Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

Giải pháp đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý của chính quyền tỉnh an giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.41 MB, 122 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

LÊ QUỐC CƢỜNG

GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH ỨNG DỤNG
CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG QUẢN LÝ CỦA CHÍNH QUYỀN
TỈNH AN GIANG
Chuyên ngành

: Quản lý kinh tế

Mã số

: 60 34 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH DOANH VÀ QUẢN LÝ

Người hướng dẫn khoa học: TS PHẠM VĂN SÁNG

Hà Nội - 2008


-1-

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận văn là trung thực,
có nguồn gốc rõ ràng. Những kết luận khoa học của
luận án chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công
trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN



Lê Quốc Cƣờng


-2MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG
TIN TRONG QUẢN LÝ CỦA NHÀ NƢỚC

1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của công nghệ thông tin

6
6

1.2. Ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà
nước

19

1.3. Kinh nghiệm ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý của
nhà nước ở một số nơi khác

43

Chương 2: THỰC TRẠNG CỦA VIỆC ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG

TIN TRONG QUẢN LÝ CHÍNH QUYỀN AN GIANG

2.1. Khái quát về hệ thống quản lý của chính quyền tỉnh An Giang

52
52

2.2. Thực trạng của việc triển khai ứng dụng công nghệ thông tin
của chính quyền tỉnh An Giang

61

2.3. Đánh giá tác động việc ứng dụng công nghệ thông tin trong
quản lý của chính quyền tỉnh An Giang

77

Chương 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH ỨNG
DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG QUẢN LÝ CỦA
CHÍNH QUYỀN TỈNH AN GIANG

82

3.1. Phương hướng của ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý
của chính quyền tỉnh An Giang
3.2.
3.3

82


Giải pháp đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản
lý của chính quyền tỉnh An Giang

89

Một số kiến nghị với Chính phủ và chính quyền tỉnh An Giang

103

KẾT LUẬN

110

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

113


-3-

CÁC CHỮ VIẾT TẮT DÙNG TRONG LUẬN VĂN

BCVT

: Bưu chính, Viễn thông

CNH, HĐH

: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa


CNTT

: Công nghệ thông tin (Information Technology)

CPĐT

: Chính phủ điện tử (E-Government)

CQNN

: Cơ quan nhà nước

CSDL

: Cơ sở dữ liệu (Database)

FDI

: Đầu tư trực tiếp nước ngoài
(Foreign Direct Investment)

HTTT

: Hệ thống thông tin

KHCN

: Khoa học và Công nghệ

KT-XH


: Kinh tế - xã hội

ODA

: Hỗ trợ phát triển chính thức
(Official Development Assistance)

PCI

: Chỉ số Năng lực Cạnh tranh Cấp tỉnh
: (Provincial Competitiveness Index)

TTTT

: Thông tin và Truyền thông

VCCI

: Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam
(Vietnam Chamber of Commerce and Industry)

VNCI

: Dự án Nâng cao Năng lực cạnh tranh Việt Nam
(Vietnam Competitiveness Initiative)

W3C

: World Wide Web Consorcium


XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


-4-

Số hiệu
Bảng 2.1
Bảng 2.2
Bảng 2.3
Bảng 2.4
Bảng 2.5

DANH MỤC CÁC BẢNG
Tên bảng
Một số chỉ tiêu KT-XH tỉnh An Giang qua các năm 2005,
2006, 2007
Kết quả các chỉ số thành phần PCI của An Giang qua các
năm 2005, 2006 và 2007
Chất lượng công chức, viên chức tỉnh An Giang
tại thời điểm tháng 6/2008
Bảng thống kế kết quả trang bị hạ tầng kỹ thuật của Đề án
112 tỉnh An Giang qua các năm 2005, 2006
Kết quả ứng dụng CNTT trong các CQNN tỉnh An Giang

Trang
53
55

58
63
70

DANH MỤC CÁC HÌNH
Số hiệu
Hình 1.1

Tên bảng
Sơ đồ về sự phân tầng của CNTT

Hình 1.2

“Bốn thành phần, ba chủ thể”

17

Hình 1.3

Chính phủ điện tử và các dịch vụ được cung cấp

25

Hình 2.1

Bản đồ hành chính tỉnh An Giang

52

Hình 2.2


So sánh chỉ số PCI của An Giang qua các năm 2005,
2006, 2007

56

Hình 2.3

Hệ thống chính quyền tỉnh An Giang

57

Hình 2.4

So sánh số lượng, chất lượng công chức, viên chức tỉnh
An Giang qua các năm 2006, 2006, 2007 và tháng 6/2008

59

Hình 2.5

Vị trí của các đơn vị phụ trách ứng dụng CNTT

60

Hình 2.6

Tỉ lệ phân bố kinh phí các hạng mục cho giai đoạn
2001-2005


68

Hình 3.1

Bốn giai đoạn phát triển của CPĐT

86

Hình 3.2

Các giai đoạn phát triển của trang web CPĐT

87

Hình 3.3

Kiến trúc phần mềm tổng thể cho CPĐT

97

Trang
10


-1MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Một trong những thách thức lớn mà ngày nay Chính phủ các nước đang
phát triển phải đối mặt là việc cải cách hành chính, đổi mới phương thức lãnh
đạo và quản lý như thế nào để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy
nhà nước, phù hợp với yêu cầu của toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế thế giới và

sự bùng nổ của cách mạng thông tin. Theo kinh nghiệm của các nước đi
trước, ứng dụng CNTT vào trong hoạt động của CQNN, xây dựng CPĐT
chính là giải pháp chiến lược cho Chính phủ các nước đang phát triển.
Tuy nhiên, con đường xây dựng CPĐT không phải là đơn giản. Theo
James Yong, Giám đốc các chương trình khu vực công (Đông Nam Á) của
Cisco System, đã có đến 35% CPĐT trên toàn thế giới bị thất bại hoàn toàn,
50% thất bại một phần. Nguyên nhân chủ yếu là do sự trì trệ của người dân,
công chức và áp dụng rập khuôn mô hình các nước khác [6]. Con đường xây
dựng CPĐT không thể nóng vội, phải có phương pháp, mô hình và các bước
triển khai thích hợp.
Ở Việt Nam, Đề án tin học hóa quản lý hành chính nhà nước giai đoạn
2001 – 2005 (gọi tắt là Đề án 112) đã được triển khai theo Quyết định
112/2001/QĐ-TTg ngày 25/7/2001 của Thủ tướng Chính phủ. Đề án 112 đã
được coi là nền tảng cho tiến trình xây dựng CPĐT ở VN. Nhưng “Đề án 112
đã không thực hiện được mục tiêu, nhiệm vụ tin học hóa quản lý hành chính
nhà nước được Thủ tướng Chính phủ giao” (theo kết luận của Thủ tướng,
ngày 20/4/2007). [1] Hàng tỉ đồng đã được đầu tư cho thiết bị và công nghệ ở
27 tỉnh, thành và 12 bộ ngành nhưng vẫn chưa được khai thác hiệu quả.
Thực tế đã cho thấy, ứng dụng công nghệ vào hoạt động của CQNN
như thế nào cho hiệu quả vẫn là một bài toán khó. Bởi lẽ, việc ứng dụng công
nghệ thông tin không chỉ dừng lại ở việc mua sắm trang thiết bị, xây dựng hạ
tầng kỹ thuật mà còn đòi hỏi nhiều ở những định hướng mang tính chiến lược,
có tầm vóc quốc tế; các yêu cầu về trình độ của nguồn nhân lực và cả hoạt
động quản lý hành chính của CQNN cùng với các chính sách và thể chế thích


