Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

GIÁO dục PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ CHO TRẺ MẪU GIÁO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.22 KB, 9 trang )

GIÁO DỤC PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ CHO TRẺ MẪU GIÁO.
1. Đặc điểm phát triển ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo 3-6 tuổi:
Lên ba tuổi, trẻ có vẻ thích nói và nói rất nhiều, nó gắn liền với nhu cầu tìm hiểu về thế giới của
trẻ. Trẻ có xu hướng hỏi nhiều các câu: Tại sao? Thế nào? Vì sao?... và hỏi kì cùng, nhiều khi
người lớn không thể trả lời được những câu hỏi tưởng chừng ngây ngô của trẻ. Ví dụ: Tại sao
mặt trời, mặt trăng lại tròn? Tại sao có ngày đêm? Tại sao trái đất lại quay?
Dân gian ta có câu Trẻ lên ba cả nhà học nói, hay Thỏ thẻ như trẻ lên ba; như vậy, từ rất xa xưa
chúng ta đã biết ngôn ngữ của trẻ có sự phát triển mạnh mẽ ở độ tuổi này. “ Nhờ có sự hoàn
thiện các trung khu ngôn ngữ ở vỏ não, tai nghe – cơ quan tiếp nhận ngôn ngữ và cơ quan phát
âm đến thời kỳ phát triển hoàn thiện ( Nguyễn Ánh Tuyết, 1996), nhiều trẻ nói rất rõ ràng, mạch
lạc, tròn vành, rõ tiếng các từ, kể cả từ khó. Vốn từ của trẻ tăng nhanh, gấp 5 lần năm thứ hai, tức
là khoảng 1000 từ. Theo ThS. Nguyễn Thị Phương Nga, các từ mà trẻ sử dụng có thể phân chia
một cách ước lệ như sau: 60% là danh từ; 20% là động từ; 10% là danh từ riêng, ngoài ra còn
một số từ loại khác như đại từ, trạng từ, tình thái từ… Từ “tôi” xuất hiện đánh dấu một bước phát
triển mạnh của trẻ về cá nhân, ý thức bản thân và nhân cách. Ngôn ngữ của trẻ có âm điệu trầm
bổng dễ thương, có nhấn trọng âm biểu thị tình cảm của trẻ.
Đến 3 tuổi trở lên, trẻ “đọc” một số ký hiệu thông thường trong cuộc sống như biển báo nguy
hiểm, nhà vệ sinh, lối ra, một số biển báo giao thông. Việc “đọc” được những ký hiệu này rất
quan trọng với cuộc sống của trẻ, vì vậy, cô cần chú ý hướng dẫn trẻ “đọc” khi có cơ hội (khi cô
dẫn lớp đi tham quan, đi chơi bên ngoài lớp học). Giai đoạn này việc “đọc” sách của trẻ cũng có
nhiều tiến bộ, đối với những câu truyện đã được nghe kể nhiều lần, trẻ có thể đọc “vẹt” một cách
dễ dàng. Chú ý dạy cho trẻ hiểu trật tự từ và câu của tiếng Việt cũng như cấu trúc của một trang
sách, một cuốn sách.
Ba tuổi trở đi, trẻ có thể nói câu hai thành phần, nhiều khi có mở rộng các thành phần khác như
trạng ngữ, bổ ngữ…
VD:
Con// đi học/ ở trường mầm non.
Cô giáo con// tóc dài, rất xinh.
Con// đi chơi/nhà bà ngoại.
Mẹ/ mua // cho con/ quả bóng bay đỏ.



