 – 1882).
Chính những thành tựu khoa học đã vạch ra mối liên hệ thống nhất giữa những
dạng tồn tại khác nhau, các hình thức vận động khác nhau trong tính thống nhất
vật chất của thế giới, vạch ra tính biện chứng của sự vận động và phát triển của
nó.
Triết học Mác cũng như chủ nghĩa Mác ra đời như một tất yếu lịch sử
không những vì đời sống và thực tiễn, nhất là thực tiễn cách mạng của giai cấp
công nhân đòi hỏi phải có lý luận mới soi đường mà còn vì những tiền đề cho
sự ra đời lý luận mới đã được nhân loại tạo ra.


Sự ra đời của triết học Mác không những là một tất yếu lịch sử mà còn
tạo ra một cuộc cách mạng trong lịch sử tư tưởng triết học của nhân loại.
1. Thực chất của cuộc cách mạng trong triết học.
Sự ra đời của triết học Mác là một cuộc cách mạng to lớn trong lịch sử
triết học, thực chất của cuộc cách mạng ấy được thể hiện:
1.1. Sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghiã duy vật
lịch sử là biểu hiện vĩ đại nhất trong cuộc cách mạng trong triết học do Mác
và Ăngghen thực hiện.
• Chủ nghĩa duy vật trước Mác đã đóng vai trò hết sức quan trọng trong
sự phát triển của xã hội, của khoa học và triết học. Tuy nhiên, đó là chủ nghĩa
duy vật chưa triệt để, nghĩa là mới duy vật trong giải thích tự nhiên, nhưng còn
duy tâm trong giải thích lĩnh vực lịch sử, xã hội, tinh thần. Cho nên chưa thể
đuổi được chủ nghĩa duy tâm ra khỏi “nơi ẩn chứa cuối cùng của nó” là lĩnh vực
xã hội.
• Triết học của Mác đã giải thích không chỉ thế giới tự nhiên mà cả lĩnh
vực lịch sử, xã hội, tư tưởng. Do vậy, lần đầu tiên trong lịch sử triết học của
nhân loại, với quan điểm duy vật lịch sử, triết học Mác đã chấm dứt toàn bộ cái
nhìn duy tâm, phiến diện về xã hội. Xã hội, lịch sử, tư tưởng lần đầu tiên trong
lịch sử đã được giải thích một cách khách quan, khoa học. Vì vậy, V.I.Lênin đã

khẳng định, chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác là thành tựu khoa học vĩ đại nhất
của khoa học, cũng vì vậy, sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử cũng là biểu
hiện vĩ đại nhất trong lịch sử triết học do Mác và Ăngghen thực hiện.
1.2. Khắc phục sự đối lập giữa thế giới quan duy vật và phép biện
chứng trong lịch sử triết học, tạo nên sự thống nhất hữu cơ không thể tách
rời là chủ nghĩa duy vật biện chứng. Trước khi triết học Mác ra đời thì nhìn
chung luôn có sự tách rời giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng:
• Thời kỳ Hy Lạp cổ đại đã có sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật
và phép biện chứng, điển hình trong triết học của Hêraclít, nhưng nhìn chung
còn ở trình độ thấp. Cả chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng đều còn thô sơ,
chất phác.
• Thời Phục hưng đến Cận đại, các nhà duy vật đã có nhiều công lao
trong việc giải thích tự nhiên, xã hội, tư duy, nhưng chủ nghĩa duy của họ vẫn
mang tính siêu hình, máy móc. Như vậy, thế giới quan duy vật vẫn tách rời khỏi
phép biện chứng.
• Triết học cổ điển Đức, Hêghen đã đối lập phép biện chứng với phương
pháp siêu hình, nhưng phép biện chứng của Hêghen lại dựa trên nền thế giới
quan duy tâm, nghĩa là thế giới quan duy vật vẫn tách rời khỏi phép biện chứng.
• Đỉnh cao của chủ nghĩa duy vật trước Mác là chủ nghĩa duy vật nhân
bản của Phoiơbắc, nhưng đó cũng là chủ nghĩa duy vật siêu hình, máy móc,
nghĩa là thế giới quan duy vật này vẫn tách rời khỏi phép biện chứng.


Trong triết học Mác, chủ nghĩa duy vật thống nhất hữu cơ với phép biện
chứng, còn phép biện chứng được đặt trên nền thế giới quan duy vật. Do vậy,
chủ nghĩa duy vật của Mác là chủ nghĩa duy vật biện chứng, còn phép biện
chứng trong triết học là biện chứng duy vật. Đồng thời cả chủ nghĩa duy vật và
phép biện chứng trong triết học Mác đều được Mác nâng lên một trình độ mới
về chất với các giai đoạn trước kia.
1.3. Với sự sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy

vật lịch sử, Mác và Ăngghen đã khắc phục được sự đối lập giữa triết học và
hoạt động thực tiễn của con người.
• Triết học trước Mác nói chung, triết học duy vật trước Mác nói riêng,
nhìn chung đều chỉ là giải thích thế giới mà chưa đề ra được con đường, biện
pháp đúng đắn để cải tạo thế giới. Các đại biểu triết học muốn cải tạo thế giới
nhưng lại muốn nhờ vào các lực lượng siêu nhiên, thần bí, hoặc ý thức, tinh
thần. Chưa một đại biểu nào hiểu được vai trò của thực tiễn đối với hoạt động
cải tạo thế giới.
• Triết học Mác không chỉ giải thích thế giới mà quan trọng hơn là còn đề
ra con đường, biện pháp, cách thức để cải tạo thế giới. Đặc biệt, triết học Mác
chỉ ra rằng con người muốn cải tạo thế giới phải bằng và thông qua hoạt động
thực tiễn. Và lần đầu tiên trong lịch sử triết học, triết học Mác đã gắn bó mật
thiết với hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới của con người; còn hoạt động thực
tiễn cải tạo thế giới của con người là cơ sở, động lực, mục đích của triết học
Mác.
1.4. Với sự ra đời của triết học Mác đã làm cho chủ nghĩa xã hội
không tưởng có căn cứ khoa học để trở thành thực sự khoa học
Sự ra đời của triết học Mác đã làm cho giai cấp công nhân có được lý
luận khoa học, cách mạng dẫn dắt trong đấu tranh giải phóng bản thân và giải
phóng nhân loại.
Phong trào công nhân đã tìm thấy ở triết học Mác vũ khí tinh thần của
mình, còn triết học Mác tìm thấy ở phong trào công nhân vũ khí vật chất của
mình.
1.5. Với sự sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử, triết học Mác đã khắc phục được sự đối lập giữa triết học với các
khoa học cụ thể.
• Trước khi triết học Mác ra đời thì triết học hoặc là bao trùm lên các
khoa học hoặc bị hòa tan vào khoa học hoặc một ngành học khoa nào đó. Chẳng
hạn:
- Ở triết học phương Đông cổ, trung đại, triết học thường ẩn giấu đằng sau các

học thuyết về xã hội, thế giới, con người, chính trị, đạo đức...
- Thời Hy Lạp cổ đại, triết học được coi là khoa học của các khoa học...
- Thời Trung cổ ở châu Âu, triết học được coi là bộ môn của Thần học, có
nhiệm vụ chứng minh cho sự tồn tại của Chúa trời, Thượng đế.


- Thời Cận đại phương Tây, triết học được coi là Mêtaphisica – cái nền
của “cây thế giới quan” (thể hiện trong triết học của Đềcáctơ).
- Triết học Cổ điển Đức là quay trở lại quan điểm cho rằng triết học là
khoa học của các khoa học.
• Quan hệ giữa triết học và khoa học cụ thể là quan hệ biện chứng tác
động lẫn nhau.
- Triết học Mác đóng vai trò thế giới quan, phương pháp luận chung nhất
cho các khoa học cụ thể, còn các khoa học cụ thể cung cấp vật liệu, tài liệu,
thông số khoa học cho triết học khái quát. Ngay tiền đề khoa học tự nhiên cho
sự ra đời của triết học Mác đã chứng minh cho mối quan hệ biện chứng này.
- Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, Mác và Ăngghen đã luận giải đúng
đắn vấn đề thực tiễn và đưa phạm trù thực tiễn là lý luận nhận thức; khẳng định
thực tiễn không chỉ là cơ sở, động lực của nhận thức, mục đích của nhận thức
mà còn là tiêu chuẩn của chân lý. Đặt cơ sở khoa học để xây dựng lý luận nhận
thức duy vật biện chứng, cơ sở thế giới quan và phương pháp luận khoa học để
cải tạo thế giới. Đồng thời, đặt ra cơ sở khoa học cho các môn khoa học cụ thể
ra đời và phát triển.
2. Ý nghĩa của cuộc cách mạng trong triết học do Mác và Ăngghen
thực hiện.
Chính sự ra đời của triết học Mác mà vai trò xã hội của triết học cũng như
vị trí của triết học trong hệ thống tri thức khoa học đã thay đổi về căn bản:
2.1. Cuộc cách mạng trong triết học do Mác và Ăngghen thực hiện đã làm
cho triết học thay đổi vị trí, vai trò, chức năng trong mối quan hệ với thực tiễn
cải tạo thế giới của con người, cũng như trong mối quan hệ với các khoa học cụ

thể khác. Triết học Mác đã trở thành thế giới quan khoa học của giai cấp công
nhân. Sự kết hợp lý luận của chủ nghĩa Mác nói chung và triết học Mác nói
riêng với phong trào công nhân đã tạo nên bước chuyển biến về chất của phong
trào từ trình độ tự phát lên tự giác.
2.2. Cuộc cách mạng trong triết học Mác và Ăngghen thực hiện đã tạo ra
cơ sở khoa học cho chủ nghĩa xã hội không tưởng có cơ sở thành khoa học. Bởi
chủ nghĩa duy vật lịch sử đã chỉ rõ cơ sở cho tồn tại và phát triển của lịch sử xã
hội là tồn tại xã hội, cái cơ bản quyết định sự vận động và phát triển của xã hội
đó chính là sản xuất vật chất, mặt khác chủ thể của quá trình sản xuất đó chính
là giai cấp công nhân – “lực lượng vật chất của triết học Mác”.
2.3. Với sự khái quát các thành tựu của khoa học tự nhiên và khoa học xã
hội mà triết học Mác lại trở thành thế giới quan, phương pháp luận chung, cần
thiết cho sự phát triển tiếp tục của các khoa học, cho hoạt động thực tiễn cải tạo
thế giới của con người, đặc biệt là giai cấp công nhân, cho lực lượng tiến bộ của
nhân loại trong cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp, xã hội, con người.


