Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

BÀI GIẢNG CHI TIẾT KINH tế CHÍNH TRỊ sản XUẤT HÀNG hóa và các QUY LUẬT KINH tế của sản XUẤT HÀNG hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.11 KB, 13 trang )

CHUYÊN ĐỀ
SẢN XUẤT HÀNG HÓA VÀ CÁC QUY LUẬT KINH TẾ CỦA SẢN XUẤT
HÀNG HÓA
1.Mục đích, yêu cầu:
- Mục đích:
Giới thiệu cho người học nắm những vấn đề cơ bản về sản xuất hàng hóa
và các quy luật kinh tế của sản xuất hàng hóa. Qua đó làm cơ sở để nghiên cứu sản
xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa và đồng thời rút ra ý nghĩa phương pháp luận trong
xem xét nền sản xuất hàng hóa ở nước ta trong thời kỳ quá độ hiện nay.
- Yêu cầu:
Nắm chắc lý luận về sản xuất hàng hóa và các quy luật kinh tế của sản xuất
hàng hóa làm cơ sở nghiên cứu từng bài học tiếp theo.
Trong quá trình nghiên cứu phải có tài liệu, tập trung cao độ, tích cực chuẩn
bị bài trả lời những vấn đề giảng viên đưa ra;
Nghe kết hợp ghi những nội dung chính để làm cơ sở nghiên cứu vận dụng
thực tiễn.
2. Thời gian: 6 tiết
3. Vật chất, tài liệu:
+ Vật chất:Phấn, bảng, giáo án, máy chiếu…
+Tài liệu:
Tập giáo trình tài liệu Khoa Lí luận Mác Lênin biên soạn 2008. Giáo trình
kinh tế chính trị Mác Lênin. Nxb CTQG năm 2008 dùng cho đối tượng không
chuyên về kinh tế – quản trị kinh doanh;
Tham khảo thêm: Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI; Kết luận hội
Nghị lần thứ 3 BCH TƯ Đảng Khóa XI, tài liệu học tập dùng cho cán bộ, đảng viên
ở cơ sở do Ban Tuyên giáo Trung ương Nxb CTQG – Sự thật năm 2011. Giáo trình
kinh tế chính trị Mác Lênin. Nxb CTQG năm 2008 dùng cho chuyên về kinh tế –
quản trị kinh doanh; Giáo trình kinh tế chính trị Mác Lênin. Nxb CTQG HCM năm
1999. phần TBCN.
4. Nội dung Phương pháp:
Nội dung gồm: 5 phần lớn, trọng tâm, trọng điểm phần II


Phương pháp: Thuyết trình kết hợp nhóm và học nhóm là chính kết hợp
hướng dẫn nghiên cứu
Phương pháp học: tập trung cao độ chú ý lắng nghe và giải quyết vấn đề giáo
viên đặt ra; ghi chép nội dung theo ý hiểu của mình
I- SẢN XUẤT HÀNG HÓA
Thời gian: 15 phút


Phương pháp: Thuyết trình kết hợp Đàm thoại
1. Sản xuất hàng hóa và điều kiện ra đời, tồn tại của sản xuất hàng hoá
Thời gian: 10 phút
Phương pháp: Thuyết trình kết hợp nêu vấn đề là chính
- Sản xuất hàng hóa là gì
Sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế - xã hội trong đó những sản phẩm
được sản xuất ra nhằm mục đích để trao đổi, mua bán trên thị trường.
- Điều kiện ra đời, tồn tại của sản xuất hàng hoá:
Thứ nhất: Có sự phân công lao động xã hội.
Phân công lao động xã hội là sự chuyên môn hoá sản xuất, phân chia lao
động xã hội thành các ngành, các lĩnh vực khác nhau trong nền sản xuất.
Do sự phân công lao động xã hội nên việc trao đổi hàng hoá trở thành tất
yếu. Bởi lẽ, khi có phân công lao động xã hội, mỗi người sản xuất chỉ tạo ra một
hoặc một vài loại sản phẩm nhất định. Nhưng nhu cầu cuộc sống của mỗi người lại
cần đến rất nhiều loại sản phẩm khác nhau, do vậy, để thỏa mãn nhu cầu, đòi hỏi họ
phải có mối liên hệ phụ thuộc vào nhau, trao đổi sản phẩm cho nhau. Phân công lao
động, chuyên môn hoá sản xuất làm cho năng suất lao động tăng lên, sản phẩm
thặng dư ngày càng nhiều cũng là cơ sở thúc đẩy trao đổi sản phẩm.
Như vậy, phân công lao động là cơ sở, là tiền đề của sản xuất hàng hoá. Phân
công lao động xã hội càng phát triển thì sản xuất và trao đổi hàng hoá càng mở
rộng và đa dạng. Tuy nhiên, nếu chỉ phân công lao động xã hội thì chưa đủ. Mác đã
chứng minh rằng, trong công xã thị tộc Ấn Độ thời cổ, đã có sự phân công lao động