Bên cạnh đó trẻ còn sáng tác ra những từ mới, có khả năng bịa ra câu chuyện, lời bài hát dựa trên
vốn ngôn ngữ mà trẻ tích luỹ được đến thời điểm hiện tại.
VD:
Khánh linh à, hôm nay con học bài hát gì mới, hát cho bác nghe nào.
Trẻ: Con học bài “Tu”
Thế con hát được không ?
Trẻ hát một bài mà cả nhà đều ôm bụng cười, nó bao gồm sự chắp vá của nhiều câu trong
nhiều bài và cả những câu trẻ mới sáng tác ra.
Khả năng sử dụng câu phức, câu đơn mở rộng nhiều thành phần khiến lời nói của trẻ lưu
loát, mạch lạc hơn, tư duy của trẻ có sự tiến bộ rõ rệt.
Đặc biệt, trẻ đã biết sử dụng nhiều ngôn ngữ mang tính hình tượng, biểu cảm, đặc biệt là
các từ láy, từ ghép, từ tượng thanh, tượng hình.
+ VD : Từ ngữ thuộc trường nghĩa nhà trường : cô giáo, bàn ghế, bảng, sân trường, cổng
trường, các bạn…
+ Từ ngữ thuộc trường nghĩa thực phẩm : cơm, cháo, thịt, rau, cá…
+ Từ ghép : đất nước, núi sông, anh em, cá chép, tôm hùm, cây na, gà mái…
+ Từ láy : xanh xanh, xa xa, tim tím, …um tùm, bồn chồn, ung dung, gập ghềnh, khúc
khuỷu, mênh mông, lồng lộng, đu đủ, đo đỏ,…leng keng, vi vu, róc rách, thăm thẳm, gập ghềnh,
lom khom…
Tuy nhiên, giai đoạn này trẻ mắc một số lỗi như nói lắp, nói ngọng ở một số từ khó, dấu
ngã và nặng, sử dụng từ chưa chuẩn, trật tự từ trong câu còn lộn xộn. Đây là những biểu hiện
cũng bình thường, sẽ được trẻ hoàn thiện vào những giai đoạn sau nhờ sự giúp đỡ của người lớn,
chúng ta không nên lo lắng.
Một số trẻ có biểu hiện chậm, có khó khăn về ngôn ngữ, cần được hỗ trợ nhiều hơn.
Trẻ càng lớn thì vốn từ càng tăng nhanh, theo các nghiên cứu thì năm lên 4 tuổi vốn từ
của trẻ là 1200 từ. 5 tuổi là 2000 từ và khi được 6 tuổi vốn từ của trẻ lên đến 3000 từ. Sự linh
hoạt và phong phú trong ngôn ngữ của trẻ không chỉ phụ thuộc rất lớn vào môi trường ngôn ngữ



xung quanh trẻ, nó bao gồm cả môi trường lớp học, môi trường gia đình và môi trường văn hóa
xã hội ở địa phương nơi mà trẻ sinh sống.
Thời kỳ này khả năng sử dụng từ khái quát của trẻ tăng lên rất rõ rệt.
VD : Trẻ hiểu được quần áo rét bao gồm áo len, áo khoác, áo dạ, áo choàng… nói
chung ; khả năng sử dụng tính từ và học các từ mới rất nhanh. Trẻ hiểu được nghĩa ; hỏi về nghĩa
khi chưa rõ và sử dụng lại các từ mới gần như ngay khi ta nói.
VD : Khi bạn nói một từ mới cho trẻ 4 -5 tuổi nghe (từ ‘lá úa’), trẻ sẽ bị thu hút, hỏi bạn
"lá úa" nghĩa là như thế nào ? Khi bạn giải thích xong cho trẻ hiểu, trẻ sẽ đưa từ ngữ đó vào sử
dụng, trở thành ngôn từ của trẻ trong khoảng thời gian gần nhất có thể.
Các khái niệm như : hiền, dữ, thông minh, đanh đá …được trẻ dùng để miêu tả tính cách
của vật nuôi hoặc kể về các bạn trong lớp ở năm 4 tuổi, chứng tỏ khả năng ngôn ngữ của trẻ
đang tiến lên một giai đoạn mới.
Trong các lới nói của trẻ đã xuất hiện các kiểu câu chi theo cấu trúc ngữ pháp và các kiểu
câu chia theo mục đích nói. Theo Nguyễn Xuân Khoa, trẻ 3 – 4 tuổi đã nói được các kiểu câu
đơn giản khác nhau như : Câu có chủ ngữ là danh từ, động từ, tính từ. Câu có vị ngữ là danh từ,
tính từ ; Câu có nhóm danh từ ; Câu có trạng ngữ chỉ thời gian, địa điểm, nguyên nhân, mục
đích.
Theo Nguyễn Xuân Khoa, trẻ 4 - 5 tuổi sử dụng khoảng 10% câu ghép, trẻ 5 – 6 tuổi sử
dụng khoảng 25,2% câu ghép các loại khi tự kể chuyện.
Khả năng kể chuyện mạch lạc có tình tiết, có logic, mở đầu và kết thúc ở trẻ có những
tiên bộ vượt bậc. Trẻ có khả năng dùng lời nói để tưởng tượng ra những kế hoạch, sự kiện trong
tương lai.
Trẻ có xu hướng hỏi rất nhiều, có khi trong vòng 1 – 2 phút, trẻ có thể có thới 4 – 5 câu
hỏi, điều quan trọng là người lớn phải kiên trì để trả lời trẻ.
Tuy nhiên, một số trẻ vẫn mắc các lỗi như nói ngọng : l – n ; ch – tr ; s – x ; d – r, vấn đề
này nhiều khi là do ngôn ngữ địa phương. Việc còn nói kéo dài, phát âm chưa chuẩn ở một số từ
khó (chim hươu, khúc khuỷu, chuyền cành…) ở một số trẻ năm 4 tuổi thì sang 5, 6 tuổi trẻ đã có
thể cải thiện và sửa chữa được rất nhiều. Tuy nhiên là có hiện tượng có trẻ nói rất tót, rõ ràng
mạch lạc, song cũng vẫn còn nói ngọng, lắp, dùng câu còn lúng củng. Ở đây, chúng ta tính đến
mặt bằng chung.



