Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Chế định quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam (TT)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (582.59 KB, 26 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

ĐẶNG THỊ TRANG

CHẾ ĐỊNH QUYỀN CON NGƯỜI TRONG
HIẾN PHÁP VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật hành chính
Mã số: 60 38 01 02

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

HÀ NỘI – NĂM 2017


Công trình được hoàn thành tại:
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
Người hướng dẫn khoa học: TS. Hoàng Hùng Hải
(Ghi rõ họ tên, chức danh khoa học, học vị)

Phản biện 1:……………………………………………………………….
………………………………………………………………..
Phản biện 2:……………………………………………………………….
………………………………………………………………..
Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ, Học viện Hành
chính Quốc gia
Địa điểm: Phòng họp …....., Nhà...... - Hội trường bảo vệ luận văn thạc sĩ,
Học viện Hành chính Quốc gia


Số:… - Đường…………… - Quận……………… - TP………………
Thời gian: vào hồi …… giờ …… tháng …… năm 201...

Có thể tìm hiểu luận văn tại Thư viện Học viện Hành chính Quốc gia

hoặc trên trang Web Khoa Sau đại học, Học viện Hành chính Quốc gia


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiế t của đề tài luâ ̣n văn
Quyề n con người là yế u tố cơ bản, ta ̣o nên nề n tảng của mô ̣t xa ̃ hô ̣i dân chủ, văn minh.
Tư tưởng về quyề n con người (nhân quyề n) đa ̃ hiǹ h thành rấ t sớm trong lich
̣ sử nhân loa ̣i;
nhưng không phải trong bấ t cứ hiǹ h thái kinh tế - xa ̃ hô ̣i nào, trong bấ t cứ kiể u nhà nước nào nó
cuñ g được thừa nhâ ̣n mô ̣t cách đầ y đủ. Vì thế , quyề n con người là mô ̣t pha ̣m trù lich
̣ sử và là
kế t quả của cuô ̣c đấ u tranh không ngừng của toàn nhân loa ̣i, vươn tới những lý tưởng, giải
phóng hoàn toàn con người nhằ m xây dựng mô ̣t xa ̃ hô ̣i thâ ̣t sự công bằ ng, dân chủ.
Giai cấ p tư sản khi tiế n hành cách ma ̣ng tư sản đa ̃ coi quyề n con người như mô ̣t vũ khí
của miǹ h để tranh giành quyề n lực với giai cấ p phong kiế n và để tâ ̣p hợp các lực lượng xa ̃
hô ̣i; do đó, từ thế kỷ XVIII, vấ n đề nhân quyề n đa ̃ được giai cấ p tư sản đề câ ̣p đế n như Tuyên
ngôn đô ̣c lâ ̣p của Hợp chủng quố c Hoa Kỳ năm 1776, Tuyên ngôn Nhân quyề n và Dân quyề n
của Pháp năm 1789.
Sau khi chiế n tranh thế giới thứ II kế t thúc, vấ n đề nhân quyề n đa ̃ trở thành mố i quan
tâm của cả nhà nước xa ̃ hô ̣i chủ nghiã và nhà nước tư bản chủ nghiã nên ngay từ khi tổ chức
Liên Hiệp Quố c ra đời, vấ n đề cơ bản, đầ u tiên của tổ chức này đó là vấ n đề nhân quyề n.
Quyền con người đa ̃ trở thành vấ n đề quan tro ̣ng, thường xuyên được đề câ ̣p đế n trong các
quan hê ̣ quố c tế . Liên Hiệp Quố c đa ̃ ban hành hàng loa ̣t các văn kiê ̣n khẳ ng đinh
̣ các quyề n và
tự do của tấ t cả mo ̣i người. Đă ̣c biê ̣t là Hiế n chương Liên Hiệp Quố c năm 1945 và Tuyên

ngôn toàn thế giới về quyề n con người năm 1948, vấ n đề nhân quyề n đa ̃ chuyể n sang mô ̣t
bước ngoa ̣t mới trong lich
̣ sử nhân loa ̣i, trở thành mô ̣t quan hê ̣ cơ bản được điề u chin̉ h bằ ng
pháp luâ ̣t quố c tế . Đế n nay, quyề n con người đa ̃ được khẳ ng đinh
̣ và ghi nhâ ̣n trong Hiế n pháp
của nhiề u quố c gia trên thế giới.
Có thể nói, quyề n con người là thành tựu chung của cả loài người, là kế t tinh của nề n
văn minh nhân loa ̣i. Lich
̣ sử loài người cho thấ y tri thức về quyề n con người có ý nghiã quan
tro ̣ng cho sự phát triể n và tiế n bô ̣ của các xa ̃ hô ̣i cuñ g như là tiề n đề cho sự phát triể n đầ y đủ
về nhân cách và năng lực của mỗi cá nhân, Ở pha ̣m vi rô ̣ng hơn, tri thức về quyề n con người
là tiề n đề cho hòa biǹ h và thinh
̣ vượng của nhân loa ̣i.
Ở Viê ̣t Nam, tư tưởng về quyề n con người gắ n liề n với cuô ̣c cách ma ̣ng giải phóng
dân tô ̣c. Kể từ khi giành đô ̣c lâ ̣p dân tô ̣c năm 1945, Đảng và Nhà nước ta luôn tôn tro ̣ng
quyề n con người. Tuyên ngôn đô ̣c lâ ̣p của nước Viê ̣t Nam Dân chủ Cô ̣ng hòa do Chủ tich
̣ Hồ
Chí Minh đo ̣c ta ̣i quảng trưởng Ba Điǹ h, Hà Nô ̣i ngày 02/9/1945 được coi là mô ̣t văn kiê ̣n có
tiń h lich
̣ sử trên phương diê ̣n quố c tế về quyề n con người. Trên cơ sở đó, quyề n con người đa ̃
được ghi nhâ ̣n trong Hiế n pháp nước ta: Hiế n pháp năm 1946, Hiế n pháp năm 1959, Hiế n
pháp năm 1980, Hiế n pháp năm 1992 (sửa đổ i, bổ sung năm 2001) và Hiế n pháp năm 2013.
Đă ̣c biê ̣t, với quy đinh
̣ của Hiế n pháp năm 2013 về quyề n con người đa ̃ ta ̣o bước tiế n quan
tro ̣ng về mă ̣t pháp lý cho viê ̣c thực hiê ̣n quyề n con ngưới trên thực tế . Có thể nhâ ̣n thấ y, cùng

1


với sự phát triể n của đấ t nước, những quan điể m và quy đinh

̣ của pháp luâ ̣t về quyề n con
người ở nước ta cuñ g dầ n có nhữ ng thay đổ i, tiế n bô ̣ hơn.
Để nhiǹ nhâ ̣n mô ̣t cách tổ ng quan quá triǹ h phát triể n của chế đinh
̣ quyề n con người
trong Hiế n pháp Viê ̣t Nam, đánh giá những thành tựu và ha ̣n chế về vấ n đề quyề n con người
qua các bản Hiế n pháp, trong đó tâ ̣p trung vào Hiế n pháp hiê ̣n hành năm 2013, tác giả lựa
cho ̣n đề tài: “Chế đi ̣nh quyền con người trong Hiế n pháp Viê ̣t Nam” làm luâ ̣n văn tha ̣c sỹ
chuyên ngành Luâ ̣t Hiế n pháp và luâ ̣t Hành chiń h của miǹ h.
2. Tiǹ h hiǹ h nghiên cứu liên quan đế n đề tài luâ ̣n văn
Quyề n con người đa ̃ được Liên Hiệp Quố c, các nhà khoa ho ̣c pháp lý trong nước và
thế giới quan tâm nghiên cứu. Vì thế , thời gian qua, ở nước ta có rấ t nhiề u các công triǹ h
nghiên cứu về quyề n con người.
+ Các bài viết như: Vũ Công Giao-Lê Thi ̣ Thúy Hương (2014), Nguyên tắ c giới hạn
quyề n con người, quyề n công dân trong Hiế n pháp năm 2013, trong cuố n “Biǹ h luâ ̣n Khoa
ho ̣c Hiế n pháp nước CHXHCN Viê ̣t Nam năm 2013” của Viê ̣n Chiń h sách công và pháp luâ ̣t,
Nxb Lao đô ̣ng-Xa ̃ hô ̣i; Nguyễn Trung Tiń (2009), “Quyề n con người và nhà nước pháp
quyề n”, Quyề n con người-tiế p câ ̣n đa ngành và liên ngành khoa ho ̣c xa ̃ hô ̣i; Vũ Công Giao
(2011), Báo báo tổ ng quan đề tài nghiên cứu khoa học: Quyề n con người trong Hiế n pháp
Viê ̣t Nam và một số nước trên thế giới, Khoa Luâ ̣t, ĐHQG Hà Nô ̣i; Các nguyên tắc của chế
định quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp sửa đổi của
PGS.TS Phạm Hữu Nghị, đăng trên tạp chí Nhà nước và Pháp luật năm 2013; Quyền con
người, quyền công dân trong Hiến pháp năm 2013 của PGS.TS. Nguyễn Thanh Tuấn đăng
trên Tạp chí Cộng sản năm 2013; Vũ Công Giao (2014), Chế định quyền con người, quyền
công dân trong Hiến pháp năm 2013, trong cuốn “Bình luận Khoa học Hiến pháp nước
CHXHCN Việt Nam năm 2013” của Viện Chính sách công và Pháp luật, NXB Lao động –
Xã hội;…
+ Luận văn thạc sỹ của Giáp Mạnh Huy (2008) về đề tài “Bảo đảm pháp lý về quyề n
con ngườ i ở Viê ̣t Nam hiê ̣n nay”; luâ ̣n án tiế n sỹ luâ ̣t ho ̣c của Đă ̣ng Công Cương (2013) về đề
tài “Vai trò của Tòa án trong viê ̣c bảo vê ̣ quyề n con người ở Viê ̣t Nam hiê ̣n nay”;luâ ̣n văn
tha ̣c sỹ luâ ̣t ho ̣c của Trương Thi ̣Dung (2014) về đề tài “Vai trò của tư pháp trong viê ̣c bảo vê ̣

quyề n con người ở Viê ̣t Nam”;luâ ̣n văn tha ̣c sỹ luâ ̣t ho ̣c của Trầ n Thi ̣ Phương Hảo(2014) về
đề tài “Một số vấ n đề lý luận và thực tiễn về bảo vê ̣ các quyề n con người bằ ng pháp luật hình
sự Viê ̣t Nam”; luâ ̣n văn tha ̣c sỹ chuyên ngành pháp luâ ̣t về quyề n con người của Nguyễn
Ma ̣nh Hùng (2014)về đề tài “Vai trò của Quố c hội trong viê ̣c bảo vê ̣ và thúc đẩy quyề n con
người ở Viê ̣t Nam”; luâ ̣n văn tha ̣c sỹ chuyên ngành pháp luâ ̣t về quyề n con người của Hoàng
Lan Anh (2014)về đề tài “Bảo đảm quyề n con người trong Hiế n pháp Viê ̣t Nam”; luâ ̣n văn
tha ̣c sỹ chuyên ngành pháp luâ ̣t về quyề n con người của Nguyễn Thùy Dương(2014) về đề
tài“Chế đi ̣nh quyề n con người, quyề n công dân trong Hiế n pháp Viê ̣t Nam”.