-2hợp. Nếu định hướng không đúng, triển khai không tốt thì việc đầu tư cho ứng
dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của CQNN sẽ không hiệu quả và
gây lãng phí rất lớn. Những thất bại của Đề án 112 là một minh chứng cho
việc triển khai ứng dụng công nghệ thông tin không đồng bộ, nặng về trang

thiết bị, kế hoạch triển khai không rõ ràng, ít tham khảo ý kiến người dùng và
tính định hướng chưa cao, ….
Cần triển khai tin học hóa theo hướng mới, thiết thực, hiệu quả hơn,
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nhấn mạnh: Tin học hóa quản lý hành chính
nhà nước phải được tiếp tục triển khai mạnh mẽ, nhưng thực hiện theo đúng
Nghị định số 64/2007/NĐ-CP ngày 10/4/2007 của Chính phủ về ứng dụng
công nghệ thông tin trong hoạt động của CQNN [1]. Tuy nhiên, cho đến thời
điểm này (2008), kế hoạch triển khai ứng dụng CNTT cho giai đoạn tiếp theo
vẫn chưa có. Vì vậy, đa số các bộ, ngành và các tỉnh, thành đang rất lúng
túng, thụ động và có xu hướng trông chờ vào các văn bản hướng dẫn. Có thể
nói, việc ứng dụng CNTT trong hoạt động của CQNN đang bị chậm lại.
Trước tình hình chung, việc ứng dụng CNTT trong quản lý chính quyền
tỉnh An Giang - là tỉnh ở miền Tây Nam Bộ, thuộc đồng bằng sông Cửu Long
- cũng bị những ảnh hưởng tương tự. Mặc dù, chính quyền tỉnh An Giang
cũng đã và đang triển khai những kế hoạch, chương trình ứng dụng CNTT
riêng cho tỉnh nhưng nhìn chung vẫn còn chậm và chưa có sự đột phá.
Nhận thức rõ những vấn đề trên, là một cán bộ quản lý trong lĩnh vực
công nghệ thông tin của Trường Đại học An Giang, đơn vị được coi là đi đầu
trong việc ứng dụng CNTT trong tỉnh An Giang và bản thân được đào tạo
trong lĩnh vực quản lý nhà nước, tác giả chọn đề tài “Giải pháp đẩy mạnh
ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý của chính quyền tỉnh An
Giang” làm luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Quản lý kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm gần đây, vai trò của CNTT ngày càng được nâng cao
và chiếm vị trí quan trọng trong mọi lĩnh vực, ngành nghề nên vấn đề ứng
dụng CNTT trong quản lý của nhà nước được đặc biệt quan tâm. Các cơ quan


-3Đảng, Nhà nước cấp Trung ương và cấp tỉnh, thành phố thuộc Trung ương
đều có những chương trình ứng dụng CNTT riêng cho mình.

Điển hình một số tài liệu, đề tài nghiên cứu, các đề án lớn có liên quan
đến việc ứng dụng CNTT trong quản lý của CQNN từ năm 2001 đến nay như:
- Đặng Hữu (2001), Ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phục vụ
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, NXB Chính trị Quốc gia.
- Đổi mới công tác thông tin phục vụ quản lý kinh tế của Chính phủ
trong giai đoạn hiện nay (2001), Luận văn thạc sĩ kinh doanh và quản lý của
Nguyễn Văn Hòa, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
- Ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ phát triển kinh tế - xã hội tỉnh
Vĩnh Phúc – Thực trạng và giải pháp (2006), Luận văn thạc sĩ kinh doanh và
quản lý của Nguyễn Bá Hiến, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- Đề án tin học hóa quản lý hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2005
(Đề án 112).
- Đề án tin học hóa hoạt động các cơ quan Đảng giai đoạn 2001-2005
(Đề án 47), Đề án tin học hóa hoạt động các cơ quan Đảng giai đoạn 20062010 (Đề án 06).
- Emmanuel C. Lallana (2003), Kỷ nguyên thông tin, UNDP-APDIP.
- Patricia J. Pascual (2003), Chính phủ điện tử, UNDP-APDIP.
Nhìn chung, hầu hết các công trình nghiên cứu trên chỉ khái quát những
vấn đề chung hoặc đề cập đến những khía cạnh khác nhau của việc ứng dụng
công nghệ thông tin; Chỉ có Đề án 112 là có liên quan trực tiếp đến việc ứng
dụng công nghệ thông tin trong quản lý của nhà nước. Tuy nhiên, đề án này
đã không đạt được hiệu quả như mong muốn.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sẽ kế thừa có chọn lọc một số ý
tưởng trong các công trình nghiên cứu có liên quan, kết hợp với việc phân tích
thực trạng của việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý của chính
quyền tỉnh An Giang để thực hiện nhiệm vụ của đề tài.


-43. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
- Mục đích của luận văn là tìm hiểu hiện trạng ứng dụng công nghệ
thông tin trong quản lý của chính quyền tỉnh An Giang. Qua đó, đề tài sẽ đề

xuất những giải pháp khắc phục và mang tính chiến lược nhằm đảm bảo việc
ứng dụng công nghệ thông tin có hiệu quả hơn.
- Nhiệm vụ của luận văn:
+ Tìm hiểu các vấn đề có liên quan đến việc ứng dụng công nghệ
thông tin trong hoạt động quản lý chính quyền của tỉnh An
Giang nói riêng và Chính phủ điện tử nói chung.
+ Phân tích, đánh giá thực trạng của việc ứng dụng công nghệ
thông tin trong quản lý chính quyền của tỉnh An Giang.
+ Đề xuất các giải pháp mang tính chiến lược nhằm khắc phục
các hạn chế và đẩy mạnh việc ứng dụng CNTT trong quản lý
chính quyền của tỉnh An Giang.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn tập trung vào con người, các
chính sách, các chương trình ứng dụng có liên quan đến ứng dụng CNTT
trong quản lý chính quyền của chính quyền tỉnh An Giang.
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung vào nghiên cứu việc ứng
dụng CNTT trong khối các cơ quan quản lý nhà nước của chính quyền tỉnh An
Giang (bỏ qua khối Hội đồng nhân dân) và một số giải pháp, chính sách có liên
quan. Thời gian nghiên cứu đánh giá của luận văn từ năm 2001 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu khoa học của luận văn
- Cơ sở lý luận của luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa MácLênin; tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách
pháp luật của nhà nước và kế thừa có chọn lọc các công trình nghiên cứu. Cụ
thể, luận văn sẽ căn cứ vào:
+ Nghị quyết số 17-NQ/TW ngày 01/8/2007 của Hội nghị lần thứ
năm của Ban chấp Trung ương khóa X, về đẩy mạnh cải cách


