Tải bản đầy đủ (.pdf) (34 trang)

Tìm hiểu một số cách tân nghệ thuật trong truyện ngắn của một số cây bút nữ thời kỳ 1986 2006 (nguyễn thị thu huệ, nguyễn ngọc tư, đỗ bích thúy)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (465.4 KB, 34 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

--------------------

NGUYỄN THANH HỒNG

TÌM HIỂU MỘT SỐ CÁCH TÂN NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN
NGẮN CỦA MỘT SỐ CÂY BÚT NỮ THỜI KỲ 1986-2006 (
NGUYỄN THỊ THU HUỆ, NGUYỄN NGỌC TƢ, ĐỖ BÍCH THÚY)

CHUYÊN NGÀNH:
VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ:
60 22 34

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS HÀ VĂN ĐỨC

HÀ NỘI – 10/2009


MỤC LỤC
MỤC LỤC............................................................................................................................. 2
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 3
1. MỤC ĐÍCH Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI ........................................................................ 3
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ ....................................................................................................... 4
3. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ......................................................... 13
4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU............................................................................. 14
5. CẤU TRÚC LUẬN VĂN........................................................................................... 14


PHẦN NỘI DUNG ............................................................................................................. 15
CHƢƠNG 1: NHỮNG ĐỔI MỚI VỀ CỐT TRUYỆN VÀ KẾT CẤU ..................... 15
1.1.Cốt truyện và sự mở rộng dung lƣợng hiện thực .............................................. 15
1.1.1. Cốt truyện đan xen nhiều mạch truyện ....................................................... 20
1.1.2. Cốt truyện giàu chi tiết sự kiện: ................................................................... 23
1.1.3. Cốt truyện có cấu trúc lỏng: ......................................................................... 28
1.2. Những đổi mới trong kết cấu truyện ngắn ....................................................... 31
1.2.1. Kết cấu đảo lộn thời gian của sự kiện.......... Error! Bookmark not defined.
1.2.2. Kết cấu tâm lí: ............................................... Error! Bookmark not defined.
1.2.3. Kết cấu mở (Kiểu kết thúc để ngỏ) ............... Error! Bookmark not defined.
CHƢƠNG 2: NHỮNG ĐỔI MỚI TRONG NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT
.......................................................................................... Error! Bookmark not defined.
2.1. Sự phong phú của thế giới nhân vật: ................ Error! Bookmark not defined.
2.1.1.Nhân vật lý tưởng........................................... Error! Bookmark not defined.
2.1.2.Nhân vật tha hóa ............................................ Error! Bookmark not defined.
2.1.3. Nhân vật bi kịch ............................................ Error! Bookmark not defined.
2.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật ........................... Error! Bookmark not defined.
2.2.1.Không gian nghệ thuật trong việc khắc họa tính cách nhân vậtError! Bookmark
not defined.
2.2.2. Đối thoại và độc thoại nội tâm...................... Error! Bookmark not defined.
2.2.3.Nghệ thuật miêu tả tâm lý.............................. Error! Bookmark not defined.
CHƢƠNG 3: NHỮNG CÁCH TÂN TRÊN PHƢƠNG DIỆN GIỌNG ĐIỆU VÀ NGÔN
NGỮ ................................................................................ Error! Bookmark not defined.
3.1. Giọng điệu: .......................................................... Error! Bookmark not defined.
3.1.1.Giọng hài hước, châm biếm, mỉa mai:.......... Error! Bookmark not defined.
3.1.2.Giọng trữ tình, suy tư, chiêm nghiệm ........... Error! Bookmark not defined.
3.2.Ngôn ngữ: ............................................................. Error! Bookmark not defined.
3.2.1.Những đặc trưng nghệ thuật trong ngôn ngữ của Nguyễn Ngọc Tư: .Error!
Bookmark not defined.
3.2.1.1.Ngôn ngữ đậm chất Nam Bộ:................... Error! Bookmark not defined.

3.2.1.2.Tính nhip điệu trong văn Nguyễn Ngọc TưError! Bookmark not defined.
3.2.2.Những đặc trưng nghệ thuật trong cách sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Thị Thu
Huệ .......................................................................... Error! Bookmark not defined.
3.2.2.1.Ngôn ngữ đời thường ............................... Error! Bookmark not defined.
3.2.2.2. Ngôn ngữ có tính cá thể hóa cao độ ....... Error! Bookmark not defined.
3.2.3.Những đặc trưng nghệ thuật trong cách sử dụng ngôn ngữ của Đỗ Bích Thúy
.................................................................................. Error! Bookmark not defined.


3.2.3.1.Ngôn ngữ mang đậm bản sắc của người dân tộc ... Error! Bookmark not
defined.
3.2.3.2.Ngôn ngữ giàu hình ảnh, giàu chất thơ ... Error! Bookmark not defined.
PHẦN KẾT LUẬN ............................................................ Error! Bookmark not defined.
TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHẦN MỞ ĐẦU
1. MỤC ĐÍCH Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Sau năm 1986, văn học Việt Nam đã có những khởi sắc đặc biệt. Không giống như ở
thời kỳ trước, văn học thời kỳ này đã phản ánh hiện thực theo cách mới, quan niệm mới.
Không chỉ mở rộng đề tài theo hướng tiếp cận gần gũi hơn với hiện thực đời sống sinh
hoạt, đời sống văn hóa, quan điểm của các nhà văn về một số vấn đề của lịch sử Việt
Nam cũng mang những sắc thái thẩm mỹ mới. Cảm hứng sử thi của giai đoạn trước được
thay thế bằng cảm hứng đời tư, thế sự. Xu hướng ngợi ca được thay thế bằng cái nhìn phê
phán hiện thực. Thói quen nhìn cuộc sống ở khía cạnh lạc quan, tươi đẹp được thay bằng
sự khai thác trực diện những tồn đọng của xã hội, những khát vọng của đời sống cá nhân
con người. Văn học giai đoạn này vì thế đa giọng điệu, đa sắc màu và gây nhiều tranh cãi
hơn.
Với đặc thù là một thể loại nhỏ gọn và cơ động, truyện ngắn bắt nhịp rất nhanh với
những vấn đề của đời sống. Truyện ngắn nhanh nhạy len lỏi vào mọi ngõ ngách của xã
hội, phản chiếu mọi tâm điểm nóng bỏng của hiện thực. Nhà nghiên cứu Nguyên Ngọc

nhận xét: “Đây có thể coi là một thời kỳ có nhiều truyện ngắn hay trong văn học Việt
Nam, tiếp theo “vụ được mùa truyện ngắn” những năm 1960 và một vụ mùa khác, trong
chiến tranh”. Tuy nhiên, truyện ngắn lần này có những nét khác biệt rõ rệt. “Những năm
1960 từng để lại nhiều truyện ngắn đẹp như thơ, trong veo, trữ tình. Truyện ngắn thời
chiến tranh thì vạm vỡ, chắc chắn. Đặc điểm nổi bật lần này là cầm cái truyện ngắn
trong tay có thể cảm thấy cái dung lượng của nó nặng trĩu. Có những truyện ngắn chỉ
mươi, mười lăm trang thôi mà sức nặng có vẻ còn hơn cả một cuốn tiểu thuyết trường
thiên”. [Tr7, 71]
Vì vậy, khi tiến hành thực hiện đề tài: “Tìm hiểu một số cách tân nghệ thuật của
một số cây bút nữ thời kỳ 1986 -2006 (Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ
Bích Thúy) chúng tôi muốn bước đầu nhận diện một số cách tân của thể loại truyện ngắn,
qua đó có những nhìn nhận chung về tiến trình đổi mới của văn học nước nhà.
1.2. Lâu nay, văn học Việt Nam đa số là văn học của nam giới. Người phụ nữ cũng
xuất hiện trong lực lượng sáng tác nhưng nó còn rất mờ nhạt và chưa tạo được dấu ấn
riêng. Bước vào thời kỳ đổi mới sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986, các
cây bút nữ ngày càng thể hiện rõ thế mạnh của mình trong lĩnh vực văn chương. Bên


