Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Bài tiểu luận địa lý kinh tế bai tieu luan di ly kinh te

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.32 KB, 20 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HỒ CHÍ MINH
 - 

BÀI TIỂU LUẬN
MÔN ĐỊA LÝ KINH TẾ

PHÂN VÙNG KINH TẾ - VÙNG KINH TẾ
TRỌNG ĐIỂM PHÍA NAM THỰC TRẠNG
VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN
Sinh viên thực hiện : Trần Duy Lĩnh
Lớp
: Kinh tế kế hoạch và đầu tư
MSSV
:

TP.HỒ CHÍ MINH 2008


MỤC LỤC
Chương I : Đặt vấn đề
Chương II : Cơ sở lý luận về phân vùng
Chương III : Thực trạng vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
Chương IV :Giải pháp phát triển vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
Chương V : Kết luận và kiến nghị


CHƯƠNG 1 : ĐẶT VẤN ĐỀ
Thế kỷ XXI, khoa học kỹ thuật đã trở thành lực lượng sản xuất, thúc đẩy sự
tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội của nhiều quốc gia hoặc nhóm các quốc gia.
Kinh tế tri thức ngày càng giữ vai trò to lớn đối với nhân loại. "Liên kết, khu vực hoá,


toàn cầu hoá" và sự tăng cường các quan hệ liên vùng đã trở thành xu thế tất yếu của
thời đại, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực, vừa hợp tác và vừa có sự cạnh
tranh.
Sự giàu, nghèo và trình độ phát triển giữa các nước, các vùng, giữa đô thị với
nông thôn, giữa đô thị lớn với đô thị nhỏ có sự chênh lệch đáng kể. Sự phân bố không
đồng đều các tài nguyên thiên nhiên trong điều kiện cạnh tranh quốc tế quyết liệt, sự
tác động của nền kinh tế thị trường và xu thế hội nhập mạnh mẽ đã trở thành vấn đề
nan giải trong các chính sách phát triển vùng.
Nhân loại đang phải đương đầu với những nguy cơ thách thức lớn. Đó là, các
thảm hoạ ô nhiễm môi trường, tai biến thiên nhiên và sự phá vỡ cân bằng các hệ sinh
thái; Quá trình đô thị hoá, với các quy mô và tốc độ chưa từng thấy, đã dẫn đến sự
hình thành bất khả kháng các siêu thành phố, các thành phố vùng, khu vực và châu
lục; Hiệu ứng con dao hai lưỡi của khoa học - kỹ thuật; Sự mất đi những bản sắc riêng
và linh hồn văn hóa của mỗi địa phương .
Trong tình trạng đó, thiết kế kiến trúc, quy hoạch đô thị không còn đảm nhiệm
được vai trò điều tiết vĩ mô và tổ chức lãnh thổ của quy hoạch vùng. Bởi vậy, quy
hoạch vùng là nhằm :
• Bố trí, sắp xếp hợp lý các hoạt động của con người trên lãnh thổ phù hợp với
đường lối, chính sách quốc gia về phát triển kinh tế - xã hội và tổ chức hành
chính - chính trị
•Khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên.
•Phân bố và tổ chức tối ưu các hoạt động theo lãnh thổ với tầm nhìn hướng về
tương
•Bảo vệ môi trường, phòng chống các thảm hoạ thiên nhiên.
•Đảmbảo an ninh, quốc phòng.
Những nhân tố trên khẳng định vai trò và tầm quan trọng của phân vùng kinh
tế trong thế kỷ XXI.


CHƯƠNG II

2. Cở sở lý luận về phân vùng kinh tế
2.1. Lý thuyết kinh tế không gian:
Lý luận này đã được đưa ra trong các lý thuyết: Lý thuyết về phân bố và phát triển
nông nghiệp của V.Thunen (1862) sau được C.Mark, Ricardo đề cập sâu hơn trong
các lý thuyết về địa tô và phân bố nông nghiệp; Lý thuyết phân bố công nghiệp của
Weber, Losch,... Lý thuyết phân bố đô thị và dịch vụ (Central place) của
W.Christaller,... Các nước XHCN, đặc biệt là Liên Xô cũ đã hình thành lý thuyết về
phân bố và phát triển lực lượng sản xuất trên lãnh thổ, lý thuyết về phân bố dân cư và
lý thuyết về tổ chức lãnh thổ.
2.2. Lý thuyết về vùng và phân vùng:
Tuỳ theo quan điểm tiếp cận, vùng được phân loại như sau:
• Theo quy mô: Lớn, trung bình và nhỏ (20.000 - 3.000.000 km2, 20.000 - 30.000
km2 và nhỏ hơn).
• Theo mục đích quy hoạch: Vùng kinh tế, vùng hành chính, vùng vật thể, vùng tự
nhiên, vùng xã hội và vùng an ninh quốc phòng...
• Theo tính chất: Vùng đô thị, vùng công nghiệp, vùng nông thôn, vùng du lịch - nghỉ
mát, vùng lâm nghiệp, vùng khai khoáng...
• Theo quan điểm tổng hợp: Vùng quy hoạch. Pertxik cho rằng "vùng là đối tượng của
quy hoạch vùng và là một bộ phận của vùng kinh tế, thuộc cấp thấp theo phân vị. Do
đó phân vùng kinh tế là cơ sở khoa học của quy hoạch vùng".
Một số tác giả cho rằng, vùng quy hoạch phải hội tụ được các đặc điểm tổng hợp sau:
Là một đơn vị địa lý tự nhiên; Là một đơn vị kinh tế; Là một đơn vị xã hội và phù hợp
với địa giới hành chính.
• Theo trình độ phát triển, vùng gồm các loại sau: Vùng phát triển; Vùng kém phát
triển;Vùng mới phát triển và vùng đình đốn.
2.3. Các phương pháp xác định ranh giới vùng:
Phương pháp đồng tính: Các vùng đồng tính; Phương pháp phân cực: Các vùng phân
cực; Phương pháp quy hoạch: Các vùng kế hoạch (Boudeville), các tổng hợp thể sản
xuất - lãnh thổ (TPK) - (Kolosovxki-Nga) hoặc các tổ hợp nông - công nghiệp (APKBungari).
Sự hợp nhất giữa hai dòng lý thuyết kinh tế không gian và lý thuyết phân vùng (cuối

thế kỷ XIX) là nguồn gốc của quy hoạch vùng.
2.4. Lý luận phân vùng kinh tế Việt Nam – khủng hoảng và phát triển:
Những năm cuối thế kỷ XX, nhất là sau khi Liên Xô tan rã, người ta ít nói tới phân
vùng kinh tế (PVKT), mà nói nhiều tới tổ chức lãnh thổ kinh tế xã hội (TCLTKTXH).
Phải chăng PVKT đã lỗi thời, không còn giá trị thực tiễn? Để trả lời cần đi sâu vào
cặp khái niệm khủng hoảng và phát triển. Về lý thuyết, có thể khủng hoảng dẫn tới
sụp đổ, thậm chí tiêu vong, cũng có thể chỉ là sự khủng hoảng để mở đường phát triển
sau đó. Chúng tôi ủng hộ quan điểm thứ hai, PVKT trong khủng hoảng vì sự phát
triển. PVKT Việt Nam đang trong thời kỳ khủng hoảng và tìm ra đúng hướng phát
triển.


