Tải bản đầy đủ (.doc) (2 trang)

Giai thoại về Nguyễn Khuyến

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (58.04 KB, 2 trang )

Giai thoại về Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến còn có tên là Nguyễn Thắng, quê ở làng Yên Đổ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam, sinh năm
1835, mất năm 1909. Nguyễn Khuyến là người thông minh, học giỏi, năm Tự Đức 24 (1871), ông đậu Hoàng
giáp Tam nguyên, nên thường được gọi là Tam nguyên Yên Đổ. Sau khi thi đỗ, ông được bổ làm Hàn lâm trực
học sĩ, về sau thăng đến Sơn - Hưng - Tuyên tổng đốc. Khi thực dân Pháp đô hộ, ông cáo quan về nhà, không
chịu hợp tác với Pháp. Ông thường làm thơ có tính chất châm biếm, đả kích và nổi tiếng trong làng thơ trào
phúng lúc bấy giờ. Tạp chí Quê Hương xin giới thiệu một số giai thoại về ông.
Xem câu đối
Tục xưa, hàng năm cứ đến rằm tháng Chạp thì các thày đồ đã bắt đầu cho học trò nghỉ Tết Nguyên đán. Còn
trong dân gian thì ngày 23 tháng Chạp thường ăn Tết ông Táo rất to, ở nhiều nơi Tết Nguyên đán hầu nhưcũng
bắt đầu luôn từ đấy.
Vào năm Nguyễn Khuyến đang làm gia sưcho Hoàng Cao Khải, tới ngày rằm tháng Chạp năm ấy, ông cũng
xin nghỉ về quê nhà ăn tết.
Sau khi Nguyễn Khuyến về quê rồi, Hoàng Cao Khải nhân có việc quan phải qua Hà Nam, bèn nhắn cho
Nguyễn Khuyến biết là sẽ ghé thăm ông.
Hôm đó, đúng 23 tháng Chạp, Tết ông Táo, Nguyễn Khuyến sai người trồng một cây nêu cao, trên treo một
chiếc đèn lồng và một vế đối như sau:
Kiết kiết can mao, tiết đáo, kinh thiên phù nhật nguyệtNghĩa là: Chót vót cờ mao, đến Tết, chống trời phò nhật
nguyệt.
Câu này nghĩa đen nói về cây nêu cao có treo đèn, nhưng nghĩa bóng là tỏ chí khí của nhà thơ. Vế đối lơ lửng
này cốt để nhử Hoàng Cao Khải vào tròng...
Quả nhiên khi Hoàng Cao Khải tới, đọc vế đối ở cây nêu thì tấm tắc khen hay, nhưng thấy chỉ có một vế thì
thắc mắc lắm, cứ nằn nì đòi Nguyễn Khuyến viết nốt vế thứ hai.
Chỉ đợi có thế, Nguyễn Khuyến bèn dẫn Hoàng Cao Khải vào trong bếp nhà mình, ở đó cạnh mấy cỗ đầu rau
mới nặn, viên Kinh lược sứ Bắc kỳ đọc thấy vế đối lại như sau:
Mang mang khối thổ, thời lai, tảo địa tác quân vương.Nghĩa là: Mênh mông khối đất, gặp thời, quét rác cũng
làm vua
Câu này nghĩa đen chỉ là nói mấy ông đầu rau nặn bằng đất (vua bếp). Nhưng ý tứ sâu xa là bảo Hoàng Cao
Khải chỉ là đồ nặn bằng đất thịt, chẳng qua gặp thời thì nên đó thôi.
Hoàng Cao Khải vì tò mò muốn xem vế đối mà phải chui vào bếp, đã bực, lúc ngẫm vế đối có ý xỏ xiên như
thế thì càng bực hơn; nhưng cũng đành cười nhạt cho qua chuyện vì không thể trách tội Nguyễn Khuyến được.


* * *
Thơ Bồ Tiên
Một viên quan to, có con trai được bổ tri huyện Thanh Liêm, Hà Nam (gần huyện của Nguyễn Khuyến). Anh
này do nhờ vào quyền thế của bố, lại khéo chạy chọt với Tây nên được bổ chân tri huyện ấy. Khi nhận chức, bề
ngoài anh ta tỏ vẻ một viên quan thanh liêm, hiền hậu; nhưng kỳ thực là một tay ăn tiền kín đáo đồng thời làm
mật thám cho Pháp để đàn áp phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc. Nhưng anh ta lại hay bày trò thi thơ, để
lừa bịp nhân dân về uy đức của mình. Một lần anh ta tổ chức kỳ thi thơ hàng huyện, ra đề thi là "Bồ tiên thi"
(thơ roi cỏ bồ), lấy vần "bồ" đề thi có ý nói về việc ông quan thương dân, trong khi răn bảo dân chỉ dùng roi cỏ
bồ, vì roi cỏ bồ mềm mại, đánh không đau...
Câu chuyện đồn đến tai Nguyễn Khuyến. Ông thấy chướng tai gai mắt, bèn gửi tới cho viên quan một bài thơ
như sau:
Chú huyện Thanh Liêm khéo vẽ trò
Bồ tiên mà lại lấy vần bồ
Nghênh ngang võng lọng nhờ ông sứ
Ngọng nghẹ văn chương giở giọng Ngô!
Bồ chứa miệng dân chừng bật cạp,
Tiên là ý chú muốn nhiều xu
Từ vàng sao chẳng luôn từ bạc,
Không khéo mà roi nó phết cho.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×