Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Chế định quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 117 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
…………/………..

BỘ NỘI VỤ
……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

ĐẶNG THỊ TRANG

CHẾ ĐỊNH QUYỀN CON NGƯỜI TRONG
HIẾN PHÁP VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

HÀ NỘI – NĂM 2017


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ..................................................................................................................................1
1. Tí nh cấ p thiế t của đề tài luâ ̣n văn ..............................................................................1
2. Tì nh hì nh nghiên cứ u liên quan đế n đề tài luâ ̣n văn .............................................2
3. Mu ̣c đí ch và nhiê ̣m vu ̣ của luâ ̣n văn ..........................................................................4
4. Đố i tượng và pha ̣m vi nghiên cứ u củ a luâ ̣n văn......................................................4
5. Phương pháp luâ ̣n và phương pháp nghiên cứu của luâ ̣n văn ............................5
6. Ý nghi ã lý luâ ̣n và thư ̣c tiễn củ a luâ ̣n văn ................................................................6
7. Kế t cấ u củ a luâ ̣n văn .....................................................................................................6
NỘI DUNG ..............................................................................................................................7
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỊNH QUYỀN CON NGƯỜITRONG
HIẾN PHÁP ............................................................................................................................7
1.1. Quyền con người .........................................................................................................7


1.2. Chế định quyền con người trong Hiến pháp ..................................................... 24
1.3. Mối quan hệ giữa quyền con người và Hiến pháp ........................................... 27
1.4. Chế định quyền con người trong Hiến pháp của một số quốc gia ................ 32
CHƯƠNG 2. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA CHẾ ĐỊNH QUYỀN CON
NGƯỜI TRONG HIẾN PHÁP VIỆT NAM ................................................................. 44
2.1. Chế định quyền con người trong các bản Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp
năm 1959, Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ
sung năm 2001) ................................................................................................................ 45
2.2. Chế định quyền con người trong Hiến pháp năm 2013 .................................. 69
CHƯƠNG 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH QUYỀN
CON NGƯỜI TRONG HIẾN PHÁP VIỆT NAM NĂM 2013 ................................. 89
3.1. Quan điểm hoàn thiện chế định quyền con người trong Hiến pháp năm
2013..................................................................................................................................... 89
3.2. Giải pháp hoàn thiện chế định quyền con người trong Hiến pháp năm 2013............. 94
KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 1077
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................... 1099


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan các thông tin được trình bày trong luận văn là kết quả thu
được từ quá trình nghiên cứu và tìm hiểu của bản thân.
Tác giả luận văn

Đặng Thị Trang


LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm trân trọng nhất, tác giả luận văn xin bày tỏ lòng biết ơn chân
thành và sâu sắc tới Ban Giám đốc, Khoa sau Đại học, các thầy, cô giáo Học
viện Hành chính quốc gia đã tận tình, chu đáo giảng dạy và truyền đạt kiến thức

trong thời gian tác giả học tập, nghiên cứu tại Trường. Đặc biệt, xin gửi lời cảm
ơn sâu sắc tới TS. Hoàng Hùng Hải vì sự tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tác giả
trong quá trình thực hiện luận văn.
Xin trân trọng cảm ơn!
Tác giả luận văn

Đặng Thị Trang


MỞ ĐẦU
1. Tinh
́ cấ p thiế t của đề tài luâ ̣n văn
Quyêǹ con người là yêú tố cơ bản, ta ̣o nên nêǹ tảng của mô ̣t xã hô ̣i dân
chủ, văn minh. Tư tưởng về quyêǹ con người (nhân quyêǹ ) đã hi nh
̀ thành rất
sớm trong lich
̣ sử nhân loa ̣i; nhưng không phải trong bất cứ hi nh
̀ thái kinh tế-xã
hô ̣i nào, trong bất cứ kiểu nhà nước nào nó cũng đươ ̣c thừa nhâ ̣n mô ̣t cách đầy
đủ. Vi ̀ thế, quyền con người là mô ̣t pha ̣m trù lich
̣ sử và là kết quả của cuô ̣c đấu
tranh không ngừng của toàn nhân loa ̣i, vươn tới những lý tưởng, giải phóng
hoàn toàn con người nhằm xây dựng mô ̣t xã hô ̣i thâ ̣t sự công bằng, dân chủ.
Giai cấp tư sản khi tiến hành cách ma ̣ng tư sản đã coi quyền con người
như mô ̣t vũ khi ́ của mi nh
̀ để tranh giành quyền lực với giai cấp phong kiến và để
tâ ̣p hơ ̣p các lực lươ ̣ng xã hô ̣i; do đó, từ thế kỷ XVIII, vấn đề nhân quyền đã
đươ ̣c giai cấp tư sản đề câ ̣p đến như Tuyên ngôn đô ̣c lâ ̣p của Hơ ̣p chủng quốc
Hoa Kỳ năm 1776, Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm 1789.
Sau khi chiến tranh thế giới thứ II kết thúc , vấn đề nhân quyền đã trở

thành mối quan tâm của cả nhà nước xã hô ̣i chủ nghi ã và nhà nước tư bản chủ
nghi ã nên ngay từ khi tổ chức Liên Hiệp Quốc ra đời, vấn đề cơ bản, đầu tiên
của tổ chức này đó là vấn đề nhân quyền. Quyền con người đã trở thành vấn đề
quan tro ̣ng, thường xuyên đươ ̣c đề câ ̣p đến trong các quan hê ̣ quốc tế. Liên Hiệp
Quốc đã ban hành hàng loa ̣t các văn kiêṇ khẳ ng đinh
̣ các quyền và tự do của tất
cả mo ̣i người. Đă ̣c biêṭ là Hiến chương Liên Hiệp Quốc năm 1945 và Tuyên
ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948, vấn đề nhân quyền đã chuyển
sang mô ̣t bước ngoa ̣t mới trong lich
̣ sử nhân loa ̣i, trở thành mô ̣t quan hê ̣ cơ bản
đươ ̣c điều chi n̉ h bằng pháp luâ ̣t quốc tế. Đến nay, quyền con người đã đươ ̣c
khẳ ng đinh
̣ và ghi nhâ ̣n trong Hiến pháp của nhiều quốc gia trên thế giới.
Có thể nói, quyền con người là thành tựu chung của cả loài người, là kết
tinh của nêǹ văn minh nhân loa ̣i. Lich
̣ sử loài người cho thấy tri thức về quyên
̀
con người có ý nghi ã quan tro ̣ng cho sự phát triển và tiêń bô ̣ của các xã hô ̣i cun
̃ g
như là tiêǹ đề cho sự phát triển đầy đủ về nhân cách và năng lực của mỗ i cá
1


nhân, Ở pha ̣m vi rô ̣ng hơn, tri thức về quyêǹ con người là tiêǹ đề cho hòa bi nh
̀
và thinh
̣ vươ ̣ng của nhân loa ̣i.
Ở Viêṭ Nam, tư tưởng về quyêǹ con người gắn liêǹ với cuô ̣c cách ma ̣ng
giải phóng dân tô ̣c. Kể từ khi giành đô ̣c lâ ̣p dân tô ̣c năm 1945, Đảng và Nhà
nước ta luôn tôn tro ̣ng quyên