Đã là người nghiên cứu địa lý kinh tế – xã hội chuyên nghiệp, ai cũng phải biết lý
luận PVKT có cội nguồn từ tác phẩm nổi tiếng của V.I. Lênin “ Sự phát triển chủ
nghĩa tư bản ở Nga”. Bằng phương pháp tiếp cận vùng, Lênin đã tìm thấy sự phát
triển không đồng đều của chủ nghĩa tư bản ở Nga. Lênin đã đặt nền móng vững chắc
về mặt lý luận cho cách tiếp cận vùng, nghiên cứu trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất, chuyên môn hóa, trình độ thâm canh v.v… các lý thuyết này sau đó đã trở
thành cơ sở lý luận phân vùng kinh tế (PVKT) và các nhà địa lý Xô viết coi đây là
cuốn sách gối đầu giường cho mọi người suy ngẫm vào hoạt động thực tiễn của mình.
Cơ sở của PVKT các nước XHCN đều dựa vào các lý luận Mác – Lênin về phân công
lao động theo lãnh thổ. Công tác PVKT của Việt Nam chủ yếu dựa trên lý thuyết
PVKT của các nhà địa lý Xô viết và đã gặt hái nhiều kết quả. Các nhà địa lý Việt
Nam đã nghiên cứu, tìm hiểu và thể nghiệm trong thực tiễn nước nhà tư tưởng PVKT
trong các sơ đồ tổ chức lãnh thổ kinh tế xã hội, mà đỉnh cao của nó là sơ đồ 4 vùng
kinh tế lớn trong tổng sơ đồ phát triển và phân bố lực lượng sản xuất 1985 –
2000/2005. Đi xa hơn, các nhà địa lý đưa sơ đồ phân vùng vào chương trình địa lý
phổ thông lớp 9, lớp 12, đưa công tác nghiên cứu, đào sâu và làm phong phú lý luận
PVKT trong các trường đại học.
Về thực chất mọi thành tựu lý thuyết và thực tiễn PVKT nói trên là hình bóng của mô

hình cũ của CNXH. Mô hình này sụp đổ cùng với sự tan rã của Liên Xô. Hơn 10 năm
qua 1991 – 2002, chúng ta chứng kiến sự khủng hoảng, có phần tệ hại, nhiều phần bi
kịch. Liên Xô không còn nữa, cũng tiêu tan mọi sơ đồ vùng kinh tế và địa lý kinh tế
Xô viết. Thay lốt Liên Xô là SNG – Liên minh các quốc gia độc lập, không còn kinh
tế kế hoạch, thay vào đó là khái niệm mơ hồ, một nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội?... Sự khủng hoảng này có thể coi là gì nếu không nói là sự tiêu vong chứ
không phải phát triển vì chính sự tiêu vong một mô hình vùng kinh tế kiểu cũ, nếu
không có thể gọi là kiểu Liên Xô cũ. Nó vĩnh viễn đi vào lịch sử như một dấu ấn đậm
nét đáng buồn của thế kỷ XX.
Trong bối cảnh nói trên, sau khi “thấm sâu” lý luận và thực tiễn PVKT, lý luận PVKT
nước ta cũng không tránh khỏi khủng hoảng, nếu có thể nói là ở mức độ không nhẹ.
Tổng sơ đồ phát triển và phân bố lực lượng sản xuất 1985 -2000/2005 không thực
hiện được. Có nhiều nguyên nhân, nhưng quan trọng hàng đầu là các tiên đề lý thuyết
cũ không có chỗ đứng vì không còn nữa kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp.
Nước ta đi vào đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy kinh tế, tạo lập một nền kinh tế
hàng hóa thị trường, định hướng XHCN. Sự nghiệp đổi mới thành công. Nước ta vượt
qua khủng hoảng và đi vào CNH, HĐH như một bước phát triển có tầm mệnh hệ đối
với đất nước, và hơn thế, không phá đi thành tựu CNXH, trái lại làm nó sinh động
hơn. Thực tiễn sống động này là cứu cánh cho địa lý kinh tế – xã hội nước nhà, trong
đó có lý luận PVKT, tuy có khủng hoảng nhưng không sụp đổ mà khủng hoảng vì sự
phát triển. Đảng Cộng sản Việt Nam đặt cơ sở vững chắc hoạt động của Đảng, của
dân tộc theo chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Điều này đồng nghĩa
và tô đậm hơn nữa giá trị lý luận và thực tiễn PVKT.
Đến đây, xét trên quan điểm lý thuyết thì hơn 10 năm qua lý luận PVKT Việt Nam
khủng hoảng trong sự phát triển. Chúng tôi cho rằng, càng phát triển bao nhiêu càng
sáng ngời các hạt nhân hợp lý của lý luận, cách tiếp cận vùng của V.I. Lênin bấy
nhiêu. Có không ít người, choáng ngợp trước những thông tin, những lý thuyết ào vào
từ khi đất nước mở cửa, kinh tế đất nước chuyển sang kinh tế thị trường đã mau
chóng quên, hoặc không biết những nguyên lý cơ bản của lý luận Mác – Lênin về



phân công lao động theo lãnh thổ. Bây giờ nói cái gì người ta cũng đầu dẫn là người
phương Tây làm thế này, thế nọ. Có hàng vài chục loại, chục kiểu vùng được đề ra mà
cơ sở lý luận chỉ là “ kinh tế thị trường” một cách chung chung! Có các lý luận vùng
ra đời do tiêu chí của mỗi người đặt ra, chứ không phải vùng tồn tại khách quan v.v…
Trong thời gian qua, trên diễn đàn địa lý và kinh tế nước nhà một số nhà khoa học nói
nhiều tới tổ chức lãnh thổ đất nước, và để làm điều này người ta viện đến quan niệm
tổ chức lãnh thổ từ bên ngoài thông qua luồng gió mở cửa, cứ như là mới mẻ, còn
PVKT thì đã cũ, đã lỗi thời. Thực ra PVKT chính là công cụ tư duy để tạo nên các
cấu thành lãnh thổ cho một nhà nước kiểu mới. Kế hoạch GOELRO dựa trên tư tưởng
phân vùng nước Nga thành các đơn vị lãnh thổ có 2 yếu tố mạnh là công nghiệp và
giai cấp công nhân, tức là 2 yếu tố chủ yếu về kinh tế và xã hội. Tổ chức lãnh thổ
vùng dựa trên học thuyết dây chuyền động lực sản xuất ( EPS do nhà địa lý Liên Xô
N.N. Koloxovxki đề xuất). Nhờ học thuyết này người ta phát triển học thuyết băng
chuyền sản xuất nông nghiệp, xét về bản chất là nông nghiệp sinh thái. Như vậy
PVKT chính là phần cốt lõi trong việc TCLTKTXH của Liên Xô.
Việc Liên Xô sụp đổ chắc không phải lỗi do học thuyết PVKT gây ra, mặc dù sự sụp
đổ đó dẫn tới sự tiêu vong cơ sở thực tiễn, và do đó PVKT Liên Xô không còn lý do
tồn tại.
Thế còn nước ta, CNXH được Đảng và nhân dân ta làm phong phú và sống động, và
nhờ đó, mảnh đất cũ được dọn đi, một mảnh đất mới được tạo ra cho lý luận và thực
tiễn PVKT. Khủng hoảng đi qua và phát triển đã đến. Chỉ có điều là phải nhận dạng
mới PVKT trong điều kiện cụ thể của nước nhà.
Sau nhiều năm nghiên cứu địa lý kinh tế – xã hội, chúng tôi rút ra một vài suy nghĩ
đối với PVKT ở nước ta như sau (xem Đặng Văn Phan, Vũ Như Vân – Lý luận PVKT
Việt Nam, khủng hoảng và phát triển).
- Lý luận PVKT ở Việt Nam đã vượt qua được sự khủng hoảng có liên quan
ít nhiều tới sự đổ vỡ của Liên Xô và mô hình XHCN kiểu cũ. Tính chất
khủng hoảng phát triển đã mở đường cho chúng ta đổi mới tư duy, trong đó
có tư duy lý luận về PVKT.

- Lý luận PVKT ở Việt Nam, bên cạnh tính phổ biến của nó, thì tính đặc thù
có tầm quan trọng hàng đầu là PVKT trong điều kiện một nước đang phát
triển ở trình độ thấp. Do đó PVKT thường mang tính công cụ nhận thức,
linh hoạt, đa mục tiêu; và có thể nói là đa kịch bản thường phải theo sát sự
phát triển để “điều tiết” cho phù hợp.
- Lý luận PVKT trong điều kiện của Việt Nam cần được làm phong phú trên
hai quan điểm mới: Kinh tế tri thức; Bảo vệ môi trường và phát triển bền
vững. Hai quan điểm này bổ sung làm tăng sức mạnh của nhau làm cơ sở
để lý luận PVKT phát triển vì mục đích tổ chức không gian phát triển, phù
hợp với xu thế chung của thời đại.
- PVKT có quan hệ mật thiết với tổ chức lãnh thổ kinh tế – xã hội thống nhất
của đất nước. Do vậy PVKT phải tính tới sự thống nhất lãnh thổ / lãnh hải
(vùng trời/ vùng đất/ vùng nước thuộc chủ quyền), tính tới các quan hệ
không gian tiểu vùng Mêkông, lợi ích Việt Nam – Trung Quốc và khu vực
Đông Nam Á.


