Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Sử dụng mô hình SWOT để phân tích tác động của TPP đến ngành dệt may việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (264.05 KB, 23 trang )

Đề tài: Sử dụng mô hình SWOT để phân tích tác động của TPP đến
Việt Nam và lấy ví dụ cụ thể về một ngành/ lĩnh vực để minh họa.


MỤC LỤC
MỤC LỤC................................................................................................................................................2
LỜI MỞ ĐẦU...........................................................................................................................................1
CHƯƠNG 1..............................................................................................................................................2
TỔNG QUAN VỀ NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM.........................................................................................2
1.1. Sản xuất hàng dệt may Việt Nam.................................................................................................2
1.2. Thương mại dệt may Việt Nam....................................................................................................2
2.1. Khái quát về hiệp định TPP và quá trình đàm phán của Việt Nam...............................................6
2.1.1. Khái quát về hiệp định TPP...................................................................................................6
2.2.2. Quá trình đàm phán của Việt Nam.......................................................................................7
2.2. Các quy định của TPP đối với ngành dệt may Việt Nam...............................................................8
CHƯƠNG 3............................................................................................................................................10
CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM KHI THAM GIA TPP...................................10
KẾT LUẬN..............................................................................................................................................20


LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế, hoạt động xuất nhập
khẩu của các nước là thước đo kết quả quá trình hội nhập quốc tế và phát triển
trong mối quan hệ tùy thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia. Hoạt động xuất nhập
khẩu còn là yếu tố quan trọng nhằm phát huy mọi nguồn nội lực, tạo thêm vốn
đầu tư để đổi mới công nghệ, tăng thêm việc làm, thúc đẩy nhanh quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trong nhiều năm qua, lĩnh vực xuất khẩu của Việt Nam đã giành được
nhiều thành tựu đáng kể: tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước ngày một tăng,
năm sau cao hơn năm trước. Sự phát triển ấn tượng của ngành may mặc đã góp
phần đưa Việt Nam trở thành một trong 9 nước xuất khẩu hàng may mặc lớn


nhất trong số 153 nước xuất khẩu hàng dệt may trên toàn thế giới. Mặt hàng
may mặc đã liên tục đóng góp rất lớn vào GDP của nền kinh tế. Với lợi thế về
xuất khẩu hàng may mặc, vấn đề thâm nhập và phát triển các thị trường mới, có
dung lượng tiêu thụ lớn đang đặt ra cho các doanh nghiệp may Việt Nam những
khó khăn và thách thức. Hàng may mặc Việt Nam đã có mặt và đang dần củng
cố vị trí của mình tại các thị trường lớn như Nhật Bản, EU, Đông Âu. Đặc biệt
trong năm 2015 Việt Nam đã tham gia ký kết hiệp định TPP để mở rộng thị
trường xuất khẩu sẽ là một bước ngoặt lớn cho thị trường dệt may Việt Nam.
Với tính cấp thiết của đề tài nhóm em đã chọn đề tài “Sử dụng mô hình SWOT
để phân tích tác động của TPP đến ngành dệt may Việt Nam”. Để thấy rõ
được điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội cũng như thách thức mà ngành dệt may Việt
Nam đang phải đối mặt.
Trong quá trình thực hiện đề tài nhóm còn có nhiều thiếu sót, chúng em
rất mong cô sẽ chỉ bảo thêm để đề tài được hoàn thiện tốt hơn.
Em xin chân thành cám ơn!

1


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM
1.1. Sản xuất hàng dệt may Việt Nam
Trong những năm gần đây ngành công nghiệp dệt may đã có những bước
tiến vượt bậc. Tốc độ tăng trưởng bình quân của ngành khoảng 30%/ năm, trong
lĩnh vực xuất khẩu tốc độ tăng trưởng bình quân 24,8%/năm và chiếm 20% tổng
kim ngạch xuất khẩu của cả nước. tính đến nay cả nước có khoảng 822 doanh
nghiệp dệt may, trong đó doanh nghiệp quốc doanh là 231 doanh nghiệp, doanh
nghiệp ngoài quốc doanh là 370 doanh nghiệp và doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài là 221 doanh nghiệp. Ngành dệt may có năng lực như sau:
- Về thiết bị: có 1.050.000 cọc kéo sợi, 14.000 máy dệt vải; 450 máy dệt

kim và 190.000 máy may.
- Về lao động: ngành dệt may đang thu hút được gần 2 triệu lao động,
chiếm 25% lực lượng lao động công nghiệp.
- Về thu hút đầu tư nước ngoài: tính đến nay có khoảng 180 dự án sợi dệt
nhuộm đan len may mặc còn hiệu lực với số vốn đăng ký đạt gần 1,85 Tỷ USD,
trong đó có 130 dự án đã đi vào hoạt động, tạo việc làm cho trên 50.000 lao
động trực tiếp và hàng ngàn lao động gián tiếp. tổng nộp ngân sách thông qua
các loại thuế ngày càng tăng, tốc độ tăng bình quân khoảng 15%/năm.
1.2. Thương mại dệt may Việt Nam
Kim ngạch xuất khẩu dệt may của Việt Nam liên tục tăng lên qua các năm.