cạnh các cây bút sáng tác từ trước 1975, các gương mặt nữ như Y Ban, Nguyễn Thị Thu
Huệ, Võ Thị Hảo, Lý Lan, Phan Thị Vàng Anh, Trần Thùy Mai, Võ Thị Xuân Hà,
Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy đã xuất hiện….Nhiều tác phẩm của họ vừa ra đời đã
gây được sự chú ý của dư luận, tạo được dấu ấn trong đời sống văn học như Hậu thiên
đường (Nguyễn Thị Thu Huệ), Bức thư gửi mẹ Âu Cơ (Y Ban), Kịch câm, Hoa muộn
(Phan Thị Vàng Anh), Cánh đồng bất tận (Nguyễn Ngọc Tư)…Nhiều tác giả đoạt giải
cao trong các cuộc thi truyện ngắn như báo Văn nghệ, tạp chí Văn nghệ quân đội, cùng
với đó là hàng loạt những tuyển tập bước đầu định hình những phong cách khiến độc giả
không thể không ghi nhận và hi vọng về tương lai văn học của những cây bút này. Ở góc
độ của người phụ nữ sáng tác văn học, từ quan niệm về nghề, quan niệm về thiên chức
của người cầm bút các nhà văn nữ thời kỳ này đã đem đến cho văn chương những cảm
hứng và giọng điệu mới. Trong các sáng tác của các nhà văn nữ, ta luôn tìm thấy những

âm hưởng của thời đại chúng ta đang sống. Họ tỏ ra áp sát hiện thực đời sống một cách
trực diện và thẳng thắn khi nhìn nhận mặt trái của hiện thực. Có thể nhận thấy sự sắc sảo
và sâu sắc khi khái quát và tiếp nhận đề tài thế sự đời tư với nỗi đau nhân tình thế thái
bằng lối viết “dịu dàng, bén ngọt, riết róng và đồng cảm chia sẻ với những thân phận,
những người sống quanh mình”. Tìm hiểu những cách tân nghệ thuật của một số cây bút
nữ, chúng tôi muốn khẳng định giá trị của dòng văn học “tính nữ” (chữ dùng của nhà
nghiên cứu Bùi Việt Thắng) trong sự phát triển của văn học Việt Nam đương đại.
1.3. Trong nền văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới, Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn
Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy chưa hẳn đã là những đại diện tiêu biểu nhất. Nhưng họ là
những phong cách riêng rất độc đáo không thể trộn lẫn. Nguyễn Thị Thu Huệ là nhà văn
nữ với chất giọng trầm tiêu biểu cho sự đổi mới của văn xuôi miền Bắc, Nguyễn Ngọc Tư
là nhà văn trẻ của mảnh đất phương Nam xa xôi và Đỗ Bích Thúy là đứa con của đại
ngàn Tây bắc. Mỗi nhà văn đã đóng góp cho văn học Việt Nam một tiếng nói riêng.
Chính vì thế, lựa chọn đề tài: Tìm hiểu một số cách tân nghệ thuật của một số cây bút
nữ thời kỳ 1986 – 2006 (Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy), chúng
tôi muốn bước đầu khám phá những thể nghiệm nghệ thuật của một số tác giả nữ để từ
đó, bước đầu định hình được chỗ đứng của văn học Việt Nam trên tiến trình vận động để
hội nhập với văn chương và rộng lớn hơn là văn hóa tiến bộ của thế giới.

2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
2.1.Tình hình nghiên cứu khái quát về văn học và truyện ngắn Việt Nam thời
kỳ 1986 – 2006.
* Tình hình nghiên cứu văn học
Sự đổi mới quan niệm và ý thức nghệ thuật của văn học sau 1986 đƣợc đánh
giá là nhân tố đặc biệt quan trọng, có ảnh hƣởng chi phối mọi thể loại, trong đó có


truyện ngắn. Các tác giả nghiên cứu về văn học thời kỳ này đã khẳng định, văn học
đương đại phát triển theo hướng dân chủ hóa, có ý nghĩa bổ sung, hoàn thiện những quan
niệm hiện thực về con người cho văn học giai đoạn trước. Trong chuyên luận Văn học

Việt Nam hiện đại – Nhận thức và thẩm định, tác giả Vũ Tuấn Anh viết: “Nếu như cách
nhìn sử thi là thích hợp cho việc thể hiện tầm rộng lớn của những vấn đề lịch sử xã hội
và cộng đồng thì cách nhìn tiểu thuyết là cái nhìn tập trung, xoáy sâu vào những vấn đề
của con người cá nhân cũng như mối quan hệ cá nhân – xã hội trên hành trình tìm kiếm
và khẳng định giá trị nhân văn [tr54,4]. Nhà nghiên cứư Nguyễn Thị Bình cũng cùng
chung nhận định: “Văn xuôi sau 1975 phát triển trong bối cảnh đất nước chuyển đổi kinh
tế, giao lưu văn hóa nhiều chiều. Ý thức cá nhân được sự cổ vũ của cơ chế thị trường trỗi
dậy mạnh mẽ. Nhu cầu thức tỉnh gắn liền với cảm hứng khám phá, nghiền ngẫm hiện
thực, nhu cầu công bố tư tưởng riêng trong thái độ nhập cuộc của nhà văn.
Trong bài viết Văn học Việt Nam những năm đầu đổi mới tại cuộc hội thảo quốc
tế Văn học Việt Nam trong bối cảnh giao lưu văn hóa khu vực và quốc tế, nhà lí luận Lê
Ngọc Trà nêu ra 3 đặc điểm của văn học sau 1986. Đặc điểm nổi bật theo ông là tính chất
phê phán. Đặc điểm thứ hai là tinh thần phân tích xã hội và sự chiêm nghiệm lại lịch sử.
Đặc điểm thứ ba là sự trở lại với đời thường, với những số phận riêng.
Có thể nói, các nhà nghiên cứu đã có sự thống nhất khá cao về những đặc điểm nội
dung của giai đoạn văn học 1986 – 2006.
Về đổi mới thi pháp. Tuy chưa đi sâu vào nghiên cứu một cách sâu rộng các vấn
đề thi pháp của văn xuôi sau 1986, song các bài nghiên cứu gần đây đã nhấn mạnh vào
một số hình thức biểu đạt của tác phẩm như: Sự suy giảm vai trò cốt truyện, sự đa dạng
trong hình thức kết cấu tác phẩm, tính chất đa thanh trong nghệ thuật trần thuật, những
khám phá về hệ thống nhân vật…Từ đó các nhà nghiên cứu bước đầu đi đến kết luận về
khả năng mở rộng, gia tăng tính đối thoại của tự sự đương đại trước các vấn đề hiện thực
và lịch sử.
* Tình hình nghiên cứu truyện ngắn 1986 – 2006
Không được coi là thể loại chủ đạo trong đời sống văn học như tiểu thuyết, nhưng
khả năng khái quát hiện thực của truyện ngắn giai đoạn 2006 không hề thua kém phương
thức tự sự cỡ lớn này. Trước sự chín muồi của đội ngũ các cây bút đã có thành tựu và sự
nở rộ của lớp các nhà văn mới 1986 – 2006 được coi là một trong những giai đoạn hoàng
kim của lịch sử truyện ngắn Việt Nam. Nhà nghiên cứu Bùi Việt Thắng khẳng định:
“Nhìn tổng thể, truyện ngắn 1975 – 2000 vượt trội so với thơ và kịch vì nhiều lí do, trong