CHƯƠNG 3
THỰC TRẠNG VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM PHÍA NAM
3. Thực trạng vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
3.1 Các vùng kinh tế trọng điểm ở nước ta
3.1.1. Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ
Quyết định số 145/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về phương hướng phát triển
kinh tế-xã hội vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm
2020. Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ gồm 8 tỉnh: tp Hà Nội, Hải Phòng, Quảng
Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Hà Tây, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh.
Theo đó, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm sẽ đạt 1,3 lần (giai đoạn 20062010) và 1,25 lần (giai đoạn 2011-2020) so với mức tăng trưởng bình quân chung của
cả nước. Tỷ trọng đóng góp vào GDP cả nước tăng từ 21% (năm 2005) lên 23-24%
(năm 2010) và 28-29% (năm 2020). Giá trị xuất khẩu bình quân đầu người/năm từ
447 USD (năm 2005) lên 1.200 USD (năm 2010) và 9.200 USD (năm 2020). Đạt tốc

độ đổi mới công nghệ bình quân 20-25%/năm. Giảm tỷ lệ lao động không có việc làm
xuống 6,5% vào năm 2010. Giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống 1,5% năm 2010 và dưới 0,5%
năm 2020. Giảm tỷ lệ tăng dân số tự nhiên xuống 1% vào năm 2010, dưới 0,8% vào
năm 2020.
Để đạt được những mục tiêu trên, phải tập trung phát triển các ngành kỹ thuật cao
thành ngành công nghiệp mũi nhọn như công nghiệp phần mềm, thiết bị tin học, sản
xuất các thiết bị tự động hoá, rô bốt, sản xuất vật liệu mới, thép chất lượng cao và
phát triển công nghệ đóng tàu, cơ khí chế tạo… Ngoài ra cũng phải phát triển các
ngành công nghiệp bổ trợ có lợi thế cạnh tranh như các ngành cơ khí chế tạo thiết bị
và phụ tùng ôtô, xe máy, sản xuất thiết bị điện và linh kiện điện tử, động cơ nổ, động
cơ điện.
Cơ cấu sản phẩm: Chủ lực là các sản phẩm giá trị lớn, chứa hàm lượng chất xám cao.
Bên cạnh đó đặc biệt quan tâm phát triển tiểu thủ công nghiệp, xây dựng các mô hình
phát triển bền vững, các làng nghề …
Lĩnh vực dịch vụ: Tập trung phát triển toàn diện, đặc biệt là dịch vụ chất lượng cao
trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, thương mại, du lịch, khoa học- công nghệ, viễn
thông, vận tải hàng không, vận tải hàng hải. Các thị trường như bất động sản, vốn, thị
trường chứng khoán cũng được ưu tiên phát triển…
Cơ cấu nông nghiệp: Chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hoá có năng suất, chất
lượng cao. Đặc biệt chú ý phát triển nông nghiệp sạch, gắn phát triển nông nghiệp với
việc xây dựng kinh tế trang trại hộ gia đình.
Giao thông: Phát triển đồng bộ và hiện đại hoá hệ thống giao thông đường bộ, đường
sắt, đường biển, đường sông và hàng không, đặc biệt là xây dựng cảng nước sâu,
mạng lưới đường cao tốc, hệ thống giao thông nội đô Hà Nội… nâng công suất sân
bay Nội Bài lên 6 triệu hành khách/năm (năm 2005) và 8-10 triệu hành khách (năm


2010), hiện đại hoá sân bay Cát Bi. Các tuyến đường sắt cũng sẽ được hiện đại hoá và
nâng cấp…
Ngoài việc cải tiến cơ chế còn phải khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư phát

triển, thực hiện đổi mới cơ cấu đầu tư theo hướng: khuyến khích có 50-55% đầu tư xã
hội cho phát triển sản xuất kinh doanh; 9-10% đầu tư xã hội cho phát triển nguồn
nhân lực; 35-36% vốn đầu tư giao thông vận tải cho phát triển đường loại I, loại II và
đường cao tốc…
3.1.2. Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung
Quyết định số 148/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về phương hướng phát
triển kinh tế-xã hội của khu vực miền Trung đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm
2020, gồm 5 tỉnh TP trực thuộc trung ương là Đà nẵng, Thừa Thiên Huế, Quảng
Nam, Quảng Ngãi và Bình Định.
Theo đó, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân năm của vùng sẽ tăng từ khoảng 1,2 lần
giai đoạn 2006-2010 lên 1,25 lần giai đoạn 2011-2020 so với tốc độ tăng trưởng bình
quân của cả nước. Tăng giá trị xuất khẩu bình quân đầu người từ 149 USD năm 2005
lên 375 USD vào năm 2010 và 2.530 USD năm 2020.
Các trung tâm du lịch Huế, Đà Nẵng, Quy Nhơn, và vùng phụ cận miền Trung và Tây
Nguyên sẽ dần hình thành cùng với các công trình lớn về kết cấu hạ tầng để gắn kết
khu vực này với các vùng lân cận góp phần thực hiện hành lang Đông-Tây của tiểu
vùng Mê Kông mở rộng, gắn với nhiệm vụ phát triển khu tam giác biên giới 3 nước
Việt Nam-Lào-Campuchia.
TP Đà nẵng sẽ trở thành trung tâm của miền Trung có dân số từ 1 triệu người vào
năm 2010, gần 2 triệu người vào năm 2020 với các cảng biển, sân bay quốc tế xuyên
Việt, xuyên Á. Đà Nẵng sẽ là đầu mối giao thông quan trọng về trung chuyển và vận
tải quốc tế của miền Trung, Tây Nguyên và các nước khu vực sông Mê Kông. Tại đây
sẽ xây dựng khu sinh dưỡng công nghiệp (chuyên nghiên cứu cải tiến kỹ thuật, công
nghệ cho các xí nghiệp công nghiệp), các trung tâm tài chính, ngân hàng, chứng
khoán và bưu chính viễn thông của khu vực miền Trung và là một trong những trung
tâm văn hoá, giáo dục, đào tạo, trung tâm khoa học công nghệ miền Trung…
Khu kinh tế mở Chu Lai (Quảng Nam) sẽ phát triển theo mô hình "khu trong khu".
Đây cũng là khu kinh tế mở duy nhất được xây dựng và phát triển để thử nghiệm thể
chế, chính sách mới, tạo môi trường đầu tư phù hợp với các thông lệ quốc tế cho các
loại hình kinh doanh của các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước. Sân bay Chu Lai sẽ

được đầu tư phục hồi và nâng cấp giai đoạn 1 phục vụ nửa triệu lượt hành khách và
khoảng 500 tấn hàng hoá/năm. Về lâu dài đây sẽ là sân bay quốc tế trung chuyển của
vùng và của khu vực. Đồng thời tiếp tục đầu tư xây dựng và nâng cấp mở rộng sân
bay Đà Nẵng.
Khu kinh tế Dung Quất (Quảng Ngãi) sẽ phát triển thành một khu kinh tế tổng hợp đa
ngành với các chính sách ưu đãi, khuyến khích ổn định lâu dài. Tại đây sẽ tập trung
phát triển công nghiệp lọc dầu-hoá dầu-hoá chất, từng bước phát triển các ngành công


