Lý luận và thực tiễn quy hoạch vùng ở Việt Nam
Ý nghĩa và tầm quan trọng của vấn đề
Thế kỷ XXI, khoa học kỹ thuật đã trở thành lực lượng sản xuất, thúc đẩy sự tăng trưởng
và phát triển kinh tế - xã hội của nhiều quốc gia hoặc nhóm các quốc gia. Kinh tế tri thức
ngày càng giữ vai trò to lớn đối với nhân loại. "Liên kết, khu vực hoá, toàn cầu hoá" và
sự tăng cường các quan hệ liên vùng đã trở thành xu thế tất yếu của thời đại, vừa có mặt
tích cực, vừa có mặt tiêu cực, vừa hợp tác và vừa có sự cạnh tranh.
Sự giàu, nghèo và trình độ phát triển giữa các nước, các vùng, giữa đô thị với nông thôn,
giữa đô thị lớn với đô thị nhỏ có sự chênh lệch đáng kể. Sự phân bố không đồng đều các
tài nguyên thiên nhiên trong điều kiện cạnh tranh quốc tế quyết liệt, sự tác động của nền
kinh tế thị trường và xu thế hội nhập mạnh mẽ đã trở thành vấn đề nan giải trong các
chính sách phát triển vùng.
Nhân loại đang phải đương đầu với những nguy cơ thách thức lớn. Đó là, các thảm hoạ ô
nhiễm môi trường, tai biến thiên nhiên và sự phá vỡ cân bằng các hệ sinh thái; Quá trình
đô thị hoá, với các quy mô và tốc độ chưa từng thấy, đã dẫn đến sự hình thành bất khả
kháng các siêu thành phố, các thành phố vùng, khu vực và châu lục; Hiệu ứng con dao
hai lưỡi của khoa học - kỹ thuật; Sự mất đi những bản sắc riêng và linh hồn văn hoá của
mỗi địa phương.
Trong tình trạng đó, thiết kế kiến trúc, quy hoạch đô thị không còn đảm nhiệm được vai
trò điều tiết vĩ mô và tổ chức lãnh thổ của quy hoạch vùng. Bởi vậy, quy hoạch vùng là
nhằm:
• Bố trí, sắp xếp hợp lý các hoạt động của con người trên lãnh thổ phù hợp với đường lối,
chính sách quốc gia về phát triển kinh tế - xã hội và tổ chức hành chính - chính trị.
• Khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên.
• Phân bố và tổ chức tối ưu các hoạt động theo lãnh thổ với tầm nhìn hướng về tương lai.
• Bảo vệ môi trường, phòng chống các thảm hoạ thiên nhiên.
• Đảm bảo an ninh, quốc phòng.
Những nhân tố trên khẳng định vai trò và tầm quan trọng của quy hoạch vùng trong thế
kỷ XXI.
Cơ sở lý luận của quy hoạch vùng
Lý thuyết kinh tế không gian:
Lý luận này đã được đưa ra trong các lý thuyết: Lý thuyết về phân bố và phát triển nông
nghiệp của V.Thunen (1862) sau được C.Mark, Ricardo đề cập sâu hơn trong các lý
thuyết về địa tô và phân bố nông nghiệp; Lý thuyết phân bố công nghiệp của Weber,
Losch,... Lý thuyết phân bố đô thị và dịch vụ (Central place) của W.Christaller,... Các
nước XHCN, đặc biệt là Liên Xô cũ đã hình thành lý thuyết về phân bố và phát triển lực
lượng sản xuất trên lãnh thổ, lý thuyết về phân bố dân cư và lý thuyết về tổ chức lãnh thổ.
Lý thuyết về vùng và phân vùng:
Tuỳ theo quan điểm tiếp cận, vùng được phân loại như sau:
• Theo quy mô: Lớn, trung bình và nhỏ (20.000 - 3.000.000 km2, 20.000 - 30.000 km2 và
nhỏ hơn).
• Theo mục đích quy hoạch: Vùng kinh tế, vùng hành chính, vùng vật thể, vùng tự nhiên,
vùng xã hội và vùng an ninh quốc phòng...
• Theo tính chất: Vùng đô thị, vùng công nghiệp, vùng nông thôn, vùng du lịch - nghỉ
mát, vùng lâm nghiệp, vùng khai khoáng...
