Tải bản đầy đủ (.doc) (183 trang)

Hoạt động của Tòa án nhân dân trong phòng ngừa tội phạm do người chưa thành niên thực hiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (687.22 KB, 183 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện của Đảng
Cộng sản Việt Nam, tình hình kinh tế, văn hoá, xã hội của đất nước có bước
phát triển; đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện; an ninh chính trị
được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo; công tác phòng, chống
các loại tội phạm và công tác phòng, chống tội phạm do người chưa thành
niên thực hiện được Đảng, Nhà nước, các cơ quan, tổ chức và toàn thể xã hội
hết sức quan tâm. Việc phòng, chống tội phạm nói chung và phòng, chống tội
phạm do người chưa thành niên thực hiện nói riêng là hoạt động nhằm khắc
phục loại trừ nguyên nhân, điều kiện của tội phạm và tìm ra biện pháp ngăn
chặn, xử lý các tội phạm đã và đang xảy ra trong xã hội, là vấn đề quan tâm
không chỉ của Việt Nam mà của tất cả các quốc gia trên thế giới.
Trong cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, Lê Nin đã nói “giành chính
quyền đã khó, giữ chính quyền còn khó hơn”; cái khó mà Lê Nin đã đề cập
đến không chỉ là cái khó trong công cuộc đấu tranh chống những kẻ thù hiện
hữu, không chỉ khó trong việc xây dựng nền tảng kinh tế, xã hội mà còn khó ở
việc xây dựng nếp sống mới, xây dựng ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa cho
nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ những em chưa thành niên.
Có thể nói vấn đề tội phạm do NCTN thực hiện đã được đề cập đến
trong nhiều văn bản, chỉ thị, nghị quyết của Đảng, Nhà nước mà biểu hiện tập
trung nhất trong các văn bản pháp luật như: Hiến pháp, Luật bảo vệ, chăm sóc
và giáo dục trẻ em, Luật hình sự, Luật tố tụng hình sự, Luật hôn nhân và gia
đình, Luật lao động, Chương trình quốc gia phòng chống tội phạm và đặc biệt
là Nghị quyết số 09/2008/NQ-CP ngày 31/7/1998 của Chính phủ “Về tăng
cường công tác phòng chống tội phạm trong tình hình mới”, trong đó Đề án 4:


2



“Đấu tranh phòng chống tội phạm xâm hại trẻ em và tội phạm trong lứa tuổi
vị thành niên” là tiền đề để phòng ngừa, hạn chế các điều kiện nảy sinh tội
phạm do NCTN thực hiện.
Vấn đề này đã lôi cuốn được sự quan tâm nghiên cứu của rất nhiều các
nhà khoa học, của những cán bộ công tác ở các cơ quan tư pháp, cơ quan bảo
vệ pháp luật; vì vậy đã có nhiều công trình nghiên cứu và bài báo khoa học
được công bố trên lĩnh vực đấu tranh phòng ngừa NCTN vi phạm pháp luật.
Các công trình đó tiếp cận vấn đề tội phạm do NCTN thực hiện ở những góc
độ khác nhau như trách nhiệm hình sự đối với NCTNPT; nguyên nhân, điều
kiện dẫn đến NCTNPT; khía cạnh tâm lý của tội phạm vị thành niên; thủ tục
tố tụng đối với NCTN; thực trạng NCTNPT; phòng ngừa NCTNPT; một số
công trình tập trung nghiên cứu phòng ngừa NCTNPT trong phạm vi một tỉnh
hoặc thành phố nào đó hoặc có công trình nghiên cứu hoạt động của lực
lượng Công an nhân dân trong phòng ngừa NCTNPT trong tình hình hiện
nay... nhưng chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu hoạt động của Tòa án
nhân dân trong phòng ngừa tội phạm do NCTN thực hiện. Đây là vấn đề lâu
nay ít được quan tâm, vì vậy đây cũng là vấn đề hết sức cấp thiết cần phải
được nghiên cứu để phục vụ cho công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm
nói chung và tội phạm do NCTN thực hiện nói riêng của TAND trong tình
hình hiện nay.
Mặc dù công tác đấu tranh phòng chống tội phạm trong thời gian qua đã
đạt được những kết quả to lớn. Song tình hình tội phạm nói chung, tội phạm
do NCTN thực hiện vẫn chưa có chiều hướng giảm và có diễn biến phức tạp
với tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội ngày càng cao. Điều đáng lo ngại
là sự gia tăng của tỷ lệ tội phạm NCTN. Theo số liệu của Vụ Thống kê - Tổng
hợp Tòa án nhân dân tối cao năm 2007, toàn quốc có 2.898 vụ với 4.087 bị
cáo CTN bị đưa ra xét xử thì năm 2013 cả nước có tới 4.204 vụ với 5.601 bị



3

cáo CTN bị đưa ra xét xử, tăng hơn 30% số vụ và 27% số bị cáo, đáng chú ý
số NCTN tụ tập thành băng, nhóm sử dụng dao, lê, mã tấu gây nhiều vụ án có
tính chất nghiêm trọng, gây bức xúc trong dư luận xã hội. Chỉ thị số 48/CTTW ngày 22/10/2010 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới đã nêu rõ “tình
trạng phạm tội trong thanh thiếu niên xảy ra ngày càng nhiều hơn, rất đáng lo
ngại…” [5, tr1] và được các đại biểu Quốc hội cho là "tội phạm chưa thành
niên ngày càng gia tăng và trở thành một hiện tượng xã hội". Tình trạng đó đặt
ra nhiệm vụ cấp bách cho Nhà nước và xã hội phải tập trung phát hiện, đấu
tranh, nghiên cứu để đưa ra những giải pháp hữu hiệu làm giảm tình hình tội
phạm ở NCTN.
Với hoạt động chính là xét xử, Toà án có nhiệm vụ chủ yếu là đấu tranh
chống tội phạm, vì vậy Toà án cũng phải có trách nhiệm nặng nề trong công tác
đấu tranh, phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm do NCTN thực hiện. Điều này đã
được ghi nhận trong Hiến pháp, Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Bộ luật hình sự
và Bộ luật tố tụng hình sự. Thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm cho thấy
vai trò quan trọng không thể thiếu của TAND trong lĩnh vực này. Tuy nhiên
trong hoạt động phòng ngừa, ngăn chặn còn bộc lộ những hạn chế, yếu kém đó
là: chưa nhận thức đầy đủ về tình trạng phạm tội ở lứa tuổi CTN; lâu nay Toà
án các cấp chỉ tập trung thực hiện hoạt động xét xử chưa chú ý đúng mức đến
hoạt động phòng ngừa; việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn đôi
khi còn kém hiệu quả; chưa có tổ chức chặt chẽ và phân công, phân cấp rõ ràng.
Chính vì vậy, trước những yêu cầu của công cuộc đấu tranh và phòng,
chống tội phạm do NCTN thực hiện với phương châm phòng ngừa là chính,
mà trong đó hoạt động phòng ngừa tội phạm do NCTN thực hiện theo chức
năng của TAND đang đòi hỏi có sự nghiên cứu đầy đủ, cụ thể, có luận cứ
khoa học, góp phần hoàn thiện về lý luận cũng như biện pháp nâng cao hiệu