-5hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy
nhà nước.
+ Nghị định số 64/2007/NĐ-CP ngày 10/4/2007 của Chính phủ

về ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của CQNN.
+ Chiến lược phát triển công nghệ thông tin và truyền thông Việt
Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 của Bộ Bưu
chính - Viễn thông.
+ Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm, 2006 - 2010 của
tỉnh An Giang được ban hành theo Quyết định số 1958/QĐUBND, ban hành ngày 02/10/2006.
+ Tài liệu về Chính phủ điện tử của UNDP – APDIP.
- Phương pháp nghiên cứu của luận văn chủ yếu theo các phương
pháp: khảo sát, thống kê, so sánh, phân tính, tổng hợp, diễn giải, thực nghiệm,
…. và kế thừa kết quả của một số nghiên cứu khác để làm rõ các vấn đề của luận
văn nhằm đảm bảo các giải pháp đề ra đạt được hiệu quả như mong muốn.
6. Đóng góp khoa học của luận văn
Luận văn phân tích và làm rõ thực trạng của việc ứng dụng công nghệ
thông tin trong quản lý của chính quyền tỉnh An Giang. Từ đó, đề ra các giải
pháp khắc phục và đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý của
chính quyền tỉnh An Giang được hiệu quả hơn.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo, làm cơ sở cho các cơ quan, địa
phương trên định bàn tỉnh An Giang triển khai ứng dụng công nghệ thông tin
có hiệu quả; Luận văn còn giúp cho các cơ quan nghiên cứu hoạch định chiến
lược phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn gồm 3 chương, 9 tiết.


-6Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ
THÔNG TIN TRONG QUẢN LÝ CỦA NHÀ NƢỚC
1.1.


KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀI VAI TRÒ CỦA CÔNG NGHỆ

THÔNG TIN

1.1.1. Khái niệm về công nghệ thông tin
CNTT (Information Technology) được hình thành từ Khoa học máy
tính (Computer Science). Đây là một khái niệm khá rộng, nó bao hàm bên
trong nhiều khái niệm khác nhau. Ta có thể chia sự hình thành khái niệm
CNTT thành 3 giai đoạn phát triển:
- Giai đoạn 1 (1943-1980): Từ khi máy tính điện tử đầu tiên ra đời cho
đến trước khi máy tính cá nhân (Personal Computer - PC) xuất hiện. Giai
đoạn này, ngành Khoa học máy tính có đối tượng nghiên cứu là máy tính điện
tử, các ngôn ngữ lập trình và các thuật toán xử lý; Nhiệm vụ chỉ tập trung vào
giải quyết các vấn đề mang tính “toán học”.
- Giai đoạn 2 (1981-1989): Đây là giai đoạn máy tính cá nhân có giao
diện đồ họa xuất hiện và được phổ biến trong xã hội. Cùng với sự phát triển
của các ngành khoa học kỹ thuật khác, máy tính khả năng lưu trữ và xử lý của
máy tính ngày càng tăng. Đặc biệt, sự phát triển của mạng máy tính và kỹ
thuật số đã bước đầu xóa bỏ rào cản “không gian” giữa các máy tính, đưa
Khoa học máy tính lên một tầm cao mới. Một bộ phận của Khoa học máy tính
đã phát triển thành Tin học (Informatics), với đối tượng nghiên cứu là thông
tin và sử dụng công cụ chủ yếu là máy tính điện tử. Nhiệm vụ của Tin học lúc
này là nghiên cứu việc lưu trữ và xử lý thông tin một cách tự động.
- Giai đoạn 3 (cuối năm 1989 đến nay): Sự phát triển của các công
nghệ về máy tính, mạng máy tính và các phần mềm ứng dụng đã đạt đến đỉnh
cao. Cùng với sự hình thành và phát triển của hệ thống mạng máy tính dùng
chung cho toàn thế giới (Internet), khả năng ứng dụng của máy tính và mạng
máy tính đã gần như không có giới hạn. Chúng đã trở thành phương tiện,



-7công cụ không thể thiếu của các hệ thống thông tin, hệ thống tổ chức. CNTT
đã ra đời với tư cách là một ngành khoa học ứng dụng hiện đại.
Việc chia các giai đoạn trên chỉ mang tính tương đối. Bởi lẽ, quá trình
phát triển từ Khoa học máy tính lên Tin học, rồi thành CNTT là một quá trình
phát triển khá phức tạp, liên quan trực tiếp đến sự phát triển của nhiều ngành,
lĩnh vực khác nhau.
Cho đến nay, vẫn còn nhiều tranh cãi về mối quan hệ giữa Khoa học
máy tính, Tin học và CNTT. Vì vậy, có nhiều quan điểm khác nhau về CNTT.
Một số khái niệm CNTT phổ biến hiện nay như:
- Theo UNESCO, CNTT bao gồm việc sử dụng các ứng dụng máy
tính, công nghệ viễn thông và tin học trong việc truy cập và cung cấp thông
tin riêng và chung. Nó cho phép mọi người giao tiếp và trao đổi thông tin giới
hạn trong không gian số (cyberspace), làm việc tại văn phòng ảo và thiết lập
một xã hội tri thức. [47, tr.34]
- Theo Hiệp hội CNTT của Mỹ (ITAA), CNTT là việc nghiên cứu, thiết
kế, phát triển, triển khai thực hiện, hỗ trợ hoặc quản lý các hệ thống thông tin
điện tử, chủ yếu là các phần mềm máy tính và phần cứng máy tính. CNTT
bao hàm việc sử dụng các máy tính điện tử và phần mềm máy tính để chuyển
đổi, lưu trữ, bảo vệ, xử lý, truyền và nhận nhận thông tin an toàn. [48, tr.30]
- Theo GS. Phan Đình Diệu, CNTT là ngành công nghệ về xử lý
thông tin bằng các phương tiện điện tử, trong đó nội dung xử lý thông tin
bao gồm các khâu cơ bản như thu thập, lưu trữ, chế biến và truyền nhận
thông tin. [15, tr.17]
- Theo Chỉ thị 58-CT/TW của Bộ Chính trị, CNTT là thuật ngữ dùng
để chỉ các ngành khoa học và công nghệ liên quan đến thông tin và các quá
trình xứ 1ý thông tin. Theo quan niệm này thì CNTT là hệ thống các phương
pháp khoa học, công nghệ, phương tiện, công cụ, bao gồm chủ yếu là các máy
tính, mạng truyền thông và hệ thống các kho dữ liệu nhằm tổ chức, lưu trữ,
truyền dẫn và khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn thông tin trong mọi
lĩnh vực hoạt động kinh tế, xã hội, văn hoá... của con người. [9]