• Theo quan điểm tổng hợp: Vùng quy hoạch. Pertxik cho rằng "vùng là đối tượng của
quy hoạch vùng và là một bộ phận của vùng kinh tế, thuộc cấp thấp theo phân vị. Do đó
phân vùng kinh tế là cơ sở khoa học của quy hoạch vùng".
Một số tác giả cho rằng, vùng quy hoạch phải hội tụ được các đặc điểm tổng hợp sau: Là
một đơn vị địa lý tự nhiên; Là một đơn vị kinh tế; Là một đơn vị xã hội và phù hợp với
địa giới hành chính.
• Theo trình độ phát triển, vùng gồm các loại sau: Vùng phát triển; Vùng kém phát
triển;Vùng mới phát triển và vùng đình đốn.
Các phương pháp xác định ranh giới vùng:
Phương pháp đồng tính: Các vùng đồng tính; Phương pháp phân cực: Các vùng phân cực;
Phương pháp quy hoạch: Các vùng kế hoạch (Boudeville), các tổng hợp thể sản xuất lãnh thổ (TPK) - (Kolosovxki-Nga) hoặc các tổ hợp nông - công nghiệp (APK-Bungari).
Sự hợp nhất giữa hai dòng lý thuyết kinh tế không gian và lý thuyết phân vùng (cuối thế
kỷ XIX) là nguồn gốc của quy hoạch vùng.
Tình hình phát triển quy hoạch vùng ở Việt Nam
Từ những năm 1960 đến nay, ở Việt Nam đã nghiên cứu áp dụng lý luận quy hoạch vùng
kinh tế - xã hội của Liên Xô cũ và các nước XHCN. Các đồ án phân vùng, quy hoạch
vùng và quy hoạch ngành cho cả nước và một số vùng đã được xây dựng:
• Tổng sơ đồ phân bố và phát triển lực lượng sản xuất (70.01).
• Tổng sơ đồ phân vùng kinh tế tổng hợp.
• Tổng sơ đồ phân bố dân cư (7001) (2801.v0).
• Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội các vùng cấp tỉnh và huyện.
• Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống dân cư trên địa bàn tỉnh (từ năm 2000 đến nay).
• Quy hoạch xây dựng một số vùng đồng bằng sông Cửu Long, quy hoạch vùng miền
Đông Nam Bộ, quy hoạch vùng cao su Phú Riềng (1980-1983), quy hoạch vùng Tây
Nguyên, quy hoạch xây dựng các vùng trọng điểm, quy hoạch xây dựng các vùng đô thị
lớn Hà Nội, TP.Hồ Chí Minh, quy hoạch xây dựng vùng Quảng Ninh, khu vực TP.Hạ
Long...
Nội dung và phương pháp lập quy hoạch xây dựng vùng (1993-2004) đã được xây dựng
và hoàn chỉnh, đồng thời Luật Xây dựng đã được ra đời (2005). Một số cơ sở khoa học và
phương pháp mới phục vụ quy hoạch vùng (phân vùng khí hậu, phân vùng tự nhiên,
Atlas...), phương pháp quy hoạch chiến lược,... đã được nghiên cứu.
Phương pháp luận quy hoạch xây dựng vùng
Từ năm 1993, Việt Nam đã có quy định về trình tự phương pháp luận quy hoạch vùng
gồm 4 giai đoạn: Chuẩn bị lập quy hoạch vùng, thiết kế quy hoạch vùng, xét duyệt quy
hoạch vùng và công bố lập kế hoạch thực hiện.
Trong giai đoạn chuẩn bị lập quy hoạch xây dựng vùng, cần có các bước: Lập kế hoạch
khảo sát và quy hoạch; Chỉ định cơ quan đặt hàng, cơ quan lập quy hoạch xây dựng
vùng; Lập, trình duyệt nhiệm vụ quy hoạch xây dựng vùng; Khảo sát, thu thập số liệu, tài
liệu và điều tra khảo sát; Lập nhiệm vụ thiết kế quy hoạch xây dựng vùng.