4

quả hoạt động của TAND trong phòng ngừa tội phạm do NCTN thực hiện
ở nước ta.
Vì vậy, nghiên cứu sinh chọn đề tài “Hoạt động của Tòa án nhân dân
trong phòng ngừa tội phạm do người chưa thành niên thực hiện” làm luận
án Tiến sĩ Luật học nhằm góp phần giải quyết những vấn đề lý luận và thực
tiễn cấp bách nói trên.
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
- Mục đích: Nghiên cứu làm rõ lý luận và thực tiễn hoạt động của
TAND trong phòng ngừa tội phạm do NCTN thực hiện; trên cơ sở đó đề xuất hệ
thống giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của TAND trong phòng ngừa
tội phạm do NCTN thực hiện.
- Nhiệm vụ: Để thực hiện mục đích trên, nhiệm vụ của luận án là:
+ Làm rõ tổng quan tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan
đến vấn đề phòng ngừa tội phạm NCTN theo chức năng của TAND; đưa ra
những khái niệm về người chưa thành niên, tội phạm do NCTN thực hiện;
phân tích, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về hoạt động của TAND trong
phòng ngừa tội phạm NCTN thực hiện.
+ Khảo sát tình hình, đặc điểm tội phạm học của tội phạm do NCTN
thực hiện từ năm 2007 đến năm 2013; phân tích thực trạng hoạt động của
TAND trong phòng ngừa tội phạm do NCTN thực hiện đồng thời nhận xét,
đánh giá về những thuận lợi, ưu điểm và kết quả đạt được trong phòng ngừa
tội phạm do NCTN thực hiện; những khó khăn và hạn chế, thiếu sót; nguyên
nhân của những hạn chế, thiếu sót.
+ Dự báo về tình hình tội phạm do NCTN thực hiện và những yếu tố tác
động đến hoạt động phòng ngừa tội phạm NCTN của TAND trong thời gian tới;
đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của
TAND trong phòng ngừa tội phạm do NCTN thực hiện.



5

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
- Đối tượng nghiên cứu: Những vấn đề lý luận và thực tiễn hoạt động của
TAND các cấp trong phòng ngừa tội phạm do NCTN thực hiện.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Phạm vi về nội dung: Luận án chỉ giới hạn nghiên cứu hoạt động của
TAND các cấp trong phòng ngừa tội phạm do NCTN thực hiện. Trong phạm
vi này, luận án tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn hoạt
động của TAND các cấp trong phòng ngừa tội phạm do NCTN thực hiện và
đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của TAND trong
phòng ngừa tội phạm do NCTN thực hiện. Trong phạm vi nghiên cứu của
luận án chỉ nghiên cứu hoạt động phòng ngừa của TANDTC, các Tòa án
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Tòa án nhân dân các quận,
huyện, thành phố thuộc tỉnh, thành phố mà không nghiên cứu ở Tòa án
quân sự các cấp. Mặt khác giới hạn nghiên cứu người chưa thành niên, tội
phạm người chưa thành niên là những người có quốc tịch Việt Nam.
+ Phạm vi về địa bàn: Khảo sát trên toàn quốc trong đó tập trung ở
một số TAND tỉnh, thành phố được chọn phân bố cả 3 miền Bắc, Trung,
Nam và 3 khu vực thành phố, nông thôn và miền núi như Hà Nội, Hải
Phòng, Hà Nam, Điện Biên, Sơn La, Nghệ An, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí
Minh. Đồng thời tiến hành khảo sát ở một số Trại giam có số lượng phạm
nhân là NCTN cải tạo đông trực thuộc Tổng cục VIII, Bộ Công an như Trại
giam Ninh Khánh, Trại giam Hoàng Tiến, Trại giam Đồng Sơn, Trại giam
số 6, Trại giam Thủ Đức.
+ Thời gian nghiên cứu: Từ năm 2007 đến năm 2013.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận án được thực hiện trên phương pháp luận Chủ nghĩa Mác - Lê Nin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước về Nhà



6

nước và Pháp luật. Các quan điểm của Đảng về đấu tranh phòng ngừa tội
phạm trong giai đoạn hiện nay.
Các phương pháp cụ thể được sử dụng là phương pháp thống kê, tổng
hợp, phân tích, phương pháp so sánh, khảo sát thực tế, phương pháp nghiên
cứu xã hội học, tổng kết thực tiễn, phương pháp chuyên gia và kế thừa những
kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học liên quan đến phòng ngừa tội phạm.
5. Đóng góp về mặt khoa học của luận án
Từ những kết quả nghiên cứu, tác giả khẳng định đây là công trình khoa
học đầu tiên nghiên cứu toàn diện, có hệ thống về hoạt động của Tòa án trong
phòng ngừa tội phạm do NCTN thực hiện.
Luận án làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn hoạt động của TAND trong
phòng ngừa tội phạm do NCTN thực hiện; đề xuất hoàn thiện pháp luật cũng
như hướng dẫn áp dụng pháp luật góp phần nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội
phạm do NCTN thực hiện.
Đưa ra những giải pháp cơ bản về hoạt động của TAND trong phòng ngừa
tội phạm do NCTN thực hiện, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và xây dựng
Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Kết quả nghiên cứu luận án sẽ góp phần làm sáng tỏ lý luận về phòng
ngừa tội phạm do NCTN thực hiện của TAND. Đồng thời làm phong phú
thêm cơ sở khoa học về các hoạt động của TAND trong phòng ngừa tội phạm
do NCTN thực hiện đặc biệt góp phần xây dựng và hoàn thiện lý luận hoạt
động phòng ngừa tội phạm do NCTN thực hiện ở Việt Nam.
- Hệ thống các giải pháp được đề xuất trong luận án không chỉ nhằm
nâng cao hiệu quả hoạt động của TAND trong phòng ngừa tội phạm do
NCTN thực hiện, mà còn góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật có

liên quan đến phòng ngừa tội phạm do NCTN thực hiện.


7

Kết quả nghiên cứu của luận án có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng
cao nhận thức và áp dụng có hiệu quả của tác giả cũng như những người làm
công tác áp dụng pháp luật trong điều tra, truy tố, xét xử, phục vụ công tác
phòng ngừa tội phạm do NCTN thực hiện; là tài liệu tham khảo có giá trị
trong việc nghiên cứu và giảng dạy Lý luận chung về Nhà nước và Pháp luật,
pháp luật hình sự và pháp luật TTHS.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận án gồm 3 chương.
Chương 1 - Tổng quan tình hình nghiên cứu và lý luận về hoạt động của
Toà án nhân dân trong phòng ngừa tội phạm do người chưa thành niên thực
hiện.
Chương 2 - Đặc điểm tội phạm học của tội phạm do người chưa thành
niên thực hiện và thực trạng phòng ngừa theo chức năng, nhiệm vụ của Toà
án nhân dân.
Chương 3 - Dự báo và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Toà
án nhân dân trong phòng ngừa tội phạm do người chưa thành niên thực hiện.


