Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Tiểu luận ĐÔI ĐIỀU VỀ VĂN HÓA VIỆT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.85 KB, 16 trang )

BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HIẾN

BÀI TIỂU LUẬN
Môn: QUẢN TRỊ HỌC

ĐỀ TÀI:

ĐÔI ĐIỀU VỀ VĂN HÓA VIỆT.
GVHD: Tiến sĩ Lê Phước Hùng
Mã học phần: MCA 05204
Mã lớp: 161A0801
SVTH:

MSSV:

1. Nguyễn Mai Thanh Tuyền
2. Nguyễn Thị Thanh Vàng

161A030158
161A030520

3. Trần Thị Ngọc Tuyết

161A030262

4. Ngô Hà Mỹ Uyên

161A031202

5. Bùi Thị Vân



161A030636
TP. HCM, tháng 12 năm 2016



NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………
……………………………………………………………….
.................................................................................................
.................................................................................................
.................................................................................................
.................................................................................................
.................................................................................................
.................................................................................................
.................................................................................................


LỜI MỞ ĐẦU
Trang lời mở đầu này đã thật sự là phần cuối cùng mà nhóm 26 tụi con thực
hiện. Bởi 10 buổi Quản trị học trôi qua thật rất nhanh, nhưng rất nhiều cảm
xúc mà hiện tại rất khó diễn đạt nên. Thầy - Tiến sĩ Lê Phước Hùng, người
giảng viên đáng kính mà chúng con may mắn được học. Có lẽ ấn tượng đầu

tiên khi nói về thầy thì lòng nể phục đã chen chân trước sự kính yêu. 10 buổi
học thầy đã không chỉ giảng giải bằng tài liệu , mà thầy đã truyền đạt đến
chúng con bằng kinh nghiệm và trái tim chân thành của người thầy. Vâng,
thầy đã răn chửi rất nhiều , nhưng tất cả đều toát lên tài năng lãnh đạo và
cách ứng xử tuyệt vời của thầy. Thầy kết nối chúng con một cách ngẫu nhiên
để rồi 5 thành viên nhóm 26 đã là chị em trong gia đình có chung người cha
là thầy. Chúng con thân và hiểu nhau chỉ qua 10 buổi học ngắn ngủi. Sau khi
kí nộp bài tiểu luận, có lẽ là lần cuối gặp thầy,đương nhiên nếu trường hợp
xấu " học lại " không xảy ra ,nhưng chúng con đã thật sự rất mong rằng, thầy
sẽ mãi là người lãnh đạo, người động viên và đưa ra những lời khuyên chân
thành và đúng đắn nhất trong những chặn đường tương lai của nhóm 26 nói
riêng và tất cả các sinh viên vinh hạnh được 1 lần nghe thầy giảng giải. Lời
cuối, chúng con kính chúc gia đình thầy sức khỏe, hạnh phúc và thành công,
chúc nhóm 26 mình vững bước trên con đường tương lai tươi đẹp phía trước.
Và, xin được cảm ơn thầy và các bạn vì những gì chúng ta đã cùng trải qua
bằng tất cả sự kính trọng và yêu thương.


Mục lục
Phần mở đầu

1

1. Thế nào là văn hóa?

3

2. Cách giao tiếp và ứng xử của người Việt

3


3. Văn hóa ứng xử

4

4. So sánh giữa cách giao tiếp của người

5

Việt và người nước ngoài


PHẦN MỞ ĐẦU
Đối với mỗi cá nhân, giao tiếp không chỉ ảnh hưởng đến cuộc sống đời thường mà
nó còn quyết định đến hiệu quả làm việc cũng như mức độ thành công trong sự
nghiệp mỗi người. Những người có chuyên môn trung bình nhưng hợp tác với đồng
nghiệp, ứng xử linh hoạt sẽ thành công hơn những người chỉ khá về chuyên môn
nhưng thiếu tinh thần hợp tác hoặc không biết cách hợp tác.
Giao tiếp tốt là thể hiện một tư duy rõ ràng, mạch lạc. Dựa vào lời ăn tiếng nói,
người ta đánh giá phẩm chất của con người: “Người thanh, tiếng nói cũng thanh/
chuông kêu kêu, kẽ đánh bên thành cũng kêu".
Ngày xưa, người việt chỉ giao tiếp trong một không gian nhỏ hẹp,nhưng lại được
mài giũa rất kĩ càng.Ngày nay chúng ta được giao tiếp trong “Một môi trường
quốc tế hóa”. Điều đó làm thể hiện rõ tầm quan trọng của việc giao tiếp ; luôn ý
thức là phải tự tin,hòa nhã thân thiện và lịch sự để hợp tác với mọi người ....Nhưng
thực tế có nhiều điều cản trở khiến việc giao tiếp trở nên không hiệu quả
Vì thế có thể nói là trong cách giao tiếp ứng xử của người Việt còn nhiều điểm bất
đồng với quốc tế."Điều quan trọng cần phải xác định ngay từ đầu là không có tính
cách văn hóa tốt hay xấu ; đại kị hơn nữa là dùng chuẩn mực văn hóa của mình để
phán xét văn hóa của nước khác".

