Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

tiểu luận về phát triển kinh tế bền vững ở nước ta giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.24 KB, 13 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Phát triển kinh tế bền vững nhấn mạnh đến khả năng phát triển liên tục lâu dài,
không gây ra những hậu quả tai hại khó khôi phục ở những lĩnh vực khác, nhất là thiên
nhiên và xã hội. Phát triển kinh tế mà làm hủy hoại môi trường là phát triển không bền
vững, phát triển mà chỉ dựa vào những loại tài nguyên có thể cạn kiệt (mà không lo
trước đến ngày chúng cạn kiệt) là phát triển không bền vững. Chẳng hạn, trữ lượng dầu
mỏ thế giới theo một số tính toán chỉ có thể khai thác được khoảng 50 - 60 năm nữa;
trữ lượng than đá thì còn khoảng trên dưới 120 năm nữa. Vậy, nếu các ngành kinh tế
chỉ dựa vào những nguồn năng lượng này thì không thể bảo đảm tính bền vững lâu dài
được. Đồng thời muốn kéo dài sự tồn tại của các ngành kinh tế dựa vào các nguồn năng
lượng hóa thạch thì chỉ có thể là phải sử dụng tiết kiệm chúng hoặc là tìm nguồn năng
lượng thay thế. Ngoài ra, có quan điểm còn cho rằng, mô hình phát triển kinh tế mà để
phụ thuộc quá nhiều vào ngoại lực (như FDI) cũng là khó bền vững, vì nguồn ấy có
nhiều rủi ro, không chắc chắn. Nói ngắn gọn, phát triển kinh tế là không bền vững nếu
nó thật "nóng", không thể giữ lâu, nền kinh tế chóng rơi vào khủng hoảng, hay ít nhất
cũng chậm lại trong tương lai. Không thể chối cãi: "phát triển kinh tế bền vững" là một
khái niệm một phạm trù đang được toàn thế giới lưu tâm.
"Phát triển kinh tế bền vững” có nội hàm rất rộng, mỗi thành tố trong đó đều có
một ý nghĩa riêng. Một mẫu hình phát triển kinh tế bền vững là mỗi địa phương, vùng,
quốc gia không nên thiên về thành tố này và xem nhẹ thành tố kia. Vấn đề là áp dụng
nó như thế nào ở các cấp độ trên và trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
Nhưng chỉ để ý đến liên hệ giữa môi trường sinh thái, tài nguyên thiên nhiên và tăng
trưởng kinh tế là chưa toàn diện, chưa bao quát hết nội hàm của khái niệm "bền vững"
trong phát triển kinh tế. Khái niệm đó sẽ toàn diện và toàn vẹn hơn nếu được áp dụng
vào hai thành tố nòng cốt khác của phát triển, đó là văn hóa và xã hội. Để chuyển hoá
khái niệm phát triển kinh tế bền vững từ cấp độ lý thuyết áp dụng vào thực tiễn, khái
niệm cần được làm sáng tỏ sau đó áp dụng trực tiếp đối với các lĩnh vực khác nhau của
đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội. Nhiều công trình nghiên cứu khác đã đi
sâu nghiên cứu hệ thống và công phu về phát triển kinh tế bền vững.
Tuy nhiên, như trên đã phân tích, phát triển kinh tế bền vững có nội hàm rất
rộng, bao gồm nhiều thành tố, mỗi thành tố trong đó đều có một ý nghĩa riêng. Bởi


vậy, các nghiên cứu chuyên biệt về phát triển kinh tế bền vững đang chưa được thực
hiện một cách thật hệ thống, nhất là đặt nó trong mối liên hệ tương tác với các thành
1


tố quan trọng khác của phát triển kinh tế bền vững. Mặt khác, thực tiễn phát triển kinh
tế của Việt Nam đã bộc lộ những dấu hiệu của tính không bền vững. Từ những lý do
trên, tiểu luận đã được lựa chọn với đề tài “Phát triển kinh tế bền vững ở Việt Nam
hiện nay”.