8

Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT
ĐỘNG CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TRONG PHÒNG NGỪA TỘI
PHẠM DO NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN THỰC HIỆN
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án

1.1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
Có thể nói, vấn đề phòng ngừa tội phạm nói chung và phòng ngừa tội
phạm do NCTN thực hiện nói riêng đã trở thành một trong những nhiệm vụ
trọng tâm trong công tác tư pháp và được các quốc gia trên thế giới đặc biệt
quan tâm từ rất sớm. Vấn đề này đã được nhận định thống nhất giữa các
chương trình nghị sự của Liên hợp quốc cũng như các tổ chức quốc tế và các
nhà nghiên cứu về tầm quan trọng cũng như tác dụng, ý nghĩa của phòng
chống tội phạm. Trong Báo cáo nghiên cứu về vấn đề pháp chế và tư pháp
chuyển đổi trong các xã hội có chiến tranh hoặc sau chiến tranh, Tổng Thư ký
của Hội đồng bảo an của Liên hợp quốc đã chỉ ra rằng phòng chống tội phạm
là vấn đề quan trọng và cấp bách nhất của tư pháp hiện nay.
Một trong những nghiên cứu đáng chú ý về phòng ngừa tội phạm nói
chung, bao gồm phòng ngừa tội phạm do NCTN thực hiện là “Cẩm nang
Hướng dẫn phòng ngừa tội phạm của Văn phòng Liên hợp quốc về ma tuý và
tội phạm”. Cuốn sách này được xuất bản năm 2010 bởi các chuyên gia về
phòng chống tội phạm; trong đó đã tập trung phân tích các hướng dẫn liên
quan của Liên Hợp quốc được coi như là tiêu chuẩn về phòng, chống tội
phạm, bao gồm: “Hướng dẫn cho sự hợp tác và hỗ trợ kỹ thuật trong lĩnh vực
phòng ngừa tội phạm ở thành thị năm 1995”; “Hướng dẫn đối với phòng
ngừa tội phạm năm 2002 và những Nghị quyết của Hội đồng bảo an về việc
phòng ngừa tội phạm”. Các hướng dẫn này được phân tích trong mối liên hệ


9

đối với các kết quả của những nghiên cứu khoa học liên quan và kinh nghiệm
thực tiễn phòng ngừa tội phạm của các quốc gia thời gian gần đây. Trong
nghiên cứu này đã khẳng định rõ vai trò trung tâm và lãnh đạo của các cơ
quan Chính phủ trong việc phòng chống tội phạm. Tuy nhiên, do phạm vi
nghiên cứu rộng và nhằm để đưa ra hướng dẫn mở, có thể áp dụng linh hoạt

các quốc gia có hệ thống chính trị, bộ máy chính quyền cũng như pháp luật và
tập quán đa dạng nên cuốn sách này đã không đưa ra những hướng dẫn cụ thể
về vai trò hoạt động của mỗi cơ quan nhà nước nói chung hay của Toà án
trong việc phòng ngừa tội phạm do NCTN thực hiện nói riêng.
Nghiên cứu chuyên sâu về phòng ngừa NCTN vi phạm pháp luật có thể
kể đến đó là “Cẩm nang về phòng ngừa tội phạm và tội phạm chưa thành
niên”, xuất bản năm 1987 của E. Johnson [117]. Tác giả đã tập trung phân
tích, làm rõ các phương pháp phòng ngừa tội phạm và tội phạm CTN, sự phân
loại, cách tiếp cận phòng ngừa và những ảnh hưởng đối với NCTNPT đồng
thời khẳng định vai trò quan trọng của sự định hướng trong việc phòng ngừa
tội phạm và tội phạm CTN. Tác giả đã đưa ra quan điểm phòng ngừa tội
phạm nói chung và phòng ngừa tội phạm là người chưa thành niên nói riêng
phải được nghiên cứu dài hạn để có thể đưa ra các chỉ số làm cơ sở cho việc
so sánh và đánh giá hiệu quả của các chương trình phòng ngừa.
Công trình nghiên cứu về “Tư pháp người chưa thành niên và sự
phòng ngừa người chưa thành niên vi phạm pháp luật”, xuất bản năm 1995
của Geraldine Van Bueren [120]. Trong nghiên cứu này tác giả đã đưa ra khái
niệm về người chưa thành niên và NCTN vi phạm pháp luật đồng thời trên cơ
sở các chuẩn mực quốc tế về NCTN bị coi là phạm tội, tác giả đã đưa ra vấn
đề về xử lý NCTN vi phạm pháp luật theo hướng là nhân đạo, khuyến khích
phòng ngừa và áp dụng trình tự xử lý phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi của
NCTN. Đặc biệt tác giả đi sâu phân tích phương pháp phòng ngừa NCTN vi


10

phạm pháp luật trong đó khẳng định điều quan trọng của việc phòng ngừa
NCTN vi phạm pháp luật là sự định hướng, các chương trình cộng đồng, sự
linh hoạt trong việc phòng ngừa.
Các nghiên cứu chuyên sâu gồm: Phòng ngừa NCTN vi phạm pháp luật

theo lứa tuổi, xuất bản năm 1997 của hai tác giả Richard E. Trembly và
Mendy M. Craig [122]; Phòng ngừa sớm theo lứa tuổi đối với tội phạm chưa
thành niên, xuất bản năm 1994 của Davit P. Frarrington [119]; Can thiệp sớm
thời kỳ thơ ấu: Một sự phòng ngừa hiệu quả tội phạm CTN, xuất bản năm
1992 của Zingler Edward, Tausig Cra và Black Thathryn [118]. Các nghiên
cứu trên đều có chung một quan điểm về phương pháp phòng ngừa tội phạm
CTN đó là sự can thiệp sớm và những ảnh hưởng đối với NCTNPT trong đó
môi trường gia đình, nhà trường, các tổ chức xã hội... có tác động trực tiếp và
đóng vai trò rất quan trọng trong việc giáo dục, định hướng cho NCTN.
Từ những nội dung trên và qua kết quả nghiên cứu cho thấy chưa có
công trình khoa học nào nghiên cứu về hoạt động của TAND trong phòng
ngừa tội phạm do NCTN thực hiện. Vì vậy tác giả đi sâu phân tích văn bản
pháp luật quốc tế thực định, vì đây là nền móng được các quốc gia tập trung
nghiên cứu nhằm vận dụng vào quá trình xây dựng pháp luật và định hướng
cho quá trình xử lý NCTN vi phạm pháp luật ở nước mình. Trong số các văn
bản đó trước tiên phải kể đến Công ước về quyền trẻ em do Đại hội đồng Liên
hợp quốc thông qua ngày 20/11/1989 có hiệu lực ngày 02/9/1990 [35]. Đây là
văn kiện pháp lý có số thành viên lớn nhất phê chuẩn so với tất cả các Công
ước quốc tế khác đề cập tới một số khía cạnh về tư pháp NCTN và đưa ra các
quan điểm chung về bảo vệ quyền của các cá nhân liên quan đến lĩnh vực này.
Ngoài ra còn có ba văn kiện đề cập trực tiếp đến vấn đề tư pháp NCTN
được thông qua tại các Hội nghị của Liên hợp quốc do các chính phủ nhóm
họp 5 năm một lần về pháp luật liên quan đến công tác ngăn ngừa tội phạm và