Nguồn: Tổng cục thống kê
Kim ngạch xuất khẩu dệt may của Việt Nam trong năm 2015 ước đạt hơn
27,1 tỉ đô la Mỹ, tăng hơn 10% so với năm trước. Cụ thể, trong 2015, nhập khẩu
2


hàng dệt may của thị trường Mỹ tăng 4,8% so với năm ngoái, ước đạt trên 112
tỷ đô la Mỹ. Theo đại diện Vinatex, trong khi xuất khẩu dệt may của Trung
Quốc, Ấn Độ, Bangladesh sang thị trường Mỹ tăng thấp, thậm chí giảm (Trung
Quốc), nhưng xuất khẩu dệt may của Việt Nam qua thị trường này tăng cao với
gần 13% đạt hơn 11.3 tỷ đô la Mỹ.
Kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may đang đứng vị trí thứ hai trong
tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Những tháng đầu năm 2016, kim ngạch xuất
khẩu của ngành dệt may đạt 4.149 triệu USD tăng 6,3% so với cùng kì năm
2015.

3



Bảng 1: Kim ngạch xuất khẩu 10 mặt hàng lớn nhất của Việt Nam
từ 01/01/2016 đến 15/03/2016 và so sánh với cùng kì năm 2015
Tên mặt hàng hóa chủ yếu

KNXK từ 01/01

So với cùng kỳ năm 2015

đến 15/03/2016

Kim ngạch +/-

Kim ngạch

(triệu USD)

(triệu USD)

+/- (%)

Tổng trị giá

30.735

1.646

5,7

Trong đó: DN FDI


21.625

1.859

9,4

Điện thoại và linh kiện

6.427

982

18,0

Hàng dệt may
Máy vi tính, sản phẩm điện

4.149

246

6,3

3.008

117

4,1

2.287


186

8,8

1.650

233

16,4

Gỗ và sản phẩm gỗ

1.217

22

1,8

PTVT và phụ tùng

1.149

50

4,6

Hàng thủy sản

1.118


76

7,3

Cà phê

658

35

5,6

Túi xách, ví, vali, mũ, ô dù

585

53

10,0

tử và linh kiện
Giầy dép các loại
Máy móc, thiết bị, dụng cụ
phụ tùng khác

(Nguồn tổng cục thống kê)
Theo thống kê, năm 2014, đã có gần 20 dự án FDI mới đầu tư vào lĩnh
vực dệt may, trong đó phần lớn là các DN đến từ Trung Quốc, Đài Loan và
Hong Kong. Riêng đối với các DN Trung Quốc, quyết định chuyển hướng đầu

tư này được coi là một bước đi khôn ngoan, bởi điều này sẽ giúp các DN nước
này có được giấy chứng nhận hàng hóa "Made in Vietnam", từ đó được hưởng
mức thuế suất cực kỳ ưu đãi thay vì mức thuế suất 37% khi vào thị trường Mỹ
mà hàng "Made in China" hiện đang phải gánh chịu.
Điều này đồng nghĩa với việc sẽ khiến các DN trong nước gặp "nguy
hiểm" bởi các sản phẩm có thương hiệu từ Việt Nam "thật" sẽ không thể cạnh
tranh về giá so với các DN Trung Quốc khi xuất khẩu.
4


Như vậy, ngành dệt may là một trong ngành hàng xuất khẩu chủ lực của
việt nam hiện nay. Thực tế TPP tác động đến ngành này là sự tác động ảnh
hưởng 2 chiều, cả cơ hội và thách thức.

5


CHƯƠNG 2
NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA TPP ẢNH HƯỞNG
ĐẾN NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM
2.1. Khái quát về hiệp định TPP và quá trình đàm phán của Việt Nam.
2.1.1. Khái quát về hiệp định TPP
Hiệp định TPP (tên tiếng Anh là Trans-Pacific Strategic Economic
Partnership Agreement) là Hiệp định Đối tác Kinh tế Xuyên Thái Bình Dương,
là một hiệp định, thỏa thuận thương mại tự do giữa 12 quốc gia với mục đích hội
nhập nền kinh tế khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. 12 thành viên của TPP
bao gồm: Úc, Brunei, Chile, Malaysia, Mexico, New Zealand, Canada, Peru,
Singapore, Vietnam, Mỹ và Nhật Bản. Do lúc đầu chỉ có 4 nước tham gia nên
còn được gọi là P4. Hiệp định này khởi nguồn là Hiệp định Đối tác kinh tế chặt
chẽ hơn do nguyên thủ 3 nước Chilê, New Zealand và Singapore (P3) phát động

đàm phán nhân dịp Hội nghị Cấp cao APEC 2002 tổ chức tại Mexico. Tháng 4
năm 2005, Brunei xin gia nhập với tư cách thành viên sáng lập trước khi vòng
đàm phán cuối cùng kết thúc, biến P3 thành P4.
Đây là Hiệp định mang tính "mở". Tuy không phải là chương trình hợp
tác trong khuôn khổ APEC (Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình
Dương) nhưng các thành viên APEC đều có thể gia nhập nếu quan tâm. Singapo
đã nhiều lần thể hiện mong muốn mở rộng TPP và sử dụng TPP như một công
cụ để hiện thực hóa ý tưởng về Khu vực Mậu dịch Tự do Châu Á-Thái Bình
Dương của APEC (FTAAP).
Tháng 9 năm 2008, Mỹ tuyên bố tham gia TPP. Tiếp theo đó, tháng 11
năm 2008, Úc và Peru cũng tuyên bố tham gia TPP. Tại buổi họp báo công bố
việc tham gia của Úc và Peru, đại diện các bên khẳng định sẽ đàm phán để thiết
lập một khuôn khổ mới cho TPP. Kể từ đó, các vòng đàm phán TPP được lên
lịch và diễn ra cho đến nay.
Từ năm 2006, qua nhiều kênh, Singapore đã rất tích cực mời Việt Nam tham gia
TPP - P4. Trước những cân nhắc cả về khía cạnh kinh tế và chính trị, Việt Nam
chưa nhận lời mời này của Singapore.
6