Giai đoạn này, trẻ thể hiện sự hứng thú và quan tâm nhiều đến những chữ viết xuất hiện
trong môi trường xung quanh trẻ. Trẻ cũng muốn viết chữ và đọc sách như người lớn. Rất nhiều
trẻ ngay từ 3 tuổi đã « viết » nguệch ngoạc tên của mình, viết sáng tạo bằng cách vẽ trên giấy,
trên bảng, nền, sàn …
2. Mục tiêu, nội dung phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo trong Chương trình Giáo dục
mầm non
2.1 .Mục tiêu phát triển ngôn ngữ
 Có khả năng lắng nghe, hiểu lời nói trong giao tiếp hằng ngày.
 Có khả năng biểu đạt bằng nhiều cách khác nhau (lời nói, nét mặt, cử chỉ, điệu bộ…).
 Diễn đạt rõ ràng và giao tiếp có văn hoá trong cuộc sống hàng ngày.
 Có khả năng nghe và kể lại sự việc, kể lại truyện.
 Có khả năng cảm nhận vần điệu, nhịp điệu của bài thơ, ca dao, đồng dao phù hợp

với độ tuổi.
 Có một số kĩ năng ban đầu về việc đọc và viết.
2.2 Nội dung giáo dục phát triển ngôn ngữ

a) Nghe


Nghecác từ chỉ người, sự vật, hiện tượng, đặc điểm, tính chất, hoạt động và các từ
biểu cảm, từ khái quát.



Nghelời nói trong giao tiếp hằng ngày.




Nghe kể chuyện, đọc thơ, ca dao, đồng dao phù hợp với độ tuổi.

b) Nói


Phát âm rõ các tiếng trong tiếng Việt.



Bày tỏ nhu cầu, tình cảm và hiểu biết của bản thân bằng các loại câu khác nhau.



Sử dụng đúng từ ngữ và câu trong giao tiếp hằng ngày. Trả lời và đặt câu hỏi.



Đọc thơ, ca dao, đồng dao và kể chuyện.




Lễ phép, chủ động và tự tin trong giao tiếp.

c) Làm quen với việc đọc, viết


Làm quen với cách sử dụng sách, bút.




Làm quen với một số kí hiệu thông thường trong cuộc sống.



Làm quen với chữ viết, với việc đọc sách.