̀ con người. Tuyên ngôn đô ̣c lâ ̣p của nước Viêṭ
Nam Dân chủ Cô ̣ng hòa do Chủ tich
̣ Hồ Chi ́ Minh đo ̣c ta ̣i quảng trưởng Ba
Đi ̀nh, Hà Nô ̣i ngày 02/9/1945 đươ ̣c coi là mô ̣t văn kiêṇ có ti ́nh lich
̣ sử trên
phương diêṇ quốc tế về quyền con người. Trên cơ sở đó, quyền con người đã
đươ ̣c ghi nhâ ̣n trong Hiến pháp nước ta: Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm
1959, Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 (sửa đổ i, bổ sung năm 2001)
và Hiến pháp năm 2013. Đă ̣c biêt,̣ với quy đinh
̣ của Hiến pháp năm 2013 về
quyền con người đã ta ̣o bước tiến quan tro ̣ng về mă ̣t pháp lý cho viêc̣ thực hiêṇ
quyền con ngưới trên thực tế. Có thể nhâ ̣n thấy, cùng với sự phát triển của đất
nước, những quan điểm và quy đinh
̣ của pháp luâ ̣t về quyền con người ở nước ta
cũng dần có những thay đổ i, tiến bô ̣ hơn.
Để nhi ǹ nhâ ̣n mô ̣t cách tổ ng quan quá tri nh
̣ quyền
̀ phát triển của chế đinh
con người trong Hiến pháp Viêṭ Nam, đánh giá những thành tựu và ha ̣n chế về
vấn đề quyền con người qua các bản Hiến pháp, trong đó tâ ̣p trung vào Hiến
pháp hiêṇ hành năm 2013, tác giả lựa cho ̣n đề tài: “Chế đi ̣nh quyền con người
trong Hiế n pháp Viêṭ Nam” làm luâ ̣n văn tha ̣c sỹ chuyên ngành Luâ ̣t Hiến pháp
và luâ ̣t Hành chi nh
́ của mi nh.
̀
2. Tinh
̀ hinh
̀ nghiên cứu liên quan đế n đề tài luâ ̣n văn
Quyền con người đã đươ ̣c Liên Hiệp Quốc, các nhà khoa ho ̣c pháp lý
trong nước và thế giới quan tâm nghiên cứu. Vi ̀ thế, thời gian qua, ở nước ta có

rất nhiều các công tri nh
̀ nghiên cứu về quyền con người.
+ Các bài viết như: Vũ Công Giao-Lê Thi ̣ Thúy Hương (2014), Nguyên
tắc giới hạn quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp năm 2013, trong
cuốn “Bi nh
̀ luâ ̣n Khoa ho ̣c Hiêń pháp nước CHXHCN Viêṭ Nam năm 2013” của
Viêṇ Chi nh
́ sách công và pháp luâ ̣t, Nxb Lao đô ̣ng-Xã hô ̣i; Nguyễn Trung Ti n
́
2


(2009), “Quyền con người và nhà nước pháp quyền”, Quyêǹ con người-tiêp
́ câ ̣n
đa ngành và liên ngành khoa ho ̣c xã hô ̣i; Vũ Công Giao (2011), Báo báo tổ ng
quan đề tài nghiên cứu khoa học: Quyền con người trong Hiến pháp Viê ̣t Nam
và một số nước trên thế giới, Khoa Luâ ̣t, ĐHQG Hà Nô ̣i;Các nguyên tắc của
chế định quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến
pháp sửa đổi của PGS.TS Phạm Hữu Nghị, đăng trên tạp chí Nhà nước và Pháp
luật năm 2013; Quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp năm 2013
của PGS.TS. Nguyễn Thanh Tuấn đăng trên Tạp chí Cộng sản năm 2013; Vũ
Công Giao (2014), Chế định quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp
năm 2013, trong cuốn “Bình luận Khoa học Hiến pháp nước CHXHCN Việt
Nam năm 2013” của Viện Chính sách công và Pháp luật, NXB Lao động – Xã
hội;…
+ Luận văn thạc sỹ của Giáp Mạnh Huy (2008) về đề tài “Bảo đảm pháp
lý về quyền con người ở Viê ̣t Nam hiê ̣n nay”;luâ ̣n án tiến sỹ luâ ̣t ho ̣c của Đă ̣ng
Công Cương (2013)về đề tài “Vai trò của Tòa án trong viê ̣c bảo vê ̣ quyền con
người ở Viê ̣t Nam hiê ̣n nay”;luâ ̣n văn tha ̣c sỹ luâ ̣t ho ̣c của Trương Thi ̣ Dung
(2014) về đề tài “Vai trò của tư pháp trong viê ̣c bảo vê ̣ quyền con người ở Viê ̣t

Nam”;luâ ̣n văn tha ̣c sỹ luâ ̣t ho ̣c của Trần Thi Phương
̣
Hảo (2014) về đề tài “Một
số vấn đề lý luận và thực tiễn về bảo vê ̣ các quyền con người bằng pháp luật
hình sự Viê ̣t Nam”; luâ ̣n văn tha ̣c sỹ chuyên ngành pháp luâ ̣t về quyền con
người của Nguyễn Ma ̣nh Hùng (2014)về đề tài “Vai trò của Quốc hội trong viê ̣c
bảo vê ̣ và thúc đẩ y quyền con người ở Viê ̣t Nam”; luâ ̣n văn tha ̣c sỹ chuyên
ngành pháp luâ ̣t về quyền con người của Hoàng Lan Anh (2014)về đề tài “Bảo
đảm quyền con người trong Hiến pháp Viê ̣t Nam”; luâ ̣n văn tha ̣c sỹ chuyên
ngành pháp luâ ̣t về quyền con người của Nguyễn Thùy Dương(2014) về đề
tài“Chế đi ̣nh quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp Viê ̣t Nam”.
Những công trình nêu trên đã cung cấp một lượng tri thức, thông tin khá
lớn về vấn đề quyền con người trong các bản Hiến pháp của Việt Nam. Mặc dù
vậy,chưa có công trình nào nêu trên phân tích một cách toàn diện những tiến bộ,
3


hạn chế và cơ chế bảo đảm thực thi những quy đinh
̣ về quyền con người trong
các bản Hiến pháp, từ Hiến pháp năm 1946 đến Hiến pháp năm 2013. Vì vậy,
việc nghiên cứu về vấn đề này có ý nghĩa lý luận, thực tiễn.
3. Mu ̣c đich
̣ vu ̣ của luâ ̣n văn
́ và nhiê m
3.1. Mục đích
Mu ̣c đi ́ch của luâ ̣n văn này là phân ti ́ch những cơ sở lý luâ ̣n, thực tiễn và
nô ̣i dung của chế đinh
̣ quyền con người trong các bản Hiến pháp Viêṭ Nam
nhằm đánh giá mô ̣t cách tổ ng quan những thành tựu, ha ̣n chế của Hiến pháp
Viêṭ Nam về vấn đề quyền con người.Từ đó, đưa ra những quan điểm và giải

pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chế đinh
̣ này.
3.2. Nhiêm
̣ vụ
Để đa ̣t đươ ̣c mu ̣c đi ch
̣ vu ̣ cơ bản sau:
́ nêu trên, luâ ̣n văn có những nhiêm
- Làm rõ những vấn đề lý luâ ̣n nền tảng về mối quan hê ̣ giữa quyền con
người và Hiến pháp .
- Phân ti ch
̣ quyền con người trong các bản Hiến pháp Viêṭ Nam
́ chế đinh
(1946,1959, 1980, 1992, 2013), chi ̉ ra sự phát triển của chế đinh
̣ này qua từng
bản Hiến pháp.
- Phân ti ch
̣ quyền con người trong
́ những sửa đổ i, bổ sung của chế đinh
Hiên
́ pháp năm 2013.
- Phân ti ch
̣ quyền con
́ chi ̉ ra những điểm tiến bô ̣ và ha ̣n chế của chế đinh
người trong Hiến pháp năm 2013 trên cơ sở so sánh với các công ước quốc tế cơ
bản về quyền con người mà Viêṭ Nam đã gia nhập, Hiến pháp của các nước trên
thế giới và các bản Hiến pháp trước đó của Viêṭ Nam.
- Đưa ra một số quan điểm về quyền con người trong Hiến pháp và đề
xuất các giải pháp nhằm tổ chức thực hiện và nâng cao hiệu quả thực hiện chế
định quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam.
4. Đố i tươ ̣ng và pha ̣m vi nghiên cứu của luâ ̣n văn