2.4. Triết học mác-xít là cơ sở lý luận khoa học cho chiến lược và sách
lược cách mạng của giai cấp vô sản, là vũ khí tư tưởng để đấu tranh chống lại hệ
tư tưởng tư sản, chủ nghĩa xét lại, cơ hội, giáo điều...
Vì vậy, có thể thấy rằng, lịch sử triết học Mác đã chứng minh toàn bộ
quan điểm của Mác và Ăngghen là kết quả nghiên cứu trung thực của nhiều
năm; tính chân lý và cách mạng của nó. Triết học Mác, ngay từ khi mới ra đời,
đã biểu hiện ra không phải là những điều cứng nhắc, mà là kim chỉ nam cho
hành động. Đó là một học thuyết sinh động, luôn luôn phát triển một cách sáng
tạo trong mối liên hệ hữu cơ với thực tiễn và các khoa học khác.
Câu 2 (tổ 1)
TÍNH ĐỘC LẬP TƯƠNG ĐỐI CỦA Ý THỨC XÃ HỘI VỚI TỒN TẠI XÃ
HỘI? Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN?
Để nghiên cứu tính độc lập tương đối của ý thức xã hội với tồn tại xã hội

và ý nghĩa phương pháp luận. Trước hết chúng ta phải biết rằng: tồn tại xã hội
là gì?, ý thức xã hội là gì?. Vậy, tồn tại xã hội là toàn bộ những yếu tố vật chất
mà xã hội phải dựa vào để tồn tại và pháp triển. Nó tồn tại khách quan ngoài ý
thức xã hội và quyết định ý thức xã hội. Tồn tại xã hội bao gồm phương thức
sản xuất, điều kiện tự nhiên, dân số, trong phương thức sản xuất vật chất là yếu
tố cơ bản nhất quy định và cho phối 2 yếu tố kia. Còn ý thức xã hội là mặt tinh
thần của đời sống xã hội bao gồm tình cảm, tập quán , truyền thống, quan điểm,
tư tưởng, lí luận..v..v.. phản ảnh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển
nhất định.
Như vậy tính độc lập tương đối của ý thức xã hội với tồn tại xã hội là khi
khẳng định vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội, chủ nghĩa
duy vật lịch sử không xem ý thức xã hội như một yếu tố thụ động, tiêu cực, mà
trái lại có tính độc lập tương đối trong mối quan hệ với tồn tại xã hội, có tác
dụng tích cực đén đời sống kinh tế xã hội. Mà tính độc lập thể hiện những điểm
như:
Thứ nhất đó là, ý thức xã hội thường lạc hậu hơi so với tồn tại xã hội bởi
lẽ lịch sử xã hội cho thấy, nhiều khi xã hội mất đi, thậm chí đã mất đi rất lâu,
nhưng ý thức xã hội do xã hội đó sinh ra vẫn còn tồn tại. Tính độc lập tương đối
này đặc biệt rõ trong lĩnh vực tâm lí xã hội như truyền thống, tập quán,…, và Lê
Nin cho rằng “ sức mạnh của tâm lí sản xuất nhỏ được tạo ra qua nhiều thế kỉ là
sức mạnh ghê gớm nhất”. Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội
là do những nguyên nhân sau:
Một là, do bản thân ý thức vốn là cái phản ảnh tồn tại xã hội. Sự biến đổi
của tồn tại xã hội thường diễn ra với tốc độ nhanh mà ý thức xã hội phản ánh
kịp và trở nên lạc hậu. Hơn nữa, ý thức xã hội là cái phản ảnh tồn tại xã hội cho
nên nó chỉ biến đổi sau khi tồn tại xã hội đã biến đổi


Hai là, do tính chất bảo thủ của một số hình thái ý thức xã hội cụ thể và
những tư tưởng chứa đựng trong các hình thái đó ( ví dụ: những tư tưởng tôn

giáo những quan điểm và chuẩn mực đạo đức, những tập tục,…)
Ba là, ý thưc xã hội luôn gắn với lợi ý của những nhóm, những tập đoàn
người, những giai cấp nhất định trong xã hội. Vì vậy, những tư tưởng củ, lạc
hậu thường được các lực lượng xã hội phản tiến bộ lưu giữ và truyền bá nhằm
chống lại các lực lượng xã hội tiến bộ
Thứ hai. Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội
Khi khẳng định tính thường lạc hậu hơn của ý thức xã hội so với tồn tại
xã hội, triết học C.Mác đồng thời thừa nhận rằng trong những điệu kiện nhất
định, tư tưởng của con người, đặc điểm là những tư tưởng tiến tiến có thể đóng
vai trò tiên phong, vượt trước sự phát triển của tồn tại xã hội, dự báo được
tương lai và có tác dụng tổ chức, chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người,
hướng hoạt động đó vào việc giải quyết những nhiệm vụ mới do sự phát triển
muồi của đời sống vật chất của xã hội đặc ra
Chủ nghĩa C.Mác – V. I. Lê Nin tuy ra đời vào thế kỷ XIX nhưng những
quy luật vận động của xã hội loài người do nó chỉ ra đã được thực tiễn thế kỷ
XX xác nhận và vẫn đang là vũ khí lí luận sét bén để giai cấp công nhân giải
phóng mình và giải phóng nhân dân lao động, xây dựng một xã hội mới tốt đẹp
hơn
Khi khăng định tư tưởng tiên tiến có thể dự báo trước những vấn đề của
sự phát triển xã hội thì điều đó không có nghĩa là ý thức xã hội trong trường hợp
này đã không còn bị tồn tại xã hội quyết định nữa. Vấn đề là ở chỗ ý thức xã hội
đã phát triển ra khuynh hướng phát triển của tồn tại xã hội và phản ánh ít nhiều
chính xác các khuynh hướng đó. Sự tiên đoán các khuynh hướng phát triển đã
đem lại khả năng sử dụng sức mạnh cải tạo của những tư tưởng xã hội tiên tiến,
phát huy được vai trò tích cực của chúng trong sự phát triển của xã hội
Thứ ba. Ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển
Lịch sự phát triển đời sống tinh thần của xã hội cho thấy rằng hững quan
điểm lí luận của mỗi thời đại không xuất hiện trên mảnh đất trống không mà
được tạo ra trên cơ sở kế thừa những thành tựu lí luận của các thời đại trước.
Thí dụ: chủ nghĩa C.Mác đã kế thừa và phát triển những tinh hoa tư tưởng của

loài người, mà trực tiếp là nền triết học cổ điển Đức, tinh tế học cổ điển Anh và
chủ nghĩa xã hội Pháp.
Do ý thức có tính kế thừa trong sự phát triển, cho nên sẽ không thể giải
thích được một tư tưởng nào đó nếu chỉ dựa vào những quan hệ kinh tế hiện có,
mà không chú ý đến các giai đoạn phát triển tư tưởng trước. Lịch sử phát triển
của tư tưởng cho thất những giai đoạn hưng thịnh hoặc suy tàn của nó nhiều khi
không trùng hợp hoàn toàn với những giai đoạn hưng thịnh của nền kinh tế.
Tính chất kế thừa trong sự phát triển của tư tưởng là một trong những nguyên
nhân nói rõ vì sao một nước có trình độ phát triển kém về kinh tế nhưng tư
tưởng lại ở trình độ phát triển cao. Thí dụ, nước Pháp ở thế kỷ XVIII có nên
kinh tế phát triển kém nước Anh, nhưng tư tưởng lại tiên tiến hơn nước Anh;


nước Đức nữa đầu thế kỷ XIX lạc hậu về kinh tế, nhưng lại đứng ở trình độ cao
về triết học so với nước Pháp và nước Anh
Trong xã hội có giai cấp, tính chất kế thừa của ý thức xã hội gắng với tính
chất giai cấp của nó. Những giai cấp khác nhau thì kế thừa những nội dung ý
thức khác nhau của các thời đại trước. các giai cấp tiên tiến thì tiếp nhận những
di sản tư tưởng tiến bộ của xã hội cũ để lại.
Ngược lại, những giai cấp lỗi thời và các nhà tư tưởng của nó thì tiếp thu,
khôi phục những tư tưởng, những lý thuyết xã hội phản tiến bộ của những thời
kỳ lịch sử trước. Quan điểm của triết học mác- Lê Nin về tính kế thừa của ý
thức xã hội có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp xây dựng nền văn hóa tinh thần
của xã hội, và Lê Nin còn viết: “ văn học vô sản phải là sự phát triển lô gics của
tổng số kiến thức mà loài người đã tích lũy được dưới ách thống trị của xã hội
tư bản, xã hội của bọn địa chủ và xã hội của bọn quan liêu”. Chúng ta khẳng
định: trong điều kiện kinh tế thị thường và mở rộng giao lưu quốc tế phải đặc
biệt quan tâm gìn giữ và nâng cao bản sắc văn hóa dân tộc, kế thừa và phát huy
truyền thống đạo đức, tập quán tốt đẹp và lòng tự hào dân tộc, tiếp thu tinh hoa
các dân tộc trên thế giới, làm đẹp thêm nề văn hóa Việt Nam.