Cuộc sống xã hội diễn ra vô cùng phức tạp, đa dạng, những lời khuyên cho hành
động của chúng ta có vẻ như độc đoán, khó nhớ. Thực tế chúng hợp thành một tổng
thể được xây dựng trong sự gắn bó chặt chẽ với nhau.
Những nguyên tắc chỉ đạo cách xử thế, cũng như phép lịch sự, đồng thời là những
mục tiêu nhằm đạt tới là:




Trước hết là thực hiện tốt việc xã hội hoá. Mỗi cá nhân thừa nhận và tôn
1

trọng những quy tắc và giá trị chung của các mối giao tiếp và liên hệ xã
hội. Mỗi cá nhân tham gia, hoà đồng vào xã hội và thích ứng được với cuộc
sống cộng đồng.Mỗi người thừa nhận mình là một thành viên của một tập thể,
một cộng đồng nhất định, mà không phải là một cá nhân duy nhất vượt trội,
sống tách biệt với người khác. Ở đây tính xã hội vượt lên tính cá nhân. Cá
nhân hoà đồng vào xã hội.Biết thích ứng, đó là yêu cầu cơ bản đảm bảo cho
cá nhân tham gia và hoà đồng vào xã hội. Để có thể sống với người khác và
sống thoải mái với họ, cần thiết phải thích ứng với những luật tục thông
thường đang diễn ra chung quanh mình. Ví dụ đến dự một cuộc họp, một buổi
kỷ niệm cần ăn mặc chỉnh tề, nói năng lịch sự, trong khi đến gia đình gặp
người quen có thể chuyện trò vui vẻ, gọi nhau anh chị, mày tao ... Đến dự
đám tang, không ăn mặc loè loẹt, không nói chuyện ồn ào, cần nói khẽ, nói ít,



tỏ thái độ kính trọng, thương tiếc người đã mất...
Thứ hai là sự cân bằng, nguyên tắc điều chỉnh trật tự xã hội. Các quan hệ giao
tiếp diễn ra trong sự trao đổi, có đi có lại. Ví dụ phải đáp lại lời chào, trả lời

cảm ơn việc bạn bê mời ăn... thể hiện sự quan tâm đến nhau (người trẻ giúp
đỡ người già đi lại, người già chú ý hướng dẫn người trẻ những điều chưa
biết...). Sự cân bằng đặt sự đồng ý trên sự đối lập, cho phép giải toả những xu
hướng đối lập, cũng như đáp ứng nhu cầu bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau
trong thực tiễn xã hội: ví dụ người dưới kính nể người trên, nhưng người trên
phải thể hiện sự tôn trọng người dưới, đối xử bình đẳng, không hách dịch. Vai
trò của sự cân bằng là đảm bảo một sự công bằng nhất định, một giới hạn nhất
định, một sự dè dặt nhất định trong trật tự xã hội. Mọi người dù cương vị xã
hội thế nào thì chỗ đứng của họ phải được thừa nhận. Các quyền lợi cũng như
nghĩa vụ của người đó, các thành viên của cộng

phải thừa nhận, dù họ ở địa vị xã hội cao hay thấp.