nghiệp cơ khí, đóng sữa chữa tàu biển, luyện cán thép, sản xuất xi măng, sản xuất
container…bên cạnh đó sẽ phát triển hệ thống giao thông liên khu với 10 bến cảng
dầu khí, khu cảng tổng hợp, đê chắn sóng, đê chắn cát…
Khu kinh tế- thương mại Chân Mây (Thừa Thiên Huế), trước mắt phát triển cảng
Chân Mây. Trong giai đoạn 2006-2010 xây dựng trung tâm thông tin quốc tế, cùng hệ
thống dịch vụ thương mại, du lịch, tài chính, ngân hàng, và các ngành nghề khác.
Giao thông cảng biển sẽ là huyết mạch: Trước mắt, nâng cấp cảng Tiên Sa, đưa năng
lực thông qua trên 4 triệu tấn/năm vào năm 2010, cùng với việc xây dựng cảng nước
sâu Liên Chiểu có công suất 2 triệu tấn/năm (giai đoạn 1) và 8,5 triệu tấn/năm (giai
đoạn 2), đồng thời đẩy nhanh tiến độ xây dựng các cảng Dung Quất, Kỳ Hà, Quy
Nhơn. Theo dự báo đến năm 2010, số lượng bến bãi sẽ tăng thêm để bảo đảm lượng
hàng thông qua vào khoảng 4 triệu tấn/năm.
3.1.3. Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
Theo Quyết định số 146/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ mục tiêu phát triển
chủ yếu của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam là tốc độ tăng trưởng GDP bình quân
hàng năm đạt 1,2 lần (giai đoạn 2006-2010) và 1,1 lần (giai đoạn 2011-2020) so với
tốc độ tăng trưởng bình quân của cả nước. Tỷ lệ đóng góp trong GDP cả nước tăng từ
36% hiện nay lên 40-41% vào năm 2010 và 43-44% vào năm 2020, đồng thời giá trị
xuất khẩu bình quân đầu người /năm cũng tăng từ 1.493 USD năm 2010 và 22.310
USD năm 2020.
Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam gồm thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà-RịaVũng Tàu, Bình Dương, Tây Ninh, Bình Phước và Long An, sẽ trở thành một trong

những vùng kinh tế phát triển năng động, có tốc độ tăng trưởng cao và bền vững, thực
sự là vùng kinh tế động lực của cả nước.
Dự kiến thành phố Hồ Chí Minh sẽ trở thành một trung tâm dịch vụ chất lượng cao về
các mặt viễn thông, dịch vụ vận tải, tài chính, ngân hàng, du lịch của cả nước và có
tầm quốc tế. Đến năm 2010, công nghiệp điện tử, tin học trở thành ngành mũi nhọn,
hướng xuất khẩu từng bước phát triển đồng bộ cả phần cứng, phần mềm, trong đó ưu
tiên phát triển phần mềm đưa vùng kinh tế trọng điểm phía Nam trở thành trung tâm
mạnh về sản xuất linh kiện điện tử, phần mềm, tin học viễn thông ở khu vực Đông
Nam Á. Đến năm 2005, giá trị sản xuất phần mềm tại đây sẽ tăng lên khoảng 1.800 tỷ
đồng (tương đương 150-160 triệu USD).
Tiếp tục hoàn thành nâng cấp quốc lộ 50, 20, 22B, tuyến N2…sớm đầu tư các tuyến
đường cao tốc từ thành phố Hồ Chí Minh đi Cần Thơ; hiện đại hoá ga hàng không
quốc tế Tân Sơn Nhất; năm 2010 hoàn thành phương án di dời cảng Sài Gòn ra khỏi
nội thành. Từng bước đầu tư xây dựng cảng Thị Vải, cảng Cái Mép để đảm bảo nhu
cầu vận tải của các khu vực phía Nam và là cửa ngõ ra biển của đường xuyên Á.
Giai đoạn 2006-2010, các tuyến đường sắt từ thành phố Hồ Chí Minh đi Vũng Tàu sẽ
được xây dựng cùng với việc xây dựng hệ thống đường sắt kết nối cảng biển với các


khu công nghiệp trên hành lang đường 51, thành phố Hồ Chí Minh đi Phnôm Pênh,
đồng bằng sông Cửu Long và Tây Nguyên.
Hình thành các khu đô thị mới có quy mô dân số khoảng 70-100 vạn dân ở Phú Mỹ,
Long Sơn, Long Hải (Bà Rịa-Vũng Tàu), Dĩ An-Tân Uyên (Bình Dương), Tam
Phước, Nhơn trạch (Đồng Nai), Khu đô thị mới tại vùng giáp ranh giữa thành phố Hồ
Chí Minh, Long An, Tây Ninh.
3.2 Thực trạng vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
TP.HCM-một trong những địa phương thu hút được nhiều dự án FDI nhất cả nước
Kể từ khi có Luật Đầu tư nước ngoài đến nay thì năm 2007 là năm thu hút FDI của cả
nước đạt mức kỷ lục con số 20,3 tỷ USD. Trong đó, các tỉnh Vùng kinh tế trọng điểm
phía Nam đã để lại dấu ấn quan trọng khi đóng góp hơn 50% số vốn trên.

Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam là một trong 3 vùng kinh tế trọng điểm của cả
nước gồm 8 tỉnh thành (TP.HCM, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình
Phước, Tây Ninh, Long An, Tiền Giang, chiếm 9,2% diện tích, 17,7% dân số, 74%
tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Cho đến nay vùng kinh tế trọng điểm phía
Nam đã hình thành được 72 khu công nghiệp (KCN) với diện tích trên 18.000ha
(chiếm 47% về số KCN và 55% diện tích KCN của cả nước). Đây cũng là vùng có tỷ
lệ lấp đầy các KCN khá cao, đạt khoảng 73% diện tích KCN. Với lợi thế về cơ sở hạ
tầng thuận lợi, nguồn nhân lực tương đối ổn định, thực hiện cải cách thủ tục hành
chính, rộng cửa đón nhà đầu tư từ rất sớm nên vùng đã nhanh chóng trở thành miền
đất hứa của các nhà đầu tư.
Tính đến thời điểm hiện nay, các tỉnh trong Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đã thu
hút được trên 5.250 dự án với tổng vốn đầu tư đăng ký trên 41 tỷ USD (chiếm trên
64% số dự án và trên 55% vốn đăng ký của cả nước), trong đó nổi bật nhất là các điạ
phương như TP.HCM, Đồng Nai, Bình Dương và Bà Rịa - Vũng Tàu. Riêng trong
năm 2007 các tỉnh thành này vẫn tiếp tục giữ những ngôi top trong thu hút FDI của cả
nước. Giám đốc Sở Kế hoạch - Đầu tư TP.HCM, Thái Văn Rê cho biết, 2,8 tỷ USD là
con số mà TP.HCM thu hút được trong năm 2007 (cấp mới và tăng vốn). Tính tổng
cộng đến nay TP.HCM có 2.530 dự án FDI với tổng vốn 16,6 tỷ USD. Thành phố xác
định tập trung phát triển 9 nhóm ngành dịch vụ và những ngành công nghiệp có hàm
lượng khoa học công nghệ cao, có giá trị gia tăng lớn từ rất sớm. Hiện nay, thành phố
đang kêu gọi đầu tư vào hạ tầng đô thị, khách sạn cao cấp, trung tâm thương mại phức
hợp.
Chủ tịch UBND tỉnh Bình Dương, Nguyễn Hoàng Sơn cho biết, thành công nhất của
Bình Dương trong năm qua là việc thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Trong năm
đã có 307 dự án mới và 147 dự án bổ sung với tổng vốn đầu tư 2,3 tỷ USD, nâng tổng
số dự án đầu nước ngoài trên địa bàn tỉnh lên 1.571 dự án với số vốn 8,55 tỷ USD.
Nét mới trong thu hút đầu tư nước ngoài vào Bình Dương là số lượng các quốc gia