3. Tổ chức hoạt động phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo.
3.1 Các nguyên tắc cần chú ý khi tổ chức hoạt động phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
- Phát triển đồng thời cả bốn kỹ năng ngôn ngữ: nghe, nói, đọc, viết
- Chú ý tạo môi trường giao tiếp, môi trường chữ viết phong phú để trẻ được tắm mình trong môi
trường ngôn ngữ.
- Sử dụng các vật dụng gần gũi, sản phẩm nông nghiệp địa phương, đồ vật mang màu sắc văn
hóa địa phương, ca dao, dân ca…của vùng miền để giúp trẻ phát triển ngôn ngữ.
- Chú ý phong cách ngôn ngữ trẻ thơ: ngộ nghĩnh, hóm hỉnh, vui tươi, nhẹ nhành, tình cảm.
- Chú ý hơn đến đối tượng trẻ có nhu cầu đặc biệt: trẻ dân tộc thiểu số và trẻ khuyết tật về ngôn
ngữ.
3.2 Gợi ý một số hoạt động cho trẻ làm quen với nghe và nói.
 Trẻ 3 – 4 tuổi:
- Cho trẻ nghe và phát âm các từ khó: nguyên âm tròn môi, các nguyên âm đôi: ô, na, tê, mô…
thông qua các trò chơi: bắt chước theo cô, tiếng kêu của con vật, nghe đọc các bài thơ, đồng
dao…
- Phát triển khả năng nghe cho trẻ bằng cách luyện nghe các âm thanh của ngôn ngữ (tiếng nói)
như: các âm khác nhau trong các từ, các câu, nghe ngữ điệu, nghe giọng biểu cảm khác nhau
thông qua đồng dao, ca dao, dân ca, các bài thơ, câu chuyện, câu đố; cho trẻ chơi các trò chơi
dân gian, các trò chơi bán hàng, trò chuyện theo tranh: kể lại câu chuyện, đóng kịch…giúp trẻ


phát triển kỹ năng nghe – nói – giao tiếp…Cô chú ý sử dụng các câu đầy đủ chủ ngữ - vị ngữ, sử

dụng các từ biểu cảm, tượng hình để trẻ tiếp thu và nói theo cô. Chú ý dạy trẻ văn hóa trong giao
tiếp: sự lễ phép, biết chờ đến lượt, thái độ hợp tác, hòa nhã…
 Trẻ 4 – 5 tuổi:
- Cho trẻ nghe các âm khó và phát âm đúng các âm khó, gồm các âm dễ nhầm lẫn: n – l, x – s, tr
– ch; các nguyên âm đôi: ưu, iê; âm ba khó: ươu, uyu, uyê, uya...
- Tiếp tục cho trẻ nghe kể chuyện, đọc thơ…và cho trẻ kể chuyện, đọc thơ để rèn luyện khả năng
nghe hiểu ngôn ngữ nghệ thuật. Tăng cường các hoạt động đóng vai trong kể chuyện, diễn kịch
để trẻ thể hiện ngôn ngữ biểu cảm, hình tượng, khả năng giao tiếp. Ở hoạt động kể chuyện theo
tranh, cần nâng cao hơn ở việc hướng dẫn trẻ kể các chi tiết, liên kết và sắp xếp các nội dung kể
theo tranh thành một câu chuyện hoàn chỉnh. Mở rộng câu bằng cách sử dụng các thành phần
trạng ngữ, sử dụng câu phức. Khuyến khích trẻ sử dụng các tính từ, các từ tượng thanh, tượng
hình, từ biểu cảm.
- Cô trò chuyện với trẻ và khuyến khích trẻ trao đổi, trò chuyện với nhau tích cực, mọi lúc mọi
nơi: trong giờ chơi, trong các sinh hoạt nhóm, đặt và trả lời các câu hỏi khi tìm hiểu về nội dung
của bài thơ, câu chuyện, khi đi sinh hoạt tham quan, dã ngoại…; cô tổ chức các tình huống để trẻ
giao tiếp; VD: mời bác công nhân, chú bộ đội đến giao lưu với trẻ trong chủ đề Nghề nghiệp…
 Trẻ 5 – 6 tuổi:
- Trẻ 5 – 6 tuổi cần phải được luyện tập để phát âm đúng tất cả các từ trong tiếng Việt, kể cả từ
khó. Cô cần chú ý đến các trẻ có biểu hiện chậm về ngôn ngữ: ngọng, lắp …để hỗ trợ nhiều hơn.
Trẻ cần luyện nghe để cảm nhận được những vẻ đẹp của ngôn ngữ: sự trầm bổng của nhịp điệu..
sắc thái tình cảm của giọng nói, những khả năng gợi thanh, gợi hình ảnh, màu sắc, cảm xúc…
trong các tác phẩm văn chương. Để từ đó, trẻ cũng có khả năng sử dụng được những khả năng
này của ngôn ngữ trong khi diễn đạt, giao tiếp.
- Sau khi kể chuyện, đọc thơ, cô hướng dẫn trẻ học và đọc thuộc lòng, diễn cảm bài thơ, kể lại
chuyện một cách biểu cảm và sáng tạo. Giáo viên chú ý mở rộng câu, sử dụng tất cả các dạng
câu đơn, câu phức, câu kể, câu hỏi, cảm thán…để trẻ tiếp thu và sử dụng.
- Các tình huống cần được tổ chức và để trẻ tự trao đổi, tìm cách giải quyết và ra quyết định. Ở
lứa tuổi này, trẻ có thể đặt lời cho bài hát, đặt tên cho câu chuyện hoặc cùng cô sáng tạo truyện
theo chủ đề…