2


Những công trình nêu trên đã cung cấp một lượng tri thức, thông tin khá lớn về vấ n đề
quyền con người trong các bản Hiến pháp của Việt Nam. Mặc dù vậy, chưa có công trình nào
nêu trên phân tích một cách toàn diện những tiến bộ, hạn chế và cơ chế bảo đảm thực thi
những quy đinh
̣ về quyền con người trong các bản Hiến pháp, từ Hiến pháp năm 1946 đến
Hiến pháp năm 2013. Vì vậy, việc nghiên cứu về vấ n đề này có ý nghĩa lý luận, thực tiễn.
3. Mu ̣c đích và nhiê ̣m vu ̣ của luâ ̣n văn
3.1. Mục đí ch
Mu ̣c đić h của luâ ̣n văn này là phân tić h những cơ sở lý luâ ̣n, thực tiễn và nô ̣i dung của
chế đinh
̣ quyề n con người trong các bản Hiế n pháp Viê ̣t Nam nhằ m đánh giá mô ̣t cách tổ ng
quan những thành tựu, ha ̣n chế của Hiến pháp Viê ̣t Nam về vấ n đề quyề n con người. Từ đó,
đưa ra những quan điểm và giải pháp nhằ m nâng cao hiệu quả thực hiện chế đinh
̣ này.
3.2. Nhiê ̣m vụ
Để đa ̣t được mu ̣c đić h nêu trên, luâ ̣n văn có những nhiê ̣m vu ̣ cơ bản sau:
- Làm rõ những vấ n đề lý luâ ̣n nề n tảng về mố i quan hê ̣ giữa quyề n con người và Hiế n
pháp.

- Phân tić h chế đinh
̣ quyề n con người trong các bản Hiế n pháp Viê ̣t Nam (1946,1959,
1980, 1992, 2013), chỉ ra sự phát triể n của chế đinh
̣ này qua từng bản Hiế n pháp.
- Phân tić h những sửa đổ i, bổ sung của chế đinh
̣ quyề n con người trong Hiế n pháp
năm 2013.
- Phân tić h chỉ ra những điể m tiế n bô ̣ và ha ̣n chế của chế đinh
̣ quyề n con người trong
Hiế n pháp năm 2013 trên cơ sở so sánh với các công ước quố c tế cơ bản về quyề n con người
mà Viê ̣t Nam đa ̃ gia nhập, Hiế n pháp của các nước trên thế giới và các bản Hiế n pháp trước
đó của Viê ̣t Nam.
- Đưa ra một số quan điểm về quyền con người trong Hiến pháp và đề xuất các giải
pháp nhằm tổ chức thực hiện và nâng cao hiệu quả thực hiện chế định quyền con người trong
Hiến pháp Việt Nam.
4. Đối tươ ̣ng và pha ̣m vi nghiên cứu của luâ ̣n văn
4.1. Đố i tượng nghiên cứu
Luâ ̣n văn nghiên cứu về quyề n con người trong Hiế n pháp Viê ̣t Nam.
4.2. Pha ̣m vi nghiên cứu
Quyề n con người là nô ̣i dung được ghi nhâ ̣n không chỉ trong Hiế n pháp – đa ̣o luâ ̣t cơ
bản của quố c gia, mà còn được cu ̣ thể hóa trong các văn bản pháp luâ ̣t của nhiề u ngành luâ ̣t
khác nhau. Tuy nhiên, trong pha ̣m vi luâ ̣n văn này, tác giả chỉ đi sau nghiên cứu các quy đinh
̣
về quyề n con người trong các bản Hiế n pháp Viê ̣t Nam: Hiế n pháp năm 1946, Hiế n pháp năm
1959, Hiế n pháp năm 1980, Hiế n pháp năm 1992 (sửa đổ i, bổ sung năm 2001) và Hiế n pháp
năm 2013. Trong đó, tâ ̣p trung vào chế đinh
̣ quyề n con người của Hiế n pháp hiê ̣n hành năm
2013.

3



5. Phương pháp luâ ̣n và phương pháp nghiên cứu của luâ ̣n văn
5.1. Phương pháp luâ ̣n
Luâ ̣n văn được thực hiê ̣n trên cơ sở vâ ̣n du ̣ng cơ sở lý luâ ̣n, phương pháp luâ ̣n duy vâ ̣t
biê ̣n chứng của chủ nghiã Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điể m của nhà nước ta
về pháp luâ ̣t, xây dựng pháp luâ ̣t và quyề n con người.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu được sử du ̣ng trong luâ ̣n văn bao gồ m: phương pháp
phân tić h, tổ ng hợp, so sánh, thố ng kê.
6. Ý nghiã lý luâ ̣n và thực tiê ̃n của luâ ̣n văn
Luâ ̣n văn cung cấ p cái nhiǹ tổ ng thể về chế đinh
̣ quyề n con người trong các bản Hiế n
pháp Viê ̣t Nam từ trước đế n nay, đồ ng thời cho thấ y sự phát triể n của chế đinh
̣ này qua các
thời kỳ.
Công triǹ h nghiên cứu này có giá tri ̣ tham khảo đố i với sinh viên, các nhà nghiên cứu
pháp lý, cuñ g như viê ̣c nghiên cứu giảng da ̣y của các cơ sở đào ta ̣o luâ ̣t.
7. Kế t cấu của luâ ̣n văn
Ngoài phầ n Mở đầ u phầ n Kế t luâ ̣n, Danh mu ̣c tài liê ̣u tham khảo, luâ ̣n văn gồ m 3
chương sau:
CHƯƠNG 1. Cơ sở lý luận về chế định quyền con người trong Hiến pháp
CHƯƠNG 2. Quá triǹ h phát triể n của chế đinh
̣ quyề n con người trong Hiế n pháp Viê ̣t Nam
CHƯƠNG 3. Quan điểm và giải pháp hoàn thiện chế định quyền con người trong Hiến
pháp Việt Nam năm 2013

4



CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỊNH QUYỀN CON NGƯỜI TRONG HIẾN PHÁP

1.1.Quyền con người
1.1.1. Khái niệm quyền con người
1.1.1.1. Các quan niệm về quyền con người
Quyền con người là vấn đề có lịch sử lâu đời, có nội dung rộng lớn, liên quan tới
nhiều lĩnh vực như đạo đức, chính trị, pháp lý,… Do vậy, trong lịch sử nhân loại, có nhiều
quan điểm khác nhau, thậm chí đối lập nhau về vấn đề quyền con người. Mỗi một quan điểm
là một sự biểu hiện khác nhau ở góc độ nhìn nhận về vấn đề quyền con người. Tuy nhiên,
tổng hợp lại có thể chia thành ba nhóm quan điểm chủ yếu về quyền con người như sau:
Nhóm quan điểm thứ nhất: Bắt nguồn từ chỗ coi con người là một thực thể tự nhiên,
nên quyền con người là quyền “bẩm sinh”, là “đặc quyền”, nghĩa là quyền con người, quyền
lợi của con người với tư cách là người, gắn liền với cá nhân con người, không thể tách rời.
Quan điểm này được các đại biểu tư tưởng của giai cấp tư sản thời kỳ Khai sáng (thế kỷ XVII,
XVIII) như: Crotius, Thomas Hobbes, Kant, Locke, Paine, Spinoza, Rousseau hoàn thiện và
nêu ra trong học thuyết về pháp luật tự nhiên.
Nhóm quan điểm thứ hai: Trái với nhóm quan điểm thứ nhất, nhóm quan điểm này lại
chỉ đặt con người và quyền con người trong mối quan hệ xã hội. Quan điểm này cho rằng, con
người chỉ là một thực thể xã hội nên quyền của nó chỉ được xác định trong mối tương quan
với các thực thể xã hội khác và vì là quan hệ xã hội nên nó được chế độ nhà nước, pháp luật
điều chỉnh, bảo vệ. Với những đại diện như học giả Edmund Burke (1727- 1797) và Jeremy
Bentham (1748-1832).
Nhóm quan điểm thứ ba: Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề quyền con
người. Xuất phất từ quan điểm coi con người vừa là sản phẩm tự nhiên, vừa là sản phẩm của
xã hội, chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng vấn đề quyền con người “về bản chất bao hàm cả hai
mặt tự nhiên và xã hội”.
1.1.1.2. Khái niệm quyền con người
Ở Việt Nam, bên cạnh thuật ngữ “quyền con người” còn có thuật ngữ “nhân quyền”.
Cả hai thuật ngữ này đều bắt nguồn từ thuật ngữ tiếng Anh “human rights”, mà nếu dịch trực

tiếp sang tiếng Việt là quyền con người; còn nếu dịch qua Hán - Việt là nhân quyền. Xét về
mặt ngôn ngữ học, quyền con người và nhân quyền là hai từ đồng nghĩa.
Theo một tài liệu năm 1994 của Liên Hiệp Quốc, United Nations Human rights:
Question anh Answer, có đến gần 50 khái niệm về quyền con người đã được công bố. Mỗi
khái niệm tiếp cận vấn đề từ một góc độ nhất định, chỉ ra những thuộc tính nhất định nhưng
không khái niệm nào cũng bao hàm được tất cả các thuộc tính của quyền con người. Mỗi khái
niệm là một sự biểu hiện khác nhau ở góc độ nhìn nhận về vấn đề quyền con người.
5


Ở cấp độ quốc tế, khái niệm của văn phòng Cao ủy Liên Hợp Quốc về quyền con
người thường được trích dẫn bởi các nhà nghiên cứu. Theo khái niệm này, quyền con người là
những bảo đảm pháp lý toàn cầu (universal legal guarantees) có tác dụng bảo vệ các cá nhân
và các nhóm chống lại những hành động (actions) hoặc sự bỏ mặc (omissions) làm tổn hại
đến nhân phẩm, những sự được phép (entit lements) và sự tự do cơ bản (fundamental
freedoms) của con người.
Có thể thấy, khái niệm quyền con người là một khái niệm năng động và được thay đổi,
mở rộng. Quyền con người được nhìn nhận là những nhu cầu tự nhiên, vốn có của con người
và được pháp luật quốc tế, pháp luật quốc gia ghi nhận và bảo vệ bằng các cơ chế khác nhau.
Mặc dù, cho đến nay vẫn còn tồn tại nhiều cách nhìn nhận khác nhau về quyền con người,
nhưng có một điều rõ ràng rằng quyền con người là những giá trị cao cả cần được tôn trọng và
bảo vệ. Trong thời đại ngày nay, quyền con người không thể tách khỏi hòa bình, dân chủ và
phát triển.
1.1.2. Tính chất của quyền con người
Các tính chất cơ bản của quyền con người, theo nhận thức chung của cộng đồng quốc
tế thể hiện trong cuốn United Nations: UN common understanding on human rights – based
approaches to development, bao gồm: tính phổ biến (universal), tính không thể chuyển
nhượng (tước đoạt) (inalienable), tính không thể chia cắt (indivisiable) và tính liên hệ và phụ
thuộc lẫn nhau (interrelated, interdependent). Ngoài ra, theo khái niệm về quyền con người
như đã trình bày ở trên thì quyền con người còn có tính pháp luật.