đầu tư ngày càng nhiều. Đây là tín hiệu vui vì thành phần kinh tế này góp phần không

nhỏ vào quá trình phát triển kinh tế của tỉnh cũng như tạo ra giá trị công nghiệp cao…
Cùng với Bình Dương, Đồng Nai cũng giữ vị trí những top đầu của thu hút vốn FDI.
Cả năm 2007 tỉnh đã thu hút đạt 2,45 tỷ USD. Về ngành nghề đầu tư có 13 dự án có
công nghệ kỹ thuật cao, chiếm 53% giá trị vốn đầu tư; 21 dự án thuộc lĩnh vực sản
xuất linh kiện, chi tiết cho ôtô, máy móc thiết bị chiếm 16%; sản phẩm điện, điện tử
có 5 dự án chiếm 1%, đặc biệt có 3 dự án sản xuất phụ liệu cho ngành may mặc chiếm
tỷ lệ 3%, lĩnh vực chế biến nông sản thực phẩm có 4 dự án chiếm 5%. Có 16 dự án
thuộc lĩnh vực dịch vụ với tổng vốn đầu tư khoảng 850 triệu USD, chiếm tỷ lệ trên
54% tổng vốn thu hút mới.
Cùng với làn sóng thu hút đầu tư của cả nước, dấu ấn năm 2007 in đậm nhất đối với
việc thu hút FDI vào Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam là Bà Rịa – Vũng Tàu với
nhiều dự án có quy mô vốn lớn. Chỉ tính riêng trong năm 2007 có 50 dự án đầu tư
nước ngoài được cấp phép, với vốn khoảng trên 1,45 tỷ USD, trong đó có nhiều dự án
có vốn đầu tư lớn như dự án thép của Tập đoàn Posco (Hàn Quốc) có tổng vốn đầu tư
1,12 tỷ USD, dự án thép Essar, cảng quốc tế Sài Gòn Việt Nam… Tính tổng cộng đến
nay trên địa bàn toàn tỉnh đã thu hút được 191 dự án có vốn đầu tư nước ngoài, với
tổng vốn đầu tư 7,81 tỷ USD. Trong đó, có 80 dự án trong các KCN với tổng vốn 4,6
tỷ USD và 111 dự án bên ngoài KCN với tổng vốn đầu tư 3,2 tỷ USD.
Nhiều nhà đầu tư trong vùng đã cho rằng lợi thế mà Vùng kinh tế trọng điểm phía
Nam mang lại cho các nhà đầu tư là tính liên kết vùng đã tăng nhanh trong những
năm gần đây. Thay vì hoạt động riêng lẻ, các tỉnh đã có sự thống nhất trong mời gọi
đầu tư, phát huy những tiềm năng và lợi thế của mỗi tỉnh một cách rõ ràng. Nhiều DN
thay vì chen chân trong các KCN ở TP.HCM thì nay đã dịch chuyển sang các tỉnh
thành lân cận như Long An, Tiền Giang. Các tỉnh như Tây Ninh, Bình Phước đã trở
thành điểm đến của các DN hoạt động trong các ngành công nghiệp chế biến nông
lâm sản. Vai trò của TP.HCM vẫn là địa phương dẫn đầu về công nghệ, khoa học và
tài chính. Bên cạnh đó, Bà Rịa – Vũng Tàu có lợi thế về cảng biển, thích hợp với
những dự án sản xuất công nghiệp nặng thiên về xuất khẩu, sử dụng công nghệ cao.
Ông Walter Blocker, Tổng giám đốc Gannon Vietnam cho rằng: Hiện nay Vùng kinh
tế trọng điểm phía Nam có tốc độ phát triển kinh tế cao và ổn định, có những tiềm

năng lớn mà các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm. Thế nhưng, cơ sở hạ tầng trong
vùng chưa thật sự thuyết phục nhà đầu tư, đơn giản như những vấn đề về giao thông,
môi trường… Nếu các tỉnh trong vùng kinh tế này chú ý hơn đến việc nâng cao chất
lượng của cơ sở hạ tầng, dịch vụ thì vùng sẽ thu hút được nhiều nhà đầu tư tiềm năng
lớn hơn. Ngoài ra, nguồn nhân lực kỹ thuật cao luôn được các nhà đầu tư nước ngoài
quan tâm. Nguồn nhân lực chính là một thách thức lớn, có vai trò quyết định đến việc
tăng trưởng đầu tư công nghệ cao trong tương lai.


Năng động, cởi mở, tạo ra môi trường thông thoáng qua việc vận dụng chính sách linh
hoạt, Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đã và đang tiếp tục khẳng định vị thế dẫn
đầu, hướng đến hiệu quả gia tăng cao trong thu hút đầu tư./.
3.3. Những tồn tại của vùng kinh tế trọng điểm phía nam
Sau khi thống nhất đất nước, Đảng và Nhà nước đã tập trung nhiều công sức, trí tuệ
nghiên cứu vùng Đông Nam Bộ từ điều tra cơ bản đến quy hoạch lãnh thổ. Công tác
tổ chức lãnh thổ, quy hoạch Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam (VKTTĐPN) đã được
Nhà nước tiến hành từ những thập niên 80 – 90 của thế kỉ qua. Năm 1998 Thủ tướng
Chính phủ đã ký Quyết định số 44/1998/QĐ – TTg về việc phê duyệt Quy hoạch tổng
thể phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn đến 2010. Trong quá trình thực hiện Quy
hoạch tổng thể kinh tế – xã hội VKTTĐPN đã có nhiều vướng mắc tồn tại, trong đó
có vấn đề sau:
Vấn đề nổi cộm nhất trong thời gian vừa qua là thiếu một cơ chế quản lý có hiệu quả
để điều phối sự phát triển của vùng không bị ràng buộc và chia cắt theo địa giới hành
chính. Nhiều quy hoạch chi tiết chưa tuân thủ quy trình để đảm bảo sự ăn khớp với
quy hoạch chung của vùng, thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ quản lý, các ngành
và các địa phương trong vùng. Các kế hoạch phát triển kinh tế không bám sát và phản
ánh được các nội dung quy hoạch đã được Nhà nước phê duyệt. Nguyên nhân sâu xa
của tình hình này có thể có nhiều nhưng trước hết là do còn có những vướng mắc
trong quan điểm tư tưởng về vai trò và bước đi của VKTTĐ. Vẫn còn đâu đó ảnh
hưởng của chủ nghĩa bình quân, thiếu sự tập trung các nỗ lực từ trên xuống dưới và sự

phối hợp giữa các địa phương trong vùng.
Các nghị quyết và chủ trương để phát triển vùng chậm được triển khai, gặp khó khăn
do bị chia cắt theo địa giới hành chính, mà chưa phát huy hết lợi thế của VKTTĐPN
như một không gian kinh tế thống nhất. Những định hướng và mục tiêu của vùng
đề ra trong quy hoạch tổng thể chưa được tập trung chỉ đạo thống nhất, thiếu sự phân
công phối hợp và xử lý tổng hợp trên quy mô toàn vùng. Mục tiêu và định hướng
phát triển của các tỉnh trong vùng tương tự nhau, chưa thấy rõ sự phân công theo chức
năng và lợi thế so sánh của từng tỉnh.
Cũng đã đến lúc phải có bộ luật về kế hoạch hóa (như nhiều nước đang phát triển kinh
tế thị trường) để xác định khuôn khổ pháp luật với những định chế và chế tài cần thiết
liên quan đến quyền hạn, trách nhiệm và trình tự pháp lý của việc lập quy hoạch và kế
hoạch, thực thi, giám sát và điều chỉnh kế hoạch ở các cấp quản lý từ Trung ương đến
vùng và các địa phương. Trong chỉ thị 32/1998/CT – TTg của Thủ tướng chính phủ
đã xác định kế hoạch hóa ứng dụng ở Việt Nam hiện nay gồm các giai đoạn: chiến
lược kinh tế xã hội – quy hoạch (tổ chức lãnh thổ) – kế hoạch. Qua thực tiễn có nhiều
điều phải được xác định lại cho chính xác. Phải xác định lại cả nội dung, bước đi của
3 giai đoạn này. Sẽ rất khó khăn để cho ra đời luật kế hoạch, thậm chí pháp lệnh kế
hoạch hóa vì rất nhiều lý do khách quan của một nền kinh tế đang chuyển đổi sang cơ
chế thị trường có định hướng XHCN trong giai đoạn hiện nay. Song nếu có luật này


thì mới bảo đảm cho sự phát triển vùng bền vững. Đây là một yếu tố quan trọng tác
động đến sự phát triển và định hướng phát triển từ vùng kinh tế lớn đến vùng kinh tế
ngành, đến vùng kinh tế phát triển theo các trình độ khác nhau.
Tồn tại trên có liên quan đến những quan điểm lý luận và phương pháp luận nghiên
cứu phát triển vùng ở nước ta trong giai đoạn chuyển từ kinh tế tập trung, bao cấp
sang kinh tế thị trường theo định hướng XHCN.
Ở các nước tư bản chủ nghĩa cũng như ở các nước XHCN trước đây đều thực hiện
việc phân vùng kinh tế và nghiên cứu phát triển vùng, nhưng đi theo hướng lý thuyết
căn bản khác nhau.