3.3 Gợi ý một số hoạt động làm quen với đọc:
 Trẻ 3 – 4 tuổi:
- Cho trẻ làm quen với cách đọc qua các từ đơn giản: tên của trẻ, tên một số đồ vật được ghi trên
những đồ dùng cá nhân.
- Đọc sách cùng trẻ: lựa chọn sách chữ to, tranh ảnh đẹp, phù hợp để đọc cho trẻ nghe, chỉ tay, di
theo chiều dòng chữ để trẻ phân biệt chữ viết và phần tranh trên trang giấy, mối quan hệ giữa
tiếng nói và chữ viết, nhận biết hướng đọc.
- Giúp trẻ làm quen với sách, giới thiệu phần bìa, cách cầm, mở sách và lật trang sách.
- Giáo dục tình cảm yêu quý, giữ gìn sách.
- Cho trẻ tự đọc sách tại các góc, chú ý tạo không gian và giá sách phù hợp để trẻ đọc.
 Trẻ 4 - 5 tuổi:
- Hướng dẫn để trẻ quen với cách đọc và đọc được tên của mình, các chữ trong các đồ dùng gần
gũi, góc hoạt động của lớp, các cây, hoa của lớp, của trường.
- Tiếp tục đọc sách cùng trẻ, cho trẻ nhận được hình các chữ, hướng chữ, quy tắc đọc tiếng Việt:
từ trái sang phải, từ trên xuống dưới.
- Cô dành thời gian để đọc với cá nhân và nhóm nhỏ, vừa đọc vừa chỉ tay để trẻ phân biệt các từ,
mối liên hệ giữa từ ngữ và tiếng nói (âm của từ), nhận biết ý nghĩa của từ ngữ.
- Hướng dẫn trẻ cách đọc: từ trái sang phải, từ trên xuống dưới, đọc hết trang thì giở tiếp sang
trang khác, cùng nhau trao đổi về nội dung câu chuyện. Trẻ có thể đọc chung hoặc mỗi trẻ có
một cuốn sách để đọc cùng cô.
 Trẻ 5 - 6 tuổi:


- Tiếp tục tổ chức các hoạt động như đối với trẻ 4 – 5 tuổi.
- Chuẩn bị cho việc học đọc: Cho trẻ làm quen với chữ cái qua trò chơi, thẻ chữ, tìm chữ cái
trong từ, ghép chữ còn thiếu trong từ…cho trẻ thấy mối quan hệ giữa các chữ cái, trẻ hiểu các
chữ cái được ghép lại tạo thành từ, và các từ ghép lại sẽ tạo thành câu, khi đọc lên chúng có ý
nghĩa.
- Tổ chức các trò chơi phát âm: a, ă, â ghép âm: an, ăn, ân…để luyện khả năng phát âm chuẩn