khá chi tiết, nhưng sản phẩm lao động chưa trở thành hàng hóa. Bởi vì, tư liệu sản
xuất là của chung nên sản phẩm từng nhóm sản xuất chuyên môn hóa cũng là của
chung; công xã phân phối trực tiếp cho từng thành viên để thỏa mãn nhu cầu cho
nên cần phải có điều kiện khác.
Thứ hai: Chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất hoặc những hình thức sở hữu
khác nhau về tư liệu sản xuất.
Chế độ tư hữu làm cho người sản xuất trở thành những chủ thể sản xuất độc
lập nhất định với nhau. Do đó, sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu hoặc quyền chi
phối của chủ thể kinh tế, người này muốn tiêu dùng sản phẩm lao động của người
khác thì phải thông qua trao đổi, mua bán sản phẩm.
Trong lịch sử, sự tách biệt này do chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất quy định.
Trong chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất thì tư liệu sản xuất là của mỗi cá nhân nên
kết quả sản xuất làm ra sản phẩm là thuộc quyền của họ. Còn trong sản xuất hiện
đại, sự tách biệt này còn do các hình thức khác nhau về tư liệu sản xuất và sự tách
rời giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng đối với tư liệu sản xuất quy định.
Hai điều kiện trên cho thấy, phân công lao động xã hội làm cho người phụ
thuộc vào nhau, còn chế độ tư hữu làm cho sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế
giữa những người sản xuất, làm cho họ độc lập với nhau. Đây là một mâu thuẫn.
Vì thế Mác cho rằng hai điều kiện trên là hai điều kiện cần và đủ của sản


xuất hàng hoá, thiếu một trong hai điều kiện thì sản xuất đó không phải là sản xuất
hàng hoá. Ở đâu còn tồn tại hai điều kiện nói trên thì ở đó còn tồn tại sản xuất hàng
hoá không kể chế độ xã hội nào.
2 - Quá trình phát triển của sản xuất hàng hóa, nét đặc trưng và ưu thế
của nó
Thời gian: 5 phút
Phương pháp: Nêu vấn đề định hướng nghiên cứu.
Nền sản xuất xã hội ra đời từ khi nào; nền sản xuất hàng hóa ra đồi tư khi
nào? Đặc trưng và ưu thế của nó so với sản xuất tự cung tự cấp?

a. Quá trình phát triển của sản xuất xã hội
Sản xuất hàng hóa ra đời cách đây khoảng 8000 năm, từ cuối công xã nguyên
thuỷ đến đầu chế độ chiếm hữu nô lệ và liên tục phát triển cho đến nay. Cho đến nay
xã hội loài người đã và đang trải qua ba kiểu sản xuất hàng hóa: sản xuất hàng hóa
giản đơn; sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa và sản xuất hàng hoá xã hội chủ nghĩa.
Sản xuất hàng hóa ra đời từ nền sản xuất tự cung tự cấp, là bước ngoặt căn
bản trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, đưa loài người thoát khỏi tình
trạng "mông muội", xóa bỏ nền kinh tế tự nhiên, phát triển nhanh chóng lực lượng
sản xuất và nâng cao hiệu quả kinh tế của xã hội.
Nền sản xuất hàng hóa khác với nền kinh tế tự cấp, tự túc. Do sự phát triển
của phân công lao động xã hội làm cho sản xuất được chuyên môn hóa ngày càng
cao, thị trường ngày càng mở rộng, mối liên hệ giữa các ngành, các vùng ngày càng
chặt chẽ. Sự phát triển của sản xuất hàng hóa đã xóa bỏ tính chất khép kín, tính bảo
thủ, trì trệ của nền kinh tế, đẩy nhanh quá trình xã hội hóa sản xuất.
b- Đặc trưng và ưu thế cuả sản xuất hàng hóa:
- Đặc trưng của sản xuất hàng hoá:
Sản xuất hàng hoá là sản xuất để trao đổi, mua bán.
Lao động của người sản xuất hàng hoá vừa mang tính tư nhân, vừa mang
tính xã hội.
- Ưu thế của sản xuất hàng hoá so với sản xuất tự cung tự cấp:
Sản xuất hàng hoá ra đời trên cơ sở phân công lao động xã hội, chuyên môn
hoá sản xuất. Do đó, khai thác được lợi thế về mọi mặt của từng người, từng cơ sở,
từng vùng, từng địa phương. Đồng thời, lợi thế này lại tác động trở lại, thúc đẩy sự
phát triển sự phát triển của phân công lao động xã hội, làm cho chuyên môn hoá lao
động ngày càng tăng, mối liên kết giữa các ngành, các vùng ngày càng mở rộng.
Trong nền sản sản xuất hàng hoá quy mô sản xuất không bị giới hạn bởi nhu
cầu nguồn lực mang tính hạn hẹp của cá nhân, gia đình, cơ sở, địa phương, mà nó
được mở rộng trên cơ sở nhu cầu nguồn lực của xã hội. Đó là điều kiện thuận lợi để
ứng dụng khoa học vào sản xuất.
Trong nền sản xuất hàng hoá, sự tác động của qui luật giá trị, cung cầu, cạnh