-8- Theo Luật CNTT (2007), CNTT là tập hợp các phương pháp khoa
học, công nghệ và công cụ kỹ thuật hiện đại để sản xuất, truyền đưa, thu thập,
xử lý, lưu trữ và trao đổi thông tin số. [34, tr.2]
Nhìn chung, các quan điểm còn lại cũng đều đồng ý rằng CNTT là ngành
nghiên cứu, sản xuất phần mềm và phần cứng máy tính, đồng thời cũng là
ngành khoa học và công nghệ về thông tin và xử lý thông tin, sử dụng công
cụ, phương tiện chủ yếu là máy tính điện tử. Riêng khái niệm về CNTT của
Luật CNTT cần sử dụng thuật ngữ “thông tin” thay cho “thông tin số”. Bởi lẽ,
thông tin số là chỉ là một dạng biểu diễn thông tin được xử lý và lưu trữ bằng
các phương pháp số, hay còn được gọi là dữ liệu (data). Trong khi, một quy
trình xử lý thông tin của CNTT bao gồm: đầu vào là thông tin, xử lý thông tin
(số) và đầu ra là thông tin hoặc tri thức.
Có thể nói khái niệm về CNTT của Chỉ thị 58-CT/TW của Bộ Chính trị
đưa ra là hoàn chỉnh nhất và phù hợp với mục đích nghiên cứu của Luận văn.
Vì vậy, thuật ngữ CNTT trong Luận văn sẽ được hiểu theo quan điểm này.
Điểm cần lưu ý là CNTT bao gồm cả Ngành công nghệ, công nghiệp CNTT
và việc ứng dụng CNTT (thường gắn liền với một hệ thống tổ chức hay hệ
thống thông tin nào đó). Trong phạm vi nghiên cứu của Luận văn sẽ tập trung
vào nội dung của ứng dụng CNTT trong hoạt động của CQNN.
1.1.2. Đặc điểm của công nghệ thông tin
- CNTT là ngành công nghệ mũi nhọn
Công nghệ mũi nhọn ở đây được hiểu là cái chóp của một kim tự tháp,
có nghĩa là nó là ngành công nghệ được xây dựng trên thành quả của nhiều
công nghệ khác và của những lý thuyết khoa học hiện đại. Do vậy, muốn xây
muốn xây dựng và phát triển một công nghệ mũi nhọn hoàn chỉnh phải phát
triển từng bước và phải lựa chọn thế đứng riêng của mình. Mặt khác, đặc
điểm của công nghệ mũi nhọn là luôn luôn nặng về tri thức, đó cũng là đặc
điểm của CNTT. Vì vậy, để phát triển CNTT luôn cần nguồn nhân lực có

trình độ cao.
- CNTT là ngành có tốc độ phát triển và phổ biến nhanh nhất


-9Trong lịch sử phát triển của nhân loại, chưa có ngành khoa học, công
nghệ nào có tốc độ phát triển và phổ biến nhanh như CNTT. Có thể hình dung
sự phát triển của CNTT qua định luật Moore, biểu tượng năng lực và sự phát
triển của CNTT. Theo định luật Moore, khả năng tính toán của một bộ vi xử
lý điện tử cứ sau 18 tháng lại tăng lên gấp đôi, trong khi giá cố định (hoặc
thấp hơn). Điều này là cơ sở để giải thích cho việc thay đổi nhanh chóng trong
ngành công nghiệp máy tính. Hiện nay, định luật này đã được sửa lại là với
thời gian là 24 tháng và hãng Intel vẫn đang tiếp tục duy trì định luật này [49].
Theo dự đoán của các chuyên gia định luật Moore vẫn còn đúng trong 1-2
thập kỉ nữa.
Thật vậy, kể từ khi máy tính cá nhân đầu tiên xuất hiện (1980) đến nay
đã có hơn 1 tỉ máy tính đang được sử dụng trên toàn thế giới (Mỹ, châu Âu,
và Nhật chiếm 58%). Dự đoán số lượng này sẽ còn nhân đôi trong 6 năm nữa
nhờ tốc độ tăng trưởng hàng năm đạt 12% do nhu cầu ngày một cao của người
dùng tại các nước đang phát triển; Đến năm 2014, 70% trong số 1 tỉ PC tiếp
theo sẽ thuộc về các quốc gia có thu nhập thấp, nguyên nhân chủ yếu là do giá
giảm và khả năng kết nối Internet mở rộng. Đồng thời, trong năm 2008 sẽ có
khoảng 180 triệu, tức 16% máy tính bị đào thải. Trong số này, khoảng 35
triệu máy sẽ trở thành rác thải không qua xử lý chất độc hại. [27]
Một nghiên cứu khác của hãng IDG dự báo gần 1/4 dân số thế giới khoảng 1,4 tỉ người - sẽ sử dụng Internet thường xuyên trong năm 2008. Con
số này trong năm 2012 được dự đoán là 1,9 tỉ, tương đương với 30% dân số
thế giới. [19]
Theo Steve Ballmer, Giám đốc điều hành của Microsotf, trong 28 năm
qua (1980-2008), ngành công nghiệp IT đã trải qua cả thảy 4 cuộc cách
mạng. Đầu tiên là sự xuất hiện của PC bình dân, kế đến là sự phát triển của
giao diện người dùng đồ họa, sự nổi lên của Internet và cuối cùng là Web 2.0.

Với tốc độ đó, trung bình cứ 7 năm thế giới lại chứng kiến một cuộc cách
mạng mới của CNTT. Ballmer dự đoán, sắp tới, chúng ta sẽ chứng kiến cuộc
cách mạng thứ 5 của CNTT. Ba lĩnh vực mà cuộc cách mạng IT lần thứ 5 sẽ
biểu thị tác động rõ nhất là: tương tác xã hội, các vấn đề xã hội toàn cầu và cá
nhân hóa. [12; 50]


-10Dưới sự phát triển như vũ bão của CNTT, công nghệ cứ thay đổi liên
tục. Vì vậy, đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, cần lưu ý
khi lựa chọn các giải pháp về công nghệ. Nếu không, việc đầu tư hay định hướng
sai công nghệ sẽ ảnh hưởng lớn đến hiệu quả đầu từ và gây lãng phí lớn.
- CNTT là ngành khoa học có thể ứng dụng cho mọi lĩnh vực
Giới hạn của những công nghệ khác thường là không có khả năng kết
hợp nhiều loại thông tin, phương tiện với nhau. Ví dụ như với điện thoại chỉ
có thể gởi và nhận âm thanh, vô tuyến truyền hình thì chỉ có nhận hình ảnh,
âm thanh nhưng không thể phản hồi, tương tác. Với khả năng số hóa thông
tin, xử lý và tái tạo thông tin, CNTT trở thành công cụ, phương tiện cho các
công nghệ khác. CNTT có thể tham gia trực tiếp vào trong quá trình sản xuất
của các lĩnh vực như: công nghiệp, nông nghiệp, thương mại và dịch vụ, hoặc
tham gia vào hoạt động quản lý, điều hành của các hệ thống thông tin, hệ
thống lãnh đạo, … CNTT còn tạo ra nhiều ngành nghề kinh tế mới, làm thay
đổi sâu sắc các ngành công nghiệp hiện tại, tăng khả năng cạnh tranh của các
ngành nghề thông qua hệ thống thương mại điện tử, dịch vụ truyền thông đa
phương tiện.
Ngày nay, CNTT vẫn đang tiếp tục phát triển và phổ biến ở mọi nơi,
mọi lĩnh vực, góp phần thúc đẩy nhanh quá trình tăng trưởng và chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, thay đổi cơ cấu xã hội, phong cách sống, học tập và làm việc
của con người. [8, tr.28]
- CNTT là một công nghệ có nhiều tầng lớp [40, tr.53]
Trong CNTT, nếu tính từ người sử dụng (người dùng đầu cuối) đến