1.1.2.1. Tính phổ biến
Tính phổ biến của quyền con người xuất phát từ nguồn gốc tự nhiên về quyền con
người. Theo đó, quyền con người là những giá trị vốn có và chỉ tồn tại ở loài người. Thông
qua bản Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người, tính phổ biến của quyền con người
được cộng đồng quốc tế thừa nhận, thể hiện ở chỗ quyền con người là những gì bẩm sinh, vốn
có của con người và được áp dụng bình đẳng cho tất cả mọi thành viên trong gia đình nhân
loại, không có sự phân biệt đối xử bởi bất kỳ lý do nào về chủng tộc, màu da, giới tính, tôn
giáo, thành phần xuất thân.
Liên quan đến tính chất này, cần lưu ý bản chất của sự bình đẳng về quyền con người
không có nghĩa là cào bằng mức độ hưởng thụ các quyền mà là bình đẳng về tư cách chủ thể
của quyền con người. Mọi thành viên của nhân loại đều được công nhận có các quyền con
người song mức độ hưởng thụ các quyền phụ thuộc vào năng lực cá nhân của từng người,
cũng như hoàn cảnh chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa,… nơi người đó đang sống.
1.1.2.2. Tính không thể chuyển nhượng
Bất kỳ một chủ thể nào bao gồm cơ quan công quyền hay công chức nhà nước cũng
không có quyền tước đoạt một cách tùy tiện các quyền tự do ý chí, thể hiện nguyện vọng đó
của mỗi cá nhân trong xã hội. Sự tùy tiện tước đoạt quyền con người bởi một chủ thể nào đó
là sự vi phạm các quyền con người đã được pháp luật bảo vệ (Điều 9 Tuyên ngôn toàn thế
6


giới về quyền con người năm 1948). Bên cạnh đó, bất cứ ai, không những không được quyền
tước đoạt mà còn không được quyền hạn chế hoặc xâm phạm một cách tùy tiện các quyền con
người của mỗi cá nhân.
Như vậy, tính không thể tước đoạt của quyền con người thể hiện ở chỗ quyền con
người không thể bị tước bỏ hoặc bị hạn chế một cách tùy tiện bởi bất kể chủ thể nào.
1.1.2.3. Tính không thể chia cắt
Tính không thể chia cắt của quyền con người xuất phát từ nhận thức cho rằng các
quyền con người đều có tầm quan trọng như nhau. Bởi vậy, trong các văn kiện pháp lý quốc
tế đều thừa nhận về nguyên tắc, không có quyền nào được xem là cao hơn, quan trọng hơn

quyền nào. Các quyền đều ngang nhau về mặt giá trị. Tuy nhiên, liên quan đến tính chất
không thể chia cắt của quyền con người, cần chú ý trong thực tế, tùy những bối cảnh cụ thể và
với những đối tượng cụ thể, có thể ưu tiên thực hiện một số quyền nhất định, miễn là phải dựa
trên những cơ sở và yêu cầu thực tế của việc bảo đảm các quyền đó chứ không phải dựa trên
sự đánh giá về giá trị của các quyền đó.
1.1.2.4. Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau
Quyền con người mang tính toàn diện, chúng không tồn tại độc lập, tách rời mà tồn tại
trong một tổng thể có mối liên hệ mật thiết, chúng phụ thuộc, ràng buộc lẫn nhau, coi trọng
như nhau, trong đó, việc đảm bảo toàn bộ hoặc một phần các quyền này là điều kiện để đảm
bảo toàn bộ hoặc một phần các quyền khác và ngược lại. Sự vi phạm một quyền sẽ trực tiếp
hoặc gián tiếp gây ảnh hưởng tiêu cực đến việc bảo đảm các quyền khác và ngược lại, tiến bộ
trong việc bảo đảm một quyền sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp tác động tích cực đến việc bảo đảm
quyền khác.
Tính pháp luật của quyền con người thể hiện ở hai khía cạnh: Thứ nhất, quyền con
người được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Thứ hai, quyền con người chỉ có thể bị hạn chế
bằng pháp luật.
1.2. Chế định quyền con người trong Hiến pháp
Hiến pháp - được định nghĩa là hệ thống các quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý
cao nhất quy định những vấn đề cơ bản nhất về chủ quyền quốc gia, chế độ chính trị, chính
sách kinh tế, văn hóa, xã hội, tổ chức quyền lực nhà nước, địa vị pháp lý của con người và
công dân. Ngay trong định nghĩa về Hiến pháp đã thể hiện mối quan hệ giữa Hiến pháp và
quyền con người. Mặc nhiên thừa nhận rằng, quyền con người được quy định cụ thể trong
Hiến pháp.
Chế định quyền con người trong Hiến pháp là hệ thống những quy phạm pháp luật
điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến việc xác định các quyền con người. Chế định
quyền con người trong Hiến pháp được ghi nhận theo những cách thức khác nhau và được
điều chỉnh ở phạm vi khác nhau tùy thuộc vào sự xác định của mỗi quốc gia.

7



1.2.1. Cách thức xác định quyền con người trong Hiến pháp
Cách thức xác định quyền con người trong Hiến pháp là hình thức pháp điển hóa
quyền con người vào Hiến pháp. Tại mỗi quốc gia đều có những cách thức hiến định quyền
con người khác nhau, nhưng tựu chung lại, có ba cách thức chủ yếu. Đó là:
- Thứ nhất, quyền con người được quy định thành chương, điều trong nội dung Hiến
pháp: Tức là nó được đề cập trực tiếp thành các điều trong một chương riêng hoặc nằm rải rác
trong một số chương của Hiến pháp.
- Thứ hai, chế định quyền con người được quy định một văn bản riêng và được thừa
nhận như một bộ phận của Hiến pháp: Điều này có nghĩa là chế định quyền con người tách
hẳn với Hiến pháp, không nằm trong cấu trúc của Hiến pháp mà nằm ở một văn bản riêng, có
mối liên hệ với Hiến pháp khi được thừa nhận như một bộ phận của Hiến pháp.
- Thứ ba, chế định quyền con người được xác định như là những điều bổ sung của
Hiến pháp:Theo cách thức hiến định này, chế định quyền con người không được quy định
trực tiếp trong nội dung của Hiến pháp cũng như không nằm trong một văn bản riêng mà có
hình thức như những điều bổ sung của Hiến pháp.
1.2.2. Phạm vi điều chỉnh chế định quyền con người trong Hiến pháp
Tùy từng cách ghi nhận quyền con người trong Hiến pháp mà phạm vi điều chỉnh
quyền con người trong Hiến pháp ở các nước khác nhau cũng có sự khác nhau. Có thể chia
thành hai loại: Hiến pháp có phạm vi điều chỉnh quyền con người hẹp và Hiến pháp có phạm
vi điều chỉnh quyền con người rộng.
1.3. Mối quan hệ giữa quyền con người và Hiến pháp
1.3.1. Vai trò của quyền con người đối với sự ra đời Hiến pháp
Lý do để ra đời Hiến pháp xuất phát từ nhu cầu quản lý xã hội mà mục đích cao nhất
chính là bảo vệ quyền con người, quyền công dân, giúp cho mọi thành viên trong xã hội đều
được có cơ hội thụ hưởng quyền lợi chính đáng của mình mà không có bất cứ sự xâm phạm
nào. Ở đây, quyền con người chính là yếu tố quyết định đến sự ra đời, hình thành và phát triển
của Hiến pháp, trở thành nội dung quan trọng đến mức nếu không có chế định về quyền con
người thì cũng không thể có bản thân Hiến pháp, nội dụng đó chi phối kết cấu của bản Hiến
pháp nên trong Hiến pháp của nhiều nước, chế định quyền con người, quyền công dân thường

được đặt lên hàng đầu.
1.3.2. Vai trò của Hiến pháp đối với việc bảo đảm quyền con người
Thứ nhất, Hiến pháp là công cụ để hạn chế quyền lực nhà nước: Muốn đảm bảo
quyền con người được thực hiện một cách tối ưu nhất thì vấn đề đặt ra là quyền lực nhà nước
phải được hạn chế một cách phù hợp. Có nhiều cách để hạn chế quyền lực nhà nước nhưng
cách tốt nhất là Hiến pháp - đạo luật tối cao phải ghi nhận các quyền tự do của con người như
là một giới hạn để quyền lực nhà nước không thể xâm phạm. Hơn nữa, các quy định trong
Hiến pháp, cụ thể như các quy định về cách thức tổ chức, giới hạn và kiểm soát quyền lực nhà