Tuy nhiên, với việc Mỹ quyết định tham gia TPP, và trước khi tuyên bố
tham gia TPP, Mỹ đã mời Việt Nam cùng tham gia Hiệp định này, Việt Nam đã
cân nhắc lại việc tham gia hay không tham gia TPP.
Đầu năm 2009, Việt Nam quyết định tham gia Hiệp định TPP với tư cách
thành viên liên kết. Tháng 11 năm 2010, sau khi tham gia 3 phiên đàm phán TPP
với tư cách này, Việt Nam đã chính thức tham gia đàm phán TPP. Trước đó,
tháng 10 năm 2010, Malaysia cũng chính thức tham gia vào TPP, nâng tổng số
nước tham gia đàm phán lên thành 9 nước.
2.2.2. Quá trình đàm phán của Việt Nam
Hiệp định TPP hiện nay được kỳ vọng sẽ trở thành một khuôn khổ thương

mại toàn diện, có chất lượng cao và là khuôn mẫu cho các Hiệp định thế kỷ 21.
Phạm vi của Hiệp định sẽ bao gồm hầu hết các lĩnh vực có liên quan tới thương
mại, trong đó có nhiều lĩnh vực mới như môi trường, lao động, các vấn đề xuyên
suốt liên quan đến thương mại như chuỗi cung ứng, doanh nghiệp vừa và nhỏ
v.v…
Cho tới nay, Hiệp định TPP đã trải qua 7 vòng đàm phán, lần lượt được tổ
chức tại các quốc gia thành viên là Úc (vào tháng 3 năm 2010), Hoa Kỳ (tháng 6
năm 2010), Brunei (tháng 10 năm 2010), New Zeland (tháng 12 năm 2010),
Chile (tháng 2 năm 2011), Singapore (tháng 3 năm 2011) và Việt Nam (tháng 6
năm 2011).
Về nội dung đàm phán, hiện hơn 20 nhóm đàm phán đã bước vào giai
đoạn thảo luận thực chất trên cơ sở các đề xuất và văn bản thể hiện quan điểm
của mỗi quốc gia thành viên trong từng lĩnh vực cụ thể thuộc phạm vi của Hiệp
định. Một số nhóm đã đạt được những tiến bộ nhất định trong việc thu hẹp
khoảng cách về quan điểm trong các lĩnh vực như mở cửa thị trường đối với
hàng công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, đầu tư,v.v...
Ngoài các nội dung đàm phán mang tính truyền thống trong các FTA trên,
các quốc gia thành viên còn tập trung thảo luận nhiều đề xuất và biện pháp để
thúc đẩy hợp tác trong các vấn đề liên quan tới hoạch định chính sách, tạo thuận
lợi cho doanh nghiệp, phát triển chuỗi cung cấp và sản xuất giữa các nước thành
7


viên, nâng cao sự tham gia của các doanh nghiệp vừa và nhỏ vào quá trình lưu
thông hàng hóa giữa các quốc gia thành viên TPP, cũng như thúc đẩy sự phát
triển chung của các quốc gia thành viên.
Với mục tiêu duy trì tính “mở” của Hiệp định TPP, tức là có cơ chế kết nạp
thêm thành viên mới trong tương lai và các bên có thể tiếp tục đàm phán những
vấn đề phát sinh sau khi Hiệp định có hiệu lực, các nhóm đàm phán cũng đang nỗ
lực đưa ra nhiều đề xuất và biện pháp liên quan để bảo đảm Hiệp định sẽ mang lại

lợi ích nhiều nhất cho tất cả những nước đang và sẽ tham gia Hiệp định.
Nét mới trong đàm phán Hiệp định TPP so với các FTA truyền thống
trước đây là sự tham gia của các đối tượng liên quan như doanh nghiệp, hiệp
hội, tổ chức xã hội. Tại mỗi phiên đàm phán, các đối tượng trên luôn được tạo
cơ hội để trao đổi thông tin cũng như bày tỏ quan điểm và nguyện vọng đối với
các nội dung đàm phán của Hiệp định thông qua các buổi hội thảo và diễn đàn
dành cho các đối tượng liên quan được tổ chức bên lề các phiên đàm phán.
2.2. Các quy định của TPP đối với ngành dệt may Việt Nam
Cũng giống như với mọi hiệp định thương mại tự do (FTA) khác, chương
Dệt may cũng có những quy định về phòng vệ thương mại để một nước thành
viên bảo vệ lợi ích quốc gia khi ngành dệt may của họ bị đe dọa nghiêm trọng
bởi hàng nhập khẩu từ một nước thành viên khác. Trong những trường hợp như
vậy thì nước thành viên bị thiệt hại có quyền khôi phục hoặc áp thuế suất nhập
khẩu cao hơn để ngăn chặn hàng nhập khẩu. Hiển nhiên là điều khoản này có lợi
nhất cho những nước thành viên nhập khẩu ròng lớn các sản phẩm dệt may, chủ
yếu là các nước phát triển như Mỹ và Nhật, đồng thời là một mối đe dọa tiềm
tàng cho những nước thành viên xuất khẩu ròng chủ chốt như Việt Nam.
• Quy tắc xuất xứ
TPP có những yêu cầu rất chặt chẽ về nguồn gốc xuất xứ sản phẩm - điều
mà các nhà xuất khẩu dệt may Việt Nam vẫn chưa dành sự quan tâm thích đáng.
TPP đưa ra các quy định để bảo vệ các nhà sản xuất dệt may của Mỹ bằng cách
áp thêm quy định về nguồn gốc. Đại diện Ngân hàng Thế giới (WB) lo ngại, Việt
Nam là nhà xuất khẩu lớn thứ 3 vào thị trường Mỹ nhưng hiện đang phụ thuộc
quá nhiều vào nguồn nguyên liệu đầu vào nhập khẩu. Có tới 60 - 90% sản phẩm
dệt ở Việt Nam đến từ các thị trường khác, chủ yếu từ Trung Quốc và Đài Loan.
8