khâu sản xuất các thiết bị, vi mạch, .... ta sẽ thấy bên trong có nhiều tầng lớp
và lớp trên được xây dựng dựa trên các lớp phía dưới, chúng có mối quan hệ
phụ thuộc lẫn nhau về công nghệ. Càng lên cao, số lượng công nghệ có xu
hướng càng tăng, sự phát triển của công nghệ của lớp này cũng thúc đẩy sự
phát triển các công nghệ tương ứng ở lớp khác và ngược lại.
Có thể chia CNTT thành năm tầng lớp theo sơ đồ sau:


-11Hình 1.1: Sơ đồ về sự phân tầng của CNTT
Ứng dụng tích hợp
Ứng dụng cơ bản
Phát triển ứng dụng
Hệ thống
Thiết bị
Vi xử lý

(i) Lớp ứng dụng tích hợp, đây là lớp trên cùng gồm các ứng dụng được
phát triển riêng cho từng cơ quan, xí nghiệp nào đó. Các ứng dụng này do đơn
vị sử dụng tự phát triển hoặc đặt gia công bên ngoài. Chúng được phát triển
dựa trên một hệ quản trị CSDL nào đó (MySQL, PosgreSQL, Oracle, SQL
Server, DB2, …), thường hoạt động qua mạng và có xu hướng phát triển theo
dạng tích hợp, dùng chung cho cả hệ thống.
(ii) Lớp ứng dụng cơ bản, là lớp đa dạng và phổ biến nhất hiện nay. Bao
gồm các ứng dụng ở mức đơn giản, tổng quát để xử lý văn bản (OpenOffice,
Microsoft Office, …) hoặc tính toán và quản lý đơn giản (SPSS, Microsoft
Project, …); và cao hơn là các ứng dụng chuyên dùng dành riêng cho một lĩnh
vực nào đó như tính toán công nghiệp hay tính toán khoa học (SPSS,
MathType, Matlab…)
(iii) Lớp phát triển ứng dụng, các ứng dụng của lớp này thường được
dùng bởi các chuyên gia về phần mềm sử dụng để phát triển các ứng dụng của

hai lớp trên, mục tiêu là hướng về người dùng đầu cuối. Bao gồm các ngôn
ngữ lập trình (C, java, Visual Basic, C#, php, …), các hệ quản trị CSDL, ….


-12(iii) Lớp ứng dụng hệ thống, là những chương trình, ứng dụng đặc biệt
cho các ứng dụng của lớp trên có thể hoạt động hoặc giao tiếp với thiết bị
phần cứng. Chủ yếu là hệ điều hành và hệ điều hành mạng (Microsoft
Windows, Unix, Linux, Mac, Netware, ...). Đây thường là các ứng dụng độc
quyền (trừ các sản phẩm từ Linux), chúng có tầm ảnh hưởng sâu rộng đến các
tầng bên trên, đồng thời cũng quan hệ chặt chẽ về mặt công nghệ với các tầng
bên dưới.
(iv) Lớp thiết bị phần cứng, có thể coi như bao gồm tất cả các hệ máy
và mạng đang hoạt động trên thế giới. Việc sản xuất các máy này bắt đầu từ:
làm ra các bản mạch, rồi lắp ráp các linh kiện điện tử với phần điện, cơ khí,
các thiết bị ngoại vi, ... để trở thành một máy tính hoàn hảo, hay một bộ phận
của một thiết bị công nghiệp hay một sản phẩm tiêu dùng.
(v) Lớp vi xử lý, đây là lớp cuối cùng chính là việc sản xuất các linh
kiện điện tử, các chíp vi xử lý. Hiện nay, chỉ có Mỹ, Nhật và châu Âu là có
công nghệ hoàn chỉnh tạo ra các sản phẩm của lớp này.
Thông thường, khi xét đánh giá mức độ ứng dụng CNTT, người ta
thường tập trung xét ở 2 lớp trên cùng. Để đơn giản, ta có thể chia mức độ
ứng dụng CNTT thành 4 cấp độ tăng dần theo thứ tự sau: (1) ứng dụng mức cơ
bản, (2) ứng dụng mức chuyên dùng trong lĩnh vực, ngành nghề, (3) ứng dụng
mức có sử dụng hệ quản trị CSDL và (4) ứng dụng tích hợp cho cả hệ thống.
Do công nghệ của các tầng lớp có mối quan hệ chặt chẽ với nhau nên
khi lựa chọn công nghệ ứng dụng cần lưu ý các điều kiện sẵn có và xu hướng
công nghệ của các tầng có liên quan.
- Khả năng số hóa thông tin, tổ chức, lưu trữ thông tin trên diện tích
nhỏ; truy xuất và xử lý thông tin một cách nhanh chóng và chính xác
Đây là một đặc trưng của máy tính điện tử nói riêng và CNTT nói

chung. Có thể hiểu số hóa thông tin là khả năng biểu diễn thông tin dưới dạng
số 0 và 1, và lưu lại trên các thiết bị lưu trữ của máy tính. Các thông tin được
lưu trữ dưới dạng này gọi là thông tin số. Ưu điểm của thông tin số chính là
có thể mô tả chính xác thông tin, truy xuất nhanh và lưu trữ được trên diện
tích nhỏ.