Việc phân vùng và kế hoạch hóa vùng ở các nước XHCN dựa trên quan điểm “Phân
công lao động theo lãnh thổ”. Các nhiệm vụ sản xuất và dịch vụ theo một kế hoạch
căn bản mang tính pháp lệnh do Nhà nước trung ương đề ra để các vùng và các địa
phương thực hiện. Hoạt động kinh tế của các vùng tuy cũng dựa vào lợi thế so sánh
về điều kiện tự nhiên (như tài nguyên) và điều kiện kỹ thuật (như các ngành nghề
truyền thống), nhưng tất cả đều được quy chiếu vào nguyên tắc bao cấp từ đầu vào
đến đầu ra. Yếu tố thị trường đóng vai trò rất thứ yếu, trong nhiều trường hợp hầu như
không được chú ý.
PVKT ở nước ta vừa qua được coi là phân vùng kinh tế tài nguyên. Lâu nay ta thường
bỏ qua một câu hỏi đó là phân vùng một nền kinh tế gì? Về trình độ phát triển, từ đầu
thế kỷ XX là sự thống trị của sự phân phối tài nguyên; tương ứng với nó là lý thuyết
kinh tế và thực tiễn của sự phân phối này. Về tính chất, đó là sự phân phối các nguồn
tài nguyên hạn chế, về nguyên tắc, đó là sự tiết kiệm, và về không gian đó là sự giới
hạn lãnh thổ bởi vì mọi tài nguyên đều có một lãnh thổ tương ứng. Lãnh thổ này được
xác định bởi các địa giới tự nhiên và hành chính – kinh tế. Người ta phân vùng, về
thực chất là phân chia, sắp xếp nền kinh tế đất nước như cách chơi cờ trong một bàn
cờ. Vấn đề chỉ là cách chơi theo một hay hơn một luật chơi, trong một sân chơi nhất
định.
Nền kinh tế tài nguyên, xét về bản chất, là sự tiết kiệm trong một cuộc chơi bị giới
hạn về trong các nguồn lực và trong lãnh thổ. Và như vậy PVKT cũng chỉ là một hành
động kinh tế có giới hạn.
Trong khi đó, việc phân vùng và kế hoạch hóa vùng ở các nền kinh tế tư bản lại chủ
yếu dựa trên quan điểm “Thị trường tự do” với quy luật cạnh tranh đóng vai trò nền
tảng. Cạnh tranh là tất yếu và cần thiết chẳng những giữa các doanh nghiệp trong sản
xuất kinh doanh mà còn giữa các địa phương trong vùng, giữa các vùng với nhau,
giữa các quốc gia… Chính vì sự cạnh tranh đó mà cần thiết phải có kế hoạch hóa.
Nhưng kế hoạch này không mang tính pháp lệnh mà mang tính hướng dẫn, kế hoạch
đó không thực hiện bằng công cụ hành chính mà bằng các công cụ kinh tế, Nhà nước
trung ương không bao cấp đầu vào và đầu ra cho các địa phương. Các vùng phải phát
huy lợi thế của mình. Lợi thế so sánh này được quy chiếu theo quy luật cung cầu của



thị trường, tức là theo khả năng cạnh tranh trên thị trường chứ không chỉ là những khả
năng tiềm tàng thuần túy dựa vào điều kiện tự nhiên hay kỹ năng truyền thống.
Những nguyên tắc, lý luận và phương pháp luận trên đây ảnh hưởng rất lớn đến công
tác phân vùng và phát triển vùng. Ở Việt Nam, đã một thời kỳ chúng ta đi theo hệ
quan điểm thứ nhất với tổ chức và hoạt động của Ủy ban PVKT Trung ương là đầu
mối của mọi nghiên cứu và quy hoạch vùng. Chỉ trong những năm gần đây, chúng ta
mới chuyển sang nền kinh tế thị trường, và trong bước quá độ này, ảnh hưởng của các
quan điểm tập trung, quan liêu, bao cấp vẫn còn đáng kể.
Việc xác định 3 vùng kinh tế trọng điểm trên cả nước có thể là một thử nghiệm đầu
tiên áp dụng quy luật thị trường trong phân vùng và phát triển vùng. Trong đó,
VKTTĐPN vốn trước đây đã có kinh tế thị trường mạnh nhất cả nước, nay được chú
trọng nghiên cứu và quy hoạch để từ đó có thể rút ra những bài học kinh nghiệm cho
việc phân vùng và nghiên cứu phát triển vùng ở nước ta.
Từ thực tế phát triển của VKTTĐPN, chúng ta đã thấy xuất hiện một số vấn đề lý
luận và phương pháp luận cần được làm sáng tỏ để có cơ sở khoa học cho các quyết
định về chính sách và cơ chế sau này. Ví dụ vài nội dung sau đây:
Khái niệm phát triển vùng sẽ là tiêu điểm của các phán đoán, đánh giá về hiện trạng
và suy xét về chính sách. Khái niệm vùng kinh tế là thông dụng ở nhiều quốc gia. Nền
kinh tế không tự nó vẽ một đường biên rõ ràng như đường biên của các đơn vị hành
chính. Vì thế, tuy có gắn với lãnh thổ hành chính của các địa phương, vùng kinh tế chỉ
nhắm vào các liên hệ kinh tế giữa các địa phương có thể tạo ra lực tương hỗ cho sự
phát triển. Do đó, khái niệm phát triển vùng được đặt ra nhằm khai thác tối đa các tác
động tương hỗ ấy. Hiện nay có nhiều ý kiến cho rằng chúng ta chưa có thực thể vùng,
địa phương nào làm theo địa phương đó và làm theo sự chia cắt hành chính. Lý do có
thể nằm ở tổng thể nền kinh tế và bộ máy quản lý Nhà nước của chúng ta chưa có sự
tách bạch hành chính và kinh tế. Từ trung ương đến các địa phương, cơ cấu quyền lực
hành chính với các tầng nấc của nó vẫn trùm lên đời sống kinh tế. Do đó, các tương
tác kinh tế không tự nó hoạt động một cách tích cực được, không tự nó phát huy tác

dụng mà phải đi qua “rào cản” của hành chính mà ta quen gọi là cơ chế “xin - cho”.
Dù với bất cứ lý do nào thì khái niệm kinh tế phát triển vùng, từ căn bản lý luận, đang
cần có những giải pháp khoa học để có thể hướng dẫn những suy nghĩ và hành động
của các cấp ngành từ TW đến địa phương.
Trong nền kinh tế thị trường, sự phát triển kinh tế ở bất cứ phạm vi nào, kể cả ở cấp
vùng cũng đều phải dựa trên quy luật cạnh tranh. Chỉ có cạnh tranh mới phát hiện
được lợi thế so sánh, mới phát huy được sáng kiến, mới loại trừ được sự trì trệ rất dễ
trở thành căn bệnh của bất cứ guồng máy hành chính nào.
Các địa phương, các cộng đồng cạnh tranh ít nhất vì hai lợi ích thiết thực cho họ. Một
là, tăng thêm việc làm, giảm thất nghiệp do thu hút được nhiều nhà đầu tư. Hai là,
tăng thêm được các nguồn thu từ thuế doanh thu của các doanh nghiệp trên địa bàn
của họ.


Ở nước ta, cụ thể là ở VKTTĐPN, thực tế cũng đã xuất hiện sự cạnh tranh đó của các
địa phương. Các địa phương trước sau cũng làm việc “tiếp thị”, tức là “khuyến mãi
chính mình”. Bà Rịa – Vũng Tàu đã nêu phương châm “đổi đất lấy hạ tầng”, Bình
Dương thì “trải thảm đỏ đón các nhà đầu tư”, Đồng Nai đã liên tục cải thiện quy trình
cấp phép đầu tư và giảm giá cho thuê đất. Trong cạnh tranh tất nhiên có mặt tích cực
và không ít tiêu cực, ví dụ sự “lạm phát” các khu công nghiệp.
Ở VKTTĐPN hiện nay, công tác kế hoạch hóa mới chỉ dừng lại ở các bản quy hoạch
tổng thể (QHTT) vùng và các bản QHTT của các địa phương. Nó mới chỉ dừng lại ở
các văn bản mà chưa có một thể chế hoạt động cụ thể về kế hoạch hóa như là một
công cụ theo dõi, cập nhật, điều chỉnh, cung cấp thông tin và tư vấn cho các cấp, các
địa phương, các doanh nghiệp trong sự tham gia của họ vào các nổ lực phát triển
vùng. Vai trò “hướng dẫn”, “định hướng” của công tác kế hoạch đã bị triệt tiêu, đó là
đầu mối gây ra những rối ren hiện nay.