Khi tham gia TPP, Việt Nam bắt buộc phải chủ động nguồn nguyên liệu
đầu vào ở trong nước để tăng giá trị gia tăng. Về mặt kỹ thuật, các nhà sản xuất

dệt may Việt Nam cũng không thể nhập nguyên liệu từ Trung Quốc mãi nếu
muốn hưởng lợi từ mức thuế ưu đãi theo quy định của TPP. Chỉ tính nửa đầu
năm 2015, xuất khẩu dệt may sang thị trường các nước tham gia Hiệp định Đối
tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) đã chiếm gần 70% trong tổng giá trị xuất
khẩu toàn ngành, khi gia nhập TPP, thị phần này còn tăng gấp đôi.
Những điểm mới của chương Dệt may là có thêm quy định về “Danh sách
nguồn cung thiếu hụt” tạo ra sự linh hoạt cần thiết trong việc đáp ứng quy tắc
xuất xứ đồng thời vẫn thúc đẩy chuỗi sản xuất và cung ứng nội khối, và những
quy định về phòng chống gian lận thương mại dựa trên những bài học rút ra từ
các FTA khác, tạo điều kiện cho hải quan các nước ngăn chặn hữu hiệu các hành
động trục lợi phi pháp trong ngành dệt may
• Quy định về thuế
Khi gia nhập TPP, mức thuế suất xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam
vào thị trường Mỹ sẽ giảm xuống chỉ còn một nửa, thậm chí bằng 0% thay vì
mức 17% như hiện nay. Tuy nhiên, một sản phẩm dệt may muốn được hưởng ưu
đãi thuế quan theo TPP thì tất cả các nguyên liệu, bắt đầu từ sợi trở đi phải được
sản xuất tại các nước TPP. Điều này sẽ thúc đẩy tăng kim ngạch xuất khẩu đồng
thời nhu cầu về nguyên liệu (bông, sợi) cũng sẽ tăng tương ứng.
Ngoài ra, Chương Dệt may cũng nhấn mạnh đến chuyện phối hợp hải
quan giữa các nước thành viên và các nước thành viên được thực thi những hành
động thích ứng để phòng chống gian lận trong thương mại dệt may như buôn
lậu, trốn thuế, hay gian lận về xuất xứ... nhằm hưởng lợi bất chính từ ưu đãi thuế
quan TPP. Ngoài việc trao quyền cho hải quan của nước nhập khẩu làm việc với
hải quan các nước thành viên đối tác, những hành động thích ứng có thể là yêu
cầu nước thành viên đối tác cung cấp thông tin khi hải quan nước nhập khẩu có
bằng chứng gian lận thương mại, và yêu cầu này phải được đáp ứng bởi nước
đối tác, hoặc cũng có thể là cử nhân viên hải quan đến tận cơ sở của nhà xuất
khẩu hoặc nhà sản xuất tại nước thành viên xuất khẩu để kiểm tra xem có đúng
là hàng hóa đó là hàng hóa TPP để hưởng thuế suất ưu đãi hay không...
9



CHƯƠNG 3
CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM KHI
THAM GIA TPP
3.1. Điểm mạnh
- Giá công nhân của ngành may mặc của Việt Nam rẻ nhất so với các
nước trong khu vực và thế giới. Tiền lương công nhân trong ngành hiện nay chỉ
cao gấp 2 lần tiền lương tối thiểu. Giá nhân công rẻ-> chi phí thấp-> giá thành
sản phẩm rẻ-> tạo lợi thế cạnh tranh trong sản phẩm may mặc.
- Người lao động cần cù chăm chỉ và khéo léo nên có những sản phẩm
yêu cầu tay nghề thủ công rất độc đáo đặc sắc và có sự khác biệt, từ đó tạo lợi
thế cạnh tranh cũng như vậy giúp Việt Nam có những thuận lợi lớn trong xuất
khẩu và trong việc tạo dựng các làng nghề để phát triển ngành.
- Ngành may mặc Việt Nam có tốc độ tăng trưởng cao, số lượng các công
ty liên tục tăng qua các năm và quy mô của công ty ngành càng lớn cả về mọi
nguồn lực. Giá trị xuất khẩu 260 triệu USD/tháng và tăng ở các thị trường chính
là Mỹ, EU, Nhật.