Giai đoạn thiết kế quy hoạch xây dựng vùng, cần có các bước:
• Phân tích thực trạng, điều kiện tự nhiên, đánh giá và chuẩn đoán các vấn đề có liên quan
đến quy hoạch xây dựng vùng gồm: Phân tích thực trạng điều kiện tự nhiên; Lập bản đồ
đánh giá tổng hợp đất đai; Chuẩn đoán các vấn đề quy hoạch vùng.
• Luận chứng xác định cơ sở hình thành phát triển vùng - Dự báo chiến lược phát triển
vùng gồm: Nghiên cứu các chính sách kinh tế xã hội về vùng; Luận chứng cơ sở kinh tế kỹ thuật; Dự báo dân số và quá trình đô thị hoá; Xác định nhu cầu và cơ cấu sử dụng đất
đai; Lựa chọn các chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật; Dự báo, lựa chọn chiến lược phát triển vùng.
Thiết kế quy hoạch xây dựng vùng gồm: Xây dựng các kịch bản hoặc các phương án cơ
cấu quy hoạch xây dựng vùng. So sánh lựa chọn phương án tối ưu; Thiết kế triển khai
quy hoạch vùng về định hướng tổ chức không gian, hạ tầng kỹ thuật và bảo vệ môi
trường; Xây dựng kế hoạch chi tiết phát triển vùng; Xây dựng thể chế, chính sách thực
hiện quy hoạch xây dựng vùng; Lập hồ sơ kỹ thuật quy hoạch vùng.
Giai đoạn xét duyệt quy hoạch xây dựng vùng, cần có các bước: Tổ chức xin ý kiến về
quy hoạch vùng; Thẩm định; Thoả thuận; Phê duyệt quy hoạch vùng.
Giai đoạn công bố quy hoạch xây dựng vùng được duyệt và thực hiện kế hoạch.
Một số vấn đề về đường lối quy hoạch vùng ở Việt Nam
Các vấn đề trọng tâm
Quy hoạch vùng ở Việt Nam đang đứng trước một số vấn đề trọng tâm còn bất cập. Sự
nhận thức chưa đầy đủ và toàn diện về quy hoạch vùng; Thiếu cơ sở khoa học và phương
pháp luận hoàn chỉnh thiết kế quy hoạch vùng; Thiếu các định hướng chiến lược phát
triển toàn diện vùng quốc gia và vùng kinh tế tổng hợp; Hạn chế trong chỉ đạo và tổ chức
lập, xét duyệt quy hoạch vùng làm cơ sở cho quy hoạch đô thị và nông thôn; Chưa xây
dựng được thể chế thực hiện quy hoạch vùng được duyệt; Thiếu chương trình đào tạo các
chuyên gia quy hoạch vùng.
Kiến nghị đường lối phát triển quy hoạch vùng ở Việt Nam
Nâng cao nhận thức về quy hoạch vùng trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá nhằm phát huy tính chiến lược và đa ngành, tiến tới xoá bỏ sự gắn kết có tính
hình thức và lỏng lẻo giữa quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội, quy hoạch ngành và quy
hoạch xây dựng, trên cơ sở đó tăng cường tính toàn diện và tính khoa học của quy hoạch
chiến lược phát triển vùng, hướng tới mục tiêu tạo lập môi trường sống bền vững cho con
người.
Đầu tư cho công tác nghiên cứu cơ sở lý luận và tạo lập các căn cứ khoa học cho quy
hoạch vùng ở Việt Nam .
Nghiên cứu áp dụng các quan điểm và phương pháp địa lý tự nhiên, địa lý kinh tế và địa
lý dân cư, phục vụ cho quy hoạch vùng.
Thống nhất chương trình điều tra cơ bản, khảo sát xây dựng bản đồ cho việc lập các sơ đồ
và đồ án quy hoạch vùng.
Nghiên cứu tổng thể kinh nghiệm quốc tế, từ đó tập trung vào các đề tài nhằm tạo lập các
cơ sở lý luận về vùng, đánh giá tổng hợp các điều kiện khai thác lãnh thổ, phân bố tổ
chức sản xuất và dân cư lãnh thổ, đặc biệt là các mô hình cơ cấu quy hoạch phù hợp với
điều kiện kinh tế - xã hội và tự nhiên của mỗi địa phương.