2


1.Thế nào là văn hóa?
- "Văn hóa là sản phẩm của loài người ,văn hóa được tạo ra và phát triển trong
quan hệ qua lại giữa con người và xã hội.
- Từ văn hóa có rất nhiều nghĩa . Trong tiếng việt, văn hóa Việt được dùng theo
nghĩa thông dụng để chỉ học thức, lối sống .Theo nghĩa chuyên biệt để chỉ trình độ
phát triển của một giai đoạn.Trong khi theo nghĩa rộng văn hóa lại bao gồm tất cả
từ những sản phẩm tinh vi hiện đại cho đến tín ngưỡng, phong tục, lối sống...."
(Nguồn:www.lienketviet.net)

2.Cách giao tiếp và ứng xử của người Việt:
2.1. Đặc trưng cơ bản cách giao tiếp:









Người Việt Nam vừa thích giao tiếp vừa rụt rè
Trọng tình nghĩa
Với đối tượng giao tiếp người Việt ưa tìm hiểu "tò mò"
Tính cộng đồng
Tính tế nhị
Hệ thống nghi thức lời nói rất phong phú

2.2 .Cách ứng xử:
“Yêu nhau yêu cả đường đi - Ghét nhau, ghét cả tông ti họ hàng; Yêu nhau cau sáu
bổ ba - Ghét nhau cau sáu bổ ra làm mười; Yêu nhau củ ấu cũng tròn - Ghét nhau
bồ hòn cũng méo; Yêu nhau mọi việc chẳng nề - Dẫu trăm chỗ lệch cũng kê cho
bằng; Yêu nhau chín bỏ làm mười....”

 Lấy sự yêu ghét làm nguyên tắc ứng xử.
3


Nếu trong tổng thể, người Việt Nam lấy sự hài hòa âm dương làm nguyên lí chủ
đạo nhưng vẫn thiên về âm tính hơn, thì trong cuộc sống người Việt Nam sống có lí
có tình nhưng vẫn thiên về tình hơn. Khi cần cân nhắc giữa tình với lí thì tình được
đặt cao hơn lí : Một bồ cái lí không bằng một tí cái tình; Đưa nhau đến trước cửa
quan- Bên ngoài là lí, bên trong là tình.
(Nguồn />
3. Văn hóa ứng xử:

- Văn hóa ứng xử là một vấn đề tuy cũ nhưng luôn luôn được nhắc đến trong cuộc
sống của chúng ta .Bởi vì dù chúng ta sống ở đâu,bất kì hoàn cảnh nào và bất kì
thời đại nào thì văn hóa ứng xử luôn là một tiêu chí để đánh giá phẩm chất của con
người . Ây vậy mà hiên nay một số bộ phận những người trẻ họ lại đi ngược với
văn hóa ứng xử tốt đẹp của dân tộc .
- Và có thể nói văn hóa ứng xử là nột phần giao tiếp của mỗi chúng ta.Và đối với
người nước ngoài thì cái nhìn đầu tiên của họ về người Việt chúng ta là thường
thích làm hài lòng người khác nhất là khách phương xa đến . Điển hình là câu trả
lời “vâng”, “chuyện nhỏ” , “có”.Bất kì ai trong chúng ta cũng muốn mình đối đáp
một cách thông minh , ứng xử khéo léo,lịch sự .Nhưng trong cuộc sống hằng ngày
chúng ta vẫn luôn phải nghe những lời tục tĩu, thô lỗ,cũng gặp không ít nhũng kẻ
ngụy biện để che đậy thói hư tật xấu của mình
- Theo TS.Nguyễn Thế Hùng làm nguyên tắc ứng xử. “Một bồ cái lí không bằng
một tí cái tình”. Họ quen ưa tìm hiểu, quan sát và đánh giá đối tượng giao
tiếpcủa mình. Họ rất trọng danh dự. Họ thường hay nói thẳng nhưng trọng sự
hoà thuận. Một số tỉnh nhất làở Bắc Trung Bộ, họ ưa tế nhị và ý tứ hơn. Họ có
4


nghi thức rất phong phú. Người miền Trung thường hay bộc lộ những suy nghĩ
của họ trong giao tiếp. Mọi khúc mắc họ giải bày ngay nhưng ở một số vùng thì
lại khác. Họ sống cũng có tôn ti trật tự rõ ràng. Nhìn chung trong lao động thì
tâm lí “ăn chắc mặc bền” vẫn là chủ yếu. Họ không quá khắt khe như người
miền Bắc, cũng không quá phóng khoáng như người miền Nam. Và có cái gì đó
giống nhau trên suốt cả dải khúc ruột này ở nhiều địa phương