Thứ tư là, sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội trong sự
phát triển của chúng. Sự tác động của tồn tại xã hội, xét đến cùng, là nguyên
nhân làm hình thành và phát triển ý thức xã hội, nhưng trong lịch sử phát triển
của mình, các hình thái ý thức xã hội cũng tác động lẫn nhau. Đây là một qyu
luật phát triển của ý thức xã hội làm cho mỗi hình thái ý thức xã hội có những
mặt, những tính chất không thể giải thích được một cách trực tiếp bằng toonft ại
xã hội hay bằng các điều kiện vật chất. lịch sử phát triển của ý thức xã hội cho
thấy, ở mỗi thời đại, tùy theo những hoàn cảnh lịch sử cụ thể mà thường có
những hìn mthais ý thức nào đó nổi lên hàng đầu và tác động mạnh đến các hình
thái ý thức khác, Ví dụ, ở Hy Lạp cổ đại, triết học và nghệ thuật đóng vai trò
đặc biệt to lớn; còn ở Tây Âu Trung cổ thì tôn giáo ảnh hưởng mạnh mẽ đến
mọi mặt tinh thần của xã hội. Ở giai đoạn lịch sử sau này thì ý thức chính trị lại
đóng vai trò to lớn tác động mạnh đến các hình thái ý thức xã hội khác. Như
vậy, khi phân tích một hình thái ý thức xã hội nào đó thì không nên chỉ chú ý
đến các điều kiện kinh tế, xã hội đã sinh ra nó và những yếu tố nó kế thừa được
trong ý thức của các thời đại trước mà còn phải chú ý đến ự tác động lên nó của
các hình thái ý thức khác. Tuy nhiên tính độc lập của ý thức xã hội ở đây cũng
chỉ là tương đối, vì bản thân sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội
xét đến cùng vẫn là do những nhân tố vaatn chất khách quan quyết định.
Thứ năm là, ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội
Chủ nghĩa duy vật lịch sử không những chống lại quan điểm duy tâm
tuyện đối hóa vai trò của ý thức xã hội, mà còn bác bỏ quan điểm duy vật tầm
thường, chủ nghĩa duy kinh tế,… là những quan điểm không thấy hoặc phủ
nhận tác dụng tích cực của ý thức xã hội trong đời sống xã hội. Ph.Ăngghen viết
“ Sự phát triển của chính trị, pháp luật, triết học, tôn giáo, văn học, nghệ


thuật,v..v.. đều dựa trên sự phát triển kinh tế. Nhưng tất cả chúng cũng có ảnh
hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng đến cơ sở kinh tế”.
Sự tác động trở lại của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội diễn ra với

nhiều khuynh hướng: nó có thể thúc đẩy tồn tại xã hội phát triển phù hợp với
quy luật, mang tính tích cực, nhanh hơn và ngược lại. Xu hướng, phạm vi, cấp
độ và hiệu quả tác động của ý thức xã hội với tồn tại xã hội phụ thuộc vào nhiều
yếu tố. Trong đó có nhũng yếu tố cơ bản như:
Một là trình độ phản ánh cuae ý thức xã hội đói với tồn tại xã hội
Khi ý thức xã hội phản ánh đúng đắn quy luật vận động của tồn tại xã hội,
phản ánh đúng đắn nhu cầu phát triển của tồn tịa xã hội. khi ý thức xã hội mang
tính khoa học, tiến bộ sẽ góp phần thúc đẩy tồn tại xã hội phát triển và ngược
lại. Cũng do đó, ở đây cần phân biệt vai trò của ý thức tư tưởng tiến bộ và ý
thức tư tưởng phản tiến bộ đối với sự phát triển xã hội
Hai là, vai trò lịch sử của giai cấp mang ngọn cờ tư tưởng
Sự phát triển của xã hội phụ thuộc vào nhận thức và hành động của con
người trong đó giai cấp mang ngọn cờ tư tưởng ( giai cấp giữ vai trò là chủ thể
lãnh đạo xã hội ) giữ vai trò quan trọng. Nó thể hiện trong việc xây dựng, định
hướng quan niệm, tư tưởng, giá trị,…cho cộng đồng; trong việc tuyên truyền,
giáo dục, quảng bá ý thức xã hội; trong việc vận dụng, phát huy vai trò ý thức
xã hội
Ba là, mức độ ảnh hưởng của ý thức xã hội trong quảng đại quần chúng
Ý thức xã hội chỉ có thể phát huy vai trò, sức mạnh của nó khi chi phối
nhận thức, hành động vủa con người, của quảng đại quần chúng. C.Mác nhấn
mạnh:”… lý luận cũng sẽ trở thàng lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhậm
vào quần chúng”
Ngoài ra, xu hướng, pham vi, cấp độ và hiệu quả tác động của ý thức xã
hội với tồn tại xã hội còn phụ thuộc vào mức độ tương tác qua lại giữa các yếu
ttos tham gia vào quá trình đó
Ý nghĩa phương pháp luận
Tồn tịa xã hội và ý thức xã hội là hai mặt thống nhất biện chứng của đời
sống xã hội. Do vậy, công cuộc cải tạo xã họi cũ, xây dựng xã hội mới phải
được tiến hành trên cả hai phương tiện này của đời sống xã hội. Đồng thời, cần
phải thấy rằng, thay đổi tốn tại xã hội là điều kiện cơ bản nhất để thay đổi ý thức

xã hội; rằng, không chỉ những biến đổi trong đời sống tinh thần xã hội, mà cả
những tác động của đời sống tinh thần xã hội, với những điều kiện xác định,
cũng có thể tạo ra những biến đổi mạnh mẽ, sâu sắc trong tồn tại xã hội
Quán triệt nguyên tắc phương pháp luận này trong công cuộc đổi mới đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, một mặt, chúng ta
phải ra sức xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc, coi trọng cuộc đấu tranh trong lĩnh vực tư tưởng – chính trị, phát
huy vai trò tác động tích cực của đời sống xã hội đối với quá trình xây dựng và
phát triern nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; mặc khác, phải tránh tái sai lầm chủ quan


duy ý chí trong xây dựng và phát triển văn hóa, xây dựng và phát triển con
người Việt Nam. Đồng thời, chúng ta cần thấy rằng, chỉ có thể thật sự tạo dựng
được đời sống tinh thần của xã hội chủ nghĩa trên cơ sở thực hiện thành công sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Câu 3 (tổ 1)
ĐỒNG CHÍ HÃY PHÂN TÍCH CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUAN ĐIỂM
TOÀN DIỆN. Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA QUAN ĐIỂM
NÀY?
A. Cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện:
Phép biện chứng duy vật là phương pháp triết học duy vật biện chứng và
các khoa học nói chung. Là cơ sở của nhận thức lý luận tự giác, phép biện
chứng duy vật là phương pháp dùng để nghiên cứu toàn diện và sâu sắc những
mâu thuẫn trong sự phát triển của hiện thực, đưa lại chìa khoáđể nghiên cứu
tổng thể những quá trình phức tạp của tự nhiên, xã hội và tư duy. Vì vậy, phép
biện chứng duy vật được áp dụng phổ biến trong lĩnh vực và có vai trò quyết
định trong sự vật, hiện tượng. Phép biện chứng duy vật không chỉđưa ra hướng
nghiên cứu chung, đưa ra các nguyên tắc tiếp cận sự vật, hiện tượng nghiên cứu
màđồng thời còn làđiểm xuất phát đểđánh giá những kết quảđạt được.

Cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện là nguyên lý về mối liên hệ phổ
biến - một trong hai nguyên lý cơ bản của phép duy vật biện chứng. Đây là một
phạm trù của phép biện chứng duy vật dùng để chỉ sự quy định, tác động qua
lại, sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật hiện tượng hay giữa các mặt của một
sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan
1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Triết học Mác khẳng định: Cơ sở của mối liên hệ giữa các sự vật, hiện
tượng là thuộc tính thống nhất vật chất của thế giới. Các sự vật, hiện tượng dùđa
dạng và khác nhau đến mấy thì chúng chỉ là những dạng tồn tại khác nhau của
một thế giới duy nhất là vật chất mà thôi. Ngay bản thân ý thức vốn không phải
là vật chát nhưng cũng chỉ là sự phát triển đến đỉnh cao của một thuộc tính, của
một dạng vật chất có tổ chức cao nhất là bộóc con người, nội dung của ý thức có
mối liên hệ chặt chẽ với thế giới bên ngoài.
Theo triết học Mác, mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng là khách quan
vốn có của bản thân chúng, đồng thời mối liên hệ còn mang tính phổ biến và
tính phổ biến ấy được thể hiện ở những vấn đề sau đây:
- Xét về mặt không gian, mỗi sự vật hiện tượng là một chỉnh thể riêng biệt,
song chúng tồn tại không phải trong trạng biệt lập tách rời tuyệt đối với các sự
vật hiện tượng khác. Ngược lại, trong sự tồn tại của mình thì chúng tác động lẫn


nhau và nhận sự tác động của các sự vật hiện tượng khác. Chúng vừa phụ thuộc
nhau, chếước nhau, làm tiền đề cho nhau tồn tại và phát triển. Đó chính là hai
mặt của quá trình tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng
Trong đời sống xã hội ngày nay không có một quốc gia, dân tộc nào mà
không có mối quan hệ, liên hệ với quốc gia, dân tộc khác về mọi mặt của đời
sống xã hội. Đây chính là sự tồn tại, phát triển cho mỗi quốc gia, dân tộc. Trên
thế giới đã vàđang xuất hiện xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá mọi mặt của
đời sống xã hội. Các quốc gia dân tộc ngày càng phụ thuộc lẫn nhau, tác động
lẫn nhau trên con đường phát triển của mình.