8


nước cũng nhằm tới mục tiêu cao nhất là bảo vệ nền dân chủ, quyền con người, quyền công
dân; tránh việc quyền con người, quyền công dân bị lạm dụng và xâm phạm một cách tùy tiện
Thứ hai, xuất phát từ mục đích ra đời Hiến pháp. Về nguồn gốc ra đời Hiến pháp như
đã phân tích ở trên, Hiến pháp ra đời là do nhu cầu hạn chế quyền lực nhà nước và để bảo vệ
các quyền con người, quyền công dân. Do vậy, Hiến pháp chính là công cụ pháp lý cơ bản để
bảo vệ quyền con người ở các quốc gia.
Thứ ba, xuất phát từ bản chất của Hiến pháp: Hiến pháp là văn bản có hiệu lực pháp
lý tối cao, được coi là đạo luật gốc, do cơ quan có thẩm quyền cao nhất hoặc do chính nhân
dân thông qua. Hiến pháp, với tư cách là đạo luật cơ bản của các quốc gia, luôn có các quy
định khẳng định rõ các quyền và tự do của cá nhân dưới hình thức các quyền con người hoặc
quyền công dân. Điều này trực tiếp nhấn mạnh rằng quyền con người là những quyền thiêng
liêng, không thể bị xâm phạm. Như vậy, Hiến pháp có ảnh hưởng rất to lớn trong việc điều
chỉnh vấn đề quyền con người. Với hiệu lực tối cao của mình, Hiến pháp đóng vai trò là công
cụ pháp lý cơ bản để hiện thực hóa các tiêu chuẩn quốc tế về quyền con người ở các quốc gia.
1.4. Chế định quyền con người trong Hiến pháp của một số quốc gia
1.4.1. Chế định quyền con người trong Hiến pháp Hoa Kỳ
Không phải ngay từ đầu Hiến pháp Hoa Kỳ đã có những quy định trực tiếp về quyền
con người bởi theo các nhà soạn thảo Hiến pháp, trong tâm trí của họ, luôn cho rằng, toàn văn

kiện đó đã hàm chứa một đạo luật về quyền con người, vì nó hạn chế một cách nghiêm ngặt
quyền hạn của chính phủ. Trước thực tế, phe chống liên bang đòi hỏi một bản Hiến pháp cô
đọng hơn, chắc chắn hơn, đầy đủ hơn và có thể nêu bật được quyền con người của dân chúng
cũng như những giới hạn quyền lực của chính quyền. Cùng với sự thay đổi nhận thức của
những nhà lãnh tụ phe liên bang (Wilson và Madison). Đến ngày 15/12/1791, các cơ quan lập
pháp ở ba phần tư số bang đã phê chuẩn mười tu chính án bổ sung sửa đổi. Mười tu chính án
này được gọi là “Tuyên ngôn nhân quyền Hoa Kỳ”. Các tu chính án này có tác dụng hạn chế
quyền lực của chính quyền liên bang, giới hạn khả năng xâm phạm của chính phủ đối với các
quyền và tự do của từng cá nhân, những người sinh sống và khách trên lãnh thổ Hoa kỳ. Hiến
pháp Hoa Kỳ và bản phụ văn của nó - Tuyên ngôn nhân quyền là bản văn Hiến pháp lâu đời
nhất và nổi tiếng nhất, là mô hình tham khảo của nhiều quốc gia khi xây dựng Hiến pháp.
Nhiều nguyên tắc của Hiến pháp Hoa Kỳ phản ánh những đòi hỏi của bối cảnh mới khi các
thuộc địa giành được độc lập.
1.4.2. Chế định quyền con người trong Hiến pháp Cộng hòa Pháp
Không giống như Hiến pháp Hoa Kỳ, Hiến pháp của Cộng hòa Pháp xác định quyền
con người thông qua một văn bản riêng mà nó được thừa nhận là một bộ phận của Hiến pháp,
đó là Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền năm 1789. Thực chất, dù không nằm trong Hiến
pháp nhưng cho đến nay, Lời mở đầu của Hiến pháp năm 1958 đang hiện hành của Cộng hòa
Pháp đã trịnh trọng tuyên bố: “Nhân dân Pháp trung thành với bản Tuyên ngôn Nhân quyền
và Dân quyền năm 1789”. Điều đó có nghĩa là bản tuyên ngôn này như một nội dung chính
9


của Hiến pháp và những ghi nhận về quyền con người trong bản tuyên ngôn này cũng chính là
tinh thần mà Hiến pháp muốn truyền tải.
1.4.3. Chế định quyền con người trong Hiến pháp Liên bang Nga
Ngày 12 tháng 12 năm 1993, theo điều khoản về việc toàn dân biểu quyết đối với dự
thảo Hiến pháp Liên bang Nga được phê chuẩn bởi Sắc lệnh của Tổng thống Nga. Cuộc trưng
cầu dân ý nhằm thông qua Hiến pháp đã được tổ chức. Kết quả là 54,8% số cử tri có tên trong
danh sách tham gia cuộc trưng cầu và 58,4% số cử tri tham gia bỏ phiếu đã ủng hộ bản dự

thảo Hiến pháp. Đến ngày 25 tháng 12 năm 1993, Hiến pháp Liên bang Nga chính thức có
hiệu lực. Cũng giống như nhiều nước trên thế giới, Hiến pháp Liên bang Nga xác định các
quyền con người trong một chế định nằm trong nội dung của Hiến pháp. Thể hiện tầm quan
trọng của các quyền con người, Hiến pháp Liên bang Nga đặt chế định quyền con người trong
Phần thứ nhất của Hiến pháp tại Chương 2 với tên gọi “Các quyền và tự do của con người và
công dân”. Khoản 1 Điều 55 khẳng định rằng, việc liệt kê các quyền và tự do cơ bản trong
Hiến pháp không có nghĩa là phủ nhận hoặc xem nhẹ các quyền và tự do khác của con người
và công dân đã được thừa nhận rộng rãi. Nguyên tắc hàng đầu của cơ quan lập pháp hiện hành
là sự thừa nhận con người, các quyền và tự do của con người như các giá trị tối cao, vốn có,
không thể chuyển nhượng, thay đổi và thuộc về con người ngay từ khi được sinh ra.

10


CHƯƠNG 2
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA CHẾ ĐỊNH QUYỀN CON NGƯỜI
TRONG HIẾN PHÁP VIỆT NAM
2.1. Chế định quyền con người trong các bản Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp
năm 1959, Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm
2001)
2.1.1. Chế định quyền con người trong Hiến pháp năm 1946
Hiến pháp năm 1946 được Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thông qua
ngày 09/11/1946. Đây là bản Hiến pháp đầu tiên của một nước Việt Nam độc lập dân chủ.
Hiến pháp năm 1946 tuy chưa sử dụng trực tiếp thuật ngữ “quyền con người”nhưng đã đề cập
cụ thể đến các quyền của con người. Đó đồng thời cũng là quyền công dân theo cách hiểu của
chúng ta ngày nay. Nội dung quyền con ngườitrong Hiếp pháp năm 1946 được xuyên suốt bởi
quan điểm đã được ghi nhận ở Điều thứ 1: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa.
Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống,
gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”.
Điểm nổi bật của Hiến pháp năm 1946 là ở chỗ, mặc dù ra đời ngay trong những năm

đầu tiên của chính quyền nhân dân còn non trẻ, đang còn phải tập trung lo toan, ứng phó với
các công việc chính trị trong nước cũng như việc ngoại giao với nước ngoài nhưng vẫn dành
sự quan tâm đặc biệt to lớn đối với vấn đề quyền con người - được thể hiện thông qua quyền
và nghĩa vụ công dân. Điều này được thể hiện ở chỗ, mặc dù bản Hiến pháp năm 1946 chỉ có
70 điều nhưng đã dành hẳn một chương bao gồm 18 điều để quy định một cách tương đối đầy
đủ, toàn diện và bao quát về các quyền lợi và nghĩa vụ của công dân.
Ưu điểm của Hiến pháp năm 1946 là các quy định về quyền con người được diễn đạt
rất ngắn gọn. Điều này phù hợp với tình hình lúc đó, khi chính sách cai trị ngu dân hàng trăm
năm của chế độ thực dân, phong kiến đã dẫn đến trên 90% dân ta không biết chữ, đảm bảo
tính phổ quát của văn bản quy phạm pháp luật được phổ biến rộng rãi tới người dùng, mang
tính thực tế và tính khả thi cao.
Việc ghi nhận các quyền con người và cơ chế đảm bảo thực hiện trong Hiến pháp năm
1946 có ý nghĩa thực tiễn vô cùng to lớn. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh, người đứng đầu
cơ quan soạn thảo Hiến pháp năm 1946 đã nói: “Hiến pháp đó tuyên bố với thế giới biết dân
tộc Việt Nam đã có đủ mọi quyền tự do. Hiến pháp đó tuyên bố với thế giới: phụ nữ Việt Nam
đã đứng ngang hàng với đàn ông để được hưởng chung mọi quyền tự do của một công dân.
Hiến pháp đó đã nêu một tinh thần đoàn kết chặt chẽ giữa các dân tộc Việt Nam và một tinh
thần liêm kiết, công bình của các giai cấp”.
2.1.2. Chế định quyền con người trong Hiến pháp năm 1959
Hiến pháp năm 1959 được thông qua khi đất nước vẫn còn chia cắt, đã kế thừa, bổ
sung các quy định về quyền con người. Quyền con người tiếp tục được thể hiện thông qua
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Trên cơ sở kế thừa các quy định về quyền và nghĩa
11


vụ của công dân trong Hiến pháp năm 1946, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong
Hiến pháp năm 1959 được quy định tại chương III với tên gọi “Quyền lợi và nghĩa vụ cơ bản
của công dân” từ Điều 22 đến Điều 42 và một số điều ở các chương khác.
Hiến pháp năm 1959 đánh dấu bước phát triển mới của quyền con người ở Việt Nam.
Hiến pháp năm 1959 bổ sung những quy định mới về quyền con người, như: quyền duy trì