đó phải kể đến sự ưu ái của đời sống là mảnh đất màu mỡ cho các thể của văn xuôi phát
triển. Nếu có so sánh thì truyện ngắn Việt Nam trong thế kỷ 20 có hai thời hoàng kim của
nó: 1930 – 1945 và 1986 – 2000 [tr113, 34]. Nhà nghiên cứu Phạm Xuân Nguyên trong


bài Truyện ngắn và cuộc sống hôm nay đánh giá: “Truyện ngắn hôm nay tiếp xúc, xới
lật các mảng hiện thực ở cả hai chiều quá khứ và hiện tại để mong đóng góp một tiếng
nói định vị cho người đọc, một thái độ nhìn nhận đánh giá những việc, những người của
bây giờ, nơi đây [Tr 10, 67]. Chỉ rõ sự phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng
của thể loại này, nhà nghiên cứu Lý Hoài Thu viết: “Cùng với sự gia tăng của những tên
tuổi mới và số lượng tác phẩm, truyện ngắn thời kỳ này đã mở ra nhiều tìm tòi cả trong
tiếp nhận về sự cô đơn của thân phận con người, là sự đan cài giữa cái ảo và cái thực,
giữa chất thơ và văn xuôi [tr182, 36]. Còn trong bài viết “Từ một góc nhìn về sự vận
động của truyện ngắn chiến tranh”, tác giả Tôn Phương Lan lý giải chi tiết hơn:
“Những truyện ngắn đã khai thác yếu tố tâm linh và tạo ra những chi tiết, cảnh huống, li
kì, hấp dẫn, đem lại cho các truyện này một vóc dáng hiện thực mới khiến người đọc
không chỉ cảm mà còn thấy”.
Những đổi mới về nội dung tất yếu dẫ đén sự thay đổi về hình thức thể loại truyện
ngắn. Nhà phê bình Bùi Việt Thắng nhận xét: “Về khía cạnh thi pháp, truyện ngắn 1986
– 2006 đã trở nên phong phú về hình thức, phong cách và bút pháp. Đã có thể tách bạch
ra những dòng phong cách chủ yếu sau: phong cách cổ điển (ứng với lớp nhà văn như
Nguyễn Thành Long, Nguyên Ngọc, Nguyễn Kiên, Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Hồng
Nhu…), phong cách trữ tình (ứng với Y Ban, Phạm Ngọc Tiến, Nguyễn Thị Thu Huệ…).
Về hình thức, truyện ngắn giai đoạn này khá đa dạng, có thể nói đến một kiểu truyền kỳ
hiện đại (Bến trần gian của Lưu Sơn Minh, Hai người đàn bà xóm trại của Nguyễn
Quang Thiều), kiểu truyện giả cổ tích (Những ngọn gió Hua Tát của Nguyễn Huy
Thiệp), truyện ngắn kịch (Kịch câm của Phan Thị Vàng Anh), truyện rất ngắn (Vùng
lặng của Phạm Sông Hồng), truyện ngắn triết luận (Tâm tưởng của Bùi Hiển, Sống mãi
với cây xanh của Nguyễn Minh Châu…). Trong tiến trình phát triển của lịch sử văn học
nói chung và thể loại truyện ngắn nói riêng, truyện ngắn nữ cũng có những thành tựu

đáng ghi nhận[34].

2. 2.Truyện ngắn nữ Việt Nam sau 1986
Văn học Việt Nam thời kỳ phong kiến, dường như ít thấy xuất hiện bóng dáng của
các cây bút nữ. Một trong những nguyên nhân quan trọng là do điều kiện lịch sử, dưới
chế độ phong kiến hà khắc, người phụ nữ bị bó buộc bới luật tam tòng tứ đức, bị phụ
thuộc vào gia đình. Vì vậy, người phụ nữ chủ yếu quẩn quanh với các công việc của gia
đình mà không có cơ hội được tiếp xúc và tham gia các hoạt động xã hội. Điều đó đã hạn
chế sáng tác của nữ giới và khiến họ vắng bóng trên văn đàn dân tộc.
Bước sang thế kỷ XX, người phụ nữ bắt đầu có tiếng nói trên các diễn đàn và báo
chí như Phụ nữ tân văn, Phụ nữ thời đàm…tuy nhiên sáng tác của các chị còn rất thưa
thớt, chủ yếu là ở lĩnh vực thơ ca.


Cách mạng tháng Tám thành công đã mở ra một thời kỳ mới. Từ đây bắt đầu xuất
hiện các cây bút nữ: Thanh Hương, Lê Minh, Nguyễn Thị Như Trang, Minh …Đội ngũ
các nhà văn nữ tiếp tục phát triển qua thời kỳ kháng chiến chống Mỹ: Vũ Thị Thường,
Nguyễn Ngọc Tú, Lê Minh Khuê, …Tuy nhiên, dường như tiếng nói của họ chưa thực sự
lớn mạnh.
Những năm sau chiến tranh, đặc biệt là thời kỳ đổi mới, văn học Việt Nam khởi sắc
với sự xuất hiện của hàng loạt cây bút nữ. Ngày càng nhiều những gương mặt nữ xuất
hiện và chiếm ưu thế đã tạo nên sự mới mẻ, hấp dẫn. Các giải thưởng truyện ngắn liên
tiếp được trao cho các cây bút bữ là bằng chứng rõ nét nhất về điều đó. Y Ban với Bức
thư gửi mẹ Âu Cơ và Chuyện một người đàn bà giành giải nhất cuộc thi năm 1990. Kết
thúc cuộc thi năm 1992-1994 của tạp chí Văn nghệ Quân đội, Nguyễn Thị Thu Huệ đã
giành giải nhất với Hậu thiên đường và Mùa đông ấm áp. Liên tiếp trong những năm
1996, 1999, 2000,2002 các tác gải nữ đã nhận được danh hiệu cao quý nhất: Trần Thanh
Hà, Đỗ Bích Thúy, Thùy Linh…
Sau 1986, trong nền văn học đương đại Việt Nam đã xuất hiện cụm từ “nữ
khuynh”( Chữ dùng của các tác giả trong bài Chúng tôi phỏng vấn bốn cây bút nữ- Tạp

chí Văn nghệ quân đội 3/1993) trong văn học. Có thể nói, sự xuất hiện ồ ạt của các cây
bút nữ cũng như số lượng khổng lồ các tác phẩm của họ trình làng (Lê Minh Khuê hiện
nay đã có 7 tập truyện ngắn in riêng, Nguyễn Thị Thu Huệ 6 tập, Võ Thị Hảo 4 tập…) và
hơn hết là chất lượng các sản phẩm mà họ tạo ra có thể khẳng định, đây là thời đại mà
văn chương của phái nữ đang chiếm ưu thế. Đã hết rồi cái thời mà văn học gần như là
sáng tác độc tôn của giới mày râu. Đến bây giờ, có nhà nghiên cứu văn học đã phải thốt
lên rằng: “Đã hình thành một tỷ lệ giữa phái yếu và phái mạnh là 2/3- một tỉ lệ đáng gờm
bởi nhìn vào đó sẽ thấy truyện ngắn trẻ hôm nay (và văn chương nói chung) mang gương
mặt nữ” [34].
Các cây bút nữ thực sự khẳng định được tài năng và bản lĩnh nghệ thuật của mình.
Với sự tinh tế nhạy cảm vốn có, “Dường như phụ nữ bắt mạch thời đại nhanh hơn nam
giới. Họ luôn gần gũi với cái lỉnh kỉnh, dở dang của đời sống.”[68]. Nhà nghiên cứu
Đặng Anh Đào đã chỉ ra đặc điểm riêng, những đóng góp riêng của các nhà văn nữ vào
nền văn học đương đại của nước nhà: “Phụ nữ thường mạnh ở chỗ họ đưa tất cả cuộc đời
và tâm hồn họ vào trang sách, hoặc nói như Tây, họ tự ăn mình”. Vì thế mà “Các cây bút
nữ hôm nay mở cuộc tìm tòi trên một cái diện rất rộng và họ đạt đến hiệu quả ngay”
(Ngô Thế Oanh).
Sáng tác của các cây bút nữ thường đi sâu vào bi kịch, những nỗi đau với sự trải
nghiệm sâu sắc. Các chị đã đem đến cho văn chương một diện mạo mới “đằm thắm, tinh
tế và khoan dung hơn”. Hiện thực cuộc sống với sự tha hóa đạo đức, những xói mòn về