Vùng KTTĐ phải dựa trên các cực tăng trưởng là các đô thị lớn, vì thế phải có những

đột phá trong tổ chức và quản lý đô thị. Hệ thống đô thị trong vùng xét theo tiêu
chuẩn hiện đại là một trong những thước đo quan trọng của sự phát triển. Nó vừa là
động lực vừa là kết quả của sự phát triển vùng.
Phải bằng quan điểm đó để nhìn lại trình độ phát triển và cung cách quản lý của các
thành phố trong vùng, đặc biệt là tuyến đô thị từ Tp. Hồ Chí Minh qua Biên Hoà đi
Vũng Tàu. Mức độ tham gia của Thủ Dầu Một vào quá trình hình thành chùm đô thị
vùng này cũng phải được xem xét.
Phải lưu ý thích đáng đến sự xuống cấp của các đô thị trong vùng, kể cả Tp. Hồ Chí
Minh, mặc dù mỗi nơi đều có ít nhiều cải thiện bằng một số công trình xây dựng mới.
Phải chăng đã có sự xuống cấp nhiều mặt trong xây dựng, trong giao thông, trong môi
trường, trong dịch vụ xã hội, trong tổ chức không gian đô thị, trong mô hình cư trú,
trong an ninh xã hội nói chung. Sau hết đó là tình trạng quản lý đô thị hết sức lạc hậu
với cơ chế và lề lối quản lý nhà nước và quản lý xã hội chẳng khác gì quản lý một
tỉnh nông thôn.


CHƯƠNG IV
MỘT SỐ GIẢI PHÁP
3.4.1 Một số quan điểm về cơ chế chính sách, phương thức quản lý VKTTĐPN
a/ Quan điểm cơ chế chính sách: Vào thời kỳ đầu của sự chuyển đổi từ cơ chế
quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường, chính vùng này đã phải đối diện với
những khía cạnh chính trị khá nhạy cảm để có những quyết sách bằng con đường
không chính quy, phải “xé rào”, phải “bung ra” như cách nói quen thuộc vào lúc
đó.
Tất nhiên, ngày nay Đảng và Nhà nước ta đã có những chủ trương mang tầm chiến
lược về phát triển các vùng kinh tế trên cả nước, đặt trong một tổng thể tư duy chính
trị và kinh tế đổi mới ngày càng rộng mở hơn. Tuy vậy, vẫn có những khía cạnh chủ
trương, chính sách cần phải nghiên cứu và giải quyết gắn liền với quá trình quy
hoạch, chỉ đạo và thực hiện sự phát triển vùng. Chẳng hạn, đó là mối quan hệ giữa tập
trung và phi tập trung hóa, giữa mức độ tập quyền và phân quyền thế nào, giữa tập

trung và dân chủ trong việc lựa chọn các mục tiêu và giải pháp, giữa lợi ích cục bộ và
lợi ích toàn bộ được xử lý ra sao?
Những khía cạnh chủ trương, đường lối này nếu không được nghiên cứu và giải quyết
thấu đáo thì vẫn có thể gây ra những trục trặc trong tư tưởng và không nhất quán
trong phương pháp giải quyết gây trở ngại cho sự phát triển vùng.
Trước hết, cần phải khẳng định quy luật phát triển không đồng đều giữa các vùng
khác nhau của đất nước. Không đồng đều về tốc độ, về trình độ và do đó cũng không
giống nhau về giải pháp và bước đi cụ thể. Khẳng định quy luật này để giải quyết dứt
điểm về mặt quan điểm, tư tưởng chỉ đạo, công khai và minh bạch những điều mà
trước đây còn do dự trong chính sách thúc đẩy các vùng phát huy tối đa lợi thế so
sánh của mình, tiềm lực mọi mặt của mình để đi lên. Đồng thời, khẳng định quy luật
này cũng có nghĩa là dứt khoát đoạn tuyệt với chủ nghĩa bình quân, cào bằng, rốt cuộc
chỉ kéo chân nhau và chẳng có lợi ích cho ai cả.
Thực tế cho thấy, VKTTĐPN đã vượt lên được chủ yếu là nhờ ở các địa phương đã
biết khai thác lợi thế so sánh của mình để tạo ra cho vùng có nhịp độ phát triển nhanh,
vượt trội nhịp độ bình quân của cả nước từ 1,5 đến 2 lần, đóng góp đến 48,7% mức
tăng trưởng của cả nước (theo cách tính của bộ Tài chính). Cũng nhờ vậy mà vùng
này đã đóng góp đến 46,8% ngân sách của cả nước. Cả 4 tỉnh trong vùng cùng với Hà
Nội đều đóng góp được cho ngân sách trong khi các địa phương khác phải dựa vào
điều phối lại của Trung ương.
Ở trình độ thấp kém của nền kinh tế nước ta hiện nay, nếu không có một vài vùng tiến
vượt lên thì không thể có điều kiện tích lũy cả về vật chất lẫn về hiểu biết và kinh
nghiệm để công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Cụ thể hơn, nếu VKTTĐPN hiện đang là vùng dẫn đầu mà từ đây đến năm 2010
không tạo thành được một mô hình cụ thể về công nghiệp hóa và hiện đại hóa thì làm


sao có tiền đề để đạt được mục tiêu biến nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp vào năm 2020.
Việc khẳng định quy luật phát triển không đồng đều còn có một ý nghĩa khác rất quan

trọng. Nó mở đường cho những tìm tòi về chính sách cụ thể vượt ra khỏi lối mòn của
tư duy chính trị và tư duy kinh tế, quen đặt mọi tình huống và thực tế khác nhau vào
một vài khuôn mẫu chung chung. Khuôn mẫu này gần như còn rất nặng nề khiến cho
cung cách tổ chức, điều hành, quản lý các vùng, các địa phương giống hệt như nhau
trong khi có nhiều vấn đề hết sức khác nhau lại không được nghiên cứu và tìm ra giải
pháp cụ thể. Có khắc phục được tập quán tư duy xơ cứng này thì mới chấp nhận được
những tìm tòi về cơ chế mới chẳng những cho VKTTĐPN mà cho các vùng kinh tế
trọng điểm của cả nước.
Cũng cần nói lại một điều, ở đất nước đang từ chế độ bao cấp, tập trung sang nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN không thể chỉ để các vùng tự do phát triển không
đồng đều, không thể để sự phân liệt giữa vùng giàu và vùng nghèo, giữa người giàu,
người nghèo. Nhà nước không thể chỉ tập trung vào đầu tư một số vùng mà không đầu
tư đúng mức những vùng khác. Đất nước ta có thể có 6 vùng hoặc 8 vùng kinh tế lớn,
hàng trăm “vùng kinh tế ngành”, hàng nghìn “vùng phát triển”, “vùng chậm phát
triển”, “vùng trì trệ suy thoái” vv…. Đối với người quản lý nhà nước không thể bỏ
qua vùng nào. Tuy nhiên không vì thế mà không chú ý đến vùng động lực, vùng có
tính chất đầu tàu đột phá. Ởû đây cần có vai trò điều hòa, điều chỉnh của Nhà nước để
các công dân ở các vùng đều được sự thụ hưởng sự tiến bộ của nền kinh tế, thể hiện ở
mức độ hưởng thụ văn hóa, môi trường sống. Mọi người đều thống nhất, đối với các
vùng “nhạy cảm” Nhà nước cần có đầu tư đặc biệt, mãnh liệt và toàn diện.
b/ Một số chính sách cần chú ý ở VKTTĐPN: Vùng VKTTĐPN đang đòi hỏi trước
hết một hệ thống chính sách mở cửa và hội nhập hơn nữa vào kinh tế khu vực và thế
giới đang trong xu thế toàn cầu hóa. Quá trình phát triển vừa qua của VKTTĐPN cho
thấy, chính sự mở cửa và hội nhập vốn có từ lịch sử nay đang là một lợi thế so sánh
quan trọng nhất của vùng. Điều này đã bộc lộ trong một số thành tựu kinh tế nổi bật
về xuất khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài.
Cần nghiên cứu và đề xuất hệ thống chính sách mở cửa và hội nhập hơn nữa cho phép
vùng này tận dụng được thời cơ đã có và đón nhận những thời cơ mới. Đặc biệt cần
dự báo và có biện pháp thích ứng với những chuyển động kinh tế tới đây khi triển
khai một loạt các thỏa hiệp của ASEAN về AFTA, khi mở cửa hành lang kinh tế