4.1. Đố i tượng nghiên cứu
Luâ ̣n văn nghiên cứu về quyêǹ con người trong Hiêń pháp Viêṭ Nam.
4


4.2. Phạm vi nghiên cứu
Quyêǹ con người là nô ̣i dung đươ ̣c ghi nhâ ̣n không chi ̉ trong Hiêń pháp –
đa ̣o luâ ̣t cơ bản của quốc gia, mà còn đươ ̣c cu ̣ thể hóa trong các văn bản pháp
luâ ̣t của nhiêù ngành luâ ̣t khác nhau. Tuy nhiên, trong pha ̣m vi luâ ̣n văn này, tác
giả chi ̉ đi sau nghiên cứu các quy đinh
̣ về quyêǹ con người trong các bản Hiên
́
pháp Viêṭ Nam: Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm
1980, Hiến pháp năm 1992 (sửa đổ i, bổ sung năm 2001) và Hiến pháp năm
2013. Trong đó, tâ ̣p trung vào chế đinh
̣ quyền con người của Hiến pháp hiêṇ
hành năm 2013.
5. Phương pháp luâ ̣n và phương pháp nghiên cứu của luâ ̣n văn
5.1. Phương pháp luận
Luâ ̣n văn đươ ̣c thực hiêṇ trên cơ sở vâ ̣n du ̣ng cơ sở lý luâ ̣n, phương pháp
luâ ̣n duy vâ ̣t biêṇ chứng của chủ nghi ã Mác -Lênin, tư tưởng Hồ Chi ́ Minh và
quan điểm của nhà nước ta về pháp luâ ̣t, xây dựng pháp luâ ̣t và quyền con
người.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu đươ ̣c sử du ̣ng trong luâ ̣n văn bao gồm:
phương pháp phân ti ch,
́ tổ ng hơ ̣p, so sánh, thống kê. Cu ̣ thể:
Chương 1, để làm sáng tỏ những nội dung về khái niệm quyền con người,
mối quan hệ giữa quyền con người và Hiến pháp, cũng như trình bày về Hiến
pháp của một số quốc gia về quyền con người, luâ ̣n văn sử du ̣ng phương pháp

thống kê, phân ti ch,
́ tổ ng hơ ̣p, so sánh.
Chương 2, để làm rõ những quy đinh
̣ về quyền con người qua từng bản
Hiến pháp, từ đó có những đánh giá về sự phát triển của chế đinh
̣ quyền con
người trong Hiến pháp Viêṭ Nam, luâ ̣n văn sử du ̣ng phương pháp thống kê, phân
ti ch,
́ so sánh, tổ ng hơ ̣p.
Chương 3, qua viêc̣ nghiên cứu những quy đinh
̣ về quyêǹ con người trong
từng bản Hiêń pháp, đă ̣c biêṭ là bản Hiêń pháp năm 2013, luâ ̣n văn sử du ̣ng

5


phương pháp phân ti ch,
́ tổ ng hơ ̣p, so sánh để đưa ra mô ̣t số giải pháp hoàn thiện
chế định quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam.
6. Ý nghiã lý luâ ̣n và thực tiễn của luâ ̣n văn
Luâ ̣n văn cung cấp cái nhi ǹ tổ ng thể về chế đinh
̣ quyêǹ con người trong
các bản Hiêń pháp Viêṭ Nam từ trước đêń nay, đồng thời cho thấy sự phát triển
của chế đinh
̣ này qua các thời kỳ.
Công tri ̀nh nghiên cứu này có giá tri ̣tham khảo đối với sinh viên, các nhà
nghiên cứu pháp lý, cũng như viêc̣ nghiên cứu giảng da ̣y của các cơ sở đào ta ̣o luâ ̣t.
7. Kế t cấ u của luâ ̣n văn
Ngoài phần Mở đầu phần Kết luâ ̣n, Danh mu ̣c tài liêụ tham khảo, luâ ̣n
văn gồm 3 chương sau:

CHƯƠNG 1.Cơ sở lý luận về chế định quyền con người trong Hiến pháp
CHƯƠNG 2. Quá trinh
̣ quyền con người trong Hiến pháp
̀ phát triểncủa chế đinh
Viêṭ Nam
CHƯƠNG 3.Quan điểm và giải pháp hoàn thiện chế định quyền con
người trong Hiến pháp Việt Nam năm 2013

6


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỊNH QUYỀN CON NGƯỜI
TRONG HIẾN PHÁP
1.1.Quyền con người
Quyền con người là phạm trù chính trị - pháp lý, sự ra đời của khái niệm
quyền con người gắn liền với các cuộc cách mạng dân chủ tư sản lật đổ chế dộ
phong kiến, xã hội thần dân thế kỷ XVII, XVIII. Ở Anh, khái niệm đó nằm trong
Luật về các quyền (1689); ở Mỹ, nằm trong Tuyên ngôn độc lập (1776) và Hiến
pháp (bổ sung, năm 1789); ở Pháp, nằm trong Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân
quyền (1789); và về sau, khái niệm này được ghi nhận trong các văn kiện quốc
tế do Liên Hiệp Quốc khởi xướng [31]. Nói cách khác, quyền con người đã trở
thành ngôn ngữ chung của nhân loại, nghĩa là nó mang tính phổ biến, được cả
nhân loại thừa nhận, quan tâm.
1.1.1. Khái niệm quyền con người
1.1.1.1. Các quan niệm về quyền con người
Quyền con người là vấn đề có lịch sử lâu đời, có nội dung rộng lớn, liên
quan tới nhiều lĩnh vực như đạo đức, chính trị, pháp lý,… Do vậy, trong lịch sử
nhân loại, có nhiều quan điểm khác nhau, thậm chí đối lập nhau về vấn đề quyền

con người. Mỗi một quan điểm là một sự biểu hiện khác nhau ở góc độ nhìn
nhận về vấn đề quyền con người. Tuy nhiên, tổng hợp lại có thể chia thành ba
nhóm quan điểm chủ yếu về quyền con người như sau:
Nhóm quan điểm thứ nhất: Bắt nguồn từ chỗ coi con người là một thực
thể tự nhiên, nên quyền con người là quyền “bẩm sinh”, là “đặc quyền”, nghĩa là
quyền con người, quyền lợi của con người với tư cách là người, gắn liền với cá
nhân con người, không thể tách rời. Quan điểm này được các đại biểu tư tưởng
của giai cấp tư sản thời kỳ Khai sáng (thế kỷ XVII, XVIII) như: Crotius,
Thomas Hobbes, Kant, Locke, Paine, Spinoza, Rousseau hoàn thiện và nêu ra
7