Nguồn: Tổng cục thống kê
10


Nguồn: vinanet.com.vn
- Ngành dệt may Việt Nam có thế mạnh trong việc sản xuất các sản phẩm
dệt kim. Đây là chủng loại mà người tiêu dùng Mỹ, EU rất ưa chuộng
- Ngành may mặc được đầu tư máy móc, thiết bị hiện đại với những máy
cắt, máy ép, là hơi…giảm bớt các công đoạn thủ công.
- Một số thương hiệu được khẳng định trên thị trường trong và ngoài
nước: May 10, May Việt Tiến, Dệt Kim Đồng Xuân, Gấm Thái Tuấn, áo sơ mi

An Phước… Những thương hiệu này không chỉ đứng vững trong thị trường
trong nước mà còn giúp ngành dệt may Việt Nam tạo dựng tên tuổi trên thị
trường nước ngoài
3.2. Điểm yếu
- Nguyên vật liệu ngành vẫn còn phải nhập khẩu và ngành dệt có tốc độ
tăng trưởng chậm hơn ngành may nên ngành may không có sự chủ động trong
sản xuất kinh doanh. Tình trạng này còn làm ảnh hưởng tới các đơn đặt hàng về
thời gian, chất lượng và hiệu quả kinh tế tỷ lệ nội địa hóa các sản phẩm ngành
may còn thấp và hiệu quả kinh tế chưa cao.
11


- Giá lao động rẻ nhưng chất lượng lao động không cao, đặc biệt lao động
có trình độ chuyên môn thấp chiếm 60% nên nâng suất lao động thấp, so với các
nước trong khu vực thì năng suất lao động của ngành dệt may nước ta chỉ bằng
2/3. Lương thấp gây ra tình trạng di chuyển lao động trong cùng ngành hoặc ra
khỏi ngành làm cho việc đào tạo chuyên môn gặp nhiều khó khăn.
- Xuất khẩu hàng may mặc và gia công là chủ yếu chứ không thực hiện
xuất khẩu trực tiếp.
- Tuy ngành dệt may có sự đầu tư lớn nhưng chưa đồng bộ. Có những loại
máy móc thiết bị đã quá lạc hậu nhưng còn tận dụng nên năng suất không cao.
- Chưa xây dựng được thương hiệu riêng cho ngành dệt may của ngành
dệt may của Việt Nam nên chưa có hệ thống các kênh phân phối rộng khắp, kể
cả thị trường nội địa và nước ngoài mà chỉ có các cửa hàng của công ty tự lập để
tiêu thụ sản phẩm. Do vậy việc tiêu thụ còn yếu.
- Khả năng tự thiết kế còn yếu, phần lớn là làm theo mẫu mã đặt hàng của
phía nước ngoài để xuất khẩu
- Chưa tập trung nghiên cứu và đầu tư nhu cầu thị trường nên nhiều đoạn
khúc thị trường còn bỏ trống tạo điều kiện cho nhiều sản phẩm ngoại thâm nhập
sâu vào thị trường trong nước như các sản phẩm: chăn, ga, gối..hầu hết là sản

phẩm của Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan, Xingapo.
- Chi phí cho nhân công rẻ nhưng chi phí bình quân / 1 đơn vị sản phẩm
vẫn cao. Do đó giá của chúng ta vẫn cao hơn so với Ấn Độ, Trung Quốc,
Indonesia khoảng 30% -40%. Đồng thời hệ thống tiêu chuẩn chất lượng chưa
được chuẩn hóa trong ngành nên mỗi công ty trong ngành có định mức về tiêu
chuẩn khác nhau mà không thống nhất trong toàn ngành.
3.3. Cơ hội

12


- Khi tham gia TPP, nhiều hàng rào thuế quan sẽ được miễn giảm hoặc
xóa bỏ, từ đó tạo cơ hội cho ngành dệt may tăng cường xuất khẩu ra các nước
thành viên TPP.
Trong khối đàm phán TPP có 2 thị trường quan trọng là Hoa Kì và Nhật
Bản. Thị trường Hoa Kì hiện chiếm 43% tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may của
Việt Nam, Nhật Bản chiếm 11% và các nước TPP khác chiếm 4%. Như vậy,
khối các nước TPP đang chiếm gần 60% tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may cảu
Việt Nam. Riêng năm 2012 đã có gần 11 tỷ USD xuất khẩu dệt may của Việt
Nam vào các nước TPP. Vì vậy, khôi các nước TPP là thị trường quan trọng
nhất của ngành dệt may Việt Nam trong hiện tại và tương lai.
Khi gia nhập TPP, mức thuế suất xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam
vào thị trường Mỹ sẽ giảm xuống chỉ còn một nửa, thậm chí bằng 0% thay vì
mức 17% như hiện nay. Điều này sẽ thúc đẩy tăng kim ngạch xuất khẩu đồng
thời nhu cầu về nguyên liệu (bông, sợi) cũng sẽ tăng tương ứng.