- Xét về mặt cấu tạo, cấu trúc bên trong của sự vật hiện tượng thì mỗi sự
vật hiện tượng đều được tạo thành bởi nhiều nhân tố, nhiều bộ phận khác nhau
và các nhân tố, bộ phận đó không tồn tại riêng lẻ mà chúng được tổ chức sắp
xếp theo một lôgíc nhất định, trật tự nhất định để tạo thành chỉnh thể. Mỗi biện
pháp, yếu tố trong đó mà có vai trò vị trí riêng của mình, lại vừa tạo điều kiện
cho các bộ phận, yếu tố khác. Nghĩa là giữa chúng có sựảnh hưởng, ràng buộc
tác động lẫn nhau, sự biến đổi bộ phận nào đó trong cấu trúc của sự vật hiện
tượng sẽảnh hưởng đến bộ phận khác vàđối với cả chỉnh thể sự vật, hiện tượng.
- Xét về mặt thời gian, mỗi một sự vật hiện tượng nói riêng và cả thế
giới nói chung trong sự tồn tại, phát triển của mình đều phải trải qua các giai
đoạn, các thời kỳ khác nhau và các giai đoạn đó không tách rời nhau, có liên hệ
làm tiền đề cho nhau, sự kết thúc của giai đoạn này làm mởđầu cho giai đoạn
khác tiếp theo. Điều này thể hiện rõ trong mối liên hệ giữa quá khứ - hiện tại tương lai (hiện tại chẳng qua là bước tiếp theo của quá khứ và là bàn đạp cho
tương lai).
- Quan điểm duy vật biện chứng không chỉ khẳng định tính khách
quan, tính phổ biến vốn có của sự liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng, các quá
trình mà nó còn nêu rõ tính phong phú, đa dạng và phức tạp của mối liên hệ qua
lại đó. Khi nghiên cứu hiện thực khách quan có thể phân chia mối liên hệ thành
từng loại khác nhau tuỳ tính chất phức tạp hay đơn giản, phạm vi rộng hay hẹp,
trình độ nông hay sâu, vai trò trực tiếp hay gián tiếp… khái quát lại có những
mối liên hệ sau đây: mối liên hệ bên trong - bên ngoài, chủ yếu - thứ yếu, chung
- riêng, trực tiếp - gián tiếp, bản chất - không bản chất, ngẫu nhiên- tất nhiên.
Trong đó có những mối liên hệ bên trong, trực tiếp, chủ yếu, bản chất và tất
nhiên bao giờ cũng giữ vai trò quan trọng, quyết định cho sự tồn tại và phát
triển của sự vật, hiện tượng.
2. Từ việc nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ của các sự vật, hiện
tượng chúng ta rút ra quan điểm toàn diện trong việc nhận thức, xem xét
các sự vật hiện tượng cũng như trong hoạt động thực tiễn.
- Về mặt nhận thức, khi nghiên cứu sự vật, hiện tượng phải đặt nó trong
mối liên hệ tác động qua lại với những sự vật, hiện tượng khác và cần phải phát



hiện ra những mối liên hệ giữa các bộ phận, yếu tố, các thuộc tính, các giai đoạn
khác nhau của bản thân sự vật.
Lênin đã khẳng định: "Muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao
quát và nghiên cứu tất cả các mặt của mối liên hệ và quan hệ của sự vật đó". Để
nhận thức đúng được sự vật, hiện tượng cần phải xem xét nó trong mối liên hệ
với nhu cầu thực tiễn, ứng với mỗi thời kỳ, giai đoạn, thế hệ thì con người bao
giờ cũng chỉ phản ánh được số lượng hữu hạn các mối liên hệ. Vì vậy tri thức về
các sự vật, hiện tượng chỉ là tương đối, không đầy đủ và cần phải được hỏi
chúng ta phải phát hiện ra không chỉ là mối liên hệ của nó mà còn phải biết xác
định phân loại tính chất, vai trò, vị trí của mỗi loại liên hệđối với sự phát triển
của sự vật. Cần chống cả lại khuynh hướng sai lầm phiến diện một chiều, cũng
nhưđánh giá ngang bằng vị trí của các loại quan hệ.
-Về mặt thực tiễn, quan điểm toàn diện đòi hỏi để cải tạo sự vật, hiện
tượng cần làm thay đổi mối liên hệ bên trong của sự vật, hiện tượng cũng như
mối liên hệ giữa sự vật, hiện tượng đó với sự vật, hiện tượng khác. Muốn vậy,
cần phải xác định, sử dụng đồng bộ các phương pháp, các biện pháp, phương
tiện để giải quyết sự vật. Mặt khác, quan điểm toàn diện đòi hỏi trong hoạt động
thực tiễn cần phải kết hợp chính sách dàn đều và chính sách có trọng tâm, trọng
điểm. Vừa chúý giải quyết về mặt tổng thể vừa biết lựa chọn những vấn đề
trọng tâm để tập trung giải quyết dứt điểm tạo đà cho việc giải quyết những vấn
đề khác.
Đối lập với quan điểm biện chứng toàn diện thì quan điểm siêu hình
xemxét sự vật, hiện tượng một cách phiến diện. Nó không xem xét tất cả các
mặt, các mối liên hệ của sự vật, hiện tượng; hoặc xem mặt này tách rời mặt kia,
sự vật này tách rời sự vật khác.
Quan điểm toàn diện cũng khác với chủ nghĩa chiết trung và thuật nguỵ
biện. Chủ nghĩa chiết trung thì kết hợp các mặt một cách vô nguyên tắc, kết hợp
những mặt vốn không có mối liên hệ với nhau hoặc không thể dung hợp được

với nhau. Thuật nguỵ biện cường điệu một mặt, một mối liên hệ; hoặc lấy mặt
thứ yếu làm mặt chủ yếu.
Trong thời kỳđẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới của cách mạng Việt
Nam hiện nay, nếu không phân tích toàn diện những mối liên hệ, tác động sẽ
không đánh giáđúng tình hình nhiệm vụ cụ thể của đất nước trong từng giai
đoạn cụ thể và do vậy không đánh giá hết những khó khăn, những thuận lợi
trong việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng đất nước theo mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Nhận thức và quán triệt quan điểm toàn diện trong lãnh đạo sự nghiệp đổi
mới của đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định cần phải đổi mới toàn
diện các lĩnh vực của đời sống xã hội, chú trọng tăng trưởng kinh tếđi liền với
thực hiện công bằng xã hội, giải quyết những vấn đề xã hội, đẩy mạnh công
nghiệp hoá - hiện đại hoá, đi tới bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc, vừa chủđộng


hội nhập kinh tế quốc tế, vừa giương cao ngọn cờđộc lập tự chủ, an ninh quốc
phòng… trong đó xác định phát triển kinh tế là trọng tâm.
Trong khi khẳng định tính toàn diện, phạm vi bao quát tất cả các mặt, các
lĩnh vực của quá trình đổi mới. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng
cũng đồng thời coi đổi mới tư duy lý luận, tư duy chính trị về chủ nghĩa xã hội
là khâu đột phá, trong khi nhấn mạnh sự cần thiết phải đổi mới cả lĩnh vực kinh
tế lẫn lĩnh vực chính trị, Đảng ta cũng xem đổi mới kinh tế là trọng tâm. Có thể
khẳng định đây là sự vận động và quán triệt quan điểm toàn diện trong lãnh đạo
sự nghiệp đổi mới vàđem lại những thắng lợi to lớn cho sự nghiệp đổi mới của
cách mạng Việt Nam. Đất nước ta trong giai đoạn quáđộđi lên chủ nghĩa xã hội
bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa với nền sản xuất nhỏ, điều kiện kinh tế còn
rất nhiều khó khăn. Để lãnh đạo thành công sự nghiệp đổi mới đất nước, Đảng
ta đã kết hợp chặt chẽ giữa "chính sách dàn đều" và"chính sách trọng điểm",
trong đó xác định phát triển kinh tế là trọng tâm.
Thực tiễn những năm đổi mới ở nước ta mang lại nhiều bằng chứng xác

nhận tính đúng đắn của những quan điểm trên. Khi đề cập tới những vấn đề này,
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định: "Xét trên tổng
thể, Đảng ta bắt đầu công cuộc đổi mới từđổi mới về tư duy chính trị trong việc
hoạch định đường lối và chính sách đối nội, đối ngoại. Không có sựđổi mới đó
thì không có mọi sựđổi mới khác. Song, Đảng ta đãđúng khi tập trung trước hết
vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụđổi mới kinh tế, khắc phục khủng hoảng
kinh tế - xã hội, tạo điều kiện cần thiết về vật chất và tinh thần để giữ vững ổn
định chính trị, xây dựng và củng cố niềm tin của nhân dân, tạo thuận lợi đểđổi
mới các mặt khác nhau của đời sống xã hội".
Chúng ta có thể thấy sự ổn định, đứng vững và từng bước phát triển của
đất nước trước những biến cố của thế giới đặc biệt là sự sụp đổ của Liên Xô và
các nước Đông Âu để thể hiện rõ sự đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta trong
lãnh dạo sự nghiệp đổi mới. Chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu
bị sụp đổ đó là sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội tập trung, quan liêu, bao
cấp, chứ không phải là chủ nghĩa xã hội với tư cách là một xã hội cao hơn chủ
nghĩa tư bản. Nước ta đã có một thời kỳ chìm sâu trong cơ chế tập trung, quan
liêu, bao cấp và một loạt những điều chỉnh trong thời kỳ đổi mới của Đảng và
Nhà nước đã đưa đất nước dần thoát khỏi tình trạng nghèo đói, đời sống của
người dân được nâng cao.
Quan điểm toàn diện còn được Đảng ta nhận thức và quán triệt ngay trong
chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là việc Đảng và Nhà nước vẫn thừa nhận vai
trò tích cực của các thành phần kinh tế khác cũng như thừa nhận sự tồn tại của
hình thức sở hữu tư nhân. Tuy nhiên, trong đó Đảng ta vẫn đặc biệt nhấn mạnh
và coi trọng hình thức sở hữu công cộng với vai trò chủ đạo là thành phần kinh
tế quốc doanh trong cơ chế thị trường hiện nay, đặc biệt là trong điều kiện nước


ta đã trở thành thành viên chính thức của WTO, đây là một thách thức rất lớn
đối với một nước có thể nói là chậm phát triển, lạc hậu như Việt Nam chúng ta.