4.Sự khác biệt giữa cách giao tiếp của người Việt và
người nước ngoài:
- Hiểu về văn hóa giao tiếp là một trong những chìa khóa tạo nên thành công trong
cuộc sống .Giao tiếp tạo lên mối liên kết giữ người với người , đặc biệt giữa các

quốc gia vì mỗi quốc gia đều có nền văn hóa riêng biệt.Tuy hiện giờ sự giao thiệp
giữa các nơi được mở rộng,cách giao tiếp đã có một phần xích lại gần nhau nhưng
nét đặc trưng của từng nơi vẫn lưu giữ được bản sắc .

5


 Sự khác biệt văn hóa giao tiếp trong kinh doanh
STT
1

Những biểu hiện
Chào hỏi

Người Việt
Xem trọng thứ bậc trong giao tiếp x

2

Làm quen đồng nghiệp

Còn e thẹn, ngại ngùng bối rối tron

3

Cách thể hiện ý kiến bản thân

Đề cao sự khéo léo, mềm mỏng

4


Cách đặt vấn đề và giải quyết vấn đề

Không thích đối đầu,xung đột, khô
đề , đạt kết quả chậm

5

Cách nói chuyện

6

Văn hóa xin lỗi

Thường khiêm tốn , hạ mình xuốn
khiêm nhường
Vẫn còn khó khăn trong việc nói từ

7

Văn hóa cảm ơn

Ít bộc lộ cảm xúc ra bên ngoài mà d
nên vẫn còn tiết kiệm lời “cảm ơn”

8

Thể hiện cảm xúc

Thường che giấu

thể “trong héo ng

9

Cách ứng xử nơi làm việc

Do thói quen thíc
vô tư, đông ngư
ào,không chuyên

Văn hóa phương Đông và phương Tây từ ngàn xưa đã có sự khác biệt. Có thể nói
qua một số điểm khác biệt cơ bản như:


 Thứ nhất, sự khác biệt trong cách nhìn nhận và đánh giá về thế giới xung
quanh. Người phương Tây ngay từ thời cổ đại đã có cách nhìn nhận triết
học dưới các hình thức thế giới quan khác nhau, thậm chí đối lập nhau; có
thế giới quan duy vật – duy tâm, có thế giới quan lạc quan, tích cực – bi
quan, tiêu cực. Trong đó, những người có thế giới quan tích cực, lạc quan
7
thường đại diện cho xu hướng tư duy tiến bộ, đồng tình và ủng hộ cho sự phát
triển của khoa học. Còn những người có thế giới quan duy tâm, bi quan, tiêu
cực thì thường có tư duy phản tiến bộ, không tin vào sự phát triển của khoa
học. Trong thói quen tư duy của mình, người phương Tây xem thế giới rõ ràng
có hai màu đen hoặc trắng chứ không có thế giới lẫn lộn hai màu đen – trắng.
Trái lại, người phương Đông do tính khép kín trong sự phát triển của nền văn
hóa nông nghiệp, chịu ảnh hưởng nặng nề của văn hóa phong kiến nên cách
nhìn nhận và đánh giá về thế giới thường phức tạp hơn. Trong nhận thức của
mình, người phương Đông cho rằng thế giới không phải là những mảnh ghép
rời rạc nhau mà là một thể thống nhất như một số lý thuyết về “tam tài” – trời,

đất, người; “thiên nhân hợp nhất” – trời với người là một. Đây chính là cơ sở
để hình thành thói quen đề cao văn hóa cộng đồng, coi nhẹ văn hóa cá nhân –
nét khác biệt căn bản của văn hóa phương Đông với văn hóa phương Tây. Do
ảnh hưởng của nền văn hóa nông nghiệp, ít cạnh tranh, nên người phương
Đông hạn chế về tri thức khoa học, mang nhiều yếu tố duy tâm, siêu hình, tin
vào những điều kì lạ mà trời đất, thần thánh mang tới cho thế giới