11

đối xử với người phạm tội. Đó là các văn kiện:
1. Quy tắc tối thiểu phổ biến của Liên hợp quốc về việc áp dụng pháp
luật đối với NCTN (Quy tắc Bắc Kinh) do Đại hội đồng Liên hợp quốc thông

qua ngày 29/11/1985 [37];
2. Hướng dẫn Riyadh về việc phòng ngừa người chưa thành niên phạm tội
được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 14/12/1990 (gọi tắt là Hướng
dẫn Riyadh) [36];
3. Quy tắc tối thiểu phổ biến của Liên hợp quốc về bảo vệ người chưa
thành niên bị tước quyền tự do được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua
ngày 14/12/1990 (gọi tắt Quy tắc 1990) [38].
Ba văn kiện này có tính hướng dẫn đưa ra những khuyến nghị về việc
thiết lập một hệ thống tư pháp NCTN trong khuôn khổ pháp luật ở mỗi quốc
gia nhằm vừa tôn trọng quyền và bảo vệ trẻ em vừa duy trì trật tự, an toàn xã
hội. Do đó các văn kiện này giúp các quốc gia hoạch định chính sách về tư
pháp NCTN đồng thời để giải thích cách áp dụng trong thực tế những quy
định của Công ước về quyền trẻ em liên quan đến tư pháp NCTN.
Quy tắc Bắc Kinh đã đưa ra các khái niệm người chưa thành niên,
NCTN phạm pháp, khái niệm và mục tiêu của tư pháp NCTN. Theo đó tư
pháp NCTN là một bộ phận của nền tư pháp quốc gia bao gồm các quy định
pháp luật và việc áp dụng các quy định đó đối với NCTN phạm pháp do một
hệ thống các cơ quan tài phán và một đội ngũ những người tham gia vào các
hoạt động tư pháp thực hiện theo nguyên tắc coi hạnh phúc và sự cải tạo của
NCTN là mục tiêu hàng đầu đồng thời duy trì trật tự công cộng và đạo đức xã
hội, đảm bảo việc xử lý NCTN phạm pháp luôn phù hợp, tương xứng với
hoàn cảnh, động cơ và hành vi phạm pháp của họ.
Để thực thi một hệ thống tư pháp NCTN theo nghĩa trên, Công ước
quyền trẻ em đã xây dựng các chuẩn mực quốc tế về quyền của những trẻ em


12

bị tước quyền tự do (Điều 37) và của những trẻ em bị tình nghi, bị quy là phạm
tội (Điều 40), nhằm giúp hình thành ở mỗi quốc gia - thành viên một hệ thống

luật pháp, các thiết chế và các thủ tục tư pháp cũng như các biện pháp xử lý
phù hợp ngoài hệ thống tư pháp để áp dụng đối với trẻ em vi phạm pháp luật.
Khái niệm NCTN phạm pháp là chuẩn mực quan trọng để các quốc gia
xây dựng hệ thống pháp luật về NCTN phạm pháp ở quốc gia mình. Tuy
nhiên trên thực tế, ở các quốc gia khác nhau lứa tuổi chịu trách nhiệm hình sự
của NCTN được quy định cũng khác nhau. Nhưng nhìn chung chính sách
hình sự của các quốc gia là thống nhất phù hợp với định hướng chung của
pháp luật quốc tế nêu trên.
Các chuẩn mực quốc tế về trẻ em bị tước quyền tự do: Trẻ em bị tước
quyền tự do là trẻ em bị áp dụng bất kỳ hình thức giam giữ nào dù ở nơi giam
giữ chung hay giam giữ riêng hoặc bị bỏ tù mà vì bị như thế nên trẻ em không
được tự do rời bỏ nơi giam giữ trừ khi có quyết định của cơ quan tư pháp, cơ
quan hành chính hoặc một cơ quan công quyền khác (Quy tắc 1990).
Công ước quyền trẻ em quy định việc tước quyền tự do của trẻ em phải
tuân theo 3 điều kiện: phải được tiến hành theo quy định của pháp luật; phải
là biện pháp cuối cùng và chỉ được áp dụng trong thời gian thích hợp ngắn
nhất (Điều 37b).
Quy tắc 1990 được xây dựng trên cơ sở Điều 37 của Công ước Quyền
trẻ em, với mục tiêu thiết lập những tiêu chuẩn tối thiểu để bảo vệ NCTN bị
tước quyền tự do, làm giảm bớt những tác động không có lợi do mọi hình
thức giam giữ gây ra và nhằm khuyến khích sự hòa nhập xã hội của NCTN.
Đối với NCTN bị bắt giữ hoặc tạm giam chờ xét xử: Nguyên tắc bao
trùm là NCTN phải được coi là vô tội và phải được đối xử như là người vô tội
(mục 17). Vì việc tước quyền tự do của NCTN phải được coi là biện pháp
cuối cùng và chỉ áp dụng trong thời hạn ngắn nhất, do đó Tòa án và Cơ quan


13

điều tra phải có những ưu tiên cao nhất cho quá trình xử lý khẩn trương

những vụ án này. Trong khi bị tạm giam, NCTN được giam giữ riêng, cách
biệt với người thành niên đã bị kết án và có các quyền:
1. Có Luật sư bào chữa và được thường xuyên tiếp xúc với Luật sư
của mình;
2. Được cung cấp, nếu có thể, các cơ hội tiếp tục có việc làm, được
nhận thù lao, tiền công, được tiếp tục đào tạo, giáo dục;
3. Được nhận và giữ các thứ phục vụ cho việc vui chơi, giải trí thích
hợp (mục 18).
Đối với NCTN đã bị kết án, để đảm bảo mục tiêu chính là cải tạo và
khuyến khích, tạo điều kiện để giúp NCTN tái hòa nhập xã hội sau khi chấp
hành án, Quy tắc 1990 quy định các bộ phận của công tác cải tạo là:
1. Giáo dục đào tạo (bao gồm cả giáo dục văn hóa và giáo dục nghề
thích hợp) theo những chương trình chuẩn quốc gia và một đội ngũ giáo viên
có đủ trình độ (mục 38-42);
2. Lao động tự nguyện, có trả lương, ở mức độ được phép và được đảm
bảo các tiêu chuẩn an toàn lao động nhằm hình thành thái độ đúng đắn, tích
cực đối với lao động và ở mức độ có thể, những kỹ năng có ích cho NCTN
sau khi rời trại (mục 43-46);
3. Giải trí, sinh hoạt tinh thần, tôn giáo và chăm sóc sức khỏe (mục 47-58);
4. Tôn trọng nhân phẩm, các quyền tinh thần, tình cảm (liên hệ với gia
đình, cộng đồng) (mục 59-62) và quyền sở hữu cá nhân của NCTN (mục 35-36);
5. Thu xếp và cung cấp các dịch vụ giúp NCTN tái hòa nhập thành
công vào cộng đồng (mục 79-80).
Quy tắc 1990 cũng đưa ra những tiêu chuẩn về môi trường, thiết kế nơi
ăn, ở trong trại giam (mục 31-34, 37); các quy trình, thủ tục tiếp nhận, đăng
ký, di chuyển, phân loại và sắp xếp nơi ở, quản lý hồ sơ (mục 19-28) cũng