hoặc sửa đổi phong tục tập quán, dùng tiếng nói chữ viết, phát triển văn hoá dân tộc mình
(Điều 3); quyền thừa kế tài sản tư hữu (Điều 19); quyền lợi của người mẹ và của trẻ em, bảo
đảm phát triển các nhà đỡ đẻ, nhà giữ trẻ và vườn trẻ (Điều 24); quyền tự do ngôn luận, báo
chí, hội họp, lập hội và biểu tình; nhà nước bảo đảm những điều kiện vật chất cần thiết để
công dân được hưởng các quyền đó (Điều 25); quyền khiếu nại và tố cáo (Điều 29); quyền
nghỉ ngơi của người lao động (Điều 31); quyền được giúp đỡ về vật chất khi già yếu, bệnh tật,
hoặc mất sức lao động (Điều 32); quyền tự do nghiên cứu khoa học, sáng tác văn học, nghệ
thuật, và tiến hành các hoạt động văn hoá khác (Điều 34). Có thể thấy Hiến pháp năm 1959 đã
có những bước tiến mới trong việc mở rộng và ghi nhận các quyền con người. Các quyền mới
nằm trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, thể hiện được một cách rõ ràng sự phát
triển của xã hội và cả sự quan tâm của nhà nước đối với quyền con người. Một điểm tiến bộ
nữa của Hiến pháp năm 1959 là đã có những quy định thể hiện một cách rõ ràng trách nhiệm
của nhà nước trong việc đảm bảo cho công dân thực hiệc các quyền của mình, “Nhà nước bảo
đảm những điều kiện vật chất cần thiết để công dân được hưởng các quyền…”hay “Nhà nước
quy định…, để đảm bảo cho người lao động được hưởng các quyền đó…”.
Nhìn chung, so với Hiến pháp năm 1946, quy định về quyền công dân trong Hiến
pháp năm 1959 có tăng về số lượng quyền và được quy định rải rác thêm ở nhiều chương hơn.
Tuy nhiên, xét về vị trí, chương về quyền công dân bị đẩy xuống chương III sau chương I về
chính thể và chương II về chế độ kinh tế, xã hội, thay vì ở vị trí ngay chương II như ở Hiến
pháp năm 1946. Theo Hiến pháp năm 1959, các quyền và nghĩa vụ của công dân được quy
định ở nhiều chương (mặc dù tập trung nhất trong Chương III “quyền lợi và nghĩa vụ cơ bản
của công dân”), trong khi ở Hiến pháp 1946, các quyền và nghĩa vụ của công dân chủ yếu
được ghi nhận trong Chương II. Điều này cho thấy vị trí, vai trò của quyền con người, quyền
công dân trong Hiến pháp năm 1959 không còn được đặc biệt coi trọng như trong Hiến pháp
năm 1946. Bên cạnh đó, số lượng các quyền tuy có tăng đáng kể nhưng Hiến pháp năm 1959
bắt đầu theo xu hướng đưa ra những quyền và nghĩa vụ có nội hàm trừu tượng, thiếu cụ thể,
mang tính định hướng, cương lĩnh về chính trị-xã hội, khó thực thi và khó đánh giá mức độ
bảo đảm trên thực tế.
Một điểm hạn chế khác của Hiến pháp năm 1959 là đã bỏ qua việc kế thừa một số
quyền rất tiến bộ đã được đề cập đến trong Hiến pháp năm 1946. Đó là quyền tham gia chính

quyền và kiến quốc, quyền của dân tộc thiểu số được nhà nước giúp đỡ, quyền được tự do ra
nước ngoài và đặc biệt là một quyền rất quan trọng về chính trị đó là quyền phúc quyết về

12


Hiến pháp. Điều này làm cho quyền công dân – quyền con người trong Hiến pháp năm 1959
không được hoàn thiện, bị hạn chế đi một phần.
2.1.3. Chế định quyền con người trong Hiến pháp năm 1980
Quyền con người trong Hiến pháp năm 1980 tiếp tục được thể hiện thông qua những
quy định về quyền và nghĩa vụ của công dân. Chương quy định về quyền và nghĩa vụ cơ bản
của công dân trong Hiến pháp năm 1980 bao gồm có 27 điều, là những quy định được kế thừa
và phát triển từ hai bản Hiến pháp trước đó là Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959.
Các quyền và nghĩa vụ của công dân được quy định trong bản Hiến pháp năm 1980 rất đa
dạng và phong phú, trải rộng trên tất cả các lĩnh vực kinh tế chính trị, văn hóa, xã hội
Hiến pháp năm 1980 quy định thêm về một số quyền của công dân phù hợp với tình
hình mới như: Quyền tham gia quản lý các công việc nhà nước và xã hội (Điều 56); quyền có
việc làm (Điều 58); nhà nước thực hiện chế độ khám và chữa bệnh không phải trả tiền (Điều 61);
quyền có nhà ở (Điều 62); phụ nữ có quyền nghỉ trước và sau khi sinh đẻ mà vẫn hưởng
nguyên lương nếu là công nhân, viên chức, hoặc hưởng phụ cấp sinh đẻ nếu là xã viên hợp tác
xã (Điều 63); quyền được bảo hộ về tính mạng, tài sản, danh dự và nhân phẩm; quyền bất khả
xâm phạm về chỗ ở; quyền được bảo hộ tác phẩm, sáng chế, phát minh (Điều 70, Điều 71,
Điều 72); quyền được hưởng chính sách ưu đãi của thương binh và gia đình liệt sĩ (Điều 74).
Điểm đặc biệt của Hiến pháp năm 1980 là các quy định về quyền và nghĩa vụ của
công dân được xác lập trên cơ sở tư tưởng về quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động.
Điều 54 Hiến pháp chỉ rõ: “Quyền và nghĩa vụ của công dân thể hiện chế độ làm chủ tập thể
của nhân dân lao động, kết hợp hài hòa những yêu cầu của cuộc sống xã hội với tự do chân
chính của cá nhân, bảo đảm sự nhất trí về lợi ích giữa Nhà nước, tập thể, và cá nhân theo
nguyên tắc mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người”. Điều này khẳng định mối quan
hệ không tách rời giữa nhà nước và công dân. Nhà nước đảm bảo các quyền của công dân

được thực hiện, nhưng ngược lại, công dân cũng phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của mình
đối với nhà nước và xã hội. Nguyên tắc này tạo ra mối quan hệ bình đẳng hai chiều giữa nhà
nước và công dân và qua đó càng đảm bảo cho quyền công dân được thực hiện một cách tốt
hơn.
Hiến pháp năm 1980 lại không thừa nhận sở hữu tư nhân – một quyền về sở hữu tài
sản, một quyền tự nhiên và là một quyền quan trọng, thiêng liêng và bất khả xâm phạm của
con người. Trong những năm chiến tranh, việc không thừa nhận quyền sở hữu tư nhân về tư
liệu sản xuất có tác dụng trong việc vận động nhân dân tập trung sức người, sức của cho thắng
lợi của công cuộc kháng chiến, nhưng khi đất nước chuyển sang giai đoạn hòa bình, xây dựng
và phát triển kinh tế thì quy định trên trở thành nguồn gốc của sự cào bằng, thờ ơ với tư liệu
sản xuất, theo kiểu “cha chung không ai khóc”, dẫn đến tình trạng lãng phí của công, vô trách
nhiệm trong việc quản lý tài sản, nạn tham ô công quỹ tràn lan. Có thể nói đây là điểm hạn
chế nhất của Hiến pháp năm 1980, quy định này vừa kìm hãm sự phát triển của đất nước và
vừa làm cho quyền con người không được đảm bảo một cách đầy đủ.
13


Trên thực tế, các quy định của Hiến pháp năm 1980 về quyền công dân đã không phản
ánh đúng được tình hình thực tế của xã hội Việt Nam thời bấy giờ. Hiến pháp quy định một số
quyền mang tính lý tưởng hóa quá mức, không có tính khả thi để thực hiện trong thực tế. Đó
là quy định về nhà ở (Điều 62), quy định về chế độ học không phải trả tiền (Điều 60), về chế
độ khám chữa bệnh không phải trả tiền (Điều 61). Về vị trí, chế định quyền và nghĩa vụ cơ
bản của công dân tiếp tục bị đẩy xuống chương V sau các chương về chế độ chính trị; chế độ
kinh tế; văn hóa, giáo dục, khoa học kỹ thuật; bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Điều này cho
thấy về vị trí sắp xếp trong Hiến pháp năm 1980, cũng như Hiến pháp năm 1959 có xu hướng
nhấn mạnh các yếu tố thể chế và chính sách kinh tế, xã hội mà không coi quyền con người,
quyền công dân như là một trong hai nội dung cốt lõi của Hiến pháp.
2.1.4. Chế định quyền con người trong Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ
sung năm 2001)
Hiến pháp năm 1992 - Hiến pháp của thời kỳ đổi mới toàn diện. Tương tự như Hiến

pháp năm 1980, quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân trong Hiến
pháp năm 1992 thể hiện tập trung ở chương V gồm 34 điều và một số điều trong một vài
chương.
Những quy định về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp 1992
chứa đựng nhiều điểm tiến bộ vượt bậc của nhà nước ta trong việc quy định về quyền con
người và đảm bảo quyền con người.
Thứ nhất, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến nước ta, Hiến pháp năm 1992 đã dành
một điều nói về quyền con người với nội dung khẳng định: "Ở nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn
trọng thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật" (Điều 50).
Hiến pháp năm 1992 đã ghi nhận khái niệm “quyền con người” với nội dung chính trị
pháp lý rộng hơn để phản ánh giá trị của cá nhân con người trong mối quan hệ với một nhà
nước nhất định, đồng thời là giá trị tổng hợp được cộng đồng quốc tế thừa nhận. Mặt khác,
Nhà nước ta ghi nhận cả quyền con người và quyền công dân để vừa nhấn mạnh mối quan hệ
mật thiết giữa nhà nước và cá nhân con người, lại vừa tạo nên sự thống nhất giữa luật quốc
gia và luật quốc tế về giá trị của con người, từng bước xóa bỏ quan niệm “khép kín” của pháp
luật quốc gia trên lĩnh vực này.
Thứ hai, Hiến pháp năm 1992 đã có một quy định pháp lý mới có tính nền tảng chỉ
đạo hoạt động lập pháp của Nhà nước là: “Quyền và nghĩa vụ của công dân do Hiến pháp và
luật quy định” (Điều 51). Quy định mới này thể hiện thái độ trân trọng và đề cao các quyền
con người, quyền công dân của Nhà nước Việt Nam. Bằng quy định này, nhà nước đã hướng
tới việc hạn chế, ngăn ngừa các cá nhân, tổ chức và cơ quan nhà nước tùy tiện đặt ra các quy
định, các văn bản quy phạm pháp luật mà có thể vi phạm quyền con người, quyền công dân.
Thứ ba, điểm mới quan trọng tiếp theo đó là, tuy còn nhiều quy định mang tính định
hướng và cương lĩnh nhưng so với Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 có những bước
14


tiến mới trong việc phát triển và hoàn thiện chế định quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ
bản của công dân. Hiến pháp năm 1992 ghi nhận lại những quyền đã có trong Hiến pháp trước