tranh… buộc người sản xuất hàng hóa phải năng động trong sản xuất, kinh doanh,
phải thường xuyên cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, tăng năng suất lao động,


nâng cao chất lượng sản phẩm nhằm tiêu thụ được hàng hóa và thu được lợi nhuận
ngày càng nhiều hơn. Vì thế, quá trình sản xuất không ngừng phát triển.
Sản xuất hàng hoá phát triển tạo điều kiện thuận lợi để mở rộng giao lưu kinh
tế, văn hóa giữa các địa phương trong nước, quốc tế ngày càng phát triển, góp phần
nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân.
II- HÀNG HÓA
Thời gian: 60 phút
Phương pháp: Thuyết trình kết hợp dạy học nhóm là chính
1 - Hàng hóa và hai thuộc tính của hàng hóa
Thời gian: 10 phút
Phương pháp: Thuyết trình kết hợp đàm thoại trao đổi
a. Khái niệm
Hàng hóa là sản phẩm của lao động có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của
con người và đi vào tiêu dùng thông qua trao đổi.
Hàng hoá có thể ở dạng hữu hình như sắt, thép, gạo…cũng có thể ở dạng vô
hình như dịch vụ thương mại, giáo dục, y tế…
b. Hai thuộc tính của hàng hoá
- Gía trị sử dụng của hàng hoá:
Giá trị sử dụng là công dụng của sản phẩm có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó
của con người.
Đặc điểm của giá trị sử dụng
Cơ sở của giá trị sử dụng của hàng hoá là do những thuộc tính tự nhiên của
thực thể hàng hoá đó quyết định. Xã hội càng tiến bộ, lực lượng sản xuất càng phát
triển thì giá trị sử dụng của hàng hoá ngày càng nhiều, chủng loại càng phong phú,
chất lượng ngày càng cao. Giá trị sử dụng của hàng hoá là một phạm trù vĩnh viễn.
Giá trị sử dụng với tư cách là thuộc tính của hàng hóa, nó không phải là giá

trị sử dụng cho bản thân người sản xuất hàng hóa, mà là giá trị sử dụng cho người
khác, cho xã hội thông qua trao đổi, mua bán. Điều đó đòi hỏi người sản xuất hàng
hoá phải luôn quan tâm đến nhu cầu xã hội, làm cho sản phẩm luôn dáp ứng nhu
cầu của xã hội. Trong kinh tế hàng hóa, giá trị sử dụng là vật mang giá trị trao đổi.
- Giá trị hàng hóa:
Để nghiên cứu giá trị hàng hóa, trước tiên ta phải nghiên cứu giá trị trao đổi
vì giá trị trao đổi là biểu hiện bên ngoài của giá trị.
Giá trị trao đổi là một quan hệ về lượng, là tỷ lệ theo đó giá trị sử dụng này
được trao đổi với những giá trị sử dụng loại khác.
Ví dụ: 1 mét vải = 5 kg thóc.
Tức 1 mét vải có giá trị trao đổi bằng 5 kg thóc.
1 và 5 là quan hệ về số lượng.
1 = 5 là tỷ lệ trao đổi lẫn nhau.
Tại sao vải và thóc là hai hàng hóa có giá trị sử dụng khác nhau, nhưng
chúng lại có thể trao đổi được với nhau theo một tỷ lệ nhất định! Vì, vải và thóc có


một cơ sở chung nhất là chúng đều là sản phẩm của lao động, đều có lao động của
người sản xuất kết tinh trong đó. Một mét vải trao đổi được với 5 kg thóc bởi số
lượng hao phí lao động làm ra 1 m vải bằng số lượng lao động làm ra 5 kg thóc.
Thực chất, việc trao đổi hàng hóa vải và thóc là trao đổi lao động hao phí của
những người sản xuất ra vải và thóc. Từ đó C. Mác quan niệm: sự hao phí lao động
của người sản xuất kết tinh trong hàng hóa tạo nên giá trị của hàng hoá.
Vậy, giá trị của hàng hoá là hao phí lao động xã hội của người sản xuất
hàng hóa kết tinh trong hàng hóa.
Từ khái niệm trên cho thấy: sản phẩm nào không có lao động của người sản
xuất kết tinh trong đó thì không có giá trị; sản phẩm nào lao động hao phí để sản
xuất ra chúng càng nhiều thì giá trị càng cao.
Giá trị là biểu hiện quan hệ giữa những người sản xuất hàng hóa, là một phạm
trù lịch sử, gắn liền với nền sản xuất hàng hóa. Nếu giá trị sử dụng là thuộc tính tự