nhân cách được thể hiện khá rõ nét. Nội tâm nhân vật được được đào sâu khai thác với
cái nhìn đa chiều, sấu sắc: Hậu thiên đường (Nguyễn Thị Thu Huệ), Bức thư gửi mẹ Âu
Cơ (Y ban)…
Không chỉ có những khám phá mới về nội dung mà các cây bút nữ còn có những cố
gắng trong tìm tòi nghệ thuật nhằm xây dựng cho mình một phong cách riêng: Y Ban với
chất giọng nữ trầm trong văn chương, Võ Thị Hảo có lối viết pha màu sắc huyền thoại,
Nguyễn Ngọc Tư với lối viết văn đậm màu sắc Nam Bộ, Đỗ Bích Thúy với những tác
phẩm văn chương đậm tính chất vùng miền…Tất cả đã tạo nên diện mạo của truyện ngắn

đương đại với những tác phẩm rất tiêu biểu của nữ giới.
2.3 .Tình hình nghiên cứu về các tác giả
Trong nền văn học Việt Nam thời kỳ 1986-2006, Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn
Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy là những cây bút có tên tuổi. Số lượng các bài viết, những công
trình nghiên cứu về các tác giả này rất nhiều. Những công trình đó đã đánh giá được tài
năng cũng như những đóng góp của họ trong nền văn học dân tộc.
2.3.1. Nguyễn Thị Thu Huệ
Nguyễn Thị Thu Huệ sinh ngày 12/8/1966. Quê quán: Xã Thạch Phong, huyện
Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre. Trú quán: Hà Nội. Tốt nghiệp đại học tổng hợp Hà Nội, khoa
ngữ văn. Chị là một trong số những tác giả nữ gặt hái được rất nhiều thành công khi tuổi
đời còn khá trẻ:
- Giải thưởng truyện ngắn Hội văn học nghệ thuật Hà Nội 1986
- Giải nhì cuộc thi truyện ngắn Tác phẩm tuổi xanh báo Tiền Phong 1993
- Giải nhất cuộc thi truyện ngắn Tạp chí văn nghệ quân đội 1994
- Tặng thưởng Hội nhà văn 1994
Tác phẩm: Đến nay, Nguyễn Thị Thu Huệ đã ra mắt bạn đọc bốn tập truyện ngắn:
Cát đợi, Hậu thiên đường,Phù thủy, Nào ta cùng lãng quên.
Xuất hiện không lâu, Nguyễn Thị Thu Huệ đã gây một tiếng vang lớn khi giành giải
nhất cuộc thi truyện ngắn lần thứ 5 (1992-1994) do Tạp chí văn nghệ quân đội tổ chức
với hai truyện ngắn Hậu thiên đường và Mùa đông ấm áp. Không dừng lại ở các giải
thưởng, chị tiếp tục khẳng định mình bằng một loạt các sáng tác có giá trị khác.
Nghiên cứu thế giới nghệ thuật truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ, đặc biệt là khám
phá những cách tân, đổi mới trong các tác phẩm của chị, nhà nghiên cứu Bùi Việt Thắng
đã phát hiện trong tác phẩm của Nguyễn Thị Thu Huệ “một sự vật vã khắc khoải canh
cánh trong mỗi nhân vật, đặc biệt là nhân vật nữ[33]. Ông chỉ rõ: “Cây bút này tỏ rõ sự
chia sẻ, cảm thông với phụ nữ vì anh cũng mang khuôn mặt con gái”. Sau gần một thập
kỷ, khi phác thảo chân dung Thu Huệ trong lời giới thiệu về bốn cây bút nữ vào năm
2003, Bùi Việt Thắng lại một lần nữa khẳng định đối tượng mà Thu Huệ quan tâm hướng



ngòi bút tới là “những thiên đường và hậu thiên đường của đời sống con người đặc biệt
là người phụ nữ[34].Không chỉ có sự cách tân, mới lạ ở điểm nhìn nghệ thuật, Nguyễn
Thị Thu Huệ còn có những cách tân trong quá trình xây dựng tác phẩm. Phạm Hoa trong
bài giới thiệu tập Cát đợi đã chỉ rõ hai kiểu xây dựng nhân vật của Nguyễn Thị Thu Huệ:
“Một là truyện truyền thống (Có chuyện), hai là truyện không có chuyện (cốt truyện theo
dòng tâm trạng) (Phạm Hoa).Nguyễn Thị Thu Huệ là người rất nghiêm túc trong lao
động sáng tạo nghệ thuật. Chị đã từng tâm sự rằng, truyện của chị giống như một thùng
nước sôi, nó sôi lên ùng ục đến khi hết sôi là hết. Vì thế, trong sáng tác, chị đã cố gắng sử
dụng những phương tiện nghệ thuật để diễn tả cho hết, cho sâu những tâm tư trong lòng
mình. Nhà nghiên cứu Bùi Việt Thắng trong Năm truyện ngắn dự thi của một cây bút
trẻ [33] và Tứ tử trình làng ( Lời giới thiệu Tuyển tập truyện ngắn bốn cây bút nữ), ông
đã chỉ rõ cả bề rộng lẫn bề sâu trong sáng tác của Nguyễn Thị Thu Huệ: “Truyện ngắn
Nguyễn Thị Thu Huệ hấp dẫn rộng rãi người đọc trước hết là vì giàu chất đời” và
“Những truyện ngắn hay của Thu Huệ là nhờ người viết bứt lên được trên cái có thực
đến tận cùng, để tìm cái gì đó cao hơn của con người, đó là đời sống tâm hồn vốn rất
không rõ ràng, mạch lạc, vốn bí ẩn, khó giải thích rạch ròi bằng lí trí”. Tác giả còn chỉ
rõ những phương diện nghệ thuật khác trong truyện ngắn Thu Huệ, đó là tình huống “ tuy
hẹp nhưng đặc sắc, ngôn ngữ có độ căng của nhịp điệu, câu thường ngắn, cấu trúc đơn
giản, thông tin cao, hoạt động trong giọng điệu….Đồng thời, ông cũng nhận thấy hạn chế
trong văn Thu Huệ: Cây bút này hơi tham, chưa dám gạt bỏ, còn muốn nói nhiều, nói hết
trong truyện”.Ngoài ra, các tác giả khác cũng có những bài nghiên cứu sâu sắc đến hiện
tượng văn học này như: Những truyện ngắn hay (Lý Hoài Thu- Tạp chí văn nghệ quân
đội 12/1993), Một nửa nhân loại qua truyện ngắn dự thi của một cây bút nữ (Dương
Quỳnh Trang- tạp chí văn nghệ quân đội,6/1994), Đọc hồi ức binh nhì và Bến trần gian
(Kim Dung- Tạp chí Văn nghệ quân đội, 11/1994), Những ngôi sao nước mắt (Đoàn Thị
Đặng Hương- Văn nghệ trẻ, 25/3/1996), Thi pháp truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ
(Hồ Sỹ Vịnh-Báo Văn nghệ, 8/2002)…Nhìn chung, qua các bài viết, Nguyễn Thị Thu Huệ
được đánh giá là một cây bút có tài năng trong việc khám phá và nắm bắt hiện thực một
cách nhạy bén, có giọng văn linh hoạt, uyển chuyển.
2.3.2.Nguyễn Ngọc Tư

Nguyễn Ngọc Tư sinh năm 1976 tại huyện Đầm Dơi tỉnh Cà Mau trong một gia
đình nghèo. Nguyễn Ngọc Tư bắt đầu nghiệp viết văn khá sớm tại làng quê và gặt hái
nhiều thành công trong nghề viết của mình. Chị đã lập gia đình với một thợ kim hoàn.
Hiện, cùng chồng con cư ngụ tại thành phố Cà Mau, làm phóng viên cho tạp chí Văn
nghệ bán đảo Cà Mau và Hội văn học nghệ thuật Cà Mau.