 . Thứ hai, sự khác biệt về phương thức tư duy và văn hóa ứng xử. Đây là
điểm khác biệt dễ nhận thấy nhất giữa hai nền văn hóa này. Người phương
Đông đề cao trực giác, nghĩa là chỉ chú trọng trực quan cảm tính, bề ngoài
mà ít nghiên cứu sâu tới các chi tiết bên trong. Trong ứng xử, người phương
Đông thường đề cao nhận thức kinh nghiệm, coi nhẹ vai trò của lý luận, tri
thức khoa học. Lối tư duy này bộc lộ hạn chế như sự cả tin, nể nang, mất đi


tính lý luận sáng suốt trong đánh giá và đưa ra kết luận một cách khoa học;
coi trọng đạo đức hơn tài năng, coi trọng tình cảm hơn lý trí. Người phương
Tây thì lại có thói quen dựa vào tư duy duy giác, lý trí, chú trọng đến giai
đoạn nhận thức lý tính. Do đó, trong ứng xử người phương Tây thường
8
phân định rõ ràng, xét đến tính thực tế trong nhận thức và hành động. tuy
nhiên, phương thức tư duy này cũng bộc lộ những hạn chế là sự máy móc,
thực dụng, ích kỷ, khả năng thích ứng với sự thay đổi của hoàn cảnh bị hạn
chế.
Do ảnh hưởng thói quen của phương thức sản xuất nông nghiệp, nên chủ thể văn
hóa của người phương Đông là tập thể, cộng đồng, nghĩa là lối nhận thức dựa vào
số đông.

Ưu điểm của văn hóa này là có thể phát huy sức mạnh của cộng đồng nhưng nó
cũng hạn chế sự phát triển sáng tạo, vượt trội của cá nhân và có thể dễ dàng để cá

nhân lợi dụng tập thể để lạm quyền.

Ngược lại, người phương Tây lại coi trọng chủ nghĩa cá nhân, nghĩa là phản đối
sự can thiệp, tác động từ bên ngoài cho dù sự can thiệp đó là của xã hội, nhà nước
hay bất kì một thể chế nào. Chủ nghĩa cá nhân bộc lộ khả năng nhận thức và hành
vi ứng xử mang tính cá nhân, nhưng nó dẫn tới khuynh hướng cực đoan, ích kỷ, coi
nhẹ vai trò của cộng đồng khiến cho người phương Tây thường có tính thực dụng,
vị kỷ. Thứ tư, sự khác nhau về tôn giáo và đức tin. Đa số các cộng đồng người
phương Tây đều theo Thiên chúa giáo, do đó trong ý thức về tôn giáo của họ Thiên
chúa có vị trí và ý nghĩa rất lớn. Trong cộng đồng người phương Đông, đức tin lại
có vẻ phức tạp hơn. Người phương Đông có đức tin về các tôn giáo khác nhau, phổ
biến như Phật giáo, Hồi giáo, Nho giáo, Ấn Độ giáo, ngoài ra còn có các tín
ngưỡng tôn giáo khác. Do đặc điểm không thuần nhất về tôn giáo nên các nước


phương Đông có nền văn hóa bản sắc đặc trưng khác nhau đối với từng dân tộc,
vùng miền.
Khác biệt rõ giữa văn hóa phương Tây và Việt Nam (hay phương Đông nói chung)
9
được thể hiện rõ như sau: Khi Việt Nam ngày càng hội nhập vào văn hóa thế giới
thì việc tìm hiểu về sự khác biệt càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết, để trước
tiên chúng ta tránh những cú sốc về văn hóa, và tiếp đến là để nâng cao vị thế của
Việt Nam trên thế giới. Những sự khác biệt trong thói quen, tập quán, giao tiếp và
ứng xử của 2 văn hóa thể hiện khá chi tiết được thể hiện như sau:
Đối với sự khác biệt trong phong cách ăn mặc của người Mỹ và người Việt Khi nói
về văn hóa của phương Tây và phương Đông thì người ta sẽ nghĩ ngay đến sự khác
biệt về cách ăn mặc, giao tiếp, ẩm thực. Và nhắc đến văn hóa trang phục phương
Tây thì không thể nhắc đến văn hóa trang phục của nước Mỹ. Thường thì người ta
sẽ nghĩ người Mỹ chỉ ăn mặc những trang phục mang đến cho họ sự thoải mái và tự
do. Tuy nhiên vẫn còn rất nhiều sự khác biệt giữa văn hóa, phong cách ăn mặc của

người Mỹ và người phương Đông nói chung, người Việt nói riêng.


10



×