nhiên thì giá trị là thuộc tính xã hội của hàng hóa.
Như vậy, hàng hóa là sự thống nhất của hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị,
nhưng là sự thống nhất của hai mặt đối lập. Đối với người sản xuất hàng hóa, họ tạo ra
giá trị sử dụng, nhưng mục đích của họ không phải là giá trị sử dụng mà là giá trị, sở dĩ
họ quan tâm đến giá trị sử dụng là để đạt được mục đích giá trị. Ngược lại, đối với
người mua, cái mà họ quan tâm là giá trị sử dụng để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng của
mình, nhưng muốn có giá trị sử dụng thì họ phải trả giá trị cho người sản xuất ra nó. Vì
vậy, trước khi thực hiện giá trị sử dụng phải thực hiện giá trị của nó, nếu không thực
hiện được giá trị, sẽ không thực hiện được giá trị sử dụng. C.Mác cho rằng giá trị là biểu
hiện mối quan hệ giữa những người sản xuất hàng hoá.
2- Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa
Thời gian: 20 phút
Phương pháp: Thuyết trình
Sở dĩ hàng hóa có hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị là do lao động sản
xuất hàng hóa có tính hai mặt. C.Mác là người đầu tiên phát hiện ra tính hai mặt
của lao động sản xuất hàng hóa. Đó là lao động cụ thể và lao động trừu tượng.
a. Lao động cụ thể
Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những
nghề nghiệp chuyên môn nhất định.
Mỗi lao động cụ thể có mục đích riêng, đối tượng riêng, phương pháp riêng,
phương tiện riêng và kết quả riêng. Ví dụ: lao động cụ thể của người thợ mộc,
người thợ may, người thợ cơ khí…
Lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hoá. Lao cụ thể càng nhiều
loại càng tạo ra nhiều loại giá trị sử dụng khác nhau. Cùng với sự phát triển của
khoa học, kỹ thuật, các hình thức lao động cụ thể ngày càng đa dạng, phong phú,
nó phản ánh trình độ phát triển của phân công lao động xã hội


Lao động cụ thể là một phạm trù vĩnh viễn, là một điều kiện không thể thiếu
trong bất kỳ hình thái kinh tế - xã hội nào. Sản xuất càng phát triển thì lao động cụ

thể càng đa dạng, hình thức của lao động cụ thể thay đổi càng phong phú.
b. Lao động trừu tượng
Lao động trừu tượng là lao động của người sản xuất hàng hóa khi đã gạt bỏ
những hình thức cụ thể đi của nó, hay nói cách khác đó chính là sự tiêu hao sức
lao động (sự hao phí sức lực, thần kinh) của người sản xuất hàng hoá.
Lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hoá tạo ra giá trị của hàng hoá.
Giá trị của hàng hoá là lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hoá kết tinh
trong hàng hóa. Đó là chất của giá trị hàng hoá.
Lao động trừu tượng chỉ có trong nền sản xuất hàng hóa, do mục đích của
sản xuất để trao đổi. Các lao động cụ thể vốn rất khác nhau, không thể so sánh
được với nhau nên phải quy các lao động cụ thể thành một thứ lao động đồng chất,
là lao động trừu tượng làm cơ sở cho sự trao đổi.
Sản xuất hàng hoá là một phạm trù lịch sử nên lao động trừu tượng cũng là
một phạm trù lịch sử.
c. Mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động xã hội
Trong nền sản xuất hàng hoá mỗi người sản xuất cái gì là công việc riêng của
họ (lao động cụ thể) nên nó mang tính chất tư nhân. Nhưng mặt khác, lao động của họ
lại là một bộ phận của lao động xã hội, mang tính chất xã hội trong hệ thống phân
công lao động xã hội, họ trao đổi lao động cho nhau thông qua trao đổi hàng hoá (lao
động trừu tượng). Do đó, lao động trừu tượng là biểu hiện của lao động xã hội.
Giữa lao động cụ thể và lao động trừu tượng có mâu thuẫn với nhau và nó
được biểu hiện cụ thể trong các trường hợp sau:
- Sản phẩm của người sản xuất hàng hoá riêng biệt tạo ra có thể không ăn khớp
với nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Khi sản xuất vượt quá nhu cầu tiêu dùng của xã hội
sẽ có một số hàng hoá không bán được, tức không thực hiện được giá trị.
- Mức tiêu hao lao động cá biệt của người sản xuất hàng hoá cao hơn so với
mức tiêu hao mà xã hội chấp nhận, khi đó hàng hoá cũng không bán được hoặc bán
được nhưng không thu hồi đủ chi phí lao động bỏ ra.
Mâu thuẫn trên mầm mống của mọi mâu thuẫn trong nền sản xuất hàng hoá.
Chính vì những mâu thuẫn ấy mà sản xuất hàng hoá vừa vận động phát triển, vừa

tiền ẩn khả năng khủng hoảng kinh tế.
3. Lượng giá trị hàng hóa, những nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị
hàng hóa
Thời gian: 30 phút
Phương pháp: Học nhóm
Tình huống: Tại sao 1 mét vải trao được 5 kg thóc? Có phải tỷ lệ đó là bất
biến không? Vì sao?
Các nhóm theo tổ chức như cũ, cùng chuẩn bị nội dung trên vào giấy dưới sự
điều hành của nhóm trưởng; nhóm cử người báo cáo trước lớp, hết giờ nộp lại cho