2


NỘI DUNG
Chương 1:
Những lý luận về phát triển kinh tế và sự phát triển bền vững

1. Cơ sở lý luận.
Phát triển bền vững là mối quan tâm trên phạm vi toàn cầu. Trong tiến trình
phát triển của thế giới, mỗi khu vực và quốc gia xuất hiện nhiều vấn đề bức xúc mang
tính phổ biến. Kinh tế càng tăng trưởng thì tình trạng khan hiếm các loại nguyên
nhiên liệu, năng lượng do sự cạn kiệt các nguồn tài nguyên không tái tạo được càng
tăng thêm, môi trường thiên nhiên càng bị hủy hoại, cân bằng sinh thái bị phá vỡ,
thiên nhiên gây ra những thiên tai vô cùng thảm khốc.
Đó là sự tăng trưởng kinh tế không cùng nhịp với tiến bộ và phát triển xã hội.
Có tăng trưởng kinh tế nhưng không có tiến bộ và công bằng xã hội; tăng trưởng kinh
tế nhưng văn hóa, đạo đức bị suy đồi; tăng trưởng kinh tế làm dãn cách hơn sự phân
hóa giàu nghèo, dẫn tới sự bất ổn trong xã hội. Vì vậy, quá trình phát triển cần có sự
điều tiết hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với bảo đảm an ninh xã hội và bảo vệ môi
trường hay phát triển bền vững đang trở thành yêu cầu bức thiết đối với toàn thế giới.

Khái niệm phát triển bền vững
Năm 1980, trong bản “Chiến lược bảo tồn thế giới” do Liên minh Quốc tế Bảo
tồn Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên (IUCN-International Union for
Conservation of Nature and Natural Resources) đã đưa ra mục tiêu của phát triển bền
vững là “đạt được sự phát triển bền vững bằng cách bảo vệ các tài nguyên sinh vật”
và thuật ngữ phát triển bền vững ở đây được đề cập tới với một nội dung hẹp, nhấn
mạnh tính bền vững của sự phát triển về mặt sinh thái, nhằm kêu gọi việc bảo tồn các
tài nguyên sinh vật.
Năm 1987, trong Báo cáo “Tương lai chung của chúng ta”, Ủy ban Thế giới về
Môi trường và Phát triển (WCED-World Commission on Environment and
Development) của Liên hợp quốc, "phát triển bền vững" được định nghĩa là “Sự phát
triển đáp ứng được nhu cầu của hiện tại mà không làm tổn thương khả năng cho việc
đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai”.
Quan niệm này chủ yếu nhấn mạnh khía cạnh sử dụng hiệu quả nguồn tài
nguyên thiên nhiên và bảo đảm môi trường sống cho con người trong quá trình phát
3


triển. Phát triển bền vững là một mô hình chuyển đổi mà nó tối ưu các lợi ích kinh tế
và xã hội trong hiện tại nhưng không hề gây hại cho tiềm năng của những lợi ích
tương tự trong tương lai (Gôdian và Hecdue, 1988, GS. Grima Lino).
Nội hàm về phát triển bền vững được tái khẳng định ở Hội nghị Thượng đỉnh
Trái đất về Môi trường và phát triển tổ chức ở Rio de Janeiro (Brazil) năm 1992 và
được bổ sung, hoàn chỉnh tại Hội nghị Thượng đỉnh thế giới về Phát triển bền vững tổ
chức ở Johannesburg (Cộng hoà Nam Phi) năm 2002: "Phát triển bền vững" là quá
trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa 3 mặt của sự phát triển,
gồm: phát triển kinh tế (nhất là tăng trưởng kinh tế), phát triển xã hội (nhất là thực
hiện tiến bộ, công bằng xã hội; xoá đói giảm nghèo và giải quyết việc làm) và bảo vệ
môi trường (nhất là xử lý, khắc phục ô nhiễm, phục hồi và cải thiện chất lượng môi
trường; phòng chống cháy và chặt phá rừng; khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm tài