Trong đời thường, Nguyễn Ngọc Tư có vẻ ngoan hiền, thích cuộc sống đơn giản,
nhưng lại có một cuộc sống nội tâm khá phong phú và bí ẩn. Trong văn chương, Nguyễn
Ngọc Tư thường ví truyện của mình như trái sầu riêng, nhiều người thích nhưng cũng có
nhiều người lại dị ứng.
Tác phẩm chính đã xuất bản:
- Ngọn đèn không tắt (Tập truyện. NXB Trẻ-2000)
- Ông ngoại (Tập truyện thiếu nhi. NXB Trẻ. 2001)
- Giao thừa (Tập truyện trẻ.2003)
- Biển người mênh mông (Tập Truyện. NXB Kim Đồng.2003)
- Nước chảy mây trôi (Tập truyện và kí. NXB Văn nghệ. TPHCM)
- Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư (Tập truyện và ký. NXB Văn hóa Sài Gòn.2005)
- Cánh đồng bất tận (NXB Trẻ. 2005)
Giải thưởng:
- Giải nhất cuộc vận động sáng tác văn học lần thứ 20, tác phẩm Ngọn đèn không
tắt năm 2000
- Giải B hội nhà văn Việt Nam, tập truyện Ngọn đèn không tắt,năm 2000
- Giải B hội nhà văn Việt Nam, tập truyện Ngọn đèn không tắt, năm 2001
- Tặng thưởng dành cho tác giả trẻ, Ủy ban toàn quốc liên hiệp các hội Văn học
nghệ thuật Việt Nam. Một trong mười gương mặt trẻ tiêu biểu năm 2003 do T.W đoàn
trao tặng.
Cho đến nay, mặc dù đã xuất hiện trên văn đàn khá lâu, Nguyễn Ngọc Tư vẫn được
coi là hiện tượng. Hàng loạt những công trình nghiên cứu, những bài báo, bài viết, những
lời nhận xét khen có, chê có đã khiến Nguyễn Ngọc Tư trở thành nhà văn nữ đựợc tìm

kiếm nhiều nhất trên mạng Internet và trên các phương tiện thông tin đại chúng. Lí do cô
được tìm kiếm nhiều bởi người đọc nhận thấy ở tác phẩm của cô có những phát hiện mới
lạ và rất độc đáo.
Trên diễn đàn tháng 2/2004 có bài Nguyễn Ngọc Tư- Đặc sản miền nam của giáo
sư kinh tế Trần Hữu Dũng, một Việt kiều tại Mỹ. Bài viết đã đánh giá một cách tổng hợp
về nghệ thuật viết truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư từ những điều giản dị của ngôn ngữ,
giai điệu đến nhân vật, cấu trúc câu. Đặc biệt, Trần Hữu Dũng đã chỉ ra điểm khác biệt
của Nguyễn Ngọc Tư với các nhà văn khác: “Cái mới trong văn Nguyễn Ngọc Tư chính
là cái cũ, cái lạ ở cô là tài khui mở những sinh hoạt thân thuộc trước mắt. Nguyễn Ngọc
Tư không “vén màn” cho người đọc thấy cái hay từng có, cô không dẫn ta khám phá
những ngóc ngách của nội tâm mà ta chưa từng biết. Cô đưa ra một tấm gương rất trong,
thật sáng. Và qua đó, lạ thay, như một tiếng đàn cộng hưởng, ta khám phá cái phong phú
của chính đời ta [54].


Báo Tiền phong, ra ngày 31/1/2006 có bài đánh giá về văn Nguyễn Ngọc Tư: Văn
phong giản dị, ngôn ngữ truyện cứ như được kê vào từ đời thường, nhưng chính những
nỗi đau của những kiếp người, những số phận nhỏ bé ở một vùng quê nghèo và triểt lý
nhân quả của cuộc đời làm nên sức ám ảnh lớn cho truyện (Phan Lâm).
Báo tuổi trẻ, số ra ngày 30/1/2005với bài viết Im lặng thế đấy, tác giả Đỗ Hồng
Ngọc đã nhận xét: Người đọc bất ngờ trước những kiếp người, phận người hôm nay, tại
đây như trong truyện kể, và bất ngờ trước một văn bút khác lạ của người viết truyện.
Nguyễn Ngọc Tư đã bắt đầu chạm vào những vỉa tầng cuộc sống của những vùng đất cô
sống và viết văn. Dữ dội và nhân tình, văn Tư bắt đầu là như thế.
Trong bài Hỏi chuyện nhà văn Dạ Ngân: Nguyễn Ngọc Tư, điềm đạm mà thấu
đáo, nhà văn Dạ Ngân đã không tiếc lời khen ngợi khả năng vận dụng ngôn ngữ của
Nguyễn Ngọc Tư: “Cái cách tu từ của Tư là tuyệt vời. Tôi thấy phương ngữ mà Ngọc Tư
đưa vào truyện bao giờ cũng có sự cân nhắc cho sự đóng góp vào vốn liếng chung của
ngôn ngữ quốc gia. Những người bẩm sinh có tài năng lớn thì họ mới làm được cái đó
chứ! Nó tự nhiên như không thôi! Thả cái chữ ra thì đúng là cái chữ đó thôi không phải

cái chữ nào khác”. Như vậy, theo đánh giá của nhà văn Dạ Ngân, Nguyễn Ngọc Tư
không chỉ biết trân trọng, vận dụng những giá trị văn hóa đặc trưng đã có của vùng miền,
của dân tộc, chị còn chủ động sáng tạo và đóng góp một cách có ý thức những giá trị văn
hóa mới, những cách dùng ngôn ngữ mới, làm giàu thêm cho nền văn hóa dân tộc.
Ở góc độ ngôn ngữ, tác giả Văn Công Hùng phần nào cũng chung cảm nhận với
nhà văn Dạ Ngân khi viết: “Các câu thoại cũng thế. Đầy bất ngờ và lí thú, đậm đặc bản
sắc Nam Bộ. Đậm đặc tới mức dẫu chưa một lần tới Nam Bộ cũng thấy rõ nó hiện ra
mồn một khi đọc văn Nguyễn Ngọc Tư. Chất Nam Bộ ấy ẩn chứa trong tâm hồn những
con người sống ở nơi tận cùng của Tổ quốc, phóng khoáng và nhân hậu, thẳng thắn,
trung thực hết mình trong đời sống…Số phận cột họ vào mảnh đất này và sống chết với
nó một cách dung dị, cương trực”[tr15, 62]

2.3.3. Đỗ Bích Thúy
Nhà văn Đỗ Bích Thuý sinh ngày 13.4.1975 tại Hà Giang. Lớn lên chị học tập, lập
gia đình và sinh sống tại Hà Nội. Đỗ Bích Thuý đã tốt nghiệp Phân viện Báo chí – tuyên
truyền Hà Nội và hiện là Phó tổng biên tập tạp chí Văn Nghệ Quân Đội. Cô gái trẻ này
từng đạt giải nhất cuộc thi viết truyện ngắn của tạp chí Văn nghệ quân đội năm 19981999. Nhiều truyện ngắn của chị đã được chuyển thể thành phim. Những tác phẩm của
chị thường có đề tài về cuộc sống người dân miền núi: tập truyện ngắn Những buổi
chiều ngang qua cuộc đời, tiểu thuyết Dưới bóng cây sồi, kịch bản Cô gái xinh đẹp.