và bổ sung những quy định quan trọng liên quan trực tiếp đến quyền con người.Một số quyền
về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa đã được điều chỉnh và bổ sung; một số quyền mới, đặc
biệt là các quyền về kinh tế, được bổ sung hoặc củng cố theo hướng khả thi, mang tính thiết
yếu cho công dân trong nhà nước pháp quyền, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tế của
Việt Nam cũng như với những yêu cầu của quá trình đổi mới, hội nhập quốc tế.
Thứ tư, Hiến pháp năm 1992 đã bổ sung một số quyền mới như quyền được bồi
thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự khi bị bắt, bị giam giữ và xét xử trái pháp
luật; quyền được khiếu nại, tố cáo những hành vi trái pháp luật của các cơ quan nhà nước, tổ
chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơi vị vũ trang hoặc của bất cứ cá nhân nào; quyền được thông
tin. Khác với Hiến pháp năm 1980, việc quy định các quyền và nghĩa vụ của công dân trong
Hiến pháp năm 1992 đã dựa trên cơ sở cân nhắc đến khả năng thực thi, bảo đảm các quyền
con người, tránh xu hướng chủ quan, duy ý chí. Hiến pháp năm 1992 đã tiến hành sửa đổi
phần lớn các quy định về quyền công dân không mang tính khả thi trong Hiến pháp năm 1980
trở nên rõ ràng, đầy đủ và phù hợp hơn. Đối với quyền “có nhà ở” trong Hiến pháp năm 1980
thì trong Hiến pháp năm 1992 đã được sửa thành quyền “được xây dựng nhà ở theo quy
hoạch và pháp luật”, Hiến pháp năm 1980 quy định công dân có quyền “có việc làm” và nhà
nước phải “tạo thêm việc làm và sắp xếp công việc” cho người lao động được Hiến pháp năm
1992 sửa thành “nhà nước và xã hội có kế hoạch tạo ngày càng nhiều việc làm cho người lao
động”. Một mặt khác, các quy định không mang tính thực tế như “khám chữa bệnh không
phải trả tiền, học không phải trả tiền” đã bị xóa bỏ hoàn toàn.
Hiến pháp năm 1992 vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế về nội dung và kĩ thuật lập hiến.
-Hạn chế về nội dung: Thứ nhất, Hiến pháp năm 1992 quy định hệ thống quyền còn
chưa đầy đủ. So với các quyền được ghi nhận trong các văn kiện quốc tế về quyền con người
và Hiến pháp của một số quốc gia trên thế giới, Hiến pháp năm 1992 chưa có các quy định về
các quyền sau: quyền sống; tự do tư tưởng, ý kiến, quan điểm; quyền được thành lập hoặc gia
nhập công đoàn; cấm chế độ nô lệ, nô dịch hoặc cưỡng bức lao động; cấm hồi tố; không bị
trừng phạt khi luật chưa quy định là tội phạm; quyền được im lặng hoặc không phải tự chứng
minh mình không phạm tội; quyền được yêu cầu xem xét lại việc bắt giữ mình; quyền được
kháng cáo; quyền không bị xét xử hai lần vì cùng một hành vi phạm tội; cấm tra tấn, đối xử
tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục; quyền được xét xử công bằng; quyền được đền bù khi bị

xét xử oan sai; quyền được có và thẩm vấn nhân chứng; quyền được xét xử nhanh chóng;
quyền không bị bỏ tù vì không hoàn thành được nghĩa vụ theo hợp đồng; các quyền của người
không quốc tịch; quyền được trả thù lao công bằng và thích đáng; quyền được đình công;
quyền được đảm bảo điều kiện làm việc an toàn, lành mạnh; quyền được hưởng chuẩn mực
sống thích đáng; cấm sử dụng lao động trẻ em; cấm trừng phạt thể chất; quyền đặc biệt của trẻ
em trong tố tụng hình sự; quyền tự quyết dân tộc; quyền được hưởng những thành quả của
15


khoa học; quyền được chuyển nhượng tài sản; quyền được xin thôi quốc tịch; quyền của
người tiêu dùng và một số quyền của lao động chưa thành niên. Bên cạnh đó, có những quyền
đã được quy định hoặc hàm chứa trong quy định của Hiến pháp tuy nhiên chưa đầy đủ, toàn
diện, cụ thể như: quyền được có nơi ở (Điều 62); quyền tiếp cận thông tin do các cơ quan nhà
nước nắm giữ (Điều 69). Thứ hai, Hiến pháp năm 1992 chưa quy định về bất cứ thiết chế bảo
vệ quyền con người nào (cơ quan nhân quyền quốc gia). Trong khi đó, Hiến pháp của nhiều
quốc gia trên thế giới có quy định việc thành lập cơ quan nhân quyền quốc gia như Ủy ban
Nhân quyền quốc gia, Cơ quan thanh tra Quốc hội hoặc cơ quan chuyên trách về quyền của
một nhóm xã hội nhất định. Thứ ba, Hiến pháp năm 1992 còn thiếu quy định về giới hạn và
việc tạm đình chỉ thực hiện quyền. Vấn đề về giới hạn và việc tạm đình chỉ thực hiện quyền
đã được nhiều văn kiện quốc tế về quyền con người và Hiến pháp của nhiều nước trên thế giới
ghi nhận. Thứ tư, sự bình đẳng giữa các quyền còn chưa được đảm bảo bằng quy định cụ thể.
Một trong những thuộc tính cơ bản của con người là tính không thể phân chia thể hiện ở chỗ
các quyền con người đều có tầm quan trọng như nhau, nên về nguyên tắc không có quyền nào
được coi là có giá trị cao hơn quyền nào, chỉ có thể ưu tiên thực hiện một số quyền hơn so với
các quyền khác trong những bối cảnh đặc biệt như có nạn đói hoặc đại dịch.
- Hạn chế về kỹ thuật lập hiến: Thứ nhất, Hiến pháp năm 1992 còn hạn chế về vị trí
của chế định quyền và nghĩa vụ của công dân. Trong Hiến pháp năm 1992, chế định này được
đặt ở chương V, sau các chương về chế độ chính trị; chế độ kinh tế; văn hóa, giáo dục, khoa
học, công nghệ và bảo vệ Tổ quốc. Thứ hai, về tên của chế định, Chương V Hiến pháp năm
1992 có tên là “Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”. Cách đặt tên như vậy vô hình trung

đã hạn chế phạm vi của chủ thể hưởng quyền, trong khi đó tất cả các chế định về quyền trong
Hiến pháp trên thực tế đều bao gồm cả quyền con người và quyền công dân vì hầu hết các
quyền dân sự (quyền sống, quyền tự do cá nhân, các quyền trong tố tụng hình sự…) đều được
áp dụng với cả người nước ngoài, chỉ có một số quyền chính trị như quyền bầu cử, ứng cử,
tham gia quản lý nhà nước và xã hội mới dành riêng cho công dân. Hơn nữa, quyền công dân
thực chất cũng chính là những quyền con người được quốc gia thừa nhận và áp dụng cho công
dân mình. Thứ ba, về cách thức thiết lập quyền, theo nghiên cứu và phát hiện của nhiều tác
giả, xuất phát từ quan điểm được nêu trong Điều 51 Hiến pháp 1992: Quyền và nghĩa vụ của
công dân do Hiến pháp và luật quy định, nhiều quyền trong Hiến pháp năm 1992 (ví dụ, các
Điều 53, Điều 54; 56; 57; 58…) được trao cho công dân bởi nhà nước thông qua các từ và
mệnh đề: “quyết định”; “Nhà nước bảo đảm”; “Nhà nước có kế hoạch”; “Nhà nước ban
hành”; “Nhà nước quy định”; “Nhà nước giao”; “Nhà nước có chính sách”, “Nhà nước bảo
hộ”. Cách quy định như trên có thể gây hiểu nhầm rằng quyền công dân là những quyền con
người được nhà nước tạo ra và trao cho công dân của mình. Trong khi, theo nhận thức chung,
quyền công dân xuất phát từ những quyền con người là quyền tự nhiên, thiêng liêng, vốn có
đối với mọi thành viên của gia đình nhân loại. Và nhà nước chỉ là chủ thể thừa nhận các
quyền này chứ không thể là người tạo ra, càng không thể ban phát. Thứ tư, còn tồn tại sự
16


nhầm lẫn giữa nội hàm quyền con người và quyền công dân. Thứ năm, nhiều quy định mang
nặng tính hình thức, trừu tượng. Ví dụ, Điều 53 quy định về quyền tham gia quản lý nhà nước
và xã hội, biểu quyết khi nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân; Điều 69 về quyền tự do báo chí,
được thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình… Thứ sáu, ràng buộc các quyền theo quy định của
pháp luật. Trong chế định về quyền và nghĩa vụ của công dân của Hiến pháp năm 1992 có
nhiều quy định về quyền kèm theo cụm từ “theo quy định của pháp luật”.
2.2. Chế định quyền con người trong Hiến pháp năm 2013
2.2.1. Những quy định của Hiến pháp năm 2013 về quyền con người
2.2.1.1. Các quyền con người về dân sự, chính trị
Khác với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 đã thay thế thuật ngữ “mọi công

dân” bằng thuật ngữ “mọi người” trong nhiều điều luật quy định về quyền của cá nhân. Các
quyền con người về dân sự, chính trị quy định trong Hiến pháp năm 2013 tương ứng với các
quyền con người được quy định trong Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948 và Công
ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966.
2.2.1.2. Các quyền con người về kinh tế, xã hội và văn hóa
Bên cạnh các quyền dân sự, chính trị, Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận các quyền con
người về kinh tế, xã hội, văn hóa như: Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của
cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc
trong các tổ chức kinh tế khác (khoản 1 Điều 32). Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế
được pháp luật bảo hộ (khoản 2 Điều 32). Trường hợp cần thật cần thiết vì lí do quốc phòng,
an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, tình trạng khẩn cấp, phòng chống thiên tai, Nhà nước trưng
mua, trưng dụng có bồi thường tài sản của tổ chức và cá nhân theo giá thị trường (khoản 3
Điều 32),...
2.2.1.3. Nghĩa vụ của con người
Mặc dù với tên gọi của Chương II là quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân nhưng trong nội dung của chương này cũng có những quy định về nghĩa vụ của con
người. Trong khoa học pháp lí, người ta nói nhiều về nghĩa vụ của công dân, ít nói về nghĩa
vụ của con người. Các Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980 không có điều nào quy định về nghĩa
vụ của con người. Chỉ đến Hiến pháp năm 1992, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam
có quy định: “Người nước ngoài cư trú ở Việt Nam phải tuân theo Hiến pháp và pháp luật
Việt Nam”. Quy định này có thể được coi là rất hợp lí vì bên cạnh việc thực hiện nghĩa vụ đó,
họ được Nhà nước bảo hộ tính mạng, tài sản và các quyền lợi chính đáng theo pháp luật Việt
Nam.
Với Hiến pháp năm 2013, bên cạnh việc quy định các quyền con người trong 21 điều
luật, Hiến pháp cũng dành 03 điều quy định về nghĩa vụ của con người. Đó là các nghĩa vụ:
Nghĩa vụ bảo vệ môi trường (Điều 43); nghĩa vụ nộp thuế (Điều 47); nghĩa vụ tuân theo Hiến
pháp và pháp luật Việt Nam (Điều 48).
2.2.2. Những điểm mới của Hiến pháp năm 2013 về quyền con người
17