14


như việc kỷ luật, điều tra và giải quyết khiếu nại của NCTN tại trại giam (mục
72-78) đồng thời khuyến nghị việc chuẩn hóa trình độ văn hóa, chuyên môn,
sức khỏe, đạo đức của những người làm việc tại trại giam NCTN (mục 81-87).
Tư tưởng chỉ đạo của Quy tắc 1990 là khuyến khích, hướng dẫn các
Nhà nước đưa các quy tắc này vào pháp luật quốc gia một cách thiện chí, phù
hợp với điều kiện kinh tế - văn hóa - xã hội hiện có ở từng nước.
Các chuẩn mực quốc tế về NCTN bị coi là phạm tội.
Điều 40 Công ước Quyền trẻ em quy định về quyền của trẻ em bị cho
là bị tố cáo hoặc bị công nhận là đã phạm tội.
Khoản 1 Điều 40 đưa ra 4 chuẩn mực hay 4 quy tắc chung về đối xử
với trẻ em phạm tội, đó là:
1. Đối xử theo cách thức phù hợp với việc cổ vũ phẩm cách và phẩm
giá của các em;
2. Tăng cường lòng tôn trọng của trẻ em đối với các quyền con người
và các quyền tự do cơ bản của người khác;
3. Phù hợp với lứa tuổi của trẻ em;
4. Thúc đẩy sự tái hòa nhập và vai trò của trẻ em trong xã hội.
Khoản 2 Điều 40 xác định 8 đảm bảo cho một quá trình tố tụng hợp lý
đối với trẻ em bị truy tố:
1. Luật hình sự không có hiệu lực hồi tố, nghĩa là đảm bảo không trẻ
em nào bị truy tố vì những hành vi mà pháp luật quốc gia và quốc tế không
cấm vào thời điểm thực hiện hành vi đó (mục a);
2. Được hưởng nguyên tắc suy đoán vô tội, nghĩa là trẻ em vẫn được
coi là vô tội cho tới khi bị chứng minh rằng đã phạm tội theo pháp luật quy
định (mục bI);
3. Trước khi bị đưa ra xét xử: Trẻ em phải được thông báo nhanh
chóng, trực tiếp về những điều bị buộc tội và phải được sự giúp đỡ về mặt


15


pháp lý hoặc sự giúp đỡ thích hợp khác để chuẩn bị trình bày sự bảo vệ của
mình (mục bII);
4. Tại phiên tòa xét xử: Trẻ em phải được sự giúp đỡ pháp lý để tham
gia cùng với cha mẹ hoặc người giám hộ pháp lý vào một cuộc tường trình,
thẩm vấn công bằng, đúng pháp luật trước một Hội đồng xét xử có thẩm
quyền, độc lập, vô tư và có khả năng ra quyết định một cách không chậm trễ
(mục bIII);
5. Đối với việc làm chứng: Trẻ em không bị ép buộc làm chứng hay
nhận tội; có quyền thẩm vấn hay nhờ người thẩm vấn những nhân chứng
chống lại mình đồng thời có quyền đưa ra những người làm chứng cho mình
trong những điều kiện bình đẳng (mục bIV);
6. Quyền được kháng cáo đối với những quyết định sơ thẩm để được
xét xử phúc thẩm bởi một Hội đồng xét xử có thẩm quyền cao hơn, độc lập và
vô tư (mục bV);
7. Quyền của trẻ em được có người phiên dịch miễn phí trong những
trường hợp cần thiết (mục bVI);
8. Quyền của trẻ em được giữ bí mật những điều riêng tư trong suốt quá
trình tố tụng (mục VII);
Phần II của Quy tắc Bắc Kinh về "Điều tra và truy tố" nêu những quy
tắc hành động từ phía các cơ quan có thẩm quyền ở các giai đoạn tố tụng
"trước Tòa án" này để đảm bảo các quyền của trẻ em bị tình nghi là phạm tội
như quy định tại Điều 40 (2) (b) của Công ước.
Phần III - "Xét xử và quyết định" nêu các quy tắc hành động của các cơ
quan có thẩm quyền tại giai đoạn xét xử và thi hành án nhằm đảm bảo các
quyền của trẻ em bị quy là phạm tội theo Điều 40 (2) (b). Các quy tắc đó
không mang tính áp đặt mà là những nguyên tắc chỉ đạo thực tế để lựa chọn
cách xử lý phù hợp nhất được quốc tế thừa nhận. Các quy tắc đó là:



16

- Xét xử trẻ em phạm tội theo những nguyên tắc của một phiên tòa
công bằng và bình đẳng với một không khí hiểu biết cho phép trẻ em tham gia
và tự do bày tỏ ý kiến (Quy tắc 14);
- Việc định tội và lượng hình phải luôn phù hợp với hoàn cảnh, động
cơ, nhu cầu của NCTN và yêu cầu của xã hội; trong các hình phạt: không
được kết án tử hình đối với bất cứ tội phạm NCTN nào, không được áp dụng
những hình phạt nhục hình đối với NCTN; chỉ quyết định hình phạt tước bỏ
tự do cá nhân vì hành vi nghiêm trọng có dùng bạo lực chống lại người khác
và trừ khi không có cách giải quyết thích hợp khác (Quy tắc 17).
Một đặc trưng không thể thiếu trong việc xét xử NCTN là cơ quan có
thẩm quyền có thể đình chỉ vụ án bất cứ lúc nào khi họ biết đến những tình
tiết của vụ án là căn cứ cho việc đình chỉ. Cần có nhiều biện pháp xử lý khác
nhau để tránh tối đa hình phạt giam giữ (Quy tắc 18).
Phần IV - Cách xử lý không giam giữ - nêu những quy tắc của các cơ
quan, tổ chức có liên quan để thi hành có hiệu quả những quyết định xử lý
không giam giữ do Tòa án tuyên.
Quy tắc cuối cùng là phải thiết lập cơ chế nghiên cứu làm cơ sở cho
việc lập kế hoạch, đề ra chính sách, thu thập và đánh giá thường xuyên, xác
đáng những cứ liệu và thông tin thích hợp để cải tiến công tác quản lý NCTN
phạm pháp (Quy tắc 30).
Tư pháp NCTN với việc tái hòa nhập xã hội
Quy tắc 1990 dành hai điều về việc "trở lại cộng đồng" của những
NCTN phạm pháp sau khi đã hết thời hạn bị tước quyền tự do. Mục tiêu của
các quy tắc này là giúp NCTN tái hòa nhập thành công trong cộng đồng.
Vấn đề phòng ngừa tội phạm do NCTN thực hiện: Theo Hướng dẫn
Riyadh, phòng ngừa phạm pháp ở NCTN là một bộ phận chính yếu của phòng
ngừa tội phạm trong xã hội. Quan điểm chỉ đạo toàn bộ vấn đề phòng ngừa