-13Ngày nay, khả năng lưu trữ và tốc độ xử lý thông tin của các thiết bị
CNTT ngày càng tăng, trong khi kích thước của thiết bị ngày càng nhỏ. Khả
năng lưu trữ của các thiết bị lưu trữ đã lên đến TB (TegaByte) và tốc độ tính
toán đã đạt hàng tỉ phép tính trên giây. Có thể đơn cử vài ví dụ sau:
Giả sử một trang giấy A4 có 40 dòng, một dòng 80 ký tự thì một quyển
sách 100 trang A4 khi lưu trữ sẽ chiếm khoảng 625 KB (KiloByte) hoặc một
tấm ảnh số trung bình sẽ chiếm khoảng 1 MB (MegaByte). Như vậy, chỉ với
một ổ cứng 1 TB (1 TB = 1 x 1024 GB = 1 x 10242 MB = 1 x 10243 KB) kích
thước bằng ½ quyển sách, ta có thể lưu trữ trên 1,7 triệu quyển sách hoặc trên
1,04 triệu tấm ảnh;
Và chỉ mất vài giây, thậm chí là vài mili giây, chúng ta đã có thể truy
xuất hay xử lý các thông tin số trên. Bởi lẽ, hàng tỉ phép tính trên giây chính
là tốc độ tính toán của các máy tính ngày nay; Còn 1 triệu tỉ phép tính trên
giây chính là tốc độ của siêu máy tính Roadruner của hãng IBM. Chỉ 1 ngày
làm việc của máy tính này đã bằng 6 tỉ người sử dụng máy tính 24 giờ mỗi
ngày trong suốt 365 ngày mỗi năm và liên tục 46 năm. [35]
Nếu bỏ qua khả năng trao đổi và xử lý thông tin tự động thì ứng dụng
CNTT cũng đã giúp con người tiết kiệm được rất nhiều thời gian trong tính
toán, tìm kiếm thông tin và không gian lưu trữ thông tin mà không công nghệ
nào có thể thay thế được.
Một kết quả nghiên cứu trong năm 2006 của IDC, khối lượng thông tin
đã được số hóa của các bức ảnh, phim, thư điện tử, trang web, tin nhắn trực
tuyến, cuộc gọi điện đàm, cùng với các nội dung số khác trên khắp hành tinh

là 161 ExaBytes (khoảng 161 tỉ GigaByte); tương đương với 12 chồng sách
đều có chiều dài bằng khoảng cách từ trái đất tới mặt trời, hoặc gấp 3 triệu lần
số lượng thông tin trong tất cả các cuốn sách đã được in ra. Để lưu trữ 161
exabyte, chỉ cần có hơn 2 tỉ chiếc iPod trên thị trường. Trước đó, một cuộc
nghiên cứu tương tự đã được những nhà khoa học của ĐH Berkeley (Mỹ) tiến
hành vào năm 2003 cho thấy tổng số lượng thông tin của thế giới sản xuất ra
khi đó mới chỉ có 5 ExaByte. [39]


-14Trong xu thế của sự phát triển, số hóa thông tin cũng là một tất yếu, là
cơ sở cho việc tái tạo, phổ biến thông tin và tri thức. Ứng dụng CNTT càng
nhanh, càng hiệu quả thì lượng thông tin được số hóa cũng tăng theo tương ứng.
Trong thực tiễn, lượng hóa thông tin số có thể coi là một trong các tiêu chí cho
việc đánh giá mức độ hiệu quả của một dự án CNTT nhưng thường bị bỏ qua.
- Đầu vào là thông tin, đầu ra là thông tin hoặc tri thức.
Như đã trình bày phần khái niệm, thông tin chính là đối tượng xử lý
chủ yếu của CNTT. Cùng với sự phát triển của xã hội, đặc biệt là sự phát triển
của cách mạng khoa học và công nghệ, hoạt động trực tiếp tạo ra sản phẩm
không còn là công việc của riêng người lao động, mà của cả một bộ phận
ngày càng tăng lên những người trực tiếp quản lý quá trình sản xuất, những
kỹ sư, những nhà công nghệ. Các sản phẩm được tạo ra từ CNTT có hàm
lượng trí tuệ cao ngày càng tăng. Trong lĩnh vực phần mềm của CNTT, sản
phẩm tạo ra có hàm lượng giá trị do trí tuệ kết tinh bên trong sản phẩm có thể
đạt tới 80 - 90% tổng giá trị sản phẩm.
1.1.3. Vai trò của công nghệ thông tin
Từ những năm 80 của thế kỉ XX, các nước phát triển đã bắt đầu bước
vào một nền văn minh mới được gọi là Văn minh tri thức (hay Văn minh
thông tin), lấy tri thức làm nguồn lực phát triển, khoa học kỹ thuật là lực
lượng sản xuất trực tiếp. Các nước sớm bước vào nền Văn minh tri thức đã
xác định bốn trụ cột của nền văn minh này đó là: CNTT, công nghệ nguyên

liệu mới, công nghệ năng lượng mới và công nghệ sinh học. Trong đó, CNTT
được xác định là nhân tố quan trọng nhất cho sự phát triển và tạo dựng nền
Văn minh tri thức. CNTT đóng vai trò là công nghệ chìa khoá trong hệ thống
các công nghệ khác, vừa là tác nhân gắn kết các công nghệ lại với nhau, vừa
là động lực phát triển chúng.
Đối với các nước đang phát triển, nền Văn minh tri thức tạo ra những
cơ hội mới nhưng đồng thời cũng có những thách thức không nhỏ. Các nước
đang phát triển đã nhận định rằng, khoảng cách phát triển chính là do khoảng
cách về tri thức, rút ngắn được khoảng cách về tri thức sẽ rút ngắn được
khoảng cách về phát triển. Vì vậy, nhiều nước đã đề ra chiến lược đi tắt vào


-15nền Văn minh tri thức, lấy ứng dụng và phát triển CNTT làm giải pháp hàng
đầu để rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển, tăng tính cạnh tranh của
quốc gia trước sự hội nhập kinh tế.
Chỉ thị 58-CT/TW của Bộ chính trị đã nêu rõ, ứng dụng và phát triển
CNTT ở nước ta nhằm góp phần giải phóng sức mạnh vật chất, trí tuệ và tinh
thần của toàn dân tộc, thúc đẩy công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và hiện
đại hoá các ngành kinh tế, tăng cường năng lực cạnh tranh của các doanh
nghiệp, hỗ trợ có hiệu quả cho quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế,
nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, đảm bảo an ninh, quốc phòng
và tạo khả năng đi tắt đón đầu để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá.
1.1.3.1. Vai trò của công nghệ thông tin đối với kinh tế, văn hóa và
xã hội
- CNTT là một trong những động lực quan trọng nhất của sự phát triển,
cùng với một số ngành công nghệ khác làm biến đổi sâu sắc đời sống kinh tế,
văn hóa, xã hội của thế giới đương đại. [9]
Kết hợp các phương tiện truyền thông và Internet, CNTT đã tạo ra môi
trường trao đổi thông tin đa truyền thông, đa phương tiện (multimedia). Các

công nghệ kết nối này đã xóa bỏ các rào cản về mặt vật lý, nhờ vậy mà con
người có thể thực hiện mua bán, trao đổi thông tin kinh tế - xã hội hay thực
hiện học tập, hội nghị từ xa. Những công nghệ này kết nối thế giới ngày càng
phổ biến, nhanh chóng, dễ dàng và chặt chẽ hơn. Chính vì vậy mà CNTT đã
làm thay đổi mọi mặt đời sống kinh tế, văn hóa xã hội. Từ biến đổi cách thức
giao tiếp đến cách sử dụng thông tin, biến đổi bản chất thương mại, bản chất
của công việc, thay đổi cách thức chăm sóc y tế và học tập. Cụ thể như:
Hơn một tỉ người có thể truy cập internet cùng một lúc và tham gia gặp
gỡ, trao đổi và cập nhật thông tin theo thời gian thực. Con người có thể thực
hiện giao dịch mua bán trên mạng, trò chuyện với bạn bè trên khắp thế giới.
Nhờ ứng dụng CNTT mà ngày nay, năng suất lao động được tăng
nhanh, khối lượng công việc của hoạt động thương mại được giải quyết trong
một ngày bằng cả năm 1949, một ngày xử lý các dự án khoa học bằng cả năm