nguyên thiên nhiên).
Quan niệm về phát triển bền vững dần được hình thành từ thực tiễn đời sống xã
hội và có tính tất yếu. Tư duy về phát triển bền vững bắt đầu từ việc nhìn nhận tầm
quan trọng của bảo vệ môi trường và tiếp đó là nhận ra sự cần thiết phải giải quyết
những bất ổn trong xã hội. Năm 1992, Hội nghị thượng đỉnh về Môi trường và Phát
triển của Liên hợp quốc được tổ chức ở Rio de Janeiro đề ra Chương trình nghị sự
toàn cầu cho thế kỷ XXI, theo đó, phát triển bền vững được xác định là: “Một sự phát
triển thỏa mãn những nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không làm hại đến khả năng đáp
ứng những nhu cầu của thế hệ tương lai”.
Về nguyên tắc, phát triển bền vững là quá trình vận hành đồng thời ba bình
diện phát triển: kinh tế tăng trưởng bền vững, xã hội thịnh vượng, công bằng, ổn định,
văn hoá đa dạng và môi trường được trong lành, tài nguyên được duy trì bền vững.
Do vậy, hệ thống hoàn chỉnh các nguyên tắc đạo đức cho phát triển bền vững bao
gồm các nguyên tắc phát triển bền vững trong cả “ba thế chân kiềng” kinh tế, xã hội,
môi trường.
Cho tới nay, quan niệm về phát triển bền vững trên bình diện quốc tế có được
sự thống nhất chung và mục tiêu để thực hiện phát triển bền vững trở thành mục tiêu
thiên niên kỷ.
Tiêu chí của phát triển bền vững
Thứ nhất, phát triển bền vững về kinh tế là phát triển nhanh và an toàn, chất
lượng. Phát triển bền vững về kinh tế đòi hỏi sự phát triển của hệ thống kinh tế trong
4


đó cơ hội để tiếp xúc với những nguồn tài nguyên được tạo điều kiện thuận lợi và
quyền sử dụng những nguồn tài nguyên thiên nhiên cho các hoạt động kinh tế được
chia sẻ một cách bình đẳng. Yếu tố được chú trọng ở đây là tạo ra sự thịnh vượng
chung cho tất cả mọi người, không chỉ tập trung mang lại lợi nhuận cho một số ít,
trong một giới hạn cho phép của hệ sinh thái cũng như không xâm phạm những quyền
cơ bản của con người.

Khía cạnh phát triển bền vững về kinh tế gồm một số nội dung cơ bản: Một là,
giảm dần mức tiêu phí năng lượng và các tài nguyên khác thông qua công nghệ tiết
kiệm và thay đổi lối sống; Hai là, thay đổi nhu cầu tiêu thụ không gây hại đến đa dạng
sinh học và môi trường; Ba là, bình đẳng trong tiếp cận các nguồn tài nguyên, mức
sống, dịch vụ y tế và giáo dục; Bốn là, xóa đói, giảm nghèo tuyệt đối; Năm là, công
nghệ sạch và sinh thái hóa công nghiệp (tái chế, tái sử dụng, giảm thải, tái tạo năng
lượng đã sử dụng).
Nền kinh tế được coi là bền vững cần đạt được những yêu cầu sau: (1) Có tăng
trưởng GDP và GDP đầu người đạt mức cao. Nước phát triển có thu nhập cao vẫn
phải giữ nhịp độ tăng trưởng, nước càng nghèo có thu nhập thấp càng phải tăng
trưởng mức độ cao. Các nước đang phát triển trong điều kiện hiện nay cần tăng
trưởng GDP vào khoảng 5%/năm thì mới có thể xem có biểu hiện phát triển bền vững
về kinh tế. (2) Cơ cấu GDP cũng là tiêu chí đánh giá phát triển bền vững về kinh tế.
Chỉ khi tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP cao hơn nông nghiệp thì tăng
trưởng mới có thể đạt được bền vững. (3) Tăng trưởng kinh tế phải là tăng trưởng có
hiệu quả cao, không chấp nhận tăng trưởng bằng mọi giá.
Thứ hai, phát triển bền vững về xã hội được đánh giá bằng các tiêu chí, như
HDI, hệ số bình đẳng thu nhập, các chỉ tiêu về giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội, hưởng
thụ văn hóa. Ngoài ra, bền vững về xã hội là sự bảo đảm đời sống xã hội hài hòa; có
sự bình đẳng giữa các giai tầng trong xã hội, bình đẳng giới; mức độ chênh lệch giàu
nghèo không quá cao và có xu hướng gần lại; chênh lệch đời sống giữa các vùng miền
không lớn.
Công bằng xã hội và phát triển con người, chỉ số phát triển con người (HDI) là
tiêu chí cao nhất về phát triển xã hội, bao gồm: thu nhập bình quân đầu người; trình
độ dân trí, giáo dục, sức khỏe, tuổi thọ, mức hưởng thụ về văn hóa, văn minh.
Phát triển bền vững về xã hội chú trọng vào sự công bằng và xã hội luôn cần
tạo điều kiện thuận lợi cho lĩnh vực phát triển con người và cố gắng cho tất cả mọi
5