Nguồn: doanhnhansaigon.vn
- Tạo việc làm cho người lao động, nâng cao NSLĐ: Khi VN tham gia
TPP, cơ hội mở ra thị trường LĐ là rất lớn. Với ngành dệt - may VN nói riêng,
nó không chỉ tạo ra số việc làm nhiều lên cho NLĐ mà còn đòi hỏi chất lượng

LĐ trong ngành cũng phải được nâng cao hơn. Bởi khi đó, những tiêu chuẩn về
13


LĐ, về môi trường làm việc đòi hỏi ở mức độ cao hơn. Không những phải đảm
bảo về tác phong công nghiệp theo yêu cầu của các chủ sử dụng LĐ, đặc biệt là
các chủ DN đến từ các đầu tư nước ngoài, mà NLĐ còn phải đáp ứng được các
quy định do TPP đưa ra cũng như các thông lệ quốc tế phải tuân thủ. NLĐ phải
nâng cao ý thức LĐ, kỷ luật LĐ, nâng cao tay nghề, tự tạo cho mình cơ hội tốt
hơn trong việc lựa chọn việc làm, thậm chí là ngành nghề, vì tất yếu sẽ có sự
dịch chuyển LĐ do có sự cạnh tranh về đãi ngộ, tiền lương và điều kiện LĐ.
- Có chỗ đứng trên thị trường truyền thống, mở ra nhiều cơ hội ở các thị
trường mới mà còn tránh bị lệ thuộc vào thị trường lớn, đặc biệt là Trung Quốc
- Tạo cơ hội tiếp cận vốn, thiết bị, công nghệ sản xuất, kinh nghiệm quản
lý tiên tiến, lao động có kỹ năng từ các quốc gia phát triển
Tham gia TPP chắc chắn thúc đẩy đầu tư của các nước vào Việt Nam.
Tính đến nay, đầu tư trực tiếp của các nước TPP vào Việt Nam đạt hơn 100 tỷ
USD vốn đăng ký của những dự án còn hiệu lực, chiếm gần 40% tổng lượng vốn
FDI của Việt Nam. Dòng vốn từ nhiều nước thành viên TPP có trình độ phát
triển cao có thể mang lại những lợi ích lan toả đáng kể về công nghệ và kỹ năng
quản lý, hay các lĩnh vực dịch vụ có giá trị gia tăng cao hơn. Mức tăng đầu tư sẽ
giúp thúc đẩy sự hình thành vốn cố định và tạo cơ hội cho Việt Nam khai thác
các lợi thế tiềm năng về nông nghiệp. Các công ty dệt may nội địa và nước
ngoài sẽ đẩy mạnh đầu tư tại Việt Nam để tận dụng cơ hội hưởng thuế xuất khẩu
thấp vào TPP. Như vậy, ngành dệt may Việt Nam không chỉ nhận ưu đãi từ thị
trường Hoa Kỳ, mà còn đạt giá trị gia tăng lớn hơn trong chuỗi cung ứng. Gia
nhập TPP sẽ mở ra cơ hội thu hút đầu tư, hợp tác với các nước nhằm hiện đại
hoá sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, tham gia sâu hơn vào chuỗi sản
xuất toàn cầu.
3.4. Thách thức

- Ngành dệt may Việt Nam sẽ phải đối mặt với các hàng rào phi thuế khi
xuất khẩu sang thị trường quốc tế. Các thị trường lớn vận dụng khá nhiều các
14


rào cản về kỹ thuật, vệ sinh, an toàn, môi trường, trách nhiệm xã hội, chống trợ
giá nhằm bảo hộ sản xuất trong nước. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam còn có quy
mô nhỏ và vừa, không đủ tiềm lực để theo đuổi các vụ kiện chống bán phá giá,
dẫn đến thua thiệt trong các tranh chấp thương mại. Các rào cản thương mại trên
đã được vận dụng ngày càng linh hoạt và tinh vi hơn, đặc biệt là trong bối cảnh
khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu.
- Các DN cũng sẽ phải đối mặt với nguy cơ từ việc mở cửa thị trường
trong nước cho các nước thành viên TPP vào Việt Nam.Nhiều doanh nghiệp
nước ngoài dịch chuyển nhà máy từ nhiều quốc gia khác trong khu vực châu Á
sang Việt Nam gây ra áp lực cạnh tranh với các doanh nghiệp trong nước. Điều
này đòi hỏi các doanh nghiệp sản xuất nội địa phải nâng cao chất lượng sản
phẩm để cạnh tranh với các đối thủ khác
- Môi trường cạnh tranh quốc tế gay gắt. Tuy nhiên, năng lực quản lý yếu
kém, thiếu hụt lao động, năng suất lao động thấp, thiếu vốn đầu tư và công nghệ
… cũng là một trong những yếu tố kìm hãm việc tăng năng lực sản suất cũng
như xuất khẩu của doanh nghiệp VN trong khuôn khổ TPP.
- Gặp khó khăn trong việc đáp ứng quy định về nguyên liệu của TPP do
công nghiệp phụ trợ chưa phát triển, nguyên phụ liệu chủ yếu là nhập khẩu, tỷ lệ
gia công cao.
Hiện nay, cả nước có khoảng 2.000 doanh nghiệp dệt may, nhưng để hội
nhập TPP, trực tiếp thiết kế mẫu, sản xuất luôn sản phẩm, bán thẳng cho đối tác
nước ngoài thì dường như rất ít doanh nghiệp có thể làm được. Bởi lâu nay
ngành dệt may chủ yếu là làm gia công và bị phụ thuộc từ nguồn nguyên liệu
đến thiết kế từ đối tác. Còn khi đã vào TPP, muốn thành công, các doanh nghiệp
phải đẩy mạnh làm FOB, tức là chủ động nguồn nguyên liệu sản xuất và bán

thành phẩm, hạn chế gia công. Tuy nhiên, khó nhất hiện nay là Việt Nam chưa
có khả năng cung cấp đủ nguồn nguyên liệu phục vụ cho sản xuất hàng xuất
khẩu và nội địa.
15