-161960, số cuộc gọi điện thoại trong một ngày bằng cả năm 1983, số thư điện tử
gửi đi trong một ngày bằng cả năm 1990.
Thương mại điện tử đang thúc đẩy mạnh mẽ các ngành sản xuất, dịch
vụ trên phạm vi toàn cầu. Nhờ ứng dụng thương mại điện tử mà các nước
đang phát triển, đặc biệt là các công ty nhỏ, các vùng biệt lập, xa xôi có thể dễ
dàng tiếp xúc với thị trường rộng lớn ở trong nước cũng như ngoài nước.
Một dịch vụ ngân hàng được thực hiện tại chi nhánh tốn 1,14 đôla Mỹ,
nhưng qua Internet chỉ tốn có 1 cent (1/100 đôla). Một dịch vụ đăng ký và bán
vé máy bay trung bình tốn 10 đôla Mỹ nhưng qua Internet chỉ còn 1 đô la Mỹ.
Chữa bệnh trên mạng (hướng dẫn, khám bệnh, chẩn đoán, điều trị từ
xa) đang trở thành một hình thức phổ biến, có tác dụng hỗ trợ kịp thời và thiết
thực cho dân cư ở các vùng còn nghèo nàn, lạc hậu nằm xa các trung tâm y tế.
Giáo dục, đào tạo từ xa đang giúp nâng cao chất lượng các chương
trình giảng dạy và học tập. Người đi học ở khắp mọi nơi có thể thông qua
mạng để đăng ký và tham gia học tập. [8, tr.28]

- CNTT là một ngành kinh tế mũi nhọn có tốc độ tăng trưởng bình
quân khoảng 8% (ở Việt Nam là 23%), tạo ra nhiều việc làm mới. Ớ các nước
có CNTT phát triển, tỷ trọng riêng của ngành công nghiệp CNTT chiếm 1015% GDP. Mỗi quốc gia đều chọn hướng phát triển CNTT riêng cho mình.
Chẳng hạn như Malayxia chọn phát triển mạnh linh kiện điện tử, Ấn Độ phát
triển công nghiệp phần mềm, Trung Quốc chiếm giữ sản xuất thiết bị CNTT,
…. Theo các chuyên gia tư vấn, định hướng phát triển CNTT ở Việt Nam nên
tập trung vào lĩnh vực gia công phần mềm, đặc biệt là đào tạo đội ngũ nguồn
nhân lực có chất lượng cao, đây có thể là hướng đi đúng nhất hiện nay. Bởi lẽ
về lĩnh vực sản xuất phần cứng là các lĩnh vực độc quyền về công nghệ và có
xu hướng chia nhỏ ở nhiều quốc gia (theo xu hướng phân công lao động của
quá trình toàn cầu hóa); Về lĩnh vực phần mềm, dẫn đầu là Ấn Độ, kế là
Trung Quốc. Vì vậy, Chính phủ Việt Nam cần ưu tiên các chính sách về phát
triển phần mềm, kết hợp với việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao.
- CNTT còn là cơ sở cho quá trình hội nhập và toàn cầu hóa kinh tế.
Cùng với sự phát triển của Internet và viễn thông, CNTT đã từng bước xóa bỏ đi


-17các rào cản không gian về mặt vật lý giữa các vùng, miền hay giữa các quốc gia
với nhau. Như đã trình bày, ngày nay, việc mua bán hay học tập, hội thảo qua
mạng đã trở nên phổ biến và hơn thế nữa, một người ở quốc này có thể làm thuê
cho một công ty ở quốc gia khác đã không còn là vấn đề quá xa lạ. Với mạng
internet và các dịch vụ do CNTT tạo ra, các công ty có thể hợp tác sản xuất, trao
đổi mua bán, quảng bá và mở rộng thị trường của mình ra khắp thế giới.
1.1.3.2. Vai trò của công nghệ thông tin đối với hoạt động của cơ
quan nhà nước
Trên phương diện của Chính phủ, CNTT cùng với sự phát triển của hệ
thống interrnet sẽ giúp cho Chính phủ xóa bỏ rào cản về mặt vật lý giữa các
hệ thống thông tin dựa trên giấy tờ truyền thống, giải phóng các luồng di
chuyển thông tin trong hệ thống, rút ngắn các qui trình thủ tục, cung cấp các
dịch vụ công cho người dân và doanh nghiệp, lắng nghe người dân và cộng

đồng cũng như trong việc tổ chức và cung cấp thông tin;
Theo mô hình “bốn thành phần, ba chủ thể” của Viện Chiến lược
BCVT và CNTT thuộc Bộ Bưu chính Viễn Thông (nay là Bộ TTTT):
Hình 1.2: “Bốn thành phần, ba chủ thể”
Người sử dụng

Chính phủ

Ứng
dụng

Nhân
lực

Hạ
tầng

Công
nghiệp

Môi trường hỗ trợ và
thúc đẩy phát triển

Doanh nghiệp

Nguồn: Viện chiến lược BCVT và CNTT


-18CNTT với bốn thành phần: ứng dụng CNTT, cơ sở hạ tầng CNTT,
nguồn nhân lực và công nghiệp CNTT sẽ giúp cho Chính phủ cải tiến mối tác