người cơ hội phát triển tiềm năng bản thân và có điều kiện sống chấp nhận được. Phát
triển bền vững về xã hội gồm một số nội dung chính: Một là, ổn định dân số, phát
triển nông thôn để giảm sức ép di dân vào đô thị; Hai là, giảm thiểu tác động xấu của
môi trường đến đô thị hóa; Ba là, nâng cao học vấn, xóa mù chữ; Bốn là, bảo vệ đa
dạng văn hóa; Năm là, bình đẳng giới, quan tâm tới nhu cầu và lợi ích giới; Sáu là,
tăng cường sự tham gia của công chúng vào các quá trình ra quyết định.
Thứ ba, phát triển bền vững về môi trường. Quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, phát triển nông nghiệp, du lịch; quá trình đô thị hóa, xây dựng nông thôn
mới,... đều tác động đến môi trường và gây ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường, điều
kiện tự nhiên. Bền vững về môi trường là khi sử dụng các yếu tố tự nhiên đó, chất
lượng môi trường sống của con người phải được bảo đảm. Đó là bảo đảm sự trong
sạch về không khí, nước, đất, không gian địa lý, cảnh quan. Chất lượng của các yếu tố
trên luôn cần được coi trọng và thường xuyên được đánh giá kiểm định theo những
tiêu chuẩn quốc gia hoặc quốc tế.
Khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường và cải
thiện chất lượng môi trường sống. Phát triển bền vững về môi trường đòi hỏi chúng ta
duy trì sự cân bằng giữa bảo vệ môi trường tự nhiên với sự khai thác nguồn tài
nguyên thiên nhiên phục vụ lợi ích con người nhằm mục đích duy trì mức độ khai
thác những nguồn tài nguyên ở một giới hạn nhất định cho phép môi trường tiếp tục
hỗ trợ điều kiện sống cho con người và các sinh vật sống trên trái đất.
Phát triển bền vững về môi trường gồm những nội dung cơ bản: Một là, sử
dụng có hiệu quả tài nguyên, đặc biệt là tài nguyên không tái tạo; Hai là, phát triển
không vượt quá ngưỡng chịu tải của hệ sinh thái; Ba là, bảo vệ đa dạng sinh học, bảo
vệ tầng ôzôn; Bốn là, kiểm soát và giảm thiểu phát thải khí nhà kính; Năm là, bảo vệ
chặt chẽ các hệ sinh thái nhạy cảm; Sáu là, giảm thiểu xả thải, khắc phục ô nhiễm
(nước, khí, đất, lương thực thực phẩm), cải thiện và khôi phục môi trường những khu
vực ô nhiễm...

6



Chương 2:
Thực trạng tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững nền kinh tế ở Việt Nam