giáo viên.
Thời gian chuẩn bị 10 phút ( làm rõ thời gian lao động xã hội cần thiết là gì?
Tại sao 2 vật phẩm đó trao đổi được với nhau. Trong nền kinh tế hàng hóa tỷ lệ trao
đổi đó bất biến không vì sao?
Thảo luận báo cáo trước lớp 15 phút
Giáo viên kết luận 5 phút
a. Thời gian lao động xã hội cần thiết
Lượng giá trị là được đo bằng lượng lao động hao phí để sản xuất ra hàng
hóa đó. Lượng tiêu hao ấy được tính bằng thời gian như: giờ lao động, ngày lao
động… Trong thực tế, sản xuất hàng hoá lượng thời gian hao phí cá biệt quyết định
lượng giá trị cá biệt hàng hóa của từng người sản xuất, nhưng khi trao đổi hàng hoá
trên thị trường lại phải tuân thủ theo lượng thời gian hao phí xã hội hay giá trị xã
hội của hàng hoá. Vì vậy, lượng giá trị của hàng hóa không phải được tính bằng
thời gian lao động cá biệt mà bằng thời gian lao động xã hội cần thiết.
Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian cần thiết để sản xuất ra một
hàng hóa trong điều kiện bình thường của xã hội. Thông thường, thời gian lao
động xã hội cần thiết trùng hợp với thời gian lao động cá biệt của những người
cung cấp đại bộ phận loại hàng hóa nào đó trên thị trường.
b. Các nhân tố ảnh hưởng tới lượng giá trị hàng hóa

Do thời gian lao động xã hội cần thiết luôn thay đổi nên lượng giá trị của hàng
hóa cũng là một đại lượng không cố định. Sự thay đổi của lượng giá trị hàng hoá tùy
thuộc vào năng suất lao động và mức độ phức tạp hay giản đơn của lao động.
- Năng suất lao động:
Năng suất lao động xã hội càng tăng, thời gian cần thiết để sản xuất ra hàng
hóa càng giảm, lượng giá trị của một đơn vị sản phẩm càng ít và ngược lại. Hiểu
cách khác lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa tỷ lệ nghịch với năng suất lao
động. Như vậy, muốn giảm giá trị của mỗi hàng hóa thì ta phải tăng năng suất lao
động. Năng suất lao động tăng hay giảm tùy thuộc vào nhiều nhân tố: trình độ khéo
léo của người lao động, sự phát triển của khoa học kỹ thuật và trình độ ứng dụng
tiến bộ kỹ thuật, sự kết hợp xã hội của sản xuất, hiệu quả của tư liệu sản xuất, các
điều kiện tự nhiên.
Cần phân biệt giữa tăng năng suất lao động và tăng cường độ lao động. Tăng
năng suất lao động thì số lượng giá trị hàng hoá sẽ giảm; tăng cường độ lao động
thì số lượng giá trị hàng hoá không thay đổi.
- Lao động giản đơn và lao động phức tạp:
Lao động giản đơn là lao động mà người lao động bình thường không cần
phải trải qua đào tạo cũng có thể thực hiện được.
Lao động phức tạp là lao động đòi hỏi phải được đào tạo, huấn luyện mới có
thể thực hiện được.
Trong nền sản xuất hàng hoá có nhiều hình thức lao động sản xuất khác
nhau, song tính lượng giá trị người ta phải qui về một loại lao động thống nhất.


Trong cùng một đơn vị thời gian lao động như nhau, lao động phức tạp tạo ra
được nhiều giá trị hơn so với lao động giản đơn. Lao động phức tạp là lao động
giản đơn được nhân gấp bội lên.
Để cho các hàng hóa do lao động giản đơn tạo ra có thể quan hệ bình đẳng
với các hàng hóa do lao động phức tạp tạo ra, trong quá trình trao đổi người ta quy
mọi lao động phức tạp thành lao động giản đơn trung bình. Như vậy, lượng giá trị

của hàng hóa được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết, tức thời gian lao
động giản đơn.
III - TIỀN TỆ
Thời gian: 40 phút
Phương pháp: Nêu vấn đề thảo luận nhóm kết hợp thuyết trình
1 - Nguồn gốc và bản chất của tiền tệ
Thời gian: 30 phút
Phương pháp: Thuyết trình kết hợp nêu vấn đề thảo luận nhóm là chính
a. Nguồn gốc của tiền tệ
Tiền tệ ra đời là kết quả lâu dài và tất yếu của quá trình sản xuất và trao đổi
hàng hoá. Ứng với mỗi giai đoạn của sản xuất và trao đổi hàng hoá có một hình thái
giá trị. Lịch sử ra đời của tiền tệ gắn với lịch sử phát triển của các hình thái giá trị:
- Hình thái giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên:
Đây là hình thái phôi thai của giá trị, nó xuất hiện trong giai đoạn đầu của
trao đổi hàng hóa, trao đổi mang tính chất ngẫu nhiên, người ta trao đổi trực tiếp
vật này lấy vật khác.
Ví dụ: 1 mét vải = 5 kg thóc
Ở đây, giá trị của vải được biểu hiện ở giá trị sử dụng của thóc. Còn thóc là
cái được dùng làm phương tiện để biểu hiện giá trị của vải. Với thuộc tính tự nhiên
của mình, thóc trở thành hiện thân giá trị của vải. Sở dĩ như vậy vì bản thân thóc
cũng có giá trị. Hàng hóa (vải) mà giá trị của nó được biểu hiện ở giá trị sử dụng
một hàng hóa khác (thóc) thì gọi là hình thái giá trị tương đối. Còn hàng hóa (thóc)
mà giá trị sử dụng của nó biểu giá trị của hàng hóa khác (vải) gọi là hình thái vật
ngang giá.
Hình thái trao đổi ngẫu nhiên xuất hiện trong điều kiện sản xuất chưa phát
triển, trao đổi diễn ra lẻ tẻ, vật đổi lấy vật, giá trị của hàng hoá này chỉ được biểu
hiện ở hàng hoá khác.
- Hình thái giá trị đầy đủ hay mở rộng:
Khi lực lượng sản xuất có bước phát triển cao hơn, trao đổi trở nên thường
xuyên hơn, một hàng hóa này có thể quan hệ với nhiều hàng hóa khác. Tương ứng