Và như thế, việc nhận thức và quán triệt tốt nguyên tắc toàn diện của Đảng có ý
nghĩa rất lớn đối với sự nghiệp đổi mới của nước ta trong thời gian tới. Việt
Nam sẽ là nơi thu hút rất lớn vốn đầu tư của nước ngoài cũng như chúng ta sẽ
trở thành đối tác của rất nhiều quốc gia kể từ khi gia nhập WTO, điều đó có
nghĩa việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Dảng và Nhà nước phải có chính sách, đường
lối phù hợp để thành phần kinh tế quốc doanh vẫn giữ được vai trò chủ đạo, tạo
đà cho sự phát triển của đất nước, đồng thời, bên cạnh đó với việc đầu tư của
các tập đoàn tư bản nước ngoài vào Việt Nam thì việc đưa ra những chính sách
điều chỉnh nhằm ổn định, phát triển kinh tế đất nước là nhiệm vụ quan trọng đặt
ra trước mắt chúng ta. Việc kết hợp chặt chẽ "chính sách dàn đều" và "chính
sách trọng điểm" có ý nghĩa rất quan trọng trong lãnh đạo sự nghiệp đổi mới
của Đảng ta thời gian tới.
Từ những điểm trình bày trên đây có thể rút ra kết luận rằng, quá trình hình
thành quan điểm toàn diện đúng đắn với tư cách là nguyên tắc phương pháp
luận để nhận thức sự vật và sự vận dụng, quán triệt nguyên tắc trên của Đảng
trong sự nghiệp đổi mới đất nước đã đem lại rất nhiều thành công, đưa đất nước
phát triển đi lên với mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh".
B. Ý nghĩa phương pháp luận của quan điểm này:
1) Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta nhận thức về sự vật trong mối liên
hệ qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật và
trong sự tác động qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác, kể cả mối liên hệ
trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận thức đúng
về sự vật.
Chẳng hạn, muốn nhận thức đúng và đầy đủ tri thức của khoa học triết học,
chúng ta còn phải tìm ra mối liên hệ của tri thức triết học với tri thức khoa học
khác, với tri thức cuộc sống và ngược lại, vì tri thức triết học được khái quát từ
tri thức của các khoa học khác và hoạt động của con người, nhất là tri thức
chuyên môn được chúng ta lĩnh hội. Đồng thời, quan điểm toàn diện đòi hỏi

chúng ta phải biết phân biệt các mối liên hệ, phải biết chú ý đến các mối liên hệ
bên trong, mối liên hệ bản chất, mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ tất nhiên ... để
hiểu rõ bản chất của sự vật và có phương pháp tác động phù hợp nhằm đem lại
hiệu quả cao nhất trong sự phát triển của bản thân. Đương nhiên, trong nhận
thức và hành động, chúng ta cần lưu ý tới sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các mối
liên hệ ở những điều kiện xác định. Trong quan hệ giữa con người với con
người, chúng ta phải biết ứng xử sao cho phù hợp với từng con người. Ngay cả
quan hệ với một con người nhất định ở những không gian khác nhau hoặc thời


gian khác nhau, chúng ta cũng phải có cách giao tiếp, cách quan hệ phù hợp như
ông cha đã kết luận: “đối nhân xử thế”.
2) Trong hoạt động thực tế, theo quan điểm toàn diện, khi tác động vào sự
vật, chúng ta không những phải chú ý tới những mối liên hệ nội tại của nó mà
còn phải chú ý tới những mối liên hệ của sự vật ấy với các sự vật khác. Đồng
thời chúng ta phải biết sử dụng đồng bộ các biện pháp, các phương tiện khác
nhau để tác động nhằm đem lại hiệu quả cao nhất. Để thực hiện mục tiêu : “dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, một mặt chúng ta phải
phát huy nội lực của đất nước ta; mặt khác phải biết tranh thủ thời cơ, vượt qua
thử thách do xu hướng quốc tế hoá mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và toàn cầu
hoá kinh tế đưa lại. Từ quan điểm toàn diện trong sự xem xét chúng ta đi đến
nguyên tắc đồng bộ trong hành động thực tiễn: để cải tạo một sự vât bao giờ
chúng ta cũng phải áp dụng đồng bộ một hệ thống những biện pháp nhất định.
Tuy nhiên cũng như đã nói ở trên, đồng bộ không có nghĩa là dàn đều, bình
quân mà trong từng buớc, từng giai đoạn phải nắm đúng khâu then chốt. Thực
hiện quan điểm toàn diện góp phần khắc phục bệnh phiến diện, một chiều chỉ
thấy một mặt mà không thấy nhiều mặt hoặc có khi tuy có chú ý đến nhiều mặt
nhưng không nhìn thấy được mặt bản chất của sự vật. Quan điểm toàn diện
cũng góp phần khắc phục lối suy nghĩ giản đơn.
3) Quan điểm toàn diện còn có ý nghĩa trong việc Khắc phục những điểm

còn tồn tại:
+ Khắc phục cách nhìn phiến diện (chỉ nhìn nhận một hoặc một vài liên hệ,
đánh giá cào bằng những đặc trưng khác nhau);
Quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện không chỉ ở chỗ nó
chú ý tới nhiều mặt, nhiều mối kiên hệ. Việc chú ý tới nhiều mặt, nhiều mối liên
hệ của sự vật vẫn có thể là phiến diện, nếu chúng ta đánh giá ngang nhau những
thuộc tính, những tính quy định khác nhau của sự vật được thẻ hiện trong những
mối liên hệ khác nhau đó. Quan điểm toàn diện chân thực đòi hỏi chúng ta phải
đi từ tri thức về nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự vật đến chỗ khái quát đẻ rút
ra cái bản chất chi phối sự tồn tại và phát triển của sự vật hay hiện tượng đó.
+ Khắc phục tình trạng nguỵ biện (biến cái không cơ bản thành cơ bản);
Thuật ngụy biện cũng để ý tới những mặt,những mối liên hệ khác nhau
nhau của sự vật,nhưng lại đưa cái không cơ bản thành cái cơ bản,cái không có
bản chất thành cái bản chất.
+ Khắc phục tình trạng chiết trung (gắn kết những nhân tố không có liên hệ
nội tại với nhau thành một chỉnh thể).
Tuy cũng tỏ ra chú ý tới nhiều mặt khác nhau,nhưng lại kết hợp một cách
vô nguyên tắc những cái hết sức khác nhau thành một hình ảnh không đúng về
sự vật.Chủ nghĩa chiết trung không biết rút ra mặt bản chất,mối liên hệ căn bản


cho nên rơi vào chỗ cào bằng các mặt, kết hợp một cách vô nguyên tắccác mối
liên hệ khácnhau, do đó, hoàntoàn bất lực khi cầnphải có quyết sáchđúng đắn.
Với tư cách là nguyên tắc phương pháp luận trong hoạt động thực
tiễn, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến đòi hỏi để cải tạo được sự vật, chúng ta
phải bằng hoạt động thực tiễn của mình biến đổi những mối liên hệ nội tại của
sự vật cũng như những mối lên hệ qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác.
Muốn vậy, phải sử dụng đồng bộ nhiều biện pháp, nhiều phương tiện khác
nhau để tác động nhằm thay đổi những liên hệ tương ứng.
Trong cải tạo thế giới: việc quán triệt quan điểm toàn diện sẽ giúp cho việc

đánh giá, nhận xét, nhìn nhận sự vật hiện tượng một cách hệ thống đồng bộ,
đồng thời nắm vững bối cảnh, quá trình biến đổi của sự vật hiện tượng và xu
hướng phát triển của sự vật hiện tượng, từ đó có hệ thống các chính sách, biện
pháp, phương tiện tác động phù hợp, trong đó có những khâu đột phá, trọng
tâm, trọng điểm; đồng thời có tính mềm dẻo, linh hoạt khi tình hình thay đổi.

Câu 4 (tổ 1)
QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN VỀ BẢN CHẤT CON
NGƯỜI? Ý NGHĨA CỦA NÓ VỚI VIỆC PHÁT HUY NHÂN TỐ CON
NGƯỜI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY?
Quan niệm của triết học Mác - Lênin về bản chất con người gồm những
nội dung cơ bản sau:
a. Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã
hội.
Triết học Mác đã kế thừa quan niệm về con người trong lịch sử triết học,
đồng thời khẳng định con người hiện thực là sự thống nhất giữa yếu tố sinh học
và yếu tố xã hội.
Tiền đề vật chất đầu tiên quy sự tồn tại của con người là sản phẩm của thế
giới tự nhiên. Con người tự nhiên là con người mang tất cả bản tính sinh học,
tính loài. Yếu tố sinh học trong con người là điều kiện đầu tiên quy định sự tồn
tại của con người. Vì vậy, giới tự nhiên là “thân thể vô cơ của con người”. Con
người là một bộ phận của tự nhiên.
Tuy nhiên, điều cần khẳng định rằng, mặt tự nhiên không phải là yếu tố
duy nhất quy định bản chất con người. Đặc trưng quy định sự khác biệt giữa con
người với thế giới loài vật là mặt xã hội. Trong lịch sử đã có những quan niệm
khác nhau phân biệt con người với loài vật, như con người là động vật sử dụng


công cụ lao động. Là “một động vật có tính xã hội”, hoặc con người động vật có
tư duy.