xuyên Á, và khi hiệp định thương mại Việt – Mỹ đi vào thực hiện, khi hội nhập toàn
cầu hóa, gia nhập WTO.
Mặt khác, chính sách mở cửa và hội nhập cần được nghiên cứu và phát triển hài hoà
với chủ trương phát huy nội lực, tự lực, tự cường và phát triển thị trường trong nước.
Trong chiều hướng đó, một số mục tiêu phát triển của vùng cũng phải được làm rõ
hơn với các chính sách hỗ trợ kèm theo. Chẳng hạn, vùng này phải nhanh chóng đạt
được một số bước để tiến kịp khu vực ASEAN trong các lĩnh vực công nghệ mới,


trong hệ thống cảng quốc tế, sân bay quốc tế và nhất là trong một số ngành dịch vụ
hiện đại phục vụ cho thị trường tài chính, viễn thông, du lịch… Đó là những lĩnh vực
mà ta phải rút ngắn khoảng cách rất nhanh để có thể hội nhập và khai thác nguồn lợi
từ đó. Không chỉ đối với VKTTĐPN mà các vùng khác của đất nước, đều có tình
trạng lực lượng lao động hay nói chung là nguồn nhân lực chưa đáp ứng được nhu cầu
phát triển. VKTTĐPN đi đầu trong hầu hết các lĩnh vực phát triển của đất nước phải
dựa trên nền tảng của kinh tế tri thức và tính năng động cao có hiệu quả của các
doanh gia và đội ngũ những người hoạch định chính sách. Thu hút nhân tài là một
công việc cực kỳ quan trọng.
Một chính sách trọng điểm khác nữa cần nghiên cứu là hệ thống chính sách đối với
khu vực tư, với kinh tế tư nhân và cụ thể hơn là với kinh tế tư bản tư nhân trong vùng
trong quan hệ với các thành phần kinh tế khác nhau. Khác hẳn với các vùng kinh tế
trọng điểm ở phía Bắc và miền Trung tiềm năng khu vực kinh tế tư nhân ở vùng này
còn rất lớn. Mặc dù đã có nhiều chính sách khuyến khích khu vực tư nhân trong cả
nước nhưng hiệu quả chưa rõ rệt ở vùng này.
c/ Xây dựng cơ chế quản lý VKTTĐPN với một hình thức hợp lý: Rất nhiều ý kiến cho
rằng cần có một đầu mối thống nhất để quản lý và phối hợp các nổ lực phát triển vùng
ở tất cả các địa phương. Chức năng quan trọng nhất của đầu mối này là phối hợp và tư
vấn, phối hợp giữa các cấp các ngành từ trung ương đến các địa phương và tư vấn
cho các cấp trong quá trình triển khai, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch. Cần có một bộ
máy tham mưu thường trực của các chuyên gia. Rất cần những nhà quản lý, nhà khoa

học có “tầm nhìn” bao khắp không gian và thời gian.
Nhìn ra các nước, ta thấy chẳng những việc phân vùng, quy hoạch vùng mà cả bộ máy
quản lý vùng cũng đã có những thể chế ổn định. Nước Pháp đã chia 22 vùng gồm 95
tỉnh, mỗi vùng gồm 3 đến 4 tỉnh. Mỗi vùng có tổ chức quản lý cấp vùng do tỉnh
trưởng tỉnh lớn nhất trong vùng đứng đầu với chức năng điều phối kế hoạch và cả
ngân sách vùng.
Nước Mỹ có 450 đơn vị cấp vùng, mỗi vùng có “Hội đồng các chính quyền” là cơ
quan làm nhiệm vụ kế hoạch hóa và điều phối sự phát triển vùng. Cả hai nhiệm vụ ấy
được thực hiện bởi hoạt động thường xuyên của một bộ phận chuyên môn gồm các
chuyên gia có chức năng theo dõi, điều chỉnh kế hoạch và tư vấn cho các quyết định
của hội đồng.
d/ Nghiên cứu những biện pháp đẩy nhanh các cải cách hành chính ở địa phương
trong VKTTĐPN bằng việc tập trung vào một số khâu đột phá về quản lý kinh tế và
quản lý đô thị.
Chúng tôi cho rằng thời gian qua lý luận về phân vùng kinh tế ở Việt Nam đã lâm vào
khủng hoảng với mức độ không nhẹ, song các nhà khoa học Việt Nam đang tìm lối ra
để phát triển. Đã đến lúc cần thiết có một phương pháp luận mới về phân vùng kinh tế
ở Việt Nam trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trong bối cảnh


đất nước đang đổi mới sang cơ chế thị trường có định hướng XHCN, trong bối cảnh
hội nhập kinh tế thế giới.
Ở bài này chúng tôi không bàn trực tiếp các nhân tố tác động đến phương hướng phát
triển vùng. Đứng trên giác độ vùng, ngoài các chính sách của Đảng và Nhà nước quan
tâm đến vùng sâu, vùng xa, vùng núi và vùng chậm phát triển, cần tập trung đầu tư xã
hội cho phát triển các vùng kinh tế trọng điểm, làm đầu tàu kéo các vùng khác, lan tỏa
sức sống mãnh liệt cho các vùng xung quanh. Cần khẳng định quy luật phát triển
không đồng đều giữa các vùng khác nhau của đất nước: không đồng đều về tốc độ, về
trình độ phát triển lực lượng sản xuất và do đó cũng không giống nhau về giải pháp,
về đầu tư và bước đi cụ thể.

Qua những nội dung trình bày ở trên, cũng muốn nhấn mạnh một ý là tổ chức lãnh thổ
phải là đối tượng nghiên cứu chính của Địa lý kinh tế – xã hội. Tuy nhiên tổ chức lãnh
thổ kinh tế - xã hội là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác. Khoa học
Địa lý ngày nay đã đến lúc không thể hoàn toàn độc lập phát triển hay có một đối
tượng nghiên cứu chỉ của riêng mình. Đã đến lúc cần có sự phối hợp chặt chẽ của
nhiều ngành khoa học để nghiên cứu tổ chức lãnh thổ kinh tế - xã hội cả nước nói
chung và các vùng kinh tế nói riêng.
3.4.2 Phát triển theo mô hình tập trung
Vùng kinh tế trọng điểm phía nam nên phát triển theo mô hình tập trung đa cực bởi
như vậy mạng lưới giao thông sẽ được kết nối tốt và hiệu quả hơn; nguồn nước được
khai thác hài hòa và dài hạn; tài nguyên thiên nhiên được khai thác hợp lý hơn so với
các mô hình tập trung cao và phân tán. Về phát triển kinh tế, Phân viện đề xuất: phía
Bắc bao gồm các tỉnh Tây Ninh và Bình Dương tập trung phát triển lâm nghiệp và cây
công nghiệp, du lịch sinh thái, kinh tế cửa khẩu; phía Nam bao gồm tỉnh Long An tập
trung phát triển nông nghiệp sinh thái, công nghiệp chế biến nông sản, nông nghiệp đa
ngành; phía Đông bao gồm các tỉnh Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu phát triển công
nghiệp dầu khí, hóa dầu, dịch vụ cảng, du lịch nghỉ dưỡng; vùng đô thị trung tâm hạt
nhân và phụ cận, chủ yếu là TPHCM, phát triển công nghiệp sạch kỹ thuật cao, viễn
thông, tài chính, ngân hàng và các dịch vụ cao cấp khác…



×