17

NCTN phạm pháp là phải coi trẻ em và phúc lợi của trẻ em là trung tâm của
bất cứ một chương trình phòng ngừa nào. Với cách hiểu rằng hành vi của trẻ
em không phù hợp với các chuẩn mực và giá trị xã hội chung thường chỉ là
một phần của quá trình trưởng thành và có xu hướng mất đi ở hầu hết mọi cá
nhân khi trở thành người lớn, cho nên, theo Hướng dẫn Riyadh: Phòng ngừa
NCTN phạm pháp là việc giúp các em có nguy cơ vi phạm cao phát triển các
thái độ không dẫn đến việc phạm pháp thông qua sự thu hút các em tham gia
vào các hoạt động hợp pháp, hữu ích về mặt xã hội với một định hướng và
cách nhìn nhân đạo đối với cuộc sống. Để làm việc này thành công đòi hỏi
những cố gắng của toàn xã hội thông qua các chương trình hành động cộng
đồng nhằm đảm bảo sự phát triển hài hòa về nhân cách của các em ngay từ
tuổi thơ ấu.
Xét theo quan điểm trên thì mặc dù Công ước Quyền trẻ em không có
điều khoản riêng quy định trực tiếp việc phòng ngừa trẻ em phạm tội nhưng
qua các Điều 5, 18, 19, 27 Công ước đã khẳng định trách nhiệm của cha, mẹ,
gia đình, người giám hộ, nhà trường và toàn cộng đồng trong việc hướng dẫn,
chỉ bảo trẻ em phát triển theo cách phù hợp với nhịp phát triển và khả năng
của trẻ em.
Dù là trong gia đình, nhà trường hay ngoài xã hội, một nguyên tắc
phòng ngừa NCTN phạm pháp được nhấn mạnh là vai trò tích cực, "tự cứu"
của bản thân cá nhân NCTN cũng như của tập thể, tổ chức thanh, thiếu niên
khi tham gia vào các chương trình của cộng đồng hoặc hưởng thụ các dịch vụ
hỗ trợ của Nhà nước.
Nhà nước chịu trách nhiệm ban hành và thực hiện các đạo luật để tiếp
tục bảo vệ tốt hơn quyền của trẻ em, để phòng ngừa việc đối xử tàn nhẫn, bóc
lột hay sử dụng NCTN vào các hoạt động tội phạm, để hạn chế NCTN tiếp
cận với những đối tượng và phương tiện gây tội, đặc biệt là với các chất gây



18

nghiện ma túy... Nhà nước chủ yếu giữ vai trò cung cấp các dịch vụ thiết yếu
cho NCTN trong các chương trình cộng đồng; huấn luyện các cán bộ thi hành
pháp luật và những người có liên quan làm quen và sử dụng đến mức tối đa
các chương trình chuyển hướng xử lý đưa NCTN ra ngoài hệ thống xét xử
chính thức. Nhà nước cũng chịu trách nhiệm nghiên cứu xây dựng các chính
sách và cơ chế phối hợp các cơ quan nhà nước, các tổ chức chuyên môn và xã
hội, kể cả tổ chức của thanh niên, trong các hoạt động phòng ngừa chung và
phòng ngừa NCTN phạm pháp.
Tóm lại: Công ước Quyền trẻ em và các văn bản quốc tế khác đã tạo
thành một hệ thống tương đối đầy đủ các chuẩn mực và các định hướng cho
các quốc gia xây dựng và thực hiện hệ thống tư pháp NCTN phù hợp với điều
kiện của từng nước từ khâu phòng ngừa đến xử lý và tái hòa nhập NCTN
phạm pháp về với cộng đồng.
Với việc thông qua các tiêu chuẩn, quy định và hướng dẫn quốc tế đã tạo
ra ảnh hưởng to lớn tới cách nhìn nhận của các quốc gia về trẻ em, cũng như
hoàn cảnh và nhu cầu của các em. Công ước về Quyền trẻ em của Liên hợp
quốc được hầu hết các quốc gia trên thế giới tham gia ký kết cho thấy đại bộ
phận các quốc gia trên thế giới đã thống nhất được với nhau trong cách nhìn
nhận những nhu cầu của trẻ em để các em đạt được tối đa tiềm năng phát triển
của mình cũng như vai trò của các Quốc gia thành viên trong việc đảm bảo an
toàn và cuộc sống tốt đẹp cho trẻ em. Trên cơ sở các tiêu chuẩn, quy định và
hướng dẫn quốc tế các quốc gia đã xây dựng hệ thống pháp luật và có đường
lối xử lý NCTN vi phạm pháp luật vừa phù hợp luật pháp quốc tế về quyền trẻ
em, vừa phục vụ nhiệm vụ của quốc gia mình.
Nói tóm lại nghiên cứu tình hình NCTN vi phạm pháp luật ở nước ngoài
tác giả đã đi sâu tìm hiểu các quy định pháp luật mang tính quốc tế, tìm hiểu

tổ chức bộ máy Toà án xét xử NCTN, một số quy định cơ bản nhất về trách


19

nhiệm hình sự của NCTN, đường lối xét xử đối với NCTN, hoạt động phòng
ngừa NCTNPT ở một số quốc gia trên thế giới. Bên cạnh đó tác giả đã đi sâu
nghiên cứu một số công trình về NCTN vi phạm pháp luật, về tội phạm là
NCTN, các biện pháp xử lý NCTN của một số tác giả ở Hàn Quốc, Nhật, Thái
lan, Philippin… Tựu chung việc xử lý NCTN vi phạm pháp luật trên bình
diện quốc tế đều theo xu hướng khuyến khích nhiều hơn những hoạt động
phòng ngừa, áp dụng những trình tự xử lý đặc biệt phù hợp với từng lứa tuổi
của NCTN; tuỳ thuộc vào trình độ nhận thức ở các lứa tuổi khác nhau, hạn
chế đến mức thấp nhất các chế tài mang tính giam giữ, trừng phạt.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Qua khảo sát các công trình khoa học đã công bố có liên quan đến đề tài
cho thấy chưa có công trình khoa học cấp Nhà nước, cấp Bộ cũng như các
luận án, luận văn nào nghiên cứu trực tiếp về đề tài hoạt động của TAND
trong phòng ngừa tội phạm do NCTN thực hiện. Những công trình khoa học
có liên quan gián tiếp đến đề tài luận án lại tương đối phong phú.
Trong cuốn sách chuyên khảo “Phòng ngừa người chưa thành niên
phạm tội” của các tác giả Vũ Đức Khiển, Bùi Hữu Hùng, Phạm Xuân Chiến,
Đỗ Văn Hãn, Trần Phàn, xuất bản năm 1987 [34] được coi là một trong
những nghiên cứu ban đầu ở Việt Nam về vấn đề NCTNPT, kết quả nghiên
cứu đã đánh giá tác động của môi trường gia đình, nhà trường và xã hội đối
với hiện tượng xã hội tiêu cực này đồng thời xác định môi trường xã hội
chính là nguyên nhân, điều kiện dẫn tới quá trình phạm tội của NCTN. Trên
cơ sở đó, nhóm tác giả đã đưa ra các biện pháp phòng ngừa tình trạng
NCTNPT.
Sách chuyên khảo “Phòng ngừa thanh thiếu niên phạm tội - Trách

nhiệm của gia đình, nhà trường và xã hội” của GS.TS Nguyễn Xuân Yêm và
các cộng sự, xuất bản năm 2004 [110] với kết quả nghiên cứu rất có giá trị, là