Tiếng đàn môi sau bờ rào đá là truyện ngắn đã được đạo diễn Ngô Quang Hải chuyển
thể thành kịch bản phim Chuyện của Pao. Bộ phim này vừa qua đã đoạt giải Cánh diều
vàng 2005 cho phim truyện nhựa xuất sắc nhất.
Giống như Nguyễn Ngọc Tư, ngay từ đầu, Đỗ Bích Thúy đã buộc người ta phải nhớ tới
chị qua một văn phong riêng đậm chất miền núi, tác giả Điệp Anh đã cảm nhận: “Thế
mạnh của Đỗ Bích Thúy là đời sống người Tây Bắc với những không gian vừa quen vừa
lạ, với những phong tục tập quán đặc thù, khiến người đọc luôn thấy tò mò và bị cuốn
hút. Trong truyện của Đỗ Bích Thúy, không gian Tây Bắc hiện lên đậm nét, để lại dư vị
khó quên trong lòng độc giả, dù người đọc vẫn chưa thể hết quyến luyến với những áng

văn thơ dặt dìu tiếng sáo, tiếng khèn, la đà với rượu nồng bếp lửa của núi rừng Tây Bắc
trong các sáng tác của các bậc tiền bối như Tô Hoài, Chế Lan Viên, Tố Hữu…” [Tr3,
49].
Cảm nhận đó còn thuyết phục hơn khi Trung Trung Đỉnh, một nhà văn chuyên
viết về đề tài miền núi đã viết: “Đỗ Bích Thúy có khả năng viết truyện về cảnh sinh hoạt
truyền thống của người miền cao một cách tài tình. Không truyện nào là không kể về
cách sống, lối sinh hoạt, nết ăn ở và cả quang cảnh sinh hoạt lễ hội, phong tục tập quán.
Truyện nào cũng hay cũng mới, cũng lạ mặc dù tác giả không hề cố ý đưa vào chi tiết lạ.
Thế mà đọc đến đâu ta cũng sững sờ và bị chinh phục bở những chi tiết rất đặc sắc chỉ
người miền cao mới có.[tr8,58]
Cái lạ mà Trung Trung Đỉnh cảm nhận thấy cũng rất gần gũi với cảm giác về cái lạ
mà nhà văn Chu Lai khi đọc văn Đỗ Bích Thúy. Trong bài Cái duyên và sức gợi của hai
giọng văn trẻ, nhà nghiên cứu Chu Lai viết: “Đọc Thúy, người ta có cảm giác như được
ăn một món ăn lạ, được sống trong một mảnh đất lạ mà ở đó tràn ngập những cái rất
riêng đậm đặc chất dân gian của hương vị núi rừng, của con suối chảy ra từ khe đá lạnh,
của mây trời đặc sánh “như một bầy trăn trắng đang quấn quyện vào nhau”, của mùi
ngải đắng, mần tang, của những nét ăn, nét ở, phong tục tập quán còn giữ nguyên vẻ
hoang sơ, thuần phác, của ánh trăng “giữa mùa cứ rọi vào nhà cả đêm, trăng đi một
vòng cửa trước ra cửa sau”, của những trái tim con gái vật vã, cháy bùng theo tiếng
khèn gọi tình dưới thung xa, của bếp lửa nhà sàn và tiếng mõ trâu gõ vào khuya khoắt,
của những kiếp sống nhọc nhằn và con bìm bịp say thuốc, say rượu ngủ khì bên chân
chủ…” [Tr102,65]
Nhà phê bình Nguyễn Hoàng Linh Giang khi nghiên cứu tìm hiểu tiểu thuyết Bóng
của cây sồi đã nhận thấy những nét đặc sắc trong văn phong của Đỗ Bích Thúy: Tính xã
hội, tính nhân văn, lòng trắc ẩn và khao khát của nhà văn đã được gửi gắm vào từng
trang viết. Nó đã được nói qua nhân vật, qua giọng kể không mới lạ nhưng đằm lắng và


nhiều cảm xúc của Đỗ Bích Thúy. Hiện tại, quá khứ, chuyện mới, chuyện cũ đan xen, cài
quấn nhau như dòng chảy của cuộc sống muôn đời nay tiếp nối, tiếp nối không dứt. Lối

dẫn chuyện tự nhiên và không gò bó, cách miêu tả thiên nhiên và đời sống của miền đất
cực bắc đất nước khá sinh động là ưu điểm nổi trội của tiểu thuyết này.
Trong văn chương, Đỗ Bích Thúy cũng không quá ồn ào, những câu văn của chị
như những dòng chảy ký ức, mãnh liệt và bản năng
*Tóm lại: Chúng tôi nhận thấy có nhiều ý kiến phê bình, nghiên cứu về những đổi
mới, những cách tân nghệ thuật trong tác phẩm truyện ngắn của các tác giả Nguyễn Thị
Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy. Những công trình nghiên cứu về các tác giả
trên một mặt có nhiều quan điểm khác nhau, mặt khác đều chưa hoặc chỉ phần nào chạm
tới những đổi mới nghệ thuật. Người viết chưa thấy công trình nào quan tâm nghiên cứu
từng bước tìm tòi sáng tạo nghệ thuật truyện ngắn của các tác giả trên một cách đầy đủ và
có hệ thống tính đến thời điểm hiện tại. Trên cơ sở những ý kiến đã có, chúng tôi muốn
phân tích, bổ sung thêm một số vấn đề.
3. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1.Tìm hiểu một số cách tân nghệ thuật của một số cây bút nữ thời kỳ đổi mới có thể
đem lại cho chúng ta một cái nhìn sâu sắc trước sự vận động, chuyển biến của một tư duy
văn học mới về con người thời kỳ đổi mới.
Với một số lượng nhà văn nữ đông đảo như hiện nay thì việc tìm hiểu những phong
cách nghệ thuật của từng nhà văn để đi đến cái nhìn chung thống nhất về diện mạo của
văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới là một vấn đề khá phức tạp. Vì thế, trong phạm vi đề
tài luận văn chúng tôi chỉ dừng lại tìm hiểu một số nhà văn nữ tiêu biểu đã tạo dấu ấn
riêng trong truyện ngắn thời kỳ đổi mới cũng như đã giành được sự đón nhận nhiệt tình
của công chúng độc giả, đặc biệt là nữ giới, đó là: Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc
Tư, Đỗ Bích Thuý.
Trên cơ sở đó, chúng tôi tiến hành khảo sát để có cái nhìn hệ thống hơn về quá trình
sáng tác của các tác giả nữ trên xét trên phương diện thể loại vào đời sống văn học nước
ta thời kỳ 1986-2006 qua đó sẽ chỉ ra được một số dấu hiệu cơ bản trong sự vận động của
thể loại truyện ngắn. Chúng tôi cũng cố gắng thử kiến giải một số vấn đề về xu hướng
vận động của thể loại truyện ngắn từ phương diện quan niệm nghệ thuật đến góc độ thi
pháp thể loại.