Những quan niệm nêu trên đều phiến diện chỉ vì nhấn mạnh một khía
cạnh nào đó trong bản chất xã hội của con người mà chưa nêu lên được nguồn
gốc của bản chất xã hội ấy.
Với phương pháp biện chứng duy vật, triết học Mác nhận thức vấn đề con
người một cách toàn diện, cụ thể, trong toàn bộ tính hiện thực xã hội của nó, mà
trước hết là vấn đề lao động sản xuất ra của cải vật chất.
Với phương pháp luận duy vật biện chứng, chúng ta thấy rằng quan hệ
giữa mặt sinh học và mặt xã hội, cũng như nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội
trong mỗi con người là thống nhất. Mặt sinh học là cơ sở tất yếu tự nhiên của
con người, còn mặt xã hội là đặc trưng bản chất để phân biệt con người với loài
vật. Nhu cầu sinh học phải được nhân hoá để mang giá trị văn minh của con
người, và đến lượt nó, nhu cầu xã hội không thể thoát ly khỏi tiền đề của nhu
cầu sinh học. Hai mặt trên thống nhất với nhau, hoà quyện vào nhau để tạo
thành con người viết hoa, con người tự nhiên - xã hội.
b. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà
những quan hệ xã hội.
Từ những quan niệm đã trình bày ở trên, chúng ta thấy rằng, con người
vượt lên thế giới loài vật trên cả ba phương diện khác nhau: quan hệ với tự
nhiên, quan hệ với xã hội và quan hệ với chính bản thân con người. Cả ba mối
quan hệ đó, suy đến cùng đều mang tính xã hội, trong đó quan hệ xã hội giữa
người với người là quan hệ bản chất, bao trùm tất cả các mối quan hệ khác và
mọi hoạt động trong chừng mực liên quan đến con người.
Điều cần lưu ý là khẳng định bản chất xã hội không có nghĩa là phủ nhận
mặt tự nhiên trong đời sống con người; trái lại, điều đó muốn nhấn mạnh sự
phân biệt giữa con người và thế giới động vật trước hết là ở bản chất xã hội và
đấy cũng là để khắc phục sự thiếu sót của các nhà triết học trước Mác không
thấy được bản chất xã hội của con người. Mặt khác, cái bản chất với ý nghĩa là
cái phổ biến, cái mang tính quy luật chứ không thể là duy cái duy nhất. Do đó
cần phải thấy được các biểu hiện riêng biệt, phong phú và đa dạng của mỗi cá
nhân về cả phong cách, nhu cầu và lợi ích trong cộng đồng xã hội.

c. Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử.
Không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con
người. Bởi vậy, con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hoá lâu dài của
giới hữu sinh. Song, điều quan trọng hơn cả là: con người luôn luôn là chủ thể
của lịch sử - xã hội.
Nhưng lịch sử ấy không phải do chúng làm ra và trong chừng mực mà
chúng tham dự vào việc làm ra lịch sử ấy thì điều đó diễn ra mà chúng không hề


biết và không phải do ý muốn của chúng. Ngược lại, con người càng cách xa
con vật, hiểu theo nghĩa hẹp của từ này bao nhiêu thì con người lại càng tự mình
làm ra lịch sử của mình một cách có ý thức bấy nhiêu”.
Như vậy, với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn,
tác động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động
phát triển của lịch sử xã hội. Thế giới loài vật dựa vào những điều kiện có sẵn
của tự nhiên. Con người thì trái lại, thông qua hoạt động thực tiễn của mình để
làm phong phú thêm thế giới tự nhiên, tái tạo lại một tự nhiên thứ hai theo mục
đích của mình. Trong quá trình cải biến tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử
của mình. Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra
lịch sử của chính bản thân con người. Không có hoạt động của con người thì
cũng không tồn tại quy luật xã hội, và do đó, không có sự tồn tại của toàn bộ
lịch sử xã hội loài người. Không có con người trừu tượng, chỉ có con người cụ
thể trong mỗi giai đoạn phát triển nhất định của xã hội.
Vì vậy, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải
làm cho hoàn cảnh ngày càng mang tính người nhiều hơn. Hoàn cảnh đó chính
là toàn bộ môi trường tự nhiên và xã hội tác động đến con người theo khuynh
hướng phát triển nhằm đạt tới các giá trị có tính mục đích, tự giác, có ý nghĩa
định hướng giáo dục. Thông qua đó, con người tiếp nhận hoàn cảnh một cách
tích cực và tác động trở lại hoàn cảnh trên nhiều phương diện khác nhau: hoạt
động thực tiễn, quan hệ ứng xử, hành vi con người, sự phát triển của phẩm chất

trí tuệ và năng lực tư duy, các quy luật nhận thức hướng con người tới hoạt
động vật chất. Đó là biện chứng của mối quan hệ giữa con người và hoàn cảnh
trong bất kỳ giai đoạn nào của lịch sử xã hội loài người.
Vận dụng quan điểm triết học Mác về bản chất của con người để phân
tích tầm quan trọng của nhân tố con người trong nền kinh tế tri thức
Ở nước ta, từ đại hội Đảng lần thứ III đến nay Đảng ta luôn xác định công
nghiệp hóa là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ.Muốn thoát khỏi tình trạng
nghèo nàn, lạc hậu, nâng cao đời sống nhân dân...thì không còn con đường nào
khác là chúng ta phải đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa -hiện đại hóa. Để
làm được như vậy thì một vấn đề cần được đặt lên hàng đầu đó là vấn đề phát
triển lực lượng sản xuất, nâng cao kỹ thuật, công nghệ, và trong đó đặc biệt là
phát triển nguồn nhân lực.
2. Việc xây dựng và phát huy vai trò và nhân tố con người ở nước ta
hiện nay
a. Những đặc trưng cơ bản của con người mới XHCN
Quán triệt những quan điểm của CN Mác-Lênin và tư tưởng HCM về vấn đề
con người, Đảng ta luôn coi con người là mục tiêu, là nhân tố quyết định của
công cuộc CNH – HĐH đất nước. Con người XHCN là sản phẩm của mối quan
hệ kinh tế - xã hội của xã hội XHCN, nó từng bước hình thành trong mọi lĩnh


vực của đời sống xã hội cùng với quá trình phát triển kinh tế - văn hóa – xã hội.
Bác Hồ nói: muốn xây dựng CNXH trước hết cần có con người XHCN. Đó là
con người có những đặc trưng cơ bản sau:
Một là, con người XHCN là con người có ý thức, có trình độ, năng lực làm
chủ và đồng thời được tạo điều kiện để thực hiện năng lực làm chủ của mình.
Hai là, con người XHCN là con người lao động kiểu mới, am hiểu công
việc của mình làm, có sức khỏe, lao động có kỷ thuật, có kỷ luật đồng thời có
trách nhiệm trong công việc của mình làm, biết hưởng thụ và biết gắn lợi ích cá
nhân với lợi ích tập thể và lợi ích XH.

Ba là, con người XHCN là con người có lối sống VH và tình nghĩa.
Bốn là, con người XHCN là con người có lòng yêu nước, yêu CNXH, có
tình thương yêu giai cấp, tình yêu thương đồng loại, có tinh thần quốc tế chân
chính của giai cấp công nhân.
b. Nhân tố con người
Trong Chiến lược phát triển KT-XH đến năm 2010, Đảng ta xác định phát
huy nhân tố con người có ý nghĩa quyết định và quan trọng nhất. Nhân tố con
người là tổng thể các yếu tố thuộc về thể chất và tinh thần, về trình độ chuyên
môn, về tay nghề, về phẩm chất đạo đức, về vị thế xã hội … tạo nên năng lực
của con người mà năng lực đó nếu biết phát huy sử dụng tốt, nó sẽ trở thành
động lực to lớn thúc đẩy xã hội phát triển. Thực chất của việc phát huy nhân tố
con người ở nước ta hiện nay là nâng cao chất lượng cuộc sống cho con người
và phát huy vai trò của nó cho sự nghiệp phát triển KT-XH của đất nước.
c. Những phương hướng chủ yếu phát huy vai trò nhân tố con người ở
nước ta trong giai đoạn hiện nay:
Nước ta hiện nay đang trong thời kỳ chuyển mình sang phát triển nền KT
hàng hóa nhiều thành phần, vấn đề con người luôn được Đảng và Nhà nước ta
quan tâm phát triển. Song trong thực tế vẫn còn một số vấn đề về con người ở
từng nơi, từng lúc có những tình trạng cần phải quan tâm khắc phục, để phát
huy vai trò nhân tố con người ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta đã
đề ra một số phương hướng chủ yếu sau:
- Một là, xây dựng và thực hiện một chính sách XH đúng đắn và phù hợp vì
lợi ích của con người, do con người hay vì hạnh phúc con người.
- Hai là, Phát triển nền KT hàng hóa nhiều thành phần có sự quản lý của
Nhà nước theo định hướng XHCN, nền KT đó phải đảm bảo vừa là phương
thức nền tảng để phát huy vai trò khai thác nhân tố con người có hiệu quả nhất,
vừa là điều kiện để mỗi cá nhân bộc lộ những khả năng, năng khiếu của mình.
- Ba là, Xây dựng Nhà nước pháp quyền vững mạnh, bảo đảm cuộc sống an
toàn cho mọi người và an ninh cho xã hội. Ngăn chặn và trừng trị có hiệu quả
những hành vi xâm phạm đến tài sản, phẩm giá của từng cá nhân trong cộng



đồng; bảo vệ người lao động, trừng trị những người vì lợi ích trước mắt của cá
nhân mình mà làm tổn hại đến sức khỏe người khác;.
- Bốn là, Thực hiện cuộc cách mạng XHCN trên lĩnh vực văn hóa tinh thần,
tạo điều kiện xây dựng cho người lao động có một đời sống tinh thần lành
mạnh, phong phú.
- Năm là, xây dựng và thực hiện giá trị, thang bậc giá trị của người lao động
trong đời sống xã hội để khuyến khích các cá nhân hoạt động tích cực, sáng tạo;
nhằm thực hiện việc phân phối một cách tốt nhất, hạn chế thái độ ỷ lại, trông
chờ hay lao động không chân chính.
Tóm lại, trên cơ sở lý luận của CN Mác-Lênin về con người, trong tiến trình
cách mạng Đảng ta đã từng bước đề ra mục tiêu xây dựng con người XHCN ở
nước ta. Các Văn kiện Đại hội IV, V và VI của Đảng ta đã xác định những đặc
trưng cơ bản của con người mới XHCN là: con người lao động kiểu mẫu, có
tinh thần và năng lực làm chủ, có tinh thần yêu nước và tinh thần quốc tế vô
sản, có lối sống lành mạnh, trong sáng, văn minh.
Câu 5 (tổ 2)
ĐỒNG CHÍ HÃY PHÂN TÍCH CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUAN ĐIỂM PHÁT
TRIỂN. Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA QUAN ĐIỂM NÀY?
1. Cơ sở lý luận của nguyên tắc phát triển là nội dung nguyên lý về sự
phát triển.
Sự vận động và sự phát triển
- Vận động là thuộc tính cố hữu, là phương thức tồn tại của vật chất; vận động
được hiểu như sự thay đổi nói chung. “Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất,
tức được hiểu là một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu
của vật chất, thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong
vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”.
- Phát triển là khuynh hướng vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến
phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn, do mâu thuẫn trong bản thân