cho trẻ.
3.4 Gợi ý một số hoạt động làm quen với “viết”
 Đối với trẻ 3 - 4 tuổi:
- Cho trẻ quan sát các hoạt động viết của người lớn: viết trên bảng, viết trên giấy, viết xuống nền
nhà, sân chơi…bằng các dụng cụ viết khác nhau (phấn, bút, sáp màu…), vừa viết vừa đọc để trẻ
có thể hiểu được rằng chữ viết ghi lại lời nói, suy nghĩ, mong muốn của con người…nhằm lưu
giữ và truyền đạt thông tin. Qua quan sát, trẻ có thể nắm được cách sử dụng các công cụ viết,
biết được hướng viết của tiếng Việt.
- Giáo viên tổ chức các hoạt động như vẽ, chơi với đất nặn, di màu, ghép hoặc xếp hình, in hình,
xé dán, xé dán, vê hoặc vò giấy, làm sách tranh to cùng cô…
 Đối với trẻ 4 - 5 tuổi:
- Tiếp tục cho trẻ quan sát các hoạt động viết của người lớn để trẻ củng cố và nắm được cách sử
dụng các công cụ viết, biết được hướng viết tiếng Việt, hướng viết của các nét chữ, mối quan hệ
giữa chữ viết và tiếng nói.
- Cô hướng dẫn cho trẻ cách cầm và sử dụng các công cụ viết: cho trẻ vẽ trên sàn/ sân/ bảng
bằng phấn/ gạch… vẽ treân cát, bột…bằng que…; tô màu tranh, vẽ tự do trên giấy, trang trí
đường diềm bằng bút sáp, bút dạ…để rèn luyện vận động của các cơ nhỏ, sự khéo léo của ngón
tay, sự phối hợp tay mắt; giúp trẻ làm quen với cách sử dụng giấy, bút, biết cách cầm bút đúng
và giữ giấy khi tô vẽ.
- Hướng dẫn trẻ chơi các trò chơi ngón tay, trò chơi cài khuy áo, bện tết, xâu hạt, vò, vê, xoắn,
xé, cắt giấy…; làm đồ chơi từ các nguyên liệu đơn giản…
 Đối với trẻ 5 - 6 tuổi:


- Hướng dẫn và cùng trẻ chơi các trò chơi đóng vai có liên quan nhiều đến các hành vi viết, sử
dụng công cụ viết như: trò chơi bán hàng (“viết” hóa đơn tính tiền, “viết” tên hàng hóa…), trò
chơi bác sĩ (“kê” đơn thuốc, “viết” sổ y bạ…), trò chơi bưu điện (“viết” địa chỉ, tên người nhận,
người gửi,…)…; Gợi ý để trẻ tự làm bưu thiếp, làm sách tranh, sao chép một số ký hiệu, chữ cái,
tên của mình theo mẫu có sẵn hoặc trẻ quan sát được từ môi trường xung quanh…nhằm giúp trẻ
làm quen với cách sử dụng bút và giấy, cách giữ bút và cầm giấy khi tô, vẽ, hướng viết chữ tiếng

Việt.
- Hướng dẫn trẻ làm quen với các nét chữ cơ bản như: nét thẳng, nét ngang, nét xiên trái, phải,
nét cong hở trái, phải…; cách đưa tay để tạo thành nét chữ; sử dụng bút mềm để vẽ, tập tô, đồ
các nét cơ bản trên giấy, tô màu chữ cái rỗng, sử dụng phấn để viết, tô các nét trên bảng, trên
nền nhà, sân chơi...Hoạt động này có thể tổ chức vào giờ học hoặc giờ chơi ở góc, ngoài trời…
Giáo viên cần chuẩn bị đầy đủ đồ dùng, đồ chơi, tạo tình huống, không khí chơi vui vẻ để lôi
cuốn trẻ tham gia vào hoạt động. Để trẻ chủ động, thoải mái và tự nguyện khi tham gia hoạt
động này, không ép trẻ phải thực hiện việc tô, đồ, sao chép, không trách móc trẻ hoặc chê các
sản phẩm do trẻ tạo ra.



×