Lâu nay do thiếu nguyên liệu nên các doanh nghiệp phải nhập khẩu hoặc
mua trôi nổi trên thị trường mới đủ phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu và tiêu
dùng trong nước. Khi vào TPP, các sản phẩm dệt may của Việt Nam phải có tỷ
lệ nhất định từ nguyên liệu sợi, nhuộm của Việt Nam hoặc từ các nước tham gia
hiệp định. Nếu không đảm bảo thì phải nhập khẩu từ các nước khác, kể cả nước
không nằm trong hiệp định, giá thành sẽ rất cao. Như vậy sản phẩm sẽ bị đánh
thuế cao chứ không đc hưởng mức thuế 0% nữa. Đây là điểm khó khăn mà
doanh nghiệp Việt Nam đang gặp phải.
- Không chỉ gặp khó khăn về nguồn nguyên liệu mà các khâu liên quan
đến khâu dệt, nhuộm vải cũng đang gặp khó khăn khi mà khả năng về vốn, quỹ
đất phục vụ cho việc xây dựng đầu tư nhà máy đảm bảo về chất lượng sản phẩm
và môi trường đang vượt ngoài sức của nhiều doanh nghiệp.
- Thủ tục hành chính hải quan …, theo yêu cầu TPP, còn rườm rà và lớn
hơn cả phần thuế được cắt giảm trong TPP.
Mô hình SWOT được tổng kết trong bảng dưới đây:
Strengths: Điểm mạnh

Weaknesses: Điểm yếu

- Giá công nhân của ngành may mặc - Nguyên vật liệu ngành vẫn còn phải
của Việt Nam rẻ nhất so với các nước nhập khẩu, do đó chi phí bình quân/ 1
trong khu vực và thế giới  giá thành đơn vị sản phẩm vẫn cao.
sản phẩm mang tính cạnh tranh.


- Chất lượng lao động không cao.

- Người lao động cần cù chăm chỉ và - Xuất khẩu hàng may mặc và gia công
khéo léo sản phẩm đẹp.

là chủ yếu chứ không thực hiện xuất

- Ngành may mặc Việt Nam có tốc độ khẩu trực tiếp.
tăng trưởng cao.

- Sự đầu tư chưa đồng bộ.

- Có thế mạnh trong việc sản xuất các - Kênh phân phối và tiêu thụ còn hạn
sản phẩm dệt kim.

chế.

- Được đầu tư máy móc, thiết bị hiện - Khả năng tiếp thị hạn chế, đặc biệt
đại.

trong đột phá thị trường mới.
16


- Một số thương hiệu được khẳng - Khả năng tự thiết kế còn yếu.
định trên thị trường trong và ngoài - Chưa đầu tư nghiên cứu nhu cầu thị
nước.

trường. Chủng loại sản phẩm chưa đa


Opportunities: Cơ hội

dạng.
Threats: Thách thức

- Tăng cường xuất khẩu ra các nước - Phải đối mặt với các hàng rào phi
thành viên TPP

thuế khi xuất khẩu sang thị trường

- Tạo việc làm cho người lao động, quốc tế.
nâng cao NSLĐ.

- Nguy cơ từ việc mở cửa thị trường

- Mở ra nhiều cơ hội ở các thị trường trong nước cho các nước thành viên
mới.

TPP vào Việt Nam.

- Tạo cơ hội tiếp cận vốn, thiết bị, - Môi trường cạnh tranh quốc tế gay
công nghệ sản xuất, kinh nghiệm quản gắt.
lý tiên tiến, lao động có kỹ năng từ - Gặp khó khăn trong việc đáp ứng quy
các quốc gia phát triển.

định về nguyên liệu của TPP.
- Vốn, quỹ đất phục vụ cho việc xây
dựng đầu tư nhà máy đảm bảo về chất
lượng sản phẩm và môi trường đang
vượt ngoài sức của nhiều doanh

nghiệp.
- Thủ tục hành chính hải quan,…
rườm rà.

17


CHƯƠNG 4
GIẢI PHÁP CHO NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM KHI THAM GIA TPP
4.1. Giải pháp từ Nhà nước
- Nhà nước cần hỗ trợ hơn nữa đối với ngành sản xuất trồng cây công
nghiệp như bông, đay, gai,… nhằm đáp ứng nhu cầu tốt hơn nhu cầu nguyên
phụ liệu ngành dệt may trong nước
- Giảm thuế nhập khẩu các nguyên phụ liệu dệt may để giảm bớt gánh
nặng cho các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may nước ta. Bên cạnh đó, Nhà nước
cũng cần đẩy nhanh quá trình mở rộng, phát triển Hải quan điện từ nhằm giảm
bớt các thủ tục rườm rà khi doanh nghiệp đi khai báo hàng dệt may xuất khẩu,
nguyên phụ liệu nhập khẩu.
- Tăng cường hơn nữa các hoạt động liên quan tới vấn đề giáo dục đào
tạo nhân lực cho ngành dệt may. Hiên nay, phần lớn các công nhân dệt may
nước ta vẫn còn kém về tay nghề, năng suất lao động chưa cao. Phần lớn lao
động ngànhdệt may mới tuyểndụng đều trình độ mới chỉ hết cấp 3 và chưa có
kinh nghiệm sử dụng máy may công nghiệp.
- Nhà nước cần quan tâm tới việc hỗ trợ doanh nghiệp về vốn để có thể
đầu tư, nâng cấp, thay mới các máy móc, trang thiết bị phục vụ ngành dệt may.
Bởi lẽ, máy móc thiết bị ở nhiều doanh nghiệp dệt may nước ta vẫn còn lạc hậu
hơn rất nhiều so với các nước khác trong khu vực. Để tăng năng suất, nâng cao
chất lượng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh thì doanh nghiệp dệt may cần
phải có một lượng tiền lớn để có thể đầu tư, mua sắm máy móc thiết bị Số vốn
này khó có thể huy động được tức thời nếu như Nhà nước không hỗ trợ về chính