sự vật gây ra. Phát triển là một khuynh hướng vận động tổng hợp của hệ thống
sự vật, trong đó, sự vận động có thay đổi những quy định về chất (thay đổi kết
cấu – tổ chức) của hệ thống sự vật theo khuynh hướng tiến bộ giữ vai trò chủ
đạo; còn sự vận động có thay đổi những quy định về chất của sự vật theo xu
hướng thoái bộ và sự vận động chỉ có thay đổi những quy định về lượng của sự
vật theo xu hướng ổn định giữ vai trò phụ đạo, cần thiết cho xu hướng chủ đạo
trên.
+ “Hai quan điểm cơ bản…về sự phát triển (sự tiến hóa): sự phát triển coi như


là giảm đi và tăng lên, như lập lại; và sự phát triển coi như sự thống nhất của
các mặt đối lập. Quan điểm thứ nhất thì chết cứng, nghèo nàn, khô khan. Quan
điểm thứ hai là sinh động. Chỉ có quan điểm thứ 2 mới cho ta chìa khóa của “sự
vận động”, của tất thảy mọi cái “đang tồn tại”; chỉ có nó mới cho ta chìa khóa
của những “bước nhảy vọt”, của “sự gián đoạn của tính tiệm tiến”, của “sự
chuyển hóa thành mặt đối lập”, của sự tiêu diệt cái cũ và sự nảy sinh ra cái
mới”.
- Phát triển như sự chuyển hóa: giữa các mặt đối lập; giữa chất và lượng; giữa
cái cũ và cái mới; giữa cái riêng và cái chung; giữa nguyên nhân và kết quả;
giữa nội dung và hình thức; giữa bản chất và hiện tượng; giữa tất nhiên và ngẫu
nhiên; giữa khả năng và hiện thực.
- Phát triển là quá trình tự thân của thế giới vật chất, mang tính khách quan, phổ
biến và đa dạng: phát triển trong giới tự nhiên vô sinh; phát triển trong giới tự
nhiên hữu sinh; phát triển trong xã hội; phát triển trong tư duy, tinh thần.
Nội dung nguyên lý:
- Mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều không ngừng vận động và phát
triển.
- Phát triển mang tính khách quan – phổ biến, là khuynh hướng vận động tổng
hợp tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến
hoàn thiện hơn của một hệ thống vật chất, do việc giải quyết mâu thuẫn, thực

hiện bước nhảy về chất gây ra và hướng theo xu thế phủ định của phủ định.
2. Ý nghĩa phương pháp luận của quan điểm phát triển:
Quan điểm phát triển cũng là một trong những nội dung của phép biện
chứng duy vật, đồng thời là cơ sở lý luận của quan điểm phát triển, một quan
điểm khoa học đóng vai trò phương pháp luận trong việc nhận thức và cải tạo xã
hội.
Trong hoạt động nhận thức yêu cầu chủ thể phải:
- phải xem xét sự vật hiện tượng trong quá trình vận động, phát triển không
ngừng
- Phát hiện những xu hướng biến đổi, chuyển hóa, những giai đoạn tồn tại của
bản thân sự vật trong sự tự vận động và phát triển của chính nó;
- Xây dựng được hình ảnh chỉnh thể về sự vật như sự thống nhất các xu hướng,


những giai đoạn thay đổi của nó; từ đó phát hiện ra quy luật vận động, phát triển
(bản chất) của sự vật.
Trong hoạt động thực tiễn yêu cầu chủ thể phải:
- Chú trọng đến mọi điều kiện, khả năng…tồn tại của sự vật để nhận định đúng
các xu hướng, những giai đoạn thay đổi có thể xảy ra đối với nó;
- Thông qua hoạt động thực tiễn, sử dụng nhiều công cụ, phương tiện, biện pháp
thích hợp (mà trước hết là công cụ, phương tiện, biện pháp vật chất) để biến đổi
những điều kiện, phát huy hay hạn chế những khả năng…tồn tại của sự vật
nhằm lèo lái sự vật vận động, phát triển theo hướng hợp quy luật và có lợi cho
chúng ta.
- phát triển không phải bao giờ cũng theo đường thẳng, mà theo con
đường “xoắn ốc”, vì vậy đứng trước khó khăn, thử thách chúng ta không được
nản chí.
- Quan điểm phát triển đòi hỏi chúng ta phải kiên quyết đấu tranh, chống
lại tư tưởng bảo thủ, trì trệ, không chịu đổi mới. Xem xét sự vật hiện tượng
trong trạng thái ngưng đọng. Thoả mãn với những cái đã có, an bài với trật tự

hiện có, không muốn xáo trộn, đổi mới. Thấy được tính phức tạp của đổi mới,
khắc phục những giản đơn siêu hình và sự phát triển. Có thái độ kiên quyết triệt
để trọng đổi mới (đối với cái cũ và cái mới ) tránh nữa vời ( kinh tế thị trường
đầy đủ, hiện đại). Giám chấp nhập “ bước lùi ”, “ Trả giá ” để có sự phát triển.
Đổi mới phải đảm bảo tính đồng bộ, có bước đi vững chắc và tránh cực đoan “
tả hoặc” , “hữu huynh”. Tránh nôn nóng đốt cháy giai đoạn ( ít chú ý sự biến
đổi về lượng) , hoặc bảo thủ trì trệ ( không chú ý tổ chức bước nhảy). Cảnh giác
với sự biến đổi về lượng. Phân biệt cái mới với cái mang tính hữu huynh, cái
mới được cái cũ khoát áo cái mới.
Nghiên cứu khuynh hướng của sự vận động, phát triển đòi hỏi chúng ta
phải biết phát hiện cái mới và nhân rộng cái mới lên. Lúc đầu cái mới có thể còn
“non yếu”, nhưng theo quy luật chung cái mới nhất định sẻ chiến thắng cái cũ,
cái lạc hậu; phủ định biện chứng mang tính kế thừa, do đó trong mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội cần phải biết kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống tốt
đẹp của dân tộc cũng như của nhân loại (nhất là trong điều kiện toàn cầu hóa và
hội nhập quốc tế hiện nay) để thúc đẩy sự tiến bộ xã hội. Mặc khác, phải chống
tư tưởng bảo thủ, trì trệ, không chịu đổi mới trong nhận thức và trong hoạt động
thực tiễn cũng như tư tưởng “hư vô chủ nghĩa”; tư tưởng “phủ định sạch trơn”,
tư tưởng chủ quan, nóng vội, đốt cháy giai đoạn.
Câu 6 (tổ 2)
TỪ BẢN CHẤT NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA, ĐỒNG CHÍ HÃY


LÝ GIẢI VÌ SAO ĐỀ RA BA NGUYÊN TẮC CƠ BẢN TRONG XÂY
DỰNG NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY?
Nói về nguồn gốc trực tiếp của sự xuất hiện và tồn tại của nhà nước,
V.I.LêNin viết: “Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai
cấp không thể điều hòa được. Bất cứ nơi đâu, hễ lúc nào và chừng nào mà, về
mặt khách quan, những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được thì nhà
nước xuất hiện. Và ngược lại: sự tồn tại của nhà nước chứng tỏ rằng mâu thuẫn

giai cấp là không thể điều hòa được”
Nhà nước về bản chất là quyền lực chính trị của giai cấp thống trị về mặt
kinh tế nhằm duy trì trật tự xã hội hiện hành, bảo vệ lợi tích của giai cấp thống
trị, trấn áp sự phản kháng của các giai cấp và tầng lớp xã hội khác. Khi nghiên
cứu nguồn gốc nhà nước ta thấy rằng nhà nước xuất hiện do 2 nguyên nhân:
nguyên nhân kinh tế (sự xuất hiện chế độ tư hữu) và nguyên nhân xã hội (sự
xuất hiện của giai cấp và mâu thuẫn giai cấp). Căn cứ vào đó có thể thấy bản
chất nhà nước được thể hiện ở hai mặt, đó là tính giai cấp của nhà nước và vai
trò xã hội.
a)Tính giai cấp:
Trong xã hội có hai giai cấp cơ bản là giai cấp thống trị và giai cấp bị
trị.Để thực hiện sự thống trị của mình, giai cấp thống trị phải tổ chức và sự dụng
nhà nước, củng cố và duy trì quyền lực về chính trị, kinh tế, tư tưởng đối với
toàn xã hội.Bằng nhà nước, giai cấp thống trị về kinh tế trở thành giai cấp thống
trị về chính trị. Nhờ nắm trong tay quyền lực nhà nước, giai cấp thống trị đã thể
hiện ý chí của mình qua nhà nước. Qua đó, ý chí của giai cấp thống trị trở thành
ý chí của nhà nước, mọi thành viên trong xã hội buộc phải tuân theo, hoạt động
trong một giới hạn và trật tự phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị.
Như vậy, Nhà nước do giai cấp thống trị lập ra, là một bộ máy cưỡng chế đặc
biệt, là công cụ duy trì sự thống trị của giai cấp thống trị, đàn áp giai cấp bị trị,
bảo vệ địa vị và lợi ích của giai cấp thống trị. Đó chính là tính giai cấp của nhà
nước.
b)Tính xã hội:
Trong nhà nước, giai cấp thống trị chỉ tồn tại trong mối quan hệ với các
tầng lớp giai cấp khác. Do vậy, ngoài tư cách là công cụ để duy trì sự thống trị,
nhà nước còn là công cụ để bảo vệ lợi ích chung của toàn xã hội. Nhà nước
không chỉ quan tâm đến lợi ích của giai cấp thống trị mà còn quan tâm đến lợi
ích của các tầng lớp khác.Giá trị xã hội mà nhước bảo vệ được thể hiện ngay
trong Hiến Pháp. Nhà nước ban hành các chính sách kinh tế vĩ mô, điều tiết,
điều phối các chính sách kinh tế - xã hội, đặc biệt trong nền kinh tế thị trường.