động qua lại giữa ba chủ thể: Chính phủ, người dân và doanh nghiệp nhằm thúc
đẩy tiến trình chính trị, KT-XH, tiến đến xây dựng CPĐT.
Đối với các CQNN, nhờ vào khả năng số hóa, xử lý và tái tạo thông tin
một cách tự động, CNTT giúp cho việc tự động hóa hoặc vi tính hóa các qui
trình, thủ tục giấy tờ hiện hành. Từ đó, sẽ đơn giản hóa các thủ tục hành
chính, tạo ra phong cách lãnh đạo mới, các cách thức mới trong việc xây dựng
và quyết định chiến lược, cải tiến các hình thức cung cấp dịch vụ công. Kết
quả làm tăng tính hiệu quả của quá trình phê duyệt và cung cấp dịch vụ công
một cách hiệu quả và kịp thời cho người dân, doanh nghiệp và cả trong hệ
thống các CQNN.
Mặt khác, tính minh bạch của thông tin trong môi trường số sẽ giúp cho
việc nâng cao tính minh bạch và tin cậy của thông tin trong quản lý điều hành,
cũng như mở ra các cơ hội mới cho người dân được chủ động tham gia góp ý
vào các vấn đề về điều hành và hoạch định chính sách. Thông qua internet và
một số phương tiện truyền thông khác, việc phổ biến rộng rãi thông tin sẽ hỗ trợ
việc trao quyền cho người dân cũng như quá trình đưa ra quyết định của CQNN.
Tính minh bạch của thông tin không chỉ thể hiện sự dân chủ mà còn gầy dựng
nên sự tin cậy giữa những nhà lãnh đạo và tính hiệu quả trong điều hành; Đồng
thời cũng góp phần chống quan liêu và tham nhũng trong bộ máy CQNN.
Như vậy, đối với Chính phủ nói chung và CQNN nói riêng, CNTT
chính là công cụ, phương tiện để nâng cao vai trò, hiệu quả và chất lượng
quản lý của mình bằng cách cải tiến việc tiếp cận và cung cấp các dịch công
nhằm đem lại lợi ích tốt nhất cho người dân; CNTT còn tăng cường năng lực
quản lý, điều hành có hiệu quả và nâng cao tính minh bạch trong các CQNN
nhằm quản lý tốt hơn các nguồn lực kinh tế, xã hội.
Ngay nay, lĩnh vực lãnh đạo quản lý cũng như các lĩnh vực khác đều
đang chịu sự tác động của CNTT. CNTT có thể hỗ trợ công tác quản lý nâng
cao hiệu quả hoạt động của nó. Đồng thời, hoạt động lãnh đạo quản lý cũng
có tác động lớn đến sự phát triển và ứng dụng CNTT;



-19Việc ứng dụng CNTT là sử dụng những kết quả của CNTT để hỗ trợ
cho các cá nhân, tổ chức hoạt động xứ lý thông tin, hỗ trợ các khâu công việc
cần thiết và cuối cùng, ở mức cao nhất là hỗ trợ cho các tổ chức hoạt động và
các cá nhân tự động trao đổi, khai thác thông tin trong môi trường CNTT; cải
tiến, đổi mới qui cách làm việc, đạt hiệu quả công việc cao hơn, đáp ứng
những thay đổi dang diễn ra. [21, tr.358]
Có thể nói, CNTT có vai trò hết sức quan trọng trong việc cải cách
hành chính và hiện đại hóa nền hành chính, hướng đến Chính phủ hiện đại mà
ngày nay gọi là CPĐT. Tuy nhiên, cần lưu ý CNTT chỉ là công cụ, phương
tiện cho Chính phủ thực hiện tốt vai trò, chức năng của mình. Cần tránh tư
tưởng tuyệt đối hóa CNTT dẫn đến những định hướng sai lầm, làm sai lệch đi
mục tiêu, chức năng của Chính phủ.
ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG HOẠT ĐỘNG
CỦA CƠ QUAN NHÀ NƢỚC

1.2.

Ngay từ đầu những năm 90, nước ta đã có những chủ trương ứng dụng
và phát triển CNTT. Cụ thể như: (i) Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày
30/3/1991 của Bộ Chính trị về khoa học và công nghệ trong sự nghiệp đổi
mới đã nêu: "Tập trung sức phát triển một số ngành khoa học công nghệ mũi
nhọn như điện tử, tin học,..."; (ii) Nghị quyết Hội nghị lần thứ VII Ban Chấp
hành Trung ương (khoá VII) ngày 30/7/1994 xác định: "Ưu tiên ứng dụng và
phát triển các công nghệ tiên tiến, như công nghệ thông tin phục vụ yêu cầu
điện tử hoá và tin học hoá nền kinh tế quốc dân"; (iii) Nghị quyết Đại hội đại
biểu Đảng toàn quốc lần thứ VIII nhấn mạnh: "ứng dụng công nghệ thông tin
trong tất cả các lĩnh vực kinh tế quốc dân, tạo ra sự chuyển biến rõ rệt về
năng suất, chất lượng và hiệu quả của nền kinh tế... Hình thành mạng thông
tin quốc gia liên kết với một số mạng thông tin quốc tế"; (iv) Nghị quyết số

49/CP ngày 4/8/1993 của Chính phủ đã ban hành về "Phát triển công nghệ
thông tin ở Việt Nam trong những năm 90", ….
Nhưng có thể nói, văn kiện có tầm quan trọng đặc biệt, có giá trị to lớn
và lâu dài trong việc chỉ đạo, tổ chức việc xây dựng và thực hiện các chiến
lược, kế hoạch và dự án ứng dụng và phát triển CNTT chính là Chỉ thị 58-


-20CT/TW ngày 17/10/2000 của Bộ chính trị về đẩy mạnh ứng dụng và phát triển
công nghệ thông tin phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Chỉ thị đã
khẳng định: “Công nghệ thông tin là một trong các động lực quan trọng nhất của
sự phát triển, cùng với một số ngành công nghệ cao khác đang làm biến đổi sâu
sắc đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội của thế giới hiện đại…”.
Theo Chỉ thị 58-CT/TW, ứng dụng CNTT là quá trình đưa CNTT vào
các lĩnh vực KT-XH nhằm góp phần giải phóng sức mạnh vật chất, trí tuệ
và tinh thần của toàn dân tộc, thúc đẩy công cuộc đổi mới, phát triển nhanh
và hiện đại hoá các ngành kinh tế, tăng cường năng lực cạnh tranh của các
doanh nghiệp, hỗ trợ có hiệu quả cho quá trình chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, đảm bảo an ninh,
quốc phòng và tạo khả năng đi tắt đón đầu để thực hiện thắng lợi sự nghiệp
CNH, HĐH.
Chỉ thị 58-CT/TW đã là cơ sở cho sự ra đời của Luật CNTT - Bộ luật
đầu tiên trong lĩnh vực CNTT, được Quốc Hội thông qua ngày 29/6/2006 theo
Nghị quyết số 67/NQ-QH, là cơ sở pháp lý cho mọi hoạt động ứng dụng và
phát triển CNTT của đất nước - và sau đó là Nghị định số 64/2007/NĐ-CP
ngày 10/4/2007 của Chính phủ về ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt
động của CQNN.
Theo Nghị định 64/2007/NĐ-CP, ứng dụng công nghệ thông tin trong
hoạt động của CQNN là việc sử dụng công nghệ thông tin vào các hoạt động
của CQNN nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả trong hoạt động nội bộ của
CQNN và giữa các CQNN, trong giao dịch của CQNN với tổ chức và cá

nhân; hỗ trợ đẩy mạnh cải cách hành chính và bảo đảm công khai, minh bạch.
Với quan điểm ứng dụng CNTT trong cơ hoạt động của CQNN như
trên, Nghị định 64/2007/NĐ-CP đã đặt ra nhiệm vụ hiện đại hóa nền hành
chính và tiến đến xây dựng CPĐT.
Hiện nay, có nhiều khái niệm khác nhau về CPĐT nhưng có một khái
niệm được nhiều người chấp nhận là: “Chính phủ ứng dụng CNTT để hoạt
động hiệu lực, hiệu quả hơn, minh bạch hơn, phục vụ nhân dân tốt hơn và


×