với giai đoạn này là hình thái đầy đủ hay mở rộng.
Ví dụ:
1 mét vải
= 5 kg thóc
= 1 con dê
= 20 kg chè…


Đây là sự mở rộng hình thái giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên. Ở ví dụ trên, giá
trị của một mét vải được biểu hiện ở giá trị sử dụng của 5 kg thóc hoặc 1 con dê
hoặc 20 kg chè... Như vậy, hình thái vật ngang giá đã được mở rộng ra ở nhiều
hàng hóa khác nhau, tuy nhiên vẫn là trao đổi trực tiếp, tỷ lệ trao đổi chưa cố định.
Hình thái mở rộng nó xuất hiện trong điều kiện: Sản xuất có bước phát triển
cao hơn, sản phẩm làm ra nhiều hơn; trao đổi diễn ra nhiều, giá trị của một hàng
hoá được biểu hiện ở nhiều hàng hoá khác đóng vai trò làm vật ngang giá.
- Hình thái chung của giá trị:
Ví dụ :

5 kg thóc
20 đôi dép
1 con dê…

= 1mét vải

Với sự phát triển cao hơn nữa của lực lượng sản xuất và phân công lao động
xã hội, hàng hóa được đưa ra trao đổi thường xuyên, đa dạng và nhiều chủng loại
hơn. Nhu cầu trao đổi trở nên phức tạp hơn, người có vải muốn đổi thóc, nhưng
người có thóc lại không cần vải mà lại cần thứ khác. Vì thế, việc trao đổi trực tiếp
không còn thích hợp và gây trở ngại cho trao đổi. Trong tình hình đó, người ta phải
đi con đường vòng, mang hàng hóa của mình đổi lấy thứ hàng hóa mà nó được

nhiều người ưa chuộng, rồi đem đổi lấy thứ hàng hóa mà mình cần. Khi vật trung
gian trong trao đổi được cố định lại ở thứ hàng hóa được nhiều người ưa chuộng thì
hình thái chung của giá trị xuất hiện.
Ở đây, tất cả các hàng hóa đều biểu hiện giá trị của mình ở cùng một thứ
hàng hóa đóng vai trò là vật ngang giá chung. Tuy nhiên, trong xã hội vật ngang giá
chung chưa ổn định ở một thứ hàng hóa nào, nên vật ngang giá do từng địa phương
quy định. Ở các địa phương khác nhau thì hàng hóa dùng làm vật ngang giá chung
cũng khác nhau.
- Hình thái tiền tệ:
Khi lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội phát triển, sản xuất
hàng hóa và thị trường ngày càng mở rộng, tình trạng có nhiều vật ngang giá chung
làm cho trao đổi giữa các địa phương vấp phải khó khăn, do đó đòi hỏi khách quan
phải hình thành vật ngang giá chung thống nhất. Khi vật ngang giá chung được cố
định lại ở một vật và phổ biến thì xuất hiện hình thái tiền tệ của giá trị.
Ví dụ:
10 kg thóc
Hoặc 20 kg chè
= 0, 1 chỉ vàng
Hoặc 1 mét vải
Hoặc 1 con dê...
Lúc đầu có nhiều kim loại đóng vai trò tiền tệ, nhưng về sau được cố định lại
ở kim loại quý: vàng, bạc và cuối cùng là vàng. Sở dĩ bạc và vàng đóng vai trò tiền


tệ là do những ưu điểm của nó như: thuần nhất về chất, dễ chia nhỏ, không hư
hỏng, với một lượng có thể tích nhỏ nhưng chứa đựng một giá trị lớn.
Tiền tệ ra đời là kết quả phát triển lâu dài của sản xuất và trao đổi hàng hóa,
khi tiền tệ ra đời thì thế giới hàng hóa được phân thành hai cực: một bên là các
hàng hóa thông thường, một bên là hàng hóa đóng vai trò tiền tệ (vàng).
b. Bản chất tiền tệ