2.2.2.1. Về cơ cấu và cách thức ghi nhận quyền con người trong Hiến pháp
Tiêu đề chương II Hiến pháp năm 2013: Không chỉ có quyền công dân mà quyền con
người đã được tách riêng, đứng trước quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Điều này được
thể hiện ở việc Hiến pháp năm 2013 đã đổi tên Chương là “Quyền con người, quyền và nghĩa
vụ cơ bản của công dân”, so với tên gọi cũ của chương này trong Hiến pháp năm 1992 là
“Quyền và nghĩa vụ công dân”. Từ xác định tên chương, Hiến pháp năm 1992 chỉ bàn chủ
yếu đến quyền công dân, chưa bao quát được hết nội dung cần có là quyền con người. Hiến
pháp năm 2013 đã khắc phục nhược điểm này, đã hiến định những yêu cầu cơ bản về bảo đảm
quyền con người và quyền công dân, trong đó, quyền con người lần đầu tiên được đưa vào tên
chương ở cụm từ đầu tiên trong tên gọi của chương.
Vị trí của chương về quyền con người: Hiến pháp năm 2013 đã đưa quyền con người
vào Chương II thay vì Chương V như Hiến pháp năm 1992, ngay sau chương về chế độ chính
trị. Việc thay đổi vị trí nói trên không đơn thuần là sự dịch chuyển cơ học, một sự hoán vị về
bố cục mà là sự thay đổi về quan điểm, nhận thức của các nhà lập hiến trong việc ghi nhận,
tôn trọng và bảo đảm quyền con người.
Về chủ thể: Cùng với việc thay đổi tên chương, Hiến pháp năm 2013 không còn đồng
nhất khái niệm quyền con người và quyền công dân như ở Điều 50 Hiến pháp năm 1992 khi
quy định quyền con người "thể hiện ở quyền công dân". Hiến pháp năm 2013 đã sử dụng cả
hai thuật ngữ “quyền con người” và “quyền công dân” với nội dung được xác định rõ ràng,
thể hiện các quyền và tự do hiến định để bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công
dân.
Nếu như Hiến pháp năm 1992 chỉ quy định chủ thể là công dân. Các quyền và tự do
cơ bản như các quyền bình đẳng trước pháp luật; quyền tự do kinh doanh; quyền sở hữu tư
nhân về tài sản và tư liệu sản xuất; quyền nghiên cứu khoa học và công nghệ, sáng tạo văn
học, nghệ thuật và thụ hưởng lợi ích từ các hoạt động đó; quyền được bảo vệ, chăm sóc sức
khỏe; quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật
bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm,…trong Hiến pháp năm 1992 chỉ quy định cho
công dân thì trong Hiến pháp 2013 quy định chủ thể quyền là “mọi người”. Như vậy, với
những quyền này, không chỉ công dân Việt Nam mà tất cả, mọi người, mỗi người với tư cách

là thành viên xã hội, những người nước ngoài có mặt hợp pháp trên lãnh thổ Việt Nam cũng
được Hiến pháp và pháp luật Việt Nam bảo đảm quyền con người. Trong 36 điều của Chương
II khi dùng “mọi người” tức là chủ thể của quyền con người, bao gồm cả công dân. Quyền
con người nói chung (bao gồm cả công dân) được nhắc đến trong “mọi người”, trong tất cả
những “không ai”, “tổ chức”, “cá nhân”, “người Việt Nam ở nước ngoài”, “người nước
ngoài cư trú ở Việt Nam”. Trong tất cả những điều khoản không nhắc đến chủ thể hoặc đối
tượng cụ thể thì đều được hiểu chủ thể của quyền không chỉ là công dân. Quyền con người
không còn bị giới hạn trong quyền công dân nữa, mà bao trùm lên cả quyền công dân. Ví dụ,
trong Hiến pháp năm 1992 quy định “công dân có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở” (Điều
18


70) thì trong Hiến pháp năm 2013 quy định “mọi người có quyền bất khả xâm phạm về chỗ
ở” (Điều 22).
Về nghĩa vụ của nhà nước đối với quyền con người: Nếu như Hiến pháp năm 1992 chỉ
mới đề cập đến nghĩa vụ tôn trọng ở Điều 50 thì Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận cả ba nghĩa
vụ của nhà nước đối với quyền con người là tôn trọng, bảo vệ và đảm bảo thực hiện. Hiến
pháp năm 2013 đã ghi nhận cả ba nghĩa vụ của nhà nước theo tinh thần chung của luật nhân
quyền quốc tế về nghĩa vụ quốc gia, đó là tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người
trong các Điều 3 và Điều 14. Sự bổ sung này của Hiến pháp năm 2013 có ý nghĩa rất quan
trọng, không chỉ bảo đảm sự hài hòa giữa pháp luật Việt Nam với luật nhân quyền quốc tế mà
còn tạo cơ sở hiến định ràng buộc các cơ quan nhà nước phải thực hiện đầy đủ và nghiêm túc
những nghĩa vụ, trách nhiệm của nhà nước về quyền con người, quyền công dân trong thực tế,
đặc biệt là hai nghĩa vụ bảo vệ và bảo đảm thực hiện chứ không chỉ là tôn trọng chung chung
như cách hiểu của Điều 50 Hiến pháp năm 1992.
Về nguyên tắc giới hạn quyền: Hiến pháp 2013 lần đầu tiên quy định về nguyên tắc
giới hạn quyền tại Khoản 2 Điều 14 mà trong các bản Hiến pháp trước đây chưa quy định rõ.
Đây là nguyên tắc được nêu trong luật nhân quyền quốc tế và trong Hiến pháp của một số
quốc gia, chẳng hạn tại Điều 29 Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948,
Điều 4 Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa văn 1966 và một số điều

trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966. Theo đó, quyền con người,
quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh
quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng theo quy định của
luật.
Về cách thức hiến định: Thay vì quy định theo kiểu ban phát, Hiến pháp năm 2013 đã
ghi nhận quyền con người theo cách “mọi người có quyền”. Điều này chứng tỏ rằng quyền
con người là quyền tự nhiên vốn có, không do ai cho phép hoặc tước đoạt, không phải là sự
ban phát, trao quyền của nhà nước.
2.2.2.2. Hiến pháp năm 2013 ghi nhận một số quyền mới
Hiến pháp 2013 đã ghi nhận một số quyền mới so với các bản Hiến pháp trước của
nước ta mà những nội dung này đã được xác định rõ ràng trong các điều ước quốc tề về nhân
quyền mà Việt Nam là thành viên, bao gồm: Quyền sống (Điều 19); các quyền về văn hóa
(Điều 41); quyền xác định dân tộc, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp
(Điều 42); quyền sống trong môi trường trong lành (Điều 43); quyền của công dân không bị
trục xuất, giao nộp cho nước khác (Điều 17 khoản 2); quyền có nơi ở hợp pháp (Điều 22);
quyền hưởng an sinh xã hội (Điều 34);… Bên cạnh đó, các quyền trên các lĩnh vực dân sự,
chính trị và kinh tế, xã hội, văn hóa cũng được mở rộng phạm vi bảo vệ để đáp ứng những
nhu cầu mới về quyền con người nảy sinh trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại và hội
nhập quốc tế hiện nay ở nước ta.

19


2.2.2.3. Hiến pháp năm 2013 sửa đổi, bổ sung các quyền đã được ghi nhận trong Hiến
pháp năm 1992
Thực hiện nguyên tắc kế thừa và phát triển trong sửa đổi, bổ sung Hiến pháp, Chương
II Hiến pháp năm 2013 đã củng cố hầu hết các quyền được ghi nhận trong Hiến pháp năm
1992 nhưng quy định rõ hơn hoặc được tách thành các điều riêng cho phù hợp với yêu cầu
thực tiễn và các quy định trong các điều ước quốc tế về quyền con người. Nhiều quy định về
quyền con người được quy định trong các bản Hiến pháp trước đây đã được bổ sung, hoàn

thiện, làm mới theo tư duy mới hoặc tách ra thành các điều riêng như các quyền: Bình đẳng
trước pháp luật (Điều 16); tiếp cận thông tin (Điều 25); bình đẳng giới (Điều 26), lao động,
việc làm (Điều 35). Các quy định này trong Hiến pháp không chỉ thể hiện rõ hơn nội hàm khái
niệm và nội dung các quyền mà còn nâng cao tính khả thi của những quy định về quyền ngay
trong Hiến pháp.
2.2.2.4. Cơ chế bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp năm 2013
Khoản 1, Điều 2 Hiến pháp năm 2013 đã quy định việc kiểm soát quyền lực giữa các
cơ quan nhà nước, tạo ra cơ chế ngăn ngừa sự chuyên quyền, lộng quyền làm tổn hại đến
quyền con người. Điều 3 đã ghi nhận nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân
dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người. Vì vậy, tất cả mọi chủ thể đều
phải công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người. Các cơ quan nhà nước cũng
có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền con người. Lần đầu tiên Hiến pháp nước ta đặt
ra nhiệm vụ bảo vệ quyền con người đối với các cơ quan này, tạo nên một cơ chế đảm bảo,
bảo vệ vững chắc.
Hiến pháp năm 2013 đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò, trách nhiệm của nhà nước trong
việc tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm thực hiện quyền con người, nhất là các quyền về kinh tế,
văn hóa, xã hội, như: “Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo”
(khoản 2 Điều 24); “Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn
diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội” (khỏa 2 Điều 26); “Trẻ em được Nhà nước, gia
đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục”, “Thanh niên được Nhà nước, gia đình và xã
hội tạo điều kiện học tập, lao động, giải trí, phát triển thể lực, trí tuệ, bồi dưỡng đạo đức,
truyền thống dân tộc, ý thức công dân,...”, “Người cao tuổi được Nhà nước, gia đình và xã
hội tôn trọng, chăm sóc và phát huy vai trò trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”
(Điều 37),…
Cùng với việc nhấn mạnh vai trò, trách nhiệm của nhà nước trong việc tôn trọng, bảo
vệ và bảo đảm việc thực hiện các quyền con người, Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung các thiết
chế độc lập nhằm tăng cường cơ chế thực hiện quyền con người như hiến định Hội đồng Bầu
cử quốc gia (Điều 117) và bổ sung quy định “Cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định” (khoản
2 Điều 119). Bởi Hiến pháp năm 2013 là đạo luật tôn trọng, công nhận, bảo đảm quyền con
người, bảo đảm Hiến pháp là bảo đảm quyền con người được thực thi một cách tốt nhất.