Nhà nước đầu tư, cung cấp hàng hóa dịch vụ xã hội cơ bản như: cấp phép, kiểm
dịch, kiểm định, giám sát, kiểm tra các lĩnh vực... Nhà nước giữ vai trò là người
bảo vệ những nhóm người yếu thế và dễ bị tổn thương trong xã hội như: người
già, trẻ em, người tàn tật…Nhà nước còn hoạt động trong các lĩnh vực bảo vệ
môi trường, giao thông, phòng chống thiên tai, bão lụt…


*Bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam:
Nhà nước XHCNViệt Nam ra đời không phải bằng cách “đập tan” nhà
nước cũ, mà trên cơ sở chuyển biến “từ nhà nước dân chủ nhân dân từng bước
tiến dần lên kiểu nhà nước XHCN”. Nhà nước dân chủ nhân dân và nhà nước
XHCN không đối lập nhau, về bản chất đều là nhà nước của dân, do dân và vì
dân, được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc
về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và tầng lớp trí thức do Đảng cộng sản lãnh đạo. Nhân dân là chủ thể tối cao
của quyền lực nhà nước, quyền lực nhà nước không nằm trong tay 1 cá nhân
hay 1 nhóm người nào trong xã hội. Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước
dưới nhiều hình thức, hình thức cơ bản nhất là thông qua Quốc hội và hội đồng
nhân dân các cấp do nhân dân trực tiếp bẩu ra.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam là của tất cả các dân tộc sống trên
lãnh thổ Việt Nam.Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở nguyên tắc
bình đẳng trong mối quan hệ giữa công dân với nhà nước.Nhà nước ta là nhà
nước dân chủ rộng rãi và thực sự.Dân chủ xã hội vừa là mục tiêu vừa là động
lực của Cách mạng xã hộiCN, là thuộc tính của nhà nước xã hộiCN.
Xuất phát từ bản chất của nhà nước XHCN Việt Nam là nhà nước của
dân, do dân, vì dân dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, do đó để xây
dựng nhà nước Việt Nam thực sự là nhà nước của dân, do dân, vì dân phải dựa
trên ba nguyên tắc cơ bản đó là:
Một là: Xây dựng nhà nước dưới hình thức nhà nước pháp quyền. Để thể
hiện và thực hiện đầy đủ bản chất quyền lực của mình, nhà nước XHCN phải

tồn tại dưới hình thức chế độ dân chủ.Hình thức chế độ dân chủ là hình thức bắt
buộc đối với nhà nước XHCN.Xây dựng nhà nước XHCN, chế độ dân chủ
XHCN ở nước ta là một quá trình lâu dài.
Bước vào đổi mới, nhận thức của Đảng ta về nhà nước pháp quyền ngày
càng đầy đủ hơn, rã ràng và cụ thể hơn và quyết tâm xây dựng nhà nước XHCN
dưới hình thức nhà nước pháp quyền cũng ngày càng cao hơn. Đặc trung cơ bản
của nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta đó là:
- Nhà nước của dân, do dân và vì dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân;
- Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm
soát chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp.
- Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật
và bảo đảm cho Hiến pháp và các đạo luật giữ vị trí tối thượng trong việc điều
chỉnh các quan hệ thuộc tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
- Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; nâng
cao trách nhiệm pháp lý giữa nhà nước và công dân; thực hành dân chủ, đồng
thời tăng cường kỷ cương, kỷ luật;


- Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam dó Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo, đồng thời đảm bảo sự giám sát của nhân dân.
Hai là: Xậy dựng nhà nước Việt nam phải phát huy được chức năng xã
hội trên cơ sở đảm bảo sự thống nhất giữa tính giai cấp và tính xã hội của nhà
nước.
Xét về bản chất, sứ mệnh của nhà nước XHCN là nhà nước có khả năng
thực hiện tốt các chức năng xã hội của mình.Nhà nước XHCN trong quá trình
thực hiện chức năng xã hội vượt qua được những trở ngại mà bất kể một nhà
nước bóc lột nào cũng không thể vượt qua được, trở ngại về sự đối kháng lợi
ích, mà trước hết là lợi ích kinh tế giữa giai cấp thống trị với quần chúng lao

động. Đảng ta luôn kiên trì quan điểm giai cấp trong xây dựng và đổi mới nhà
nước đồng tghowif chú trọng cải cách bộ máy nhà nước, đổi mới phương thức
hoạt động của nhà nước cho phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội.
Trong điều kiện nước ta hiện nay, để phát huy chức năng xã hội của Nhà
nước, Nhà nước điều hành nền kinh kinh tế bằng pháp luật, quy hoạch, kế hoạch
và cấc công cụ điều tiết trên cơ sở tôn trọng các quy luật thị trường. Xây dựng
đồng bộ, nâng cao chất lượng và tổ chức thực hiện có hiệu quả hệ thống pháp
luật, thể chế và các chính sách phát triển kinh tế xã hội. Tập trung xây dựng nền
hành chính nhà nước trong sạch, vững mạnh, đảm bảo quản lý thống nhất, thông
suốt, hiệu lực, hiệu quả…
Ba là: Xây dựng Nhà nước gắn liền với cuộc đấu tranh ngăn ngùa và
khắc phục bệnh quan liêu.
Nhà nước XHCN không dung hòa với chủ nghĩa quan liêu, bệnh quan
liêu. Quan liêu là hiện tượng xa lạ với bản chất của Nhà nước XHCN nhưng lại
là căn bệnh rất dễ phát sinh nhất là khi nhà nước đó chưa tồn tại trên cơ sở của
chính nó. Để đảm bảo nhà nước trong sạch, vững mạnh, phải kiên quyết đấu
tranh loại bỏ căn bệnh nguy hiểm này.Tuy nhiên, còn nhà nước là còn khả năng
quan liêu. Do đó, cuộc đấu tranh chống quan liêu đòi hỏi phải tiến hành thường
xuyên, bền bỉ và lâu dài.
Nói về quyết tâm trong cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, Văn
kiện Đại hội X chỉ rõ: “Tích cực phòng ngừa và kiên quyết chống tyham nhũng,
lãng phí là đòi hỏi bức xúc của xã hội, là quyết tâm chính trị của Đảng ta, nhằm
xây dụng một bộ máy lãnh đạo, quản lý trong sạch, vững mạnh, khắc phục một
trong những nguy cơ lớn đe dọa sự sống còn của chế độ ta”. Tuy nhiên đến Đại
hội XI, Đảng vẫn thấy rằng: “Quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm
trọng, với biểu hiện tinh vi, phức tạp, chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, gây bức
xúc xã hội” và khẳng định phải tiếp tục đẩy mạnh chống quan liêu, tham nhũng.
Câu 7 (tổ 2)
NỘI DUNG NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ



THỰC TIỄN? Ý NGHĨA CỦA NGUYÊN TẮC NÀY TRONG VIỆC
KHẮC PHỤC BỆNH KINH NGHIỆM CỦA CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN CỦA
NƯỚC TA HIỆN NAY?
1. Nội dung nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn theo chủ
nghĩa Mác – Lê Nin:
- Thực tiễn và lý luận
Về hoạt động thực tiễn là hoạt động bản chất của con người. Con người
nhờ hoạt động thực tiễn là hoạt động có mục đích, có tính xã hội của mình mà
cải tạo thế giới để thỏa mãn nhu cầu của mình, và để làm chủ thế giới. Trong
qúa trình hoạt động thực tiễn con người đã tạo ra được một “thiên nhiên thứ
hai” của mình, một thế giới của văn hóa tinh thần và vật chất, những điều kiện
mới cho sự tồn tại và phát triển của con người vốn không có sẵn trong tự nhiên.
Vì vậy, không có hoạt động thực tiễn, con người và xã hội loài người không thể
tồn tại và phát triển được. Thực tiễn là phương thức tồn tại cơ bản của con
người và xã hội, là phương thức đầu tiên, chủ yếu của mối quan hệ giữa con
người và thế giới.
Con người quan hệ với thế giới không phải bắt đầu bằng lý luận mà bằng
thực tiễn. Chính từ trong qúa trình hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới mà nhận
thức của con người được hình thành, phát triển. Thông qua hoạt động thực tiễn
con người tác động vào thế giới buộc thế giới phải bộ lộ ra những thuộc tính,
những tính quy luật để con người nhận thức chúng. Thoát ly thực tiễn, nhận
thức đã thoát ly khỏi mảnh đất hiện thực nuôi dưỡng nó phát triển vì thế không
thể đem lại những tri thức sâu sắc, xác thực, đúng đắn về sự vật, sẽ không có
khoa học, không có lý luận.
Trong qúa trình hoạt động cải biến thế giới, con người cũng biến đổi luôn
cả bản thân mình, thực tiễn rèn luyện các giác quan của con người làm cho
chúng tinh tế hơn, trên cơ sở đó phát triển tốt hơn. Nhờ đó con người ngày càng
đi sâu vào nhận thức thế giới, khám phá những bí mật của nó, làm phong phú và
sâu sắc tri thức của mình về thế giới. Thực tiễn còn đề ra những nhu cầu, nhiệm

vụ, phương hướng phát triển của nhận thức, vì thế nó luôn thúc đẩy sự ra đời
của các ngành khoa học.
- Về Lý luận là sản phẩm cao của nhận thức của sự phản ánh hiện thực
khách quan. Trong hệ thống các khái niệm, phạm trù, các nguyên lý và các quy
luật tạo nên lý luận, quy luật là hạt nhân của lý luận, là sản phẩm của qúa trình
nhận thức nên bản chất của lý luận là hình ảnh chủ quan của thế giới khách
quan, là sự phản ánh một cách gần đúng đối tượng nhận thức.
Lý luận là trình độ cao hơn về chất so với kinh nghiệm. Tri thức lý luận là
tri thức khái quát tri thức kinh nghiệm. Lý luận được hình thành trên cơ sở tổng
kết kinh nghiệm, nhưng không phải mọi lý luận đều trực tiếp xuất phát từ kinh
nghiệm. Do tính độc lập tương đối của nó, lý luận có thể đi trước những dữ kiện


×