Tiền tệ là một hàng hóa đặc biệt được tách ra từ trong thế giời hàng hóa làm
vật ngang giá chung cho tất cả các hàng hoá, sự thể hiện chung của giá trị, đồng
thời nó thể hiện lao động xã hội và biểu hiện quan hệ sản xuất giữa những người
sản xuất hàng hóa.
2 - Chức năng của tiền tệ
Thời gian: 10 phút
Phương pháp: Nêu vấn đề, người học tự nghiên cứu là chính
- Thước đó giá trị:
Tiền dùng để đo lường và biểu hiện giá trị của các hàng hóa khác.
Muốn đo lường giá trị của các hàng hóa, bản thân tiền tệ cũng phải có giá trị
và không cần thiết phải là tiền mặt mà chỉ cần so sánh với lượng vàng nào đó một
cách tưởng tượng.
Khi thực hiện chức năng thước đo giá trị, thì giá trị hàng hóa được biểu hiện
bằng một lượng tiền nhất định gọi là giá cả hàng hóa.
- Phương tiện lưu thông:
Tiền làm môi giới trong quá trình trao đổi hàng hóa.
Muốn trao đổi hàng hóa đòi hỏi phải có tiền mặt (vàng thỏi, bạc nén, tiền
đúc, tiền giấy, tiền tín dụng…).
Với chức năng là phương tiện lưu thông, lúc đầu tiền xuất hiện dưới hình
thức vàng thỏi, bạc nén. Sau đó là tiền đúc ra đời, tiền đúc chỉ là ký hiệu giá trị do
nhà nước phát hành và buộc xã hội phải công nhận. Trong quá trình lưu thông, tiền
đúc có thể bị hao mòn dần và mất một phần giá trị của nó, nhưng nó vẫn được xã
hội chấp nhận như tiền đúc đủ giá trị.
- Phương tiện cất trữ:
Tiền làm phương tiện cất trữ khi được rút khỏi lưu thông đi vào cất trữ. Sở dĩ
tiền làm được chức năng này là vì tiền là đại biểu cho của cải xã hội dưới hình thái
giá trị nên cất trữ tiền là một hình thức cất trữ của cải.
Để làm chức năng phương tiện cất trữ, tiền phải có đủ giá trị, tức là tiền,
vàng, bạc. Chức năng cất trữ làm cho tiền trong lưu thông thích ứng một cách tự
phát với nhu cầu tiền cần thiết cho lưu thông. Nếu sản xuất tăng, lượng hàng hóa

nhiều thì tiền cất trữ được đưa vào lưu thông. Ngược lại, sản xuất giảm, hàng hóa ít
thì một phần tiền vàng rút khỏi lưu thông đi vào cất trữ.
- Phương tiện thanh toán:
Tiền làm phương tiện thanh toán khi được dùng để trả nợ, nộp thuế, trả tiền
mua chịu hàng... Khi sản xuất và trao đổi hàng hóa phát triển đến trình độ nào đó,


tất yếu nảy sinh việc mua bán chịu. Trong hình thức giao dịch này, trước tiên tiền
làm chức năng thước đo giá trị để định giá cả hàng hóa. Nhưng vì là mua bán chịu
nên đến kỳ hạn tiền mới được đưa vào lưu thông để làm phương tiện thanh toán.
Sự phát triển của quan hệ mua bán chịu một mặt tạo khả năng trả nợ bằng
cách thanh toán khấu trừ lẫn nhau không dùng tiền mặt. Mặt khác, trong việc mua
bán chịu người mua trở thành con nợ, người bán trở thành chủ nợ.
- Tiền tệ thế giới:
Khi trao đổi hàng hóa vượt khỏi biên giới quốc gia thì tiền làm chức năng
tiền tệ thế giới.
Với chức năng này, tiền phải có đủ giá trị, phải trở lại hình thái ban đầu của
nó là vàng. Trong chức năng này, vàng được dùng làm phương tiện mua bán hàng,
phương tiện thanh toán quốc tế và biểu hiện của cải nói chung của xã hội.
IV. QUY LUẬT GIÁ TRỊ, CANH TRANH VÀ CUNG CẦU
Thời gian: 50 phút
Phương pháp: Học nhóm
Tại sao sản xuất hàng hóa, người sản xuất tìm bằng mọi cách để bán được
hàng hóa?
Yêu cầu cần làm rõ:
+ Tại sao việc sản xuất và trao đổi HH phải dựa vào giá trị của hàng hóa
+ Muốn bán được hàng hóa người sản xuất phải làm gì?
Công tác tổ chức nhóm như cũ
Thời gian nhóm chuẩn bị 20 phút
Thời gian báo cáo của các nhóm 25 phút