Đẩy mạnh việc nghiên cứu phương pháp quy hoạch chiến lược đa ngành áp dụng cho
toàn quốc và bảy vùng kinh tế cơ bản:
• Xây dựng tổng sơ đồ quy hoạch vùng cả nước và bảy vùng kinh tế cơ bản trên cơ sở các
chiến lược phân bố và tổ chức sản xuất theo lãnh thổ, chiến lược tổ chức lãnh thổ và
chiến lược phát triển đô thị - nông thôn, chiến lược bảo vệ môi trường.
• Việc triển khai quy hoạch chuyên ngành có cấp phân vị nhỏ hơn nhất định phải dựa vào
căn cứ khoa học của tổng sơ đồ quy hoạch vùng toàn quốc và quy hoạch tổng thể vùng
kinh tế cơ bản.
Xây dựng quy trình, tiêu chuẩn, quy phạm, sổ tay thiết kế phục vụ cho công tác lập, xét
duyệt quy hoạch vùng, tránh các quy định mang tính áp đặt hành chính, duy ngành và
thiếu cơ sở khoa học.
Xây dựng thể chế cho việc thực hiện các quy hoạch vùng được duyệt
Ngoài các vùng kinh tế hành chính tỉnh, huyện, việc xây dựng thể chế tổ chức thực hiện
các quy hoạch vùng toàn quốc, vùng kinh tế cơ bản và các vùng chuyên ngành không lệ
thuộc vào ranh giới hành chính như vùng đô thị, vùng khai khoáng, vùng chuyên canh,
vùng nghỉ mát du lịch và các khu kinh tế,... là rất cần thiết.
Bộ máy quản lý quy hoạch vùng cần được Nhà nước thiết lập trên cơ sở khai thác các mô
hình tản quyền hoặc thành lập các uỷ ban phối hợp cấp vùng, trong điều kiện cần thiết có
thể thiết lập chính quyền vùng.
Xây dựng luật quy hoạch tổng hợp, không nên lồng ghép công tác quy hoạch vào nhiều
luật như hiện nay, gây ra sự chồng chéo giữa quy hoạch tổng thể kinh tế xã hội, quy
hoạch sử dụng đất đai, các quy hoạch ngành và quy hoạch xây dựng, trên cơ sở đó sự cần
thiết phải có một cơ quan trực thuộc Chính phủ, giúp Chính phủ chỉ đạo công tác quy
hoạch đạt hiệu quả và chất lượng.
Đào tạo chuyên gia quy hoạch vùng
• Ở bậc đại học, chỉ nên cung cấp những kiến thức cơ bản về quy hoạch vùng cho các
sinh viên.
• Chuyên gia quy hoạch vùng nên được đào tạo sau đại học và trên đại học.
• Xây dựng chương trình đào tạo thống nhất chuyên gia quy hoạch vùng cho cả nước.
Như vậy, quy hoạch vùng là nhu cầu khách quan và rất cần thiết đối với đất nước. Muốn
vậy, cần tập trung xây dựng cơ sở lý luận của quy hoạch vùng phù hợp với điều kiện thực
tiễn của Việt Nam, trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm của Việt Nam và các nước. Hoàn
thiện phương pháp luận quy hoạch vùng của Việt Nam, đồng thời với việc tăng cường
nghiên cứu các căn cứ khoa học phục vụ cho hoạt động quy hoạch vùng là cần thiết.
Đồng thời cần ưu tiên cho việc xây dựng thể chế thực hiện quy hoạch vùng, nếu không
tất cả quy hoạch vùng trở nên vô nghĩa và không có tính khả thi. Bên cạnh đó là cần tăng
cường đầu tư cho công tác lập tổng sơ đồ quy hoạch vùng toàn quốc và quy hoạch tổng
thể bảy vùng kinh tế cơ bản, để làm cơ sở cho việc triển khai quy hoạch các vùng có cấp
phân vị thấp hơn. Đồng thời, cần xây dựng chương trình, soạn thảo các tài liệu quy hoạch
vùng phục vụ cho công tác đào tạo chuyên gia quy hoạch vùng.
PGS.TS.KTS. Trần Trọng Hanh
(Nguồn tin: T/C Quy hoạch xây dựng, số 1(19)/2006)