Chúng tôi không bỏ qua những truyện ngắn về người phụ nữ của các tác giả nam để
có sự so sánh đánh giá toàn diện nhất về hình tượng người phụ nữ trong truyện ngắn thời
kỳ đổi mới.
Chúng tôi cũng quan tâm nhiều đến các bài nghiên cứu của các tác giả trong lĩnh
vực lí luận văn học: lý luận về truyện ngắn, lý luận về hình tượng như Phan Cự Đệ,
Phương Lựu, Bùi Việt Thắng…góp phần tạo dựng cơ sở khoa học cho vấn đề này.
3.2. Chọn đề tài Tìm hiểu một số cách tân nghệ thuật trong truyện ngắn của một số cây
bút nữ thời kỳ 1986-2006 ( Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thuý),
chúng tôi tìm hiểu ở ba phương diện:
- Những cách tân nghệ thuật trên phương diện kết cấu và tính huống truyện
- Sự đổi mới trong cách xây dựng nhân vật
- Sự đổi mới về nghệ thuật trần thuật ( Ngôn ngữ và giọng điệu)
4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã phối hợp vận dụng các phương pháp
sau:
4.1. Phƣơng pháp hệ thống:
Những cách tân nghệ thuật truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ, Đỗ Bích Thuý trên
các phương diện: quan niệm nghệ thuật, cốt truyện, kết cấu, nhân vật, trần thuật…cần
được nhìn nhận một cách hệ thống. Mỗi phương diện là một tiểu hệ thống riêng nằm
trong hệ thống lớn là toàn bộ sáng tác của các tác giả nữ trên. Đồng thời, phải đặt sáng
tác của các tác giả nữ ấy trong hệ thống chung của văn học Việt Nam để thấy vị trí và
đóng góp riêng của các tác giả trong tiến trình đổi mới, hiện đại hoá văn học nước nhà.
4.2. Phƣơng pháp so sánh:
Chúng tôi sử dụng phương pháp so sánh đối chiếu để thấy được sự đổi mới nghệ
thuật qua từng chặng đường truyện ngắn của các tác giả Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn
Ngọc Tư, Đỗ Bích Thuý. Đồng thời, chúng tôi tiến hành so sanh tác phẩm của các tác giả
nữ đó với nhau và với các nhà văn khác trong cùng thời kỳ để ghi nhận đóng góp của họ
cho sự phát triển của văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới.
4.3. Phƣơng pháp phân tích tổng hợp, khái quát

Phân tích tổng hợp là phương pháp quan trọng.Thông qua đó, ta thấy được sự cảm
nhận riêng của từng nhà văn về con người và cuộc sống. Bên cạnh đó, mọi biểu hiện sinh
động trong sáng tác cần được soi chiếu bằng nhiều góc nhìn dưới con mắt phân tích. Từ
đó chúng tôi tổng hợp khái quát các kết quả phân tích để đi đến kết luận minh chứng cho
những luận điểm mà luận văn đưa ra.
5. CẤU TRÚC LUẬN VĂN


Ngoài phần mở đầu và phần kết luận và phần thư mục tham khảo, nội dung chính
của luận văn gồm ba chương như sau:
Chương 1: Những đổi mới về cốt truyện và kết cấu
Chương 2: Những đổi mới trên phương diện nhân vật
Chương 3:Những cách tân trên phương diện ngôn ngữ và giọng điệu trần thuật

PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: NHỮNG ĐỔI MỚI VỀ CỐT TRUYỆN VÀ KẾT CẤU
1.1.Cốt truyện và sự mở rộng dung lƣợng hiện thực


Nếu tác phẩm trữ tình phản ánh hiện thực trong sự cảm nhận chủ quan về nó, thì
tác phẩm tự sự lại tái hiện đời sống trong toàn bộ tính khách quan của nó. Tác phẩm tự
sự phản ánh hiện thực qua bức tranh mở rộng của đời sống trong không gian, thời gian,
qua các sự kiện, biến cố xảy ra trong cuộc đời con người”[Tr385,13]. Phương thức phản
ánh hiện thực qua các sự kiện, biến cố và hành vi con người làm cho tác phẩm tự sự trở
thành một câu chuyện về ai đó hay về một cái gì đó. Cho nên, tác phẩm tự sự bao giờ
cũng có cốt truyện. Điểm khác biệt cơ bản giữa tác phẩm tự sự và tác phẩm trữ tình chính
là yếu tố cốt truyện. Vì vậy, ta có thể khẳng định cốt truyện trong tác phẩm tự sự chiếm
một vị trí vô cùng quan trọng góp phần hình thành nên đặc trưng của thể lọai.
Theo Từ điển thuật ngữ văn học thì “cốt truyện là hệ thống các sự kiện cụ thể, được
tổ chức theo yêu cầu tư tưởng và nghệ thuật nhất định, tạo thành bộ phận cơ bản, quan

trọng nhất trong hình thức động của tác phẩm văn học thuộc các loại tự sự và kịch [13].
Có thể tìm thấy qua một cốt truyện hai phương diện gắn bó hữu cơ. Một mặt, cốt
truyện là một phương diện bộc lộ nhân vật, nhờ cốt truyện, nhà văn thể hiện sự tác động
qua lại giữa các tính cách nhân vật, mặt khác, cốt truyện còn là phương tiện để nhà văn
tái hiện các xung đột xã hội. Cốt truyện vừa góp phần bộc lộ có hiệu quả đặc điểm mỗi
tính cách, tổ chức tốt hệ thống tính cách, lại vừa trình bày một hệ thống sự kiện phản ánh
chân thực xung đột xã hội, có sức mạnh hấp dẫn và lôi cuốn người đọc.
Cốt truyện là một hiện tượng phức tạp. Trong thực tế văn học, cốt truyện các tác
phẩm hết sức đa dạng, kết tinh truyền thống dân tộc, phản ánh những thành tựu văn học
của mỗi thời kỳ lịch sử, thể hiện phong cách, tài năng nghệ thuật của nhà văn [Tr100.
13].
Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân lại đưa ra quan niệm khác về cốt truyện: “Cốt
truyện là một phương diện của lĩnh vực hình thức nghệ thuật, nó chỉ lớp biến cố của hình
thức tác phẩm. Chính hệ thống biến cố tạo ra sự vận động của nội dung cuộc sống được
miêu tả trong tác phẩm. Cốt truyện là một phẩm chất có giá trị quan trọng của văn học,
sân khấu, điện ảnh và các nghệ thuật cùng loại. Trong các thể loại văn học, các cốt
truyện là thành phần quan trọng thiết yếu của tự sự và kịch, nhưng thường không có mặt
trong các tác phẩm trữ tình” [Tr 114, 5]
Dẫn luận nghiên cứu văn học do G.N. Pôpêlốp chủ biên nêu khái quát về cốt
truyện: “Các tác phẩm tự sự và kịch, miêu tả các sự kiện, hành động trong đời sống nhân
vật diễn ra trong không gian và thời gian. Phương diện này của sáng tác nghệ thuật được
gọi bằng thuật ngữ cốt truyện.[Tr 229,25]
Vậy ta có thể đi đến kết luận về cốt truyện: Cốt truyện là một hệ thống các sự kiện,
biến cố phản ánh những diễn biến của cuộc sống một cách nghệ thuật làm cho tính cách
của nhân vật hình thành và phát triển. Đồng thời, cốt truyện còn là phương tiện để nhà


văn tái hiện các xung đột xã hội nhằm làm sáng tỏ chủ đề - tư tưởng của tác phẩm, qua đó
thể hiện phong cách tài năng nghệ thuật của nhà văn.
Cốt truyện là thành phần quan trọng thiết yếu của tự sự và kịch. Nó thường trải qua