1. Về tốc độ tăng trưởng
Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam thời gian qua tương đối cao nhưng
thiếu bền vững, điều này được thể hiện ở tốc độ tăng trưởng qua từng năm và từng
thời kỳ. Giai đoạn 2001-2005, tăng trưởng bình quân đạt 7,5%/năm; giai đoạn 2006
-2010 giảm xuống còn 6,9%/năm; năm 2011 đạt 6,24%, năm 2012 đạt 5,25%, năm
2013 đạt 5,5%, năm 2014 tăng trưởng đạt trên 6% và 6 tháng đầu năm 2015 đạt
6,22%. Số liệu này cho thấy tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam có xu hướng
giảm. Nhìn chung, các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế có mức tăng, song cũng
chưa thực sự bền vững.
2. Về năng lực cạnh tranh
Kinh tế tăng trưởng cao trong một thời gian dài nên quy mô của nền kinh tế
tăng lên rõ rệt, điều này đã làm cho vị thế kinh tế của Việt Nam trên trường quốc tế
được nâng lên đáng kể. Tuy nhiên, năng lực cạnh tranh quốc giacòn thấp và chậm
được cải thiện. Chỉ số năng lực cạnh tranh tổng hợp (Global Competitiveness Index)
của nước ta liên tục giảm. Cụ thể, thứ hạng của Việt Nam như sau: hạng 61 năm
2004-2005; hạng 64 năm 2006-2007; hạng 68 năm 2007-2008; hạng 70 năm 20082009 và hạng 75 năm 2009-2010. Không những tụt hạng theo thời gian, tức là năng
lực cạnh tranh tổng thể của Việt Nam chậm được cải thiện so với các quốc gia khác
trên thế giới, mà chúng ta còn chậm tiến bộ so với chính bản thân chúng ta.
3. Về cơ cấu các thành phần kinh tế
Cơ cấu các thành phần kinh tế của Việt Nam có sự thay đổi tích cực. Các thành
phần kinh tế đã chuyển dịch theo hướng từ độc tôn khu vực kinh tế nhà nước, đến nay
đã có đầy đủ các thành phần kinh tế hoạt động cạnh tranh lành mạnh, hỗ trợ và tạo
động lực cho nhau để phát triển. Các thành phần kinh tế đã phát huy tiềm năng, thế
mạnh để phát triển. Khu vực kinh tế ngoài nhà nước ngày càng chiếm tỷ trọng lớn
trong GDP (riêng khu vực kinh tế tư nhân chiếm trên 30% GDP năm 2013); khu vực
kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng đóng vai trò quan trọng trong

tăng trưởng, chiếm khoảng trên 20% GDP, chiếm tỷ lệ lớn trong tổng kim ngạch xuất
khẩu của Việt Nam trong những năm vừa qua.
7


Khu vực kinh tế nhà nước đang được tổ chức lại, đổi mới và chiếm tỷ trọng
ngày càng nhỏ dần trong GDP: chiếm 40,28% GDP vào năm 1995, năm 2000 chiếm
38,52% GDP, năm 2005 là 38,40% và năm 2010 là 33,74% và chi phối nhiều ngành
kinh tế then chốt, tập trung vào những lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế.
Sự phát triển tích cực của các thành phần kinh tế thời gian qua đã góp phần tạo
nhiều công ăn việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp, góp phần ổn định tình hình kinh tế,
chính trị, xã hội. Tuy nhiên, sự yếu kém về trình độ công nghệ, quy mô sản xuất nhỏ,
công nghệ lạc hậu, khả năng tích tụ vốn và huy động vốn thấp, trình độ và kỹ năng
quản lý yếu nên năng lực cạnh trạnh của các thành phần kinh tế không cao, dẫn đến
năng lực cạnh tranh của Việt Nam rất thấp.
4. Về chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Tăng trưởng và phát triển kinh tế của mỗi quốc gia thường đi liền với chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, đặc biệt là cơ cấu ngành kinh tế. Trong những năm qua, cơ cấu
kinh tế chuyển dịch theo hướng CNH, HĐH, phát huy lợi thế so sánh ngành và vùng
lãnh thổ. Gắn khai thác, phân phối, sử dụng các nguồn lực và quá trình sản xuất với
thị trường. Xu hướng chung là công nghiệp - xây dựng, thương mại - dịch vụ tăng
nhanh và nền kinh tế từng bước được hiện đại hóa.
Trong điều kiện điểm xuất phát thấp về kinh tế - xã hội, kỹ thuật, vốn đầu tư
phát triển ít ỏi và bắt đầu từ cơ sở kinh tế tự túc, tự cấp là chính, đạt được sự chuyển
dịch cơ cấu ngành kinh tế như trên là một thành công lớn, giúp Việt Nam nhanh
chóng thoát khỏi tình trạng nước kém phát triển. Tuy vậy, chuyển dịch cơ cấu kinh tế
còn diễn ra chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu. Tỷ trọng nông - lâm - thủy sản còn
chiếm tới 22,02%. Về cơ bản vẫn là cơ cấu kinh tế của một nước nông nghiệp, công
nghiệp và dịch vụ kém phát triển, đặc biệt là ngành dịch vụ trong suốt hơn 10 năm
qua hầu như không thay đổi. Nếu phân tích sâu hơn về sự chuyển dịch cơ cấu trong