sách tín dụng với doanh nghiệp.
- Phát triển hơn nữa Hiệp hội doanh nghiệp dệt may Việt Nam để có thể
cung cấp cho doanh nghiệp những thông tin cần thiết về thị trường xuất khẩu.
thông qua việc nắm rõ các đặc điểm về kinh tế, văn hóa, xã hội doanh nghiệp có
thể lựa chọn khách hàng mục tiêu, và đưa ra các chiến lược thâm nhập thị
trường thích hợp.
- Nhà nước cũng cần đưa ra nhiều biện pháp khuyến khích đầu tư trong
nước và nước ngoài vào dệt may hơn nữa. Đó có thể là những ưu đãi về tiền
thuế sử dụng đất vào việc mở nhà máy xuất khẩu hàng hóa dệt may, đối xử
côngbằng giữa doanh nghiệp dệt may trong nước và doanh nghiệp dệt may có
18


vốn đầu tư nước ngoài, tăng lượng kiều hối được phép chuyển ra nước ngoài đối
với các doanh nghiệp FDI, giảm bớt thủ tục hành chính khi thành lập doanh
nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu hàng dệt may, vào phát triển hơn hệ thống cơ
sở hạ tầng trong nước.
4.2. Giải pháp đối với các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may
- Các doanh nghiệp cần nghiên cứu kỹ thị trường xuất khẩu
- Cần phải nắm chắc thông tin thị trường xuất khẩu một cách thường
xuyên, tranh thủ nguồn tin từ các tổ chức xúc tiến thương mại.
- Các doanh nghiệp cần phải đa dạng hóa sản phẩm, khai thác điểm mạnh,
tính độc đáo của sản phẩm của mình. Do sở thích của người tiêu dùng là rất khác
nhau, lại liên tục thay đổi,vì vậy việc đa dạng hóa các chủng loại sản phẩm và
thường xuyên cải tiến mẫu mã là hết sức cẩn thiết để đảm bảo sự tồn tại trên thị
trường nơi có quá nhiều luồng hàng hóa khác nhau.
- Tổ chức các lớp đào tạo để nâng cao trình độ người lao động
- Có chiến lược đầu tư sản xuất nguyên phụ liệu trong nước có chất lượng
cao để giảm chi phí sản xuất sản phẩm dệt may nhằm nâng cao tính cạnh tranh
về giá trên thị trường

- Đầu tư, đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế của
doanh nghiệp và các sản phẩm dệt may Việt Nam.
- Mở rộng và tăng cường liên kết giữa các doanh nghiệp, các thành phần
kinh tế để nâng cao khả năng thích ứng với môi trường cạnh tranh quốc tế.
- Các doanh nghiệp nên xây dựng hệ thống chi nhận, lưu trữ hồ sơ sản
xuất, xuất nhập khẩu đầy đủ, khoa học, hiện đại nhằm tạo cơ sở sẵn sàng cho
việc ứng phó với khả năng phải tham gia các vụ kiện tranh thương mại.
- Chủ động áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng thép tiêu chuẩn quốc
tế và đáp ứng yêu cầu bảo vệ sức khỏe môi trường.
- Tích cực sử dụng vải sản xuất trong nước để tăng tỷ lệ nội địa của sản
phẩm xuất khẩu, đủ điều kiện được cấp C/O để hưởng chế độ ưu đãi thuế quan
phổ cập (GSP)
- Xây dựng trang Web của từng doanh nghiệp để thúc đẩy xúc tiến thương
mại sang các thị trường xuất khẩu.

19


KẾT LUẬN
Nghiên cứu mặt hàng dệt may Việt Nam trong thời kỳ hội nhập em thấy
còn nhiều vấn đề bất cập đòi hỏi các nhà quản lý và các doanh nghiệp của ta cần
phải rút kinh nghiệm để đảm bảo tính ổn định của thị trường. Những vấn đề hiện
nay là: Vấn đề nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh
hàng dệt may. Vấn đề tham gia vào các kênh tiêu thụ hàng dệt may tại thị trường
thế giới. Trước những khó khăn thách thức như vậy thì làm thế nào cho hàng dệt
may Việt Nam có thể cạnh tranh với các nước trong khu vực là vấn đề bức xúc
của các doanh nghiệp Việt Nam. Do vậy, để làm được việc này cần có sự phối
hợp đồng bộ và nhịp nhàng giữa các Bộ, ngành có liên quan với các doanh
nghiệp. Vì thế, đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sẽ là bước đi quan
trọng của ngành dệt may Việt Nam trong tiến trình phát triển và hội nhập với thế

giới, đưa Việt Nam trở thành cường quốc xuất khẩu hàng dệt may, góp phần
thực hiện thành công cuộc “ Công nghiệp hóa, hiện đại hóa” của đất nước.

20


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Giáo trình Kinh tế quốc tế - Tác giả: GS.TS. Đỗ Đức Bình, TS.

Ngô Thị Tuyết Mai – NXB Đại học kinh tế quốc dân.
2.
Số liệu từ Tổng cục thống kê:
/>3.
/>4.
/>5.
/>6.
/>
21



×