một tiến trình có vận động, hình thành, phát triển và kết thúc. Tuy vậy, ở những cốt
truyện cụ thể không phải bao giờ cũng có đầy đủ các thành phần đã nêu. Và để một cốt
truyện hay, hấp dẫn phụ thuộc rất nhiều vào hiện thực cuộc sống với những quy luật phát
triển tất yếu của nó và phụ thuộc vào năng lực, phẩm chất sáng tạo, đặc biệt là ý đồ tư
tưởng của tác giả. Bởi vậy, mỗi nhà văn trên con đường sáng tạo nghệ thuật đều phải nỗ
lực tìm tòi những cốt truyện phù hợp để biểu hiện tư tưởng một cách sâu sắc. Tìm hiểu về
cốt truyện chính là một góc độ để nắm bắt chủ đề tư tưởng, cũng như giá trị thẩm mỹ của
tác phẩm, đồng thời cho ta thấy được tài năng và sự sáng tạo không ngừng nghỉ của
người nghệ sỹ.
Tác phẩm tự sự phản ánh đời sống qua việc lựa chọn, trình bày hệ thống những sự
kiện, chi tiết, tình tiết khác nhau. Nghĩ về truyện ngắn, Nguyễn Minh Châu hình dung
“Truyện ngắn như mặt cắt giữa một thân cây cổ thụ: chỉ liếc qua những đường vân trên
cái khoanh gỗ tròn tròn kia, dù sau trăm năm vẫn thấy cả cuộc đời của thảo mộc [Tr332,
9]. Hay nói một cách cụ thể hơn: “Khác với tiểu thuyết là thể loại chiếm lĩnh đời sống
trong sự đầy đặn và toàn vẹn của nó, truyện ngắn thường hướng tới việc khắc họa một
hiện tượng, phát hiện một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh, trong đời sống tâm hồn
con người”[Tr31, 18]. Do vậy, hướng tiếp cận và cách thức lựa chọn, xây dựng cốt truyện
của truyện ngắn cũng có những đặc trưng riêng. Được quan niệm “là một hệ thống các sự
kiện phản ánh những diễn biến của cuộc sống và nhất là các xung đột xã hội một cách
nghệ thuật, qua đó các tính cách hình thành và phát triển trong những mối quan hệ qua
lại của chúng nhằm làm sáng tỏ chủ đề tư tưởng của tác phẩm[33], cốt truyện truyện
ngắn có nhiều biểu hiện đa dạng và phong phú thể hiện những chức năng, giá trị khác
nhau trong từng giai đoạn phát triển cụ thể của thể loại.
Nguyễn Minh Châu đã nhấn mạnh vai trò của cốt truyện: “Trong những truyện
ngắn hay, bao giờ người viết cũng biết lợi dụng cốt truyện để tạo độ căng” [Tr 230, 34].
Nhà văn Ma Văn Kháng khi viết truyện ngắn có nhận xét: “Với tôi, theo một thói quen đã
trở thành thông lệ, trước hết hiển nhiên là phải có được một cốt truyện”.. Gớt cũng đã đề
cao vai trò của cốt truyện trong sáng tạo truyện ngắn: “Đúng vậy, còn gì quan trọng hơn
cốt truyện và nếu thiếu nó cả nền lí luận nghệ thuật sẽ còn ra gì nữa? Nếu cốt truyện
không dùng được thì tài năng cũng sẽ lãng phí vô ích. Và chính vì nghệ sỹ hiện nay

không có những cốt truyện xứng đáng nên tình hình nghệ thuật hiện đại mới bi đát như
thế.


Để tạo nên sức sống bền lâu cho thể loại, nhà văn phải luôn có ý thức cách tân và
sáng tạo trong lao động nghệ thuật, công việc đó, “xét đến cùng là sự cải tạo các phương
thức tổ chức nghệ thuật của tác phẩm, phản ánh những thay đổi trong phạm vi và tính
chất của mối quan hệ con người – thực tại[6]. Hơn nữa, trong văn học thời kỳ đổi mới, cả
nhà văn và độc giả đều có nhu cầu cao hơn trong sáng tạo và cảm thụ nghệ thuật, muốn
nhận thức, khám phá cuộc sống “ở bề chưa thấy, ở cái bề sâu, ở cái bề sau, ở cái bề xa
(Chế Lan Viên). Cho nên, với vai trò là “Phương tiện bộc lộ tính cách” đa dạng và
“Phương tiện để nhà văn thể hiện các xung đột xã hội” ngày càng trở nên phức tạp và
biến hóa hơn, truyện ngắn giai đoạn này thực sự lên ngôi khi tạo ra nhiều cốt truyện hay,
độc đáo và có khả năng chuyển tải nhiều nội dung xã hội sâu sắc. Vì thế, giá trị chủ yếu
của cốt truyện không đơn thuần ở chỗ có hay không có cốt truyện mà ở chiều sâu nội
dung tư tưởng mà nó dung chứa được. Cốt truyện do vậy không chỉ là tổng hợp giản đơn
các chi tiết, biến cố mà được tổ chức một cách hệ thống những sự kiện, tình huống đa
dạng, hàm chứa sự dồn nén tích tụ nhiều trạng thái của đời sống. Cốt truyện theo xu
hướng hiện nay không chỉ thực hiện chức năng phản ánh, tái hiện đời sống, xây dựng tính
cách nhân vật mà còn là sự khám phá, lí giải sâu sắc hiện thực xã hội và những số phận
cá nhân. Điều đó cho thấy “ Truyện ngắn thời kỳ này đã mở ra nhiều hướng tìm tòi cả
trong tiếp nhận hiện thực lẫn thi pháp thể loại” [Tr57, 36].
Thực chất của việc tạo nên nhiều cốt truyện hay, có chiều sâu là cách thức tạo nên
hiệu quả nghệ thuật cao trong một hình thức nhỏ, là “Khả năng ôm trùm bao quát hiện
thực, là sức chứa chất liệu đời sống” hay khả năng của nội dung phản ánh hiện thực[34].
Vấn đề của một số truyện ngắn hiện nay là vấn đề dung lượng hiện thực và khả năng
phản ánh cuộc sống. Xu hướng “Tiểu thuyết hóa” thể loại truyện ngắn được nhà văn
Nguyên Ngọc đánh giá xác đáng “Dung lượng truyện ngắn ngày nay rất lớn, trong độ ba
trang mấy nghìn chữ mà rõ một cuộc đời, một kiếp người, một thời đại. Các truyện ngắn
bây giờ rất nặng. Dung lượng của nó là dung lượng của cả cuốn tiểu thuyết [34].Cho

nên, “Hầu hết mỗi truyện ngắn là cả một cuộc đời, một số phận thậm chí một thời đại’
[34]. Sự thâm nhập mạnh mẽ của tư duy tiểu thuyết tạo cho truyện ngắn giai đoạn này
“Một sức chứa lớn hơn nhiều so với bản thân chúng và mở rộng khả năng thể loại đến độ
ngạc nhiên [Tr4,4].
Trước năm 1975, cốt truyện ít nhiều chịu “áp lực của sử thi”. Truyện ngắn chú ý
tạo dựng những cốt truyện chặt chẽ với tình huống gay cấn, căng thẳng. Âm hưởng chủ
đạo là ngợi ca, khẳng định. Truyện ngắn giai đoạn này cũng đã hướng tới cốt truyện tâm
lý, phản ánh vẻ đẹp nội tâm của con người nhưng chưa có nhiều trang thể hiện sâu sắc
diễn biến tâm lý và cái tôi nội cảm của nhân vật. Sau 1975, nhất là trong những năm gần
đây, thực tiễn văn học đã chứng minh cái tạo nên sức hấp dẫ lôi cuốn của truyện ngắn


không chỉ là “những cốt truyện rạch ròi, những sự kiện trọng đại, những tình huống căng
thẳng, những xung đột bên ngoài, mà còn là những cảnh ngộ đời thường, những tính
cách nhân vật giàu tâm trạng và nhận thức cá nhân với cuộc đời và những người sống
bên mình”[73]. Cốt truyện đã vận động đổi thay trong sự phát triển của thể loại. Xuất
hiện những cốt truyện đầy kịch tính, những cốt truyện giàu tâm trạng, cốt truyện có đầu
có cuối, cốt truyện “vô hậu”, phi kết cấu, có cốt truyện phản ánh hiện thực đương đại, có
cốt truyện ảo, cổ tích. Với khả năng biến hóa linh hoạt trong cách xây dựng cốt truyện,
truyện ngắn là thể loại thuận lợi để biểu đạt một cách tự nhiên, cụ thể những nỗi niềm,