nội bộ từng ngành kinh tế thì có thể thấy rằng, chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ
trọng những mặt hàng, những lĩnh vực có giá trị gia tăng cao, có khả năng cạnh tranh
cao, có hàm lượng chất xám cao... còn diễn ra rất chậm.
Chất lượng tăng trưởng, hiệu quả sử dụng các nguồn lực thấp, chậm được cải
thiện và ngày càng có xu hướng giảm sút
Hệ số ICOR của nền kinh tế ngày càng cao: Thời kỳ 1996 - 2000 bình quân là
4,7; thời kỳ 2001 - 2005 là 5,2; thời kỳ 2006 - 2010 là 6,1; năm 2010 là 6,2; năm
2011 là 6,2 và năm 2012 là 6,7. Đóng góp của yếu tố lao động đã nhỏ nhưng lại có xu
8


hướng giảm là bất hợp lý đối với một nước có tiềm năng về số lượng lao động và giá
rẻ. Đóng góp của yếu tố lao động vào tăng trưởng kinh tế thời kỳ 1990 - 2000 là 22%,
thời kỳ 2001 - 2010 giảm xuống 19%. Điều này phản ánh những bất cập sau: chưa tận
dụng hết lực lượng lao động vào hoạt động kinh tế; chất lượng lao động thấp, năng
suất lao động xã hội không cao.
Đóng góp của các nhân tố năng suất tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng kinh tế
nhỏ và có xu hướng giảm sút: thời kỳ 1990 - 2000 là 44%, giảm xuống còn 26% thời
kỳ 2001 - 2010. Điều này phản ánh tính chất lạc hậu về công nghệ kỹ thuật và hiệu
quả của tăng trưởng ngày càng thấp. Đóng góp của TFP vào tăng trưởng thấp là do:
hàm lượng công nghệ trong giá trị sản phẩm thấp; trình độ công nghệ của các ngành
kinh tế thấp; hoạt động chuyển giao công nghệ kém hiệu quả và công tác nghiên cứu
và triển khai (R&D) trong nước còn nhiều hạn chế.
Hiệu quả hoạt động của khu vực kinh tế nhà nước không cao; cơ cấu kinh tế
chậm chuyển dịch theo hướng hợp lý và hiệu quả
Đáng chú ý là khu vực quốc doanh chiếm một lượng vốn rất lớn, song đầu tư
rất kém hiệu quả, thể hiện ở các chỉ số ICOR, tỷ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư, tỷ
suất lợi nhuận trên vốn kinh doanh, vấn đề giải quyết việc làm... điều này không chỉ
ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động mà còn làm hạn chế sự năng động của nền kinh tế.
Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP hiện còn chiếm trên 22%, tỷ trọng của dịch

vụ chỉ chiếm chưa đầy 39% và hầu như không thay đổi trong 10 năm gần đây; tỷ
trọng ngành công nghiệp - xây dựng chiếm từ 42% - 43% GDP. Trình độ công nghệ
của các ngành công nghiệp lạc hậu và chậm đổi; chuyển dịch cơ cấu kinh tế chưa tối
ưu và đồng đều, chưa phát huy lợi thế trong từng ngành, từng vùng, từng sản phẩm;
vẫn còn nhiều ngành tăng trưởng dựa vào khai thác tài nguyên.
Kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật còn nhiều yếu kém; môi trường và tài nguyên
thiên nhiên đang bị suy thoái nhanh chóng dưới áp lực tăng trưởng nhanh
Phát triển đô thị, đặc biệt là phát triển nông thôn còn thiếu quy hoạch và tự
phát, hoặc có quy hoạch nhưng quản lý kém. Kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội còn lạc
hậu, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững. Môi trường thành thị và nhiều vùng
nông thôn ngày càng bị ô nhiễm do chất thải sinh hoạt, chăn nuôi và nông dược...
Những điều đó dẫn đến năng lực cạnh tranh quốc gia, năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp Việt Nam và năng lực cạnh tranh của sản phẩm đều hết sức thấp kém.