20

công trình nghiên cứu ở mức độ tổng quan, toàn diện các vấn đề liên quan đến
phòng, chống NCTNPT và giải quyết tổng thể các vấn đề liên quan đến đấu
tranh phòng, chống tội phạm NCTN đồng thời đặt ra những yêu cầu đối với
việc hoàn thiện các quy định của pháp luật đối với NCTNPT.
Cuốn sách chuyên khảo“Tội phạm do NCTN thực hiện trên địa bàn Hà
Nội, thực trạng và giải pháp” của tác giả Trịnh Quốc Toản chủ biên, xuất bản
năm 2007 [89]. Nội dung cuốn sách tác giả đã phân tích những vấn đề lý luận
về trách nhiệm hình sự, về phòng ngừa tội phạm NCTN; tiến hành điều tra
khảo sát tình hình tội phạm chưa thành niên trong các trại giam, trường giáo
dưỡng và những trường hợp thi hành án xong đã và đang tái hoà nhập cộng
đồng ở Hà Nội; thực trạng tình hình tội phạm, nguyên nhân, điều kiện và kết
quả đấu tranh phòng, chống tội phạm chưa thành niên ở các quận nội thành
Hà Nội giai đoạn 1994 - 2003. Đồng thời tác giả cũng đưa ra dự báo tình hình
tội phạm do NCTN thực hiện ở thành phố Hà Nội trong thời gian tới và hệ
thống các giải pháp đấu tranh phòng chống loại tội phạm này.
Luận án tiến sĩ luật học về đề tài “Phòng ngừa và đấu tranh với tội
phạm của người chưa thành niên trong điều kiện ngày nay ở Việt Nam” của
tác giả Nguyễn Xuân Thuỷ thực hiện năm 1997 [87]. Luận án là một trong
những công trình đầu tiên đánh giá tình hình tội phạm do NCTN thực hiện ở
giai đoạn 10 năm đầu của sự nghiệp đổi mới (1986 - 1996), với sự gia tăng
nhanh chóng của số lượng tội phạm, trong đó có tội phạm do NCTN thực
hiện. Luận án đã đưa ra các quan điểm và giải pháp quan trọng để phòng ngừa
và đấu tranh với tội phạm là NCTN.
Nghiên cứu luận án tiến sĩ luật học “Hoạt động của lực lượng Công

an nhân dân trong phòng ngừa người chưa thành niên phạm tội trong tình
hình hiện nay” do tác giả Đỗ Bá Cở thực hiện năm 2000 [18]. Kết quả nghiên
cứu luận án đã nêu lên và giải quyết những vấn đề lý luận cơ bản về


21

NCTNPT, hoạt động phòng ngừa NCTNPT, xác định rõ các chủ thể tham gia,
mối quan hệ phối hợp giữa các chủ thể và trách nhiệm là chủ thể trực tiếp,
nòng cốt của lực lượng Công an nhân dân. Trên cơ sở khảo sát thực trạng
NCTNPT và thực trạng hoạt động phòng ngừa NCTNPT của lực lượng Công
an nhân dân, luận án đã rút ra những nguyên nhân dẫn đến tình trạng
NCTNPT, đánh giá những ưu, khuyết điểm và nguyên nhân trong hoạt động
phòng ngừa NCTNPT chưa đạt hiệu quả trong những năm qua. Trên cơ sở
khoa học, tác giả đã dự báo xu hướng tội phạm chưa thành niên trong thời
gian tới, những vấn đề khách quan và chủ quan làm cho tình hình tội phạm ở
lứa tuổi này có diễn biến phức tạp đồng thời đưa ra phương hướng hoàn thiện
để nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa NCTNPT.
Luận án tiến sĩ luật học “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về thủ tục
tố tụng đối với người chưa thành niên trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam”
của tác giả Đỗ Thị Phượng thực hiện năm 2008 [51]. Luận án đã đề cập đến
những vấn đề lý luận và thực tiễn về thủ tục tố tụng đối với NCTN trong luật
tố tụng hình sự Việt Nam, các khái niệm về NCTN và thủ tục tố tụng hình sự
đối với NCTN. Luận án đã chỉ ra những đặc điểm của thủ tục tố tụng đối với
NCTN và mục đích đặt ra các quy định này đồng thời đã khái quát quá trình
phát triển của thủ tục tố tụng đối với NCTN.
Nghiên cứu Luận án tiến sĩ tâm lý học “Đặc điểm tâm lý của người
chưa thành niên có hành vi phạm tội” do tác giả Đặng Thanh Nga thực hiện
năm 2007 [45]. Luận án cung cấp nhiều tri thức về tâm lý học tư pháp đối với
NCTN có hành vi phạm tội qua các khảo sát về tâm lý NCTN trước, trong và

sau khi phạm tội. Luận án đã lý giải các vấn đề như tại sao NCTN có nguy cơ
cao bị lôi kéo, xúi giục phạm tội; tại sao NCTN có nguy cơ cao bị tổn thương
bởi các biện pháp cưỡng chế và tại sao có khả năng thành công cao trong việc
giáo dục, cải tạo NCTN.


22

Luận văn thạc sĩ Luật học “Trách nhiệm hình sự của người chưa
thành niên phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam” của Trần Văn Dũng thực
hiện năm 2003 [21]. Luận văn đã nêu lên các quy định về trách nhiệm hình
sự, các quy định về hình phạt, quyết định hình phạt đối với NCTN đồng thời
đã chỉ ra được cơ sở lý luận và thực tiễn của chính sách hình sự đối với
NCTN và có những nhận định trên phương diện lý luận và thực tiễn về vấn
đề miễn TNHS đối với NCTN thoã mãn các điều kiện quy định tại khoản 2
Điều 69 Bộ luật hình sự năm 1999.
Về tư pháp NCTN, có bài viết “Một số vấn đề về tư pháp người chưa
thành niên” của PGS, TS Trần Văn Độ - Phó Chánh án TAND tối cao [24];
tập hợp số bài viết về “Tăng cường năng lực hệ thống tư pháp người chưa
thành niên tại Việt Nam” của Viện khoa học pháp lý Bộ Tư pháp thực hiện
năm 2000 [101]; tổ chức triển khai dự án “Rà soát, đánh giá pháp luật, cơ sở
và thực tiễn xử lý chuyển hướng và tư pháp phục hồi đối với NCTN vi phạm
pháp luật ở Việt Nam” của Vụ Pháp luật hình sự - Hành chính Bộ Tư pháp
thực hiện năm 2007. Tạp chí nghiên cứu lập pháp số chuyên đề về đề tài này
(số 20 (136) tháng 12/2008) đã đăng những công trình nghiên cứu liên quan
của nhóm tác giả công tác tại Vụ Pháp luật hình sự - Hành chính Bộ Tư pháp,
như bài viết “Pháp luật Việt Nam về tư pháp NCTN” của ThS. Đặng Thanh
Sơn [72]; “Hoàn thiện pháp luật về xử lý chuyển hướng đối với NCTN vi
phạm pháp luật” của ThS. Đỗ Thuý Vân [107]; “Tư pháp phục hồi trong việc
xử lý NCTN vi phạm pháp luật” của ThS. Đỗ Hoàng Yến [111]; “Hệ thống

điều tra thân thiện đối với NCTN” của ThS. Phạm Văn Hùng [32]; “Tái hoà
nhập cộng đồng đối với NCTN vi phạm pháp luật” của tác giả Nguyễn Văn
Hoàn [33]. Các bài viết trên đã nghiên cứu tổng thể thực trạng tư pháp NCTN
ở Việt Nam, bước đầu đưa ra khái niệm tư pháp NCTN, pháp luật quốc tế về
tư pháp NCTN; chính sách, pháp luật của Việt Nam trong lĩnh vực tư pháp