trong học thuyết về pháp luật tự nhiên. Trường phái này cho rằng, quyền tự
nhiên, pháp luật tự nhiên đứng trên, cao hơn pháp luật nhà nước. Theo đó, quyền
con người là các quyền tự nhiên (natural rights) do tạo hóa ban cho họ. Các
quyền này mang tính bẩm sinh, vốn có của các cá nhân, khi sinh ra đã được thừa
hưởng, bởi vì họ là thành viên của nhân loại. Các quyền này không một xã hội
hay một chính phủ nào có thể ban phát, xóa bỏ hoặc “chuyển nhượng” và nó
không phụ thuộc vào các phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa hay ý chí
của bất cứ cá nhân, giai cấp, tầng lớp, tổ chức, cộng đồng hay nhà nước nào.
Đây là các quyền vốn có của các cá nhân. Xuất phát từ quan điểm này, Jacques
Mourgon (giáo sư đại học khoa học xã hội Toulouse) đưa ra quan niệm: “Quyền
con người là những đặc quyền được các quy tắc điều khiển mà con người giữ
riêng lấy trong các quan hệ của mình với các cá nhân và với chính quyền” [33].
Quan niệm này chủ yếu đề cập đến quyền con người ở khía cạnh tự nhiên của
nó.
Nhóm quan điểm thứ hai: Trái với nhóm quan điểm thứ nhất, nhóm quan
điểm này lại chỉ đặt con người và quyền con người trong mối quan hệ xã hội.
Quan điểm này cho rằng, con người chỉ là một thực thể xã hội nên quyền của nó
chỉ được xác định trong mối tương quan với các thực thể xã hội khác và vì là

quan hệ xã hội nên nó được chế độ nhà nước, pháp luật điều chỉnh, bảo vệ. Quan
điểm này có tính tích cực khi coi quyền con người là một khái niệm có tính lịch
sử, đặt con người trong tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Vì con người là thực
thể của xã hội, có mối quan hệ phổ biến với xã hội nên quyền con người luôn
gắn liền với đấu tranh giai cấp, đấu tranh chống áp bức, bóc lột, đấu tranh chống
bạo lực, chống bất công trong xã hội. Theo đó, các quyền con người không phải
tự nhiên đã có mà nó phải được thừa nhận và luật hóa. Cơ sở của quyền con
người ở đây chính là trình độ phát triển của nền kinh tế, văn hóa, xã hội và do
chế độ kinh tế, chế độ xã hội quyết định. Luận ra, các quyền này phụ thuộc vào
ý chí của nhà nước (tức giai cấp thống trị), truyền thống văn hóa và các phong
tục, tập quán. Quan điểm này cũng chính là nội dung của học thuyết cho rằng
8


quyền con người là quyền pháp lý (legal right) với những đại diện như học giả
Edmund Burke (1727- 1797) và Jeremy Bentham (1748-1832). Quan điểm này
xuất phát từ chính lịch sử phát triển của quyền con người. Nhân loại đã chứng
kiến sự tồn tại của các hình thức pháp lý này, khởi đầu là Bộ luật cải cách của
Urukagina, đây là bộ luật được biết đến sớm nhất (khoảng năm 2350 TCN),
trong bộ luật này đã nói đến những khái niệm về quyền con người, tuy nhiên,
văn bản chính thức bộ luật đó hiện vẫn chưa được tìm thấy. Ngoài ra, Luật UrNammu (khoảng năm 2050 TCN) và Bộ luật Hammurabi (khoảng năm 1780
TCN) cũng được coi là những bộ luật xa xưa nhất ghi nhận về các quyền con
người, kể cả quyền của phụ nữ, trẻ em, quyền của nô lệ. Mặt khác, quyền con
người còn được ghi nhận trong các tài liệu tôn giáo, dĩ nhiên không nhiều lắm.
Kinh Vệ đà, Kinh Thánh, Kinh Koran và sách văn tuyển Luận Ngữ của Khổng
Tử cũng nằm trong số những tài liệu ra đời sớm nhất đã nêu ra những vấn đề về
nghĩa vụ, quyền và bổn phận của con người.
Nhóm quan điểm thứ ba: Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn
đề quyền con người. Xuất phất từ quan điểm coi con người vừa là sản phẩm tự
nhiên, vừa là sản phẩm của xã hội, chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng vấn đề

quyền con người “về bản chất bao hàm cả hai mặt tự nhiên và xã hội” [6].
Xét về mặt tự nhiên, C.Mác cho rằng, con người là “động vật xã hội” có
khả năng “tái sinh ra con người”, con người là động vật cao cấp nhất trong quá
trình tiến hóa. Do đó, về mặt này quyền con người trước hết là một thuộc tính tự
nhiên, quyền con người không phải là một “tặng phẩm” do giai cấp thống trị ban
phát thông qua nhà nước mà quyền con người trong hình thức lịch sử tự nhiên
của nó mang bản chất tự nhiên, được thể hiện ở quyền được sống, quyền tự do,
quyền được sáng tạo, phát triển, quyền được đối xử như con người, xứng đáng
với con người.
Xét về mặt xã hội, con người mặc dù là động vật cao cấp nhất tự nhiên,
nhưng ngay khi tiến hóa trở thành động vật cao cấp, con người đã sống thành
bầy đàn và trở thành sản phẩm của lịch sử xã hội. Trong luận cương thứ VI về
9


Phoi-ơ-bắc, C. Mác cho rằng: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người
là tổng hòa những quan hệ xã hội. Do đó, xét về khía cạnh xã hội thì quyền con
người ngay từ khi có xã hội loài người, bên cạnh bản tính tự nhiên còn in đậm
bản tính xã hội” [6]. Theo Mác: “Quyền con người là những đặc quyền chỉ có ở
con người mới có, với tư cách là con người, là thành viên xã hội loài người” [7].
Khi xã hội hình thành giai cấp, hình thành nhà nước đã tạo ra những
chuyển biến có tính “bước ngoặt” trong sự biến đổi mối quan hệ tương quan
giữa bản tính tự nhiên và bản tính xã hội của quyền con người. Đi kèm xã hội có
giai cấp là mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp; do đó, trong điều kiện xã
hội có giai cấp thì bản tính xã hội trở thành bản tính giai cấp. Và ngay cả bản
tính tự nhiên, những giá trị phổ biến của quyền con người cũng tất yếu chịu sự
chi phối của giai cấp thống trị xã hội.
Mặt khác, quyền con người, kể cả quyền tự nhiên, bẩm sinh còn bị ràng
buộc, chi phối vào chính khả năng khám phá, chinh phục tự nhiên của chính con
người, nghĩa là nó phụ thuộc vào khả năng hoàn thiện, phát triển của con người,

sự phát triển của lực lượng sản xuất, trình độ kinh tế - xã hội. Con người càng có
khả năng chế ngự, chinh phục thiên nhiên bao nhiêu thì tự do, quyền con người
ngày càng được mở rộng, ngày càng được đảm bảo bấy nhiêu.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về quyền con người không phải chỉ
là phép cộng đơn giản đối với hai quan niệm về quyền con người nêu trên, mà từ
phân tích cho thấy bản chất hai mặt tự nhiên và xã hội của quyền con người có
những thuộc tính phức tạp và luôn có sự thống nhất giữa hai mặt đối lập.
1.1.1.2. Khái niệm quyền con người
Ở Việt Nam, bên cạnh thuật ngữ “quyền con người” còn có thuật ngữ
“nhân quyền”. Cả hai thuật ngữ này đều bắt nguồn từ thuật ngữ tiếng Anh
“human rights”, mà nếu dịch trực tiếp sang tiếng Việt là quyền con người; còn
nếu dịch qua Hán - Việt là nhân quyền. Xét về mặt ngôn ngữ học, quyền con
người và nhân quyền là hai từ đồng nghĩa [55].