9


Các vấn đề môi trường như ô nhiễm môi trường, suy giảm đa dạng sinh học,
khai thác khoáng sản và quản lý chất thải rắn đang ngày càng nghiêm trọng.
Kinh tế vĩ mô thiếu vững chắc và có những dấu hiệu bất ổn; thể chế kinh tế thị
trường chưa đồng bộ, chất lượng nguồn nhân lực thấp
Nợ công gia tăng, chiếm tỷ lệ lớn trong GDP. Hiện nợ công của Việt Nam
chiếm trên 60% GDP. Thâm hụt ngân sách với tỷ lệ khá cao. Bội chi ngân sách hàng
năm từ khoảng từ 3% - 6% GDP. Nguồn lực vốn cho tăng trưởng vẫn dựa quá nhiều
vào nguồn lực bên ngoài, trong đó, vốn vay ODA chiếm tỷ trọng cao, gây nên gánh
nặng nợ quốc gia ngày càng tăng và đe dọa sự ổn định tài chính trong tương lai. Hệ
thống ngân hàng thương mại đang tiềm ẩn nhiều rủi ro, nợ xấu chưa được xử lý đang
đe dọa đến an ninh tài chính quốc gia.
Thể chế kinh tế thị trường chưa đồng bộ, chất lượng nguồn nhân lực thấp, cùng
với kết cấu hạ tầng thấp kém là những điểm nghẽn cản trở sự phát triển.

Do đó, cần phải có sự thay đổi mạnh mẽ cả về tư duy, nhận thức, mục tiêu
phát triển bền vững và các giải pháp phải ngày càng mạnh mẽ hơn, triệt để hơn,
hệ thống hơn.
3. Giải pháp để phát triển bền vững nền kinh tế ở Việt Nam
Một là, đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế theo hướng chuyển nền kinh tế
phát triển theo chiều rộng sang chiều sâu
Tăng cường năng lực về khoa học công nghệtrong phát triển kinh tế, nhất là
phát triển mạnh mẽ công tác R&Dtrong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Tập trung
vào phát triển các ngành, các sản phẩm có giá trị gia tăng cao, thân thiện với môi
trường, tăng cường đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật hiện đại.Nghiên cứu và triển
khai áp dụng mạnh mẽ mô hình tăng trưởng xanh. Đây là mô hình mà các quốc
giaphát triểnđã và đang áp dụng.
Hai là, sử dụng tốt các nguồn lực để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững
Giải phóng nguồn nhân lực, sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực và tạo động lực
mới để nguồn nhân lực phát huy tiềm năng, thế mạnh trong phát triển kinh tế. Nhà
nước cần có các quyhoạch sử dụng và phát triển nguồn tài nguyên thiên nhiên của
quốc gia một cách tối ưu nhất, sử dụng hiệu quảnguồn lực vốn. Cải thiện môi trường
kinh doanh và môi trường đầu tư nhằm khuyến khích tất cả các thành phần kinh tế
đầu tư sản xuất kinh doanh. Tạo môi trường, thể chế sản xuất - kinh doanh đồng bộ,
10


lành mạnh để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.Đổi mới cơ chế, tổ chức bộ máy và phương
thức hoạt động của Nhà nước. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính theo hướng
thông thoáng, công khai, minh bạch để thúc đẩy đầu tư, tăng trưởng kinh tế. Kiên
quyết xử lý nghiêm tình trạng các địa phương, ngành dựng lên những rào cản (giấy
phép con) trong hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Ba là, tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng
Trong nền kinh tế thị trường, công bằng về cơ hội cho mọi chủ thể trong nền
kinh tế là điều kiện hết sức quan trọng. Cơ chế, mô hình và cách thức can thiệp của