20


CHƯƠNG 3
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH QUYỀN CON
NGƯỜI TRONG HIẾN PHÁP VIỆT NAM NĂM 2013
3.1. Quan điểm hoàn thiện chế định quyền con người trong Hiến pháp năm 2013
3.1.1. Các quyền con người cơ bản cần được ghi nhận một cách đầy đủ trong Hiến
pháp
Về cơ bản, trong Hiến pháp của mỗi quốc gia đều ghi nhận quyền con người với phạm
vi điều chỉnh khác nhau. Nhìn chung, Hiến pháp năm 2013 đã thể hiện khá đầy đủ các nguyên
tắc và các quyền cơ bản của con người được nêu trong Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con
người năm 1948 và các công ước quốc tế khác của Liên Hiệp Quốc về quyền con người mà
Việt Nam là thành viên. Điều này chứng tỏ những cố gắng rất lớn của nhà nước Việt Nam
trong việc tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người trong bối cảnh Việt Nam đang trong
quá trình xây dựng một nhà nước pháp quyền và tình hình kinh tế, xã hội còn nhiều khó khăn.
Tuy nhiên, Hiến pháp năm 2013 còn thiếu một số quyền và tự do quan trọng đã được
ghi nhận trong các văn kiện quốc tế về quyền con người. Để bảo đảm các quyền con người
được thực hiện trên thực tế, điều quan trọng trước tiên là các quyền con người cơ bản phải
được ghi nhận một cách đầy đủ trong Hiến pháp.
3.1.2. Chế định quyền con người phải được xây dựng trên cơ sở những giá trị nhân
quyền phổ quát và phù hợp với pháp luật quốc tế về quyền con người
Vấn đề này chỉ mối liên hệ giữa pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế về quyền con
người. Pháp luật mỗi quốc gia là phương tiện để truyền tải luật nhân quyền quốc tế, là điều
kiện để đảm bảo cho luật nhân quyền quốc tế được thực hiện. Bởi thông thường, pháp luật
quốc tế không được áp dụng trực tiếp bởi tòa án của các quốc gia nên để pháp luật quốc tế về
quyền con người được thực thi trong phạm vi lãnh thổ quốc gia, các nhà nước phải nội luật
hóa các quy phạm pháp luật quốc tế về quyền con người vào hệ thống pháp luật của nước
mình. Ngược lại, luật nhân quyền quốc tế, nhìn từ góc độ pháp lý là một hệ thống các quy tắc,

tiêu chuẩn và tập quán pháp lý quốc tế xác lập, bảo vệ và thúc đẩy các quyền và tự do cơ bản
của mọi thành viên, của cộng đồng nhân loại có tác động thúc đẩy sự tiến bộ của pháp luật
quốc gia về quyền con người. Sự hình thành và phát triển của hệ thống văn kiện luật nhân
quyền quốc tế kể từ khi Liên Hiệp Quốc được thành lập bao gồm các điều ước quốc tế, nghị
quyết, tuyên bố, tuyên ngôn, khuyến nghị, phán quyết của Tòa án Công lý quốc tế,… đã thúc
đẩy quá trình pháp điển hóa các quyền con người vào hệ thống pháp luật quốc gia, tức là pháp
luật mỗi quốc gia đều được sửa đổi, bổ sung theo hướng làm hài hòa với các chuẩn mực quốc
tế về quyền con người. Hơn thế nữa, trong trường hợp pháp luật quốc gia chưa hài hòa với
một điều ước quốc tế về quyền con người mà nước mình là thành viên thì hầu hết các quốc
gia đặt sự ưu tiên áp dụng với các điều ước quốc tế (đây là nguyên tắc tận tâm, thiện chí thực
hiện các cam kết quốc tế được nêu trong Công ước Viên về Luật điều ước năm 1969).

21


Nhà nước ta đã và đang chủ động, tích cực tham gia, ký kết các văn kiện quốc tế về
quyền con người. Vì vậy, lẽ dĩ nhiên các quyền con người trong Hiến pháp phải được phản
ánh trên cơ sở những giá trị nhân quyền phổ quát, được ghi nhận trong các công ước quốc tế.
Điều này là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc thực hiện các quyền con người.
3.1.3. Việc ghi nhận quyền con người trong Hiến pháp phải đảm bảo tính hợp lý
(tính khả thi)
Một trong những yêu cầu khi xây dựng các quy định trong Hiến pháp là phải bảo đảm
tính khả thi bên cạnh tính hợp pháp. Yêu cầu này nhằm mục đích tránh tính hình thức, trừu
tượng của các quy định về quyền con người trong Hiến pháp. Quyền con người không phải
chỉ cần được ghi thừa nhận trong Hiến pháp mà còn phải đảm bảo được thực hiện trong thực
tế. Vì vậy, các quyền con người khi được ghi nhận về mặt pháp lý cũng đồng thời phải tính
đến các điều kiện đảm bảo thực hiện quyền trên thực tế.
3.1.4. Quy định về thiết chế bảo vệ quyền con người trong chế định quyền con
người
Cơ chế quốc gia về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người xuất phát từ và nhằm thực

hiện những nghĩa vụ của các nhà nước được nêu trong tất cả các văn kiện quốc tế về quyền
con người. Nòng cốt của cơ chế này là các cơ quan quốc gia về bảo vệ và thúc đẩy quyền con
người. Các cơ quan quốc gia về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người có hình thức tổ chức rất
đa dạng như: Uỷ ban quyền con người quốc gia, cơ chế Ombudsman (người đại diện). Chức
năng cơ bản của các cơ quan quốc gia về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người là bảo vệ các cá
nhân khỏi sự phân biệt đối xử và thúc đẩy các quyền con người, đặc biệt là quyền của nhóm
xã hội dễ bị xâm hại; đồng thời, tiếp nhận, điều tra và giải quyết những khiếu nại của các cá
nhân và các nhóm về những vi phạm quyền con người theo pháp luật quốc gia. Với ý nghĩa
như vậy, thiết chế cơ quan quốc gia về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người cần thiết phải
được ghi nhận trong Hiến pháp.
3.2. Giải pháp hoàn thiện chế định quyền con người trong Hiến pháp năm 2013
3.2.1. Bổ sung một số quyền con người cơ bản vào Hiến pháp năm 2013
Hiến pháp năm 2013 vẫn thiếu vắng một số quyền và tự do quan trọng được nhấn
mạnh trong các công ước quốc tế, cần phải bổ sung, cụ thể như: Quyền không bị bắt làm nô lệ
và nô dịch; quyền được giữ quan điểm riêng mà không bị can thiệp; quyền tự do tư tưởng;
quyền của người khuyết tật; quyền không bị bỏ tù vì không hoàn thành nghĩa vụ theo hợp
đồng; quyền được thừa nhận là thể nhân trước pháp luật ở mọi nơi; quyền đình; quyền thành
lập, gia nhập công đoàn.
3.2.2. Sửa đổi, bổ sung một số điều chưa phù hợp trong Hiến pháp năm 2013
- Mở rộng phạm vi chủ thể quyền;
- Sửa đổi quy định về giới hạn quyền;
- Về quyền sống theo quy định tại Điều 19 Hiến pháp năm 2013;
- Khoản 3 Điều 32 Hiến pháp năm 2013;
22


- Khoản 2 Điều 35 Hiến pháp năm 2013;
- Khoản 1 Điều 37 Hiến pháp năm 2013;
- Về quyền của thanh niên;
- Về quyền của những người đồng tính, lưỡng tính, chuyển giới;

3.2.3. Chính xác hóa các quy định trong chế định quyền con người trong Hiến pháp
năm 2013
Mặc dù ở nhiều điều khoản của Hiến pháp, những cụm "theo pháp luật", "do pháp
luật quy định" hoặc "theo quy định của pháp luật" vốn được sử dụng rất phổ biến trong
chương V Hiến pháp năm 1992 đã được bỏ đi hoặc thay thế bằng "do luật định", tuy nhiên
vẫn còn một số điều hiện còn sử dụng những cụm từ này. Vì vậy, cần tiếp tục điều chỉnh các
cụm từ hiện còn "theo quy định của pháp luật" thành "theo luật định" hoặc "do luật định"
nhằm giảm thiểu nguy cơ tùy tiện giới hạn và vi phạm các quyền hiến định của các cơ quan
nhà nước.
3.2.4. Quy định về cơ quan nhân quyền quốc gia và hiệu lực của chế định quyền
con người trong Hiến pháp năm 2013
- Để bảo đảm thực thi các quyền con người được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013
cần bổ sung quy định về cơ quan nhân quyền quốc gia trong Hiến pháp năm 2013. Cơ quan
này sẽ là một thiết chế đặc biệt, không phải là cơ quan nhà nước, cũng không phải là một tổ
chức phi chính phủ. Cơ quan nhân quyền quốc gia phải là một thiết chế trung gian, có nhiệm
vụ thực hiện việc bảo vệ, thúc đẩy cá quyền con người, quyền công dân.
- Quy định rõ các quyền hiến định có hiệu lực áp dụng trực tiếp.
3.2.5. Rà soát và tổng kết thực tiễn thực hiện chế định quyền con người
Việc tổng kết thực tiễn thực hiện Hiến pháp là công việc không hề đơn giản. Để việc
tổng kết có khoa học, rút ra được những nhận thức, làm cơ sở cho việc sửa đổi, bổ sung Hiến
pháp cần sử dụng các phương pháp như phương pháp hệ thống, so sánh, điều tra xã hội học,
phân tích và tổng hợp.
3.2.6. Một số giải pháp bảo đảm thực thi chế định quyền con người trong Hiến pháp
năm 2013
Về hệ thống pháp luật, thứ nhất, cần khẩn trương nghiên cứu hoàn thiện khuôn khổ
pháp luật để thực thi các quyền hiến định. Cụ thể là thực hiện hai công việc: (i) sửa đổi, bổ
sung các luật và bộ luật theo tinh thần của Hiến pháp mới; (ii) xây dựng các đạo luật cụ thể
hóa các quyền quan trọng như quyền lập hội, quyền biểu tình, quyền bỏ phiếu trong các cuộc
trưng cầu dân ý,… và sớm đưa các quyền này vào thực hiện trên thực tế. Thứ hai, củng cố các
cơ chế pháp lý về bảo vệ quyền, đặc biệt là quy trình, thủ tục tiếp nhận, giải quyết tố cáo và

bồi thường cho nạn nhân bị vi phạm nhân quyền. Thứ ba, củng cố các cơ chế pháp lý về giám
sát thực hiện quyền, đặc biệt là các quy định về vai trò của các tổ chức xã hội, cơ quan truyền
thông, cơ quan dân cử trong vấn đề này. Ngoài ra, khuyến khích, thúc đẩy các hoạt động
tuyên truyền, giáo dục về quyền con người, quyền công dân cho mọi đối tượng trong xã hội.
23


×