Kết luận 5 phút.
KẾT LUẬN:
1. Việc sản xuất và trao đổi HH phải dựa vào giá trị của HH vì: đó là toàn bộ
chi phí của người sản xuất đã bỏ ra (hao phí lao động xã hội cẩn thiết). Nếu không
làm được như vậy người sản xuất khó có thể tồn tại trong nền kinh tế HH.
2. Người sản xuất hàng hóa muốn bán được HH cần:
- Nắm chắc hao phí lao động cá biệt và hao phí lao động xã hội cần thiết về
HH đó trên thị trường
- Nên sản xuất những HH mà thị trường cần, đem HH đến nơi có nhu cầu
- Hạ thấp chi phí cá biệt của mình thấp hơn chi phí xã hội của HH đó muốn
vậy phải ứng dụng công nghệ sản xuất mới hiện đại, hợp lý hóa sản xuất nhằm tăng
năng suất lao động.
- Động viên chăm lo đến lợi ích của người lao động.
3. Bán được hàng hóa là vấn đề quan trọng song quan trọng hơn là lợi nhuận
của người sản xuất, của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế hàng hóa đòi hỏi những
người sản xuất, những doanh nghiệp phải cạnh tranh nhau.
Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh kinh tế giữa các chủ thể tham gia sản
xuất kinh doanh nhằm giành dật điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng


hóa dịch vụ để thu lợi nhuận cao.
4. Nắm được cung và cầu HH đó trên thị trường
- Cung là khối lượng hàng hóa dịch vụ mà các chủ thể có khả năng và sẵn
sàng bán trên thị trường trong một thời gian nhất định tương ứng với mức giá, khả
năng sản xuất, chi phí sản xuất đã xác định.
- Cầu là khối lượng hàng hóa dịch vụ mà người tiêu dùng có khả năng và sẵn
sàng mua trong một thời gian nhất định tương ứng với mức giá, thu nhập và các
biến số kinh tế khác.
V. THỊ TRƯỜNG
Thời gian: 20 phút

Phương pháp: Thuyết trình kết hợp nêu vấn đề là chính
1.thị trường là gì
Thời gian: 5 phút
Phương pháp: Thuyết trình
Nghĩa hẹp: Sự trao đổi mua bán hàng hoá gắn với một không gian, thời gian,
địa điểm nhất định.
Nghĩa rộng: Là tổng thể các mối quan hệ và hình thức trao đổi mua bán
hàng hoá trực tiếp hoặc gián tiếp
2. phân loại thị trường
Thời gian: 5 phút
Phương pháp: Thuyết trình kết hợp nêu vấn đề là chính
Xét dưới góc độ đối tượng giao dịch mua bán từng loại hàng hóa, có thị
trường lúa gạo, thị trường dầu mỏ, thị trường chứng khoán ...
Xét dưới góc độ đối tượng mua bán giao dịch có thị trường các yếu tố sản
xuất như thị trường tư liệu sản xuất, thị trường lao động, thị trường vốn, thị trường
khoa học công nghệ ...
Xét dưới góc độ tính chất và cơ chế vận hành có thị trường tự do, thị trường
cạnh tranh hoàn hảo, thị trường độc quyền, thị trường cạnh tranh không hoàn hảo,
thị trường cạnh tranh độc quyền...
Xét dưới góc độ quy mô, phạm vi quan hệ kinh tế có thị trường địa phương,
thị trường khu vực, thị trường trong nước, thị trường ngoài nước...
3. chức năng của thị trường
Thời gian: 5 phút
Phương pháp: Thuyết trình kết hợp nêu vấn đề là chính
Chức năng cơ bản của thị trường là : thừa nhận giá trị và giá trị sử dụng của hàng
hóa và chi phí đã sản xuất ra nó; cung cấp thông tin về hàng hóa…; kích thích sản xuất và
tiêu dùng hàng hóa.
4. Giá cả thị trường
Thời gian: 5 phút
Phương pháp: Thuyết trình kết hợp nêu vấn đề là chính

Giá cả thị trường là sự phản ánh của giá trị. Trên thị trường giá cả được hình


thành theo quan hệ cung - cầu.
Cung bằng cầu thì giá cả ngang bằng giá trị của hàng hóa; cung lớn cầu thì
giả cả nhỏ hơn giá trị của hàng hóa; cung nhỏ cầu thì giả cả lớn hơn giá trị của
hàng hóa.
Tóm lại, sản xuất hàng hoá là loại hình kinh tế tiến bộ trong lịch sử. Nó ra
đời khi xuất hiện các điều kiện cần và đủ. Sản xuất hàng hoá có quá trình phát triển
lâu dài, tuân theo những qui luật kinh tế khách quan. Sự vận động khách quan của
cac qui luật kinh tế của nền sản xuất hàng hoá làm cho mâu thuẫn cơ bản của nền
sản xuất ấy ngày càng gay gắt.
5. Câu hỏi nghiên cứu:
1. Điều kiện ra đời, tồn tại, đặc trưng và ưu thế của sản xuất hàng hóa?
2. Hàng hóa, thuộc tính của hàng hóa, tính hai mặt của lao động dản xuất
hàng hóa, lượng giá trị của hàng hóa và các yếu tố ảnh hưởng tới nó?
3. Tiền tệ, nguồn gốc, bản chất, chức năng của tiền tệ?
4. Các quy luật kinh tế của sản xuất hàng hóa?
5. Từ vấn đề nghiên cứu của bài rút ra ý nghĩa đối với nền sản xuất hàng hóa
ở nước ta?
6. Đọc và bút ký bài sản xuất TBCN là quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư.
6. Rút kinh nghiệm



×