10


Theo một tài liệu năm 1994 của Liên Hiệp Quốc, United Nations Human
rights: Question anh Answer, có đến gần 50 khái niệm về quyền con người đã
được công bố. Mỗi khái niệm tiếp cận vấn đề từ một góc độ nhất định, chỉ ra
những thuộc tính nhất định nhưng không khái niệm nào cũng bao hàm được tất
cả các thuộc tính của quyền con người. Mỗi khái niệm là một sự biểu hiện khác
nhau ở góc độ nhìn nhận về vấn đề quyền con người.
Ở cấp độ quốc tế, khái niệm của văn phòng Cao ủy Liên Hợp Quốc về
quyền con người thường được trích dẫn bởi các nhà nghiên cứu. Theo khái niệm
này, quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu (universal legal
guarantees) có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành
động (actions) hoặc sự bỏ mặc (omissions) làm tổn hại đến nhân phẩm, những
sự được phép (entit lements) và sự tự do cơ bản (fundamental freedoms) của con
người. Theo đó, quyền con người được pháp luật quốc tế ghi nhận và bảo vệ.

Đồng thời, chỉ ra rằng, quyền con người không chỉ được đề cập ở khía cạnh là
quyền của các cá nhân mà nó còn được đề cập là quyền của nhóm, chẳng hạn
như: quyền của phụ nữ, quyền của trẻ em, quyền của người khuyết tật, quyền
của các quốc gia, dân tộc. Một số khái niệm khác cũng được trích dẫn như:
quyền con người là những sự được phép (entitlements) mà tất cả các thành viên
của cộng đồng nhân loại không phân biệt giới tính, chủng tộc, tôn giáo, địa vị xã
hội,… đều có ngay từ khi sinh ra đơn giản chỉ vì họ là con người. Khái niệm này
mang dấu ấn của học thuyết về quyền tự nhiên.
Ở Việt Nam, đã có những quan niệm khác nhau về quyền con người. Học
giả Nguyễn Bá Diến cho rằng: “Quyền con người là các khả năng của con người
được đảm bảo bằng pháp luật (luật quốc gia và luật quốc tế) về sử dụng và chi
phối các phúc lợi xã hội, các giá trị vật chất, văn hóa và tinh thần, sử dụng
quyền tự do trong xã hội trong phạm vi luật định và quyền quyết định các hoạt
động của mình và của người khác trên cơ sở pháp luật” [12]. Quan niệm này
mới chỉ đề cập đến quyền con người với tư cách là phạm trù luật học. TS. Trần
Quang Tiệp đưa ra khái niệm ngắn gọn và khá đầy đủ, cụ thể về quyền con
11


người như sau: “Quyền con người là những đặc lợi vốn có tự nhiên mà chỉ có
con người mới được hưởng trong những điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội nhất định”. Theo GS.TS Nguyễn Đăng Dung, quyền con người là những
quyền cơ bản nhất của con người, được có một cách tự nhiên gắn bó mật thiết
với con người – một động vật cao cấp có lý trí, và có tình cảm làm cho con
người khác với các động vật khác, mà nhà nước thành lập với một trong những
nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của mình là phải bảo vệ những quyền đó [32].
Quan niệm đang được sử dụng phổ biến trong giảng dạy, nghiên cứu về
quyền con người ở nước ta hiện nay là: “Nhân quyền (hay quyền con người) là
những năng lực và nhu cầu vốn có và chỉ có ở con người, với tư cách là thành
viên cộng đồng nhân loại, được thể chế hóa bằng pháp luật quốc gia và các thỏa

thuận pháp lý quốc tế” [30]. Như vậy, có thể hiểu quyền con người là một phạm
trù tổng hợp, vừa là “chuẩn mực tuyệt đối” mang tính phổ biến, vừa là “sản
phẩm tổng hợp của một quá trình lịch sử lâu dài luôn luôn tiến hóa và phát
triển”. Quyền con người “không thể tách rời”, đồng thời cũng không hoàn toàn
phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội. Quyền con người là một tổng
thể những quyền gắn bó với nhau trong mối tương quan biện chứng, đó là quyền
cá nhân và quyền của dân tộc cộng đồng, quyền chính trị, dân sự, kinh tế, văn
hóa và xã hội, quyền của cá nhân đi đôi với nghĩa vụ đối với xã hội.
Có thể thấy, khái niệm quyền con người là một khái niệm năng động và
được thay đổi, mở rộng. Hiểu một cách đơn giản, quyền con người là những nhu
cầu tự nhiên, vốn có của con người. Đó là những khả năng hành động một cách
có ư thức của con người. Tuy nhiên, tự bản thân chúng chưa phải là quyền. Các
nhu cầu của cá nhân khi trở thành đối tượng điều chỉnh của pháp luật thì mới trở
thành các quyền của con người. Không có pháp luật thì không có quyền của con
người. Do đó, quyền con người được nhìn nhận là những nhu cầu tự nhiên, vốn
có của con người và được pháp luật quốc tế, pháp luật quốc gia ghi nhận và bảo
vệ bằng các cơ chế khác nhau. Mặc dù, cho đến nay vẫn còn tồn tại nhiều cách
nhìn nhận khác nhau về quyền con người, nhưng có một điều rõ ràng rằng quyền
12


con người là những giá trị cao cả cần được tôn trọng và bảo vệ. Trong thời đại
ngày nay, quyền con người không thể tách khỏi hòa bình, dân chủ và phát triển.
Ba văn kiện quốc tế cơ bản về quyền con người do Liên Hiệp Quốc ban
hành đó là Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người (UDHR), Công ước
quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (ICCPR) và Công ước quốc tế về các
quyền kinh tế, xã hội và văn hóa đã liệt kê một loạt các quyền được xem là
quyền con người. Bao gồm các quyền như: quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn
luận, tự do đi lại, tự do tôn giáo, tự do lập hội,…; các quyền về sức khỏe, quyền
về giáo dục, quyền về nhà ở, quyền về bảo trợ xã hội,…