Nhà nước trong nền kinh tế thị trường hiện đại phải theo hướng tôn trọng các quy luật
khách quan của thị trường, tức là phải tạo ra một môi trường để các chủ thể trong nền
kinh tế cạnh tranh với nhau một cách bình đẳng, phải lấy thị trường làm căn cứ để
phân bổ nguồn lực vốn có hiệu quả, hạn chế tới mức thấp nhất sự can thiệp hành
chính của Nhà nước vào nền kinh tế. Đảm bảo cho mọi chủ thể trong nền kinh tế thị
trường cạnh tranh công bằng và bình đẳng, có cơ hội ngang nhau trong việc tiếp cận
nguồn lực vốn.
Bốn là, đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính sách kinh tế, bảo vệ môi trường
và đảm bảo công bằng xã hội
Việc đổi mới hệ thống chính sách kinh tế, bảo vệ môi trường và chính sách xã
hội phải được tiến hành đồng thời và kết hợp theo hướng mỗi chính sách kinh tế phải
gắn với mục tiêu phát triển bền vững, công bằng xã hội và mỗi chính sách phát triển
bền vững, chính sách xã hội phải dựa trên những cơ sở tiền đề vật chất của quá trình
tăng trưởng kinh tế và đặc biệt nó phải tạo được động lực cho tăng trưởng kinh tế,
thực hiện được mục tiêu phát triển bền vững. Tránh tình trạng chính sách tăng trưởng
kinh tế bằng mọi giá, xung đột với mục tiêu phát triển bền vững.
Theo đó, hệ thống chính sách kinh tế phải đổi mới theo hướng tạo mọi điều
kiện huy động các nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế và nâng cao hiệu quả sản xuất,
kinh doanh, tăng thu nhập cho người lao động. Đổi mới chính sách xã hội theo
hướng đảm bảo công bằng xã hội, tạo điều kiện tốt hơn để người dân tiếp cận các
dịch vụ thiết yếu, các nguồn lực, khuyến khích làm việc tăng thu nhập. Chính sách
kinh tế và chính sách xã hội phải thực sự là kênh để điều tiết thu nhập giữa các
ngành, giữa các doanh nghiệp, vùng, miền và giữa các bộ phận dân cư. Chính sách
môi trường phải thực sự làm tăng trưởng kinh tế và thực hiện tốt mục tiêu phát triển
bền vững về môi trường.
11


Năm là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu tăng trưởng kinh tế

nhanh, bền vữngcần tập trung vào các biện pháp: đổi mới hệ thống giáo dục - đào
tạo,đổi mớinội dung giáo dục - đào tạo theo yêu cầu của thị trường lao động, nâng cấp
trang thiết bị dạy học, học nghề,tiêu chuẩn hóa các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng tay nghề,
bồi dưỡng kỹ năng với những tiêu chí chất lượng phù hợp, đào tạo người lao động có
khả năng thích ứng tốt với cơ chế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế.

KẾT LUẬN
12


Tăng trưởng kinh tế là điều kiện cần đối với phát triển kinh tế, song nó không
phải là điều kiện đủ cho việc phát triển kinh tế. Nếu một đất nước có tốc độ tăng
trưởng kinh tế quá nhanh sẽ làm cho nền kinh tế phát triển không bền vững. Vì thế, để
có được một nền kinh tế phát triển bền vững phải kết hợp nhiều yếu tố như môi
trường, có cơ cấu kinh tế một cách hợp lí, và đặc biệt là phải quan tâm đến việc cải
thiện đời sống cho người dân.
Phát triển kinh tế bền vững là mục tiêu hướng tới của nhiều quốc gia.Tính bền
vững về kinh tế được thể hiện trên các khía cạnh: sự gia tăng quy mô kinh tế, tăng
trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ và bình đẳng về cơ hội
tham gia cũng như hưởng thụ thành quả phát triển của mọi người. Với những phân
tích trên, có thể thấy, phát triển bền vững đã trở thành một phương thức phát triển
tổng hợp đa ngành, liên ngành, thành chương trình hành động với nhiều tiêu chí ngày
càng được cụ thể và rõ nét. Phát triển bền vững, vì vậy, mang tính tất yếu và là mục
tiêu cao đẹp nhất của quá trình phát triển.

13




×