23

NCTN trong đó nêu các nguyên tắc và đường lối xử lý NCTNPT ở Việt Nam
cũng như thủ tục tố tụng đối với NCTNPT ở Việt Nam.
Tình hình nghiên cứu các công trình, các đề tài khoa học cũng như các
bài viết đăng trên các tạp chí, các báo về vấn đề NCTNPT được tác giả sưu
tầm, tra cứu, nghiên cứu hết sức kỹ lưỡng. Những công trình tài liệu nghiên
cứu đó thực sự hữu ích trong việc sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho
việc nghiên cứu của tác giả.
Tổng hợp các vấn đề đã nghiên cứu ở ngoài nước cũng như trong nước
có thể rút ra một số vấn đề cơ bản sau đây:
Vấn đề thứ nhất, TAND là cơ quan có chức năng xét xử các vụ án hình
sự đối với bất kỳ loại tội phạm nào. Cùng với các cơ quan Điều tra, Viện kiểm
sát và các cơ quan hữu quan, TAND góp phần tích cực vào hoạt động phòng
ngừa tội phạm. Đặc biệt thông qua việc xét xử tại phiên toà, Hội đồng xét xử
không chỉ làm rõ hành vi phạm tội của bị cáo mà còn phát hiện tội phạm mới;
khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm thì trong phạm vi nhiệm vụ quyền hạn của
mình Toà án có trách nhiệm khởi tố vụ án hoặc yêu cầu Viện kiểm sát ra
quyết định khởi tố vụ án. Trong quá trình tiến hành tố tụng, Toà án có nhiệm
vụ tìm ra nguyên nhân và điều kiện phạm tội; yêu cầu các cơ quan, tổ chức
hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và ngăn ngừa. Chức năng xét xử
là chức năng duy nhất của Toà án nước ta và của nhiều nước trên thế giới, bên
cạnh đó một số nước như Pháp: Toà án không chỉ xét xử mà có cả chức năng

điều tra; bên cạnh Thẩm phán xét xử có cả Thẩm phán điều tra. Đối với
TAND Việt Nam, thông qua hoạt động xét xử trực tiếp tại các phiên toà hình
sự việc xét hỏi đối với bị cáo, đưa ra các tài liệu, căn cứ buộc bị cáo phải nhận
tội cũng là hoạt động mang tính đấu tranh tội phạm. Tuy nhiên xu hướng quan
tâm đến kết quả tranh tụng tại phiên toà thì việc tranh luận để xác định bị cáo
có phạm tội hay không phạm tội phụ thuộc chính vào quá trình tranh tụng tại


24

phiên toà thông qua việc xét hỏi của Hội đồng xét xử, của Kiểm sát viên;
thông qua việc tranh luận giữa Kiểm sát với bị cáo, giữa Kiểm sát với Luật sư
và những người tham gia tố tụng khác trên cơ sở đó Hội đồng xét xử ra phán
quyết bị cáo có tội hay không có tội. Do đó hoạt động xét xử các vụ án hình
sự của TAND mang tính phòng ngừa là chính. Đối với NCTNPT, thông qua
hoạt động xét xử Toà án góp phần giáo dục họ hiểu được các quy định của
pháp luật tránh sai lầm tương tự xảy ra. Phối kết hợp với các cơ quan Điều
tra, Viện kiểm sát và các cơ quan hữu quan tuyên truyền sâu rộng pháp luật
trong nhân dân góp phần vào công tác phòng ngừa tội phạm nói chung, tội
phạm do NCTN thực hiện nói riêng. Ngoài hoạt động xét xử, các hoạt động:
Giám đốc việc xét xử; hướng dẫn áp dụng pháp luật, tổng kết kinh nghiệm xét
xử và phát triển án lệ; công tác xây dựng pháp luật và thống kê tội phạm đã
góp phần quan trọng vào hoạt động phòng ngừa nói chung của Toà án. Tuy
nhiên nghiên cứu về hoạt động phòng ngừa tội phạm do NCTN thực hiện của
các lực lượng chức năng nhất là lực lượng Công an nhân dân thì rất nhiều
nhưng đề cập đến hoạt động của TAND góp phần phòng ngừa tội phạm do
NCTN thực hiện như thế nào đến nay chưa có đề tài, công trình nghiên cứu
hoàn chỉnh.
Vấn đề thứ hai, về khái niệm NCTN, tội phạm do NCTN thực hiện: Đã
có rất nhiều bài viết về khái niệm NCTN, tội phạm do NCTN thực hiện,

nguyên nhân xã hội của tội phạm CTN, TNHS của NCTN, một số vấn đề về
tư pháp của NCTN song những nghiên cứu, đánh giá này được tiếp cận dưới
góc độ nghiên cứu trên cơ sở tình hình phạm tội của NCTN thông qua hoạt
động điều tra của Công an nhân dân, thông qua việc nắm bắt tình hình vi
phạm pháp luật của các cơ quan quản lý nhà nước, của các tổ chức xã hội mà
chưa hề có nghiên cứu nào thông qua công tác xét xử các vụ án hình sự của
Tòa án đối với NCTNPT. Thực tiễn hiện nay và cả trong bình diện giải quyết


25

xét xử tội phạm do NCTN thực hiện của Tòa án chưa có sự thống nhất cao về
tội phạm do NCTN thực hiện trong việc quy định tuổi chịu TNHS, về miễn
TNHS, về các biện pháp tư pháp, về việc áp dụng hình phạt trong quá trình
xét xử, nhằm nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện hình thành phát triển của
tội phạm do NCTN gây ra để có giải pháp phòng ngừa hữu hiệu nhất với tội
phạm NCTN trước tình hình hiện nay.
Pháp luật của rất nhiều nước trên thế giới đề cập đến biện pháp xử lý
không chính thức xử lý chuyển hướng như Nhật Bản, Thái Lan… Đối với
nước ta chế định này được BLHS năm 1999 [59] quy định dưới góc độ các
biện pháp tư pháp, hình phạt cải tạo không giam giữ và án treo. Điều 70
BLHS năm 1999 quy định “Đối với người chưa thành niên phạm tội, Toà án
có thể quyết định áp dụng một trong các biện pháp tư pháp có tính giáo dục
phòng ngừa sau đây:
a) Giáo dục tại xã phường thị trấn;
b) Đưa vào trường giáo dưỡng.
Thời hạn áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn từ một đến hai
năm đối với NCTNPT ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng.
Quy định giáo dục tại xã, phường, thị trấn cũng tương tự chế định cải tạo
không giam giữ được quy định tại Điều 31 BLHS và chế định án treo quy

định tại Điều 60 BLHS. Những vấn đề này cần tiếp tục nghiên cứu để có biện
pháp áp dụng có hiệu quả nhất đối với NCTNPT đáp ứng yêu cầu phòng ngừa
đối với loại tội phạm này.
Về khái niệm tội phạm do NCTN thực hiện cũng chưa được luật hoá
trong Bộ luật tố tụng hình sự. Nghiên cứu BLTTHS 2003 [60] của nước ta
chưa có khái niệm thế nào là bị can, bị cáo CTN mà chỉ có khái niệm bị can,
bị cáo nói chung tại Điều 49, Điều 50 BLTTHS. Vấn đề này cũng cần tiếp tục
nghiên cứu.


×