1.1.2. Tính chất của quyền con người
Quyền con người có một số tính chất cơ bản, thể hiện tính phổ biến của
nó. Điều này có nghĩa là các tính chất của nó được thể hiện ở mọi quốc gia,
không phụ thuộc vào chế độ chính trị - kinh tế của họ. Nếu như ở đâu đó, quyền
con người không thể hiện được các tính chất như vậy thì điều đó có nghĩa là
quyền con người chưa được bảo đảm theo các tiêu chí chung.
Các tính chất cơ bản của quyền con người, theo nhận thức chung của cộng
đồng quốc tế thể hiện trong cuốn United Nations: UN common understanding on
human rights – based approaches to development, bao gồm: tính phổ biến
(universal), tính không thể chuyển nhượng (tước đoạt) (inalienable), tính không
thể chia cắt (indivisiable) và tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau (interrelated,
interdependent).
1.1.2.1. Tính phổ biến
Tính phổ biến của quyền con người xuất phát từ nguồn gốc tự nhiên về
quyền con người. Theo đó, quyền con người là những giá trị vốn có và chỉ tồn
tại ở loài người. Từ thời Hy lạp cổ đại, nhà triết học Zeno (334-264 TCN) đã
phát biểu rằng, không ai sinh ra đã là nô lệ hết cả, địa vị nô lệ là do họ bị tước
đoạt tự do vốn có của con người. Rõ ràng ở đây, Zeno đã đề cập đến quyền là
một người tự do với ý nghĩa là một quyền bẩm sinh của con người. Tư tưởng

13


này sau đó được nhiều triết gia tái khẳng định và phát triển, trong đó, tiêu biểu
nhất là Thomas Hobbes (1588-1679), John Locke (1632-1704),…
Thomas Hobbes cho rằng quyền tự nhiên cốt yếu của con người là “được
sử dụng quyền lực của chính mình để bảo đảm cuộc sống của bản thân mình, và
do đó, được làm bất cứ điều gì mà mình cho là đúng đắn và hợp lý”. Trong các
tác phẩm của mình, John Locke quan niệm trong trạng thái tự nhiên, tất cả mọi
người đều bình đẳng và độc lập, không ai có quyền làm tổn hại đến người khác

và mọi người đều có quyền trừng phạt kẻ vi phạm.
Thống nhất với cách nhìn nhận về quyền con người của John Locke, trong
bản Tuyên ngôn Độc lập của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ năm 1776 có đoạn viết:
“Mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không
ai có thể xâm phạm được, trong những quyền đó có quyền được sống, quyền tự
do và quyền mưu cầu hạnh phúc,…”. Trong cuộc cách mạng tư sản của mình
năm 1789, người Pháp công bố Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền, một văn
bản mang đầy đủ dấu ấn của các học thuyết về quyền con người thời kỳ này
khẳng định con người sinh ra đều sống tự do và bình đẳng về quyền và phải luôn
được tự do và bình đẳng về quyền lợi.
Như vậy, tất cả con người sinh ra, có mặt trên thế giới này đều bình đẳng,
có lý trí, lương tâm và phẩm giá. Đây là những giá trị vốn có trong mỗi con
người không phân biệt chủng tộc, tôn giáo, giai cấp xã hội. Tất cả mọi người đều
phải được đối xử như nhau. Chính vì con người có những giá trị đặc thù ấy từ
khi sinh ra, cho nên con người có quyền tự chủ đối với cuộc sống của chính họ,
sống tự do và mưu cầu hạnh phúc cho mình.
Để quyền con người tiến tới là một giá trị chung của nhân loại, kế thừa
những tinh hoa của những tư tưởng cận đại, Liên Hiệp Quốc đã bàn bạc, xây
dựng và công bố Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948 - sự
khởi đầu của ngành luật quốc tế về quyền con người. Bản Tuyên ngôn là thỏa
thuận pháp lý quốc tế đầu tiên về quyền con người, được đại đa số các nước
chấp nhận, ký kết, thông qua, thừa nhận tính phổ quát của các quyền con người,
14


dựa trên việc thừa nhận phẩm giá vốn có, các quyền bình đẳng của mọi thành
viên trong gia đình nhân loại là nền tảng của tự do, công lý và hòa bình thế giới.
Đây là thành quả của sự phát triển, sự tiến bộ và văn minh của lịch sử nhân loại,
không chỉ mang tính tất yếu khách quan mà còn thể hiện nguyện vọng chủ quan
của con người trên toàn thế giới, ai cũng có quyền tồn tại, có quyền phát triển và

có quyền mưu cầu hạnh phúc.
Thông qua bản Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người, tính phổ
biến của quyền con người được cộng đồng quốc tế thừa nhận, thể hiện ở chỗ
quyền con người là những gì bẩm sinh, vốn có của con người và được áp dụng
bình đẳng cho tất cả mọi thành viên trong gia đình nhân loại, không có sự phân
biệt đối xử bởi bất kỳ lý do nào về chủng tộc, màu da, giới tính, tôn giáo, thành
phần xuất thân. Như vậy, quyền con người mang tính cá nhân nhưng có tính phổ
quát, không phân biệt màu da, dân tộc, tôn giáo và quốc gia.
Liên quan đến tính chất này, cần lưu ý bản chất của sự bình đẳng về
quyền con người không có nghĩa là cào bằng mức độ hưởng thụ các quyền mà là
bình đẳng về tư cách chủ thể của quyền con người. Mọi thành viên của nhân loại
đều được công nhận có các quyền con người song mức độ hưởng thụ các quyền
phụ thuộc vào năng lực cá nhân của từng người, cũng như hoàn cảnh chính trị,
kinh tế, xã hội, văn hóa,… nơi người đó đang sống.
Trong khoa học pháp lý về quyền con người, có những quan điểm khác
nhau về tính phổ biến của quyền con người. Tựu chung lại, có ba quan điểm liên
quan tới tính chất này của quyền con người: Quan điểm thứ nhất cho rằng,
quyền con người chỉ mang tính phổ biến; quan điểm thứ hai cho rằng quyền con
người chỉ mang tính đặc thù; còn quan điểm thứ ba thì cho rằng quyền con
người vừa mang tính phổ biến, vừa mang tính đặc thù. Quan điểm cho rằng
quyền con người chỉ có tính đặc thù là không hợp lý bởi chính các điều ước
quốc tế phổ biến về quyền con người khẳng định sự thừa nhận của các quốc gia
về tính phổ biến của nó. Theo quan điểm của phương Tây, quyền con người chỉ
có tính phổ biến, không có tính đặc thù. Nghĩa là, quyền là những giá trị chung
15


không phụ thuộc vào pháp luật và đạo đức của bất cứ xã hội nào. Vì vậy, quyền
con người phải được áp dụng với những chuẩn mực và cách thức đồng nhất ở
mọi quốc gia, bất kể sự khác biệt về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Các nhà

khoa học Trung Quốc đã phê phán mạnh mẽ quan điểm tuyệt đối hóa tính phổ
biến của quyền con người của phương Tây. Theo Lý Vân Long, quyền con
người vừa có tính phổ biến vừa có tính đặc thù. Tính phổ biến có nghĩa là quyền
con người được thực hiện ở tất cả các quốc gia, khu vực, bởi tất cả mọi người.
Tính đặc thù có nghĩa là trong khi thực thi các quyền con người, cần tính đến
những điều kiện đặc biệt của các quốc gia, dân tộc, khu vực khác nhau. Tính phổ
biến của quyền con người chỉ có thể được bảo đảm khi tính đến những đặc thù
khác nhau trong việc bảo đảm quyền con người. Ở các nước đang phát triển thừa
nhận tính chất chung của những giá trị cơ bản nhất trong khái niệm quyền con
người nhưng đồng thời cho rằng việc hiểu và thực hiện quyền con người ở các
nước không thể không dựa trên đặc thù lịch sử, văn hóa, kinh tế - xã hội của
từng khu vực, của từng nước. Quan điểm này được ghi nhận trong hai văn kiện
quan trọng về quyền con người của quốc tế và khu vực, đó là Tuyên bố Băng cốc của Hội nghị nhân quyền châu Á và tuyên bố Viên của Hội nghị nhân quyền
thế giới.Như vậy, cũng cần khẳng định rằng quyền con người có tính phổ biến
nhưng không nên tuyệt đối hóa tính phổ biến của quyền con người.
1.1.2.2. Tính không thể chuyển nhượng (tước đoạt)
Sự hiện hữu của con người trên thế giới này tự nó đã nói lên ý nghĩa và
phong cách đặc thù của nó, không cần ai và cũng không ai có thẩm quyền định
đoạt về giá trị tồn tại và vị thế của nó. Khi sinh ra trên mặt đất này, mặc nhiên,
thế giới trở thành nhà và con người là chủ. Vì là chủ nên con người có quyền
sống tự do, tự chủ trong ngôi nhà ấy. Mỗi con người tự do tham gia vào đời sống
xã hội, có quyền tự do ý chí, thể hiện nguyện vọng của bản thân và tự gánh chịu
trách nhiệm về hành vi, hoạt động của mình và mọi hậu quả pháp lý của những
hành vi, hoạt động đó. Bất kỳ một chủ thể nào bao gồm cơ quan công quyền hay
công chức nhà nước cũng không có quyền tước đoạt một cách tùy tiện các quyền
16


tự do ý chí, thể hiện nguyện vọng đó của mỗi cá nhân trong xã hội. Sự tùy tiện
tước đoạt quyền con người bởi một chủ thể nào đó là sự vi phạm các quyền con

người đã được pháp luật bảo vệ (Điều 9 Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con
người năm 1948). Bên cạnh đó, bất cứ ai, không những không được quyền tước
đoạt mà còn không được quyền hạn chế hoặc xâm phạm một cách tùy tiện các
quyền con người của mỗi cá nhân.
Tất cả những quy định đó của pháp luật đều hướng tới mục đích chung,
đó là bảo vệ con người và quyền con người, sự bình đẳng pháp lý của mọi cá
nhân, quyền tự do dân chủ của họ và những bảo đảm cho các quyền và tự do đó.
Như vậy, tính không thể tước đoạt của quyền con người thể hiện ở chỗ
quyền con người không thể bị tước bỏ hoặc bị hạn chế một cách tùy tiện bởi bất
kể chủ thể nào. Ở đây, khía cạnh “tùy tiện” nói đến giới hạn của vấn đề. Nó cho
thấy, không phải lúc nào quyền con người cũng “không thể bị tước bỏ”. Trong
một số trường hợp đặc biệt, quyền con người có thể bị tước bỏ hoặc hạn chế
bằng pháp luật như khi một người phạm một tội ác, hành vi vi phạm pháp luật
được xác định bởi một phán quyết của tòa án có thẩm quyền đã có hiệu lực thì
mới có thể bị tước bỏ quyền tự do. Sự tước bỏ hoặc hạn chế một số quyền con
người của người bị tước bỏ hoặc bị hạn chế thực chất là nhằm bảo vệ các quyền
con người của người khác bị ảnh hưởng bởi hành vi vi phạm pháp luật của
người bị tước đoạt hoặc bị hạn chế gây ra. Bởi, trong "ngôi nhà chung", con
người tất nhiên có bổn phận và trách nhiệm bảo vệ ngôi nhà cho thật tốt, cũng
như phải đối xử bình đẳng, hòa thuận và yêu thương mọi người trong nhà. Con
người cần biết sống đời sống xã hội, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau nhưng không
có quyền xâm phạm đến quyền của người khác. Ví dụ, một người phạm tội giết
người thì có nghĩa là đã tước đoạt quyền sống của người khác và như vậy, anh ta
cần phải bị trừng phạt bởi các biện pháp mà pháp luật quy định nhằm mục đích
răn đe, giáo dục, ngăn ngừa đối với chính anh ta nói riêng và xã hội nói chung
(ví dụ biện pháp tù giam sẽ tước đoạt của anh ta một số quyền cơ bản của con
người). Tuy nhiên, sự tước đoạt ở đây được giải thích có cơ sở từ chính góc độ
17



bảo vệ các quyền con người. Điều này được thể hiện trong Hiến pháp của nhiều
quốc gia. Cụ thể, khoản 1 Điều 2 Hiến pháp Cộng hòa Liên bang Đức năm 1949
quy định: “Mọi người có quyền phát triển nhân cách của mình tự do chừng nào
người ấy không vi phạm quyền của người khác hoặc vi phạm chống lại trật tự
Hiến pháp hoặc luân lý”. Khoản 3 Điều 17 Hiến pháp Liên bang Nga năm 1993
quy định: “Việc thực hiện các quyền và tự do của con người và công dân không
được xâm phạm quyền và tự do của người khác”. Khoản 2 Điều 31 Hiến pháp
Ba Lan năm 1997 cũng quy định: “Mọi người có trách nhiệm tôn trọng tự do và
quyền của người khác”. Khoản 2 Điều 14 Hiến pháp Việt Nam năm 2013 quy
định: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định
của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật
tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khoẻ của cộng đồng”. Do đó, cơ sở lý
luận cho sự tước đoạt hoặc hạn chế ở đây được hiểu ở góc độ bảo vệ các quyền
con người, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc. Bởi vậy, Điều 29.2 của Tuyên ngôn
toàn thế giới về quyền con người khẳng định: Khi thụ hưởng các quyền tự do
của mình, mọi người chỉ phải tuân thủ những hạn chế do luật định, nhằm mục
đích bảo đảm sự công nhận và tôn trọng thích đáng đối với các quyền và tự do
của người khác cũng như nhằm đáp ứng những yêu cầu chính đáng về đạo đức,
trật tự công cộng và phúc lợi chung trong một xã hội dân chủ.
1.1.2.3. Tính không thể chia cắt
Tính không thể chia cắt của quyền con người xuất phát từ nhận thức cho
rằng các quyền con người đều có tầm quan trọng như nhau. Bởi vậy, trong các
văn kiện pháp lý quốc tế đều thừa nhận về nguyên tắc, không có quyền nào được
xem là cao hơn, quan trọng hơn quyền nào. Các quyền đều ngang nhau về mặt
giá trị. Sự xác nhận về mặt nguyên tắc tầm quan trọng như nhau của các quyền
con người bảo đảm sự tự do, nhân phẩm của con người. Bởi vì, nhân phẩm và
giá trị của con người là cơ sở chung để xây dựng nên tất cả các quyền con
người. Việc tước bỏ hay hạn chế bất kỳ quyền con người nào đều tác động tiêu
cực đến nhân phẩm, giá trị và sự phát triển của con người. Nhà nghiên cứu nhân
18



quyền nổi tiếng Philip Aston đã phát biểu rằng “Do tất cả các quyền con người
đều là cần thiết và cốt yếu nên không được coi quyền nào quan trọng hơn quyền
nào”.
Tuy nhiên, liên quan đến tính chất không thể chia cắt của quyền con
người, cần chú ý trong thực tế, tùy những bối cảnh cụ thể và với những đối
tượng cụ thể, có thể ưu tiên thực hiện một số quyền nhất định, miễn là phải dựa
trên những cơ sở và yêu cầu thực tế của việc bảo đảm các quyền đó chứ không
phải dựa trên sự đánh giá về giá trị của các quyền đó. Trong một phạm vi hẹp,
có thể kể đến một số trường hợp cụ thể như trường hợp những người bị bệnh tật
hoặc trường hợp dịch bệnh bùng phát tại một nơi nào đó. Lúc này, quyền được
chăm sóc y tế cùng với những biện pháp cần thiết để bảo đảm thực thi quyền đó
sẽ được ưu tiên thực hiện. Việc ưu tiên thực hiện quyền được chăm sóc y tế có
thể làm ảnh hưởng đến các quyền khác trong khoảng thời gian bị bệnh tật hoặc
bị dịch bệnh, nhưng không đồng nghĩa rằng quyền này có giá trị hoặc được đánh
giá có mức độ quan trọng cao hơn các quyền khác. Trên cơ sở yêu cầu thực tế,
quyền được chăm sóc y tế là nhu cầu cấp thiết của con người, hoàn toàn phù hợp
với tình hình tại thời điểm đó. Sức khỏe con người đảm bảo mới có thể bảo đảm
các quyền con người khác. Còn trong bối cảnh nạn đói, thì quyền ưu tiên phải là
quyền về lương thực, thực phẩm.
Xem xét đến phạm vi rộng hơn, trong một số hoàn cảnh, cần ưu tiên thực
hiện quyền của một số nhóm xã hội dễ bị tổn thương trong khi vẫn tôn trọng
quyền của tất cả các nhóm khác. Điều này không có nghĩa là bởi các quyền được
ưu tiên thực hiện có giá trị cao hơn các quyền khác, mà bởi các quyền đó trong
thực tế đang bị đe dọa hoặc bị vi phạm nhiều hơn so với các quyền khác. Điển
hình là nhóm chủ thể phụ nữ và trẻ em được bảo đảm một số quyền ưu tiên. Bởi
phụ nữ và trẻ em là những nhóm người dễ bị tổn thương về quyền cơ bản của
con người. Họ là nạn nhân của sự vi phạm các quyền con người được che đậy và
bao biện bởi các yếu tố khách quan như lý do truyền thống, văn hóa. Chính vì

vậy, cộng đồng quốc tế đã thông qua một số công ước quốc tế mang tính phổ
19


quát về việc bảo vệ quyền riêng tư của phụ nữ và trẻ em, đặt ra một số quyền ưu
tiên cho nhóm người này. Những quyền được ưu tiên hoặc được bảo vệ riêng
này không đồng nhất với việc xác nhận giá trị cao hơn hoặc quan trọng hơn các
quyền con người khác. Các quyền con người cơ bản của phụ nữ và trẻ em đều
quan trọng như nhau, nhưng vì là nhóm xã hội dễ bị tổn thương, có nguy cơ bị
đe dọa và bị vi phạm nên cần có những ưu tiên nhất định để đảm bảo các quyền
cho họ.
Đối với những ưu tiên trong việc thực hiện quyền con người, nếu như cần
thiết thì phải xác định phù hợp với những khái niệm và nguyên tắc cốt lõi trên
lĩnh vực này như nguyên tắc không phân biệt đối xử, nguyên tắc bình đẳng và
tham gia.
1.1.2.4. Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau
Liên quan đến lịch sử phát triển của quyền con người, các quyền con
người được chia thành ba “thế hệ” tương ứng với từng giai đoạn lịch sử cụ thể.
Thế hệ quyền thứ nhất gồm các quyền về dân sự, chính trị như quyền được sống,
quyền không bị tra tấn, nhục hình, quyền không bị đối xử vô nhân đạo, quyền tự
do đi lại, quyền bầu cử, ứng cử, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Sự ra đời của
thế hệ quyền thứ nhất gắn liền với cách mạng tư sản châu Âu thế kỷ XVII. Thế
hệ quyền thứ hai gồm các quyền về kinh tế, văn hóa, xã hội. Sự ra đời của thế hệ
quyền thứ hai gắn liền với cách mạng Tháng Mười Nga và chấm dứt hai cuộc
chiến tranh thế giới, mở ra thời kỳ đấu tranh cho quyền kinh tế, văn hóa, xã hội,
quyền dân tộc tự quyết, quyền độc lập dân tộc; gắn liền với sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân và xác định vai trò của nhà nước trong việc bảo vệ lợi ích
của tất cả mọi người. Các quyền cụ thể như: quyền có việc làm, quyền được
tham gia vào đời sống văn hóa. Thế hệ quyền thứ ba gồm các quyền như quyền
phát triển, quyền sống trong hòa bình, quyền được sống trong môi trường trong

lành, quyền được thông tin, quyền với các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Quyền
con người thế hệ thứ ba xuất hiện từ những năm 70 của thế kỷ XX, gắn liền với
xu thế toàn cầu hóa. Như vậy, lịch sử phát triển quyền con người cho thấy, các
20


quyền con người ngày càng được thúc đẩy phát triển mạnh mẽ trên phạm vi toàn
cầu với những cơ sở pháp lý ngày càng được củng cố, mở rộng, hoàn thiện về
nội dung và mức độ bảo đảm. Từ lúc chỉ có các quyền chính trị, dân sự, hệ
thống các quyền con người đã được bổ sung thêm các quyền kinh tế, văn hóa, xã
hội, quyền tự quyết dân tộc,…
Quyền con người mang tính toàn diện, chúng không tồn tại độc lập, tách
rời mà tồn tại trong một tổng thể có mối liên hệ mật thiết, chúng phụ thuộc, ràng
buộc lẫn nhau, coi trọng như nhau, trong đó, việc đảm bảo toàn bộ hoặc một
phần các quyền này là điều kiện để đảm bảo toàn bộ hoặc một phần các quyền
khác và ngược lại. Sự vi phạm một quyền sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp gây ảnh
hưởng tiêu cực đến việc bảo đảm các quyền khác và ngược lại, tiến bộ trong
việc bảo đảm một quyền sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp tác động tích cực đến việc
bảo đảm quyền khác.
Cụ thể, trong một xã hội phát triển, việc đảm bảo tốt các quyền và tự do
chính trị, dân sự sẽ có những tác động tích cực trực tiếp và gián tiếp đảm bảo
các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội. Và ngược lại, các quyền kinh tế, văn hóa, xã
hội được đảm bảo thì các quyền chính trị, dân sự sẽ được thực thi tốt. Điều này
thể hiện mối quan hệ biện chứng giữa các quyền con người, những tiến bộ trong
việc bảo đảm quyền con người này tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các quyền
con người khác được bảo đảm, tôn trọng và ngược lại, sự vi phạm quyền con
người này sẽ có những tác động tiêu cực, đe dọa trực tiếp hoặc gián tiếp tới các
quyền con người khác. Thực vậy, nếu các quyền và tự do chính trị, dân sự như
quyền bầu cử, ứng cử, tự do đi lại, cư trú, tự do hội họp bị hạn chế trong một số
quốc gia nào đó thì tất yếu sẽ có những ảnh hưởng tiêu cực đến sự thụ hưởng

các quyền về kinh tế, văn hóa và xã hội của mọi người trong quốc gia đó. Ngược
lại, người dân có trình độ dân trí thấp, nghèo đói, lạc hậu thì khó có thể bảo đảm
về tự do cá nhân của người dân như quyền bầu cử, quyền ứng cử, quyền tham
gia vào quản lý đất nước có thể được thực hiện tốt. Đối với những người dân
nghèo đói hay mù chữ, những quyền chính trị, dân sự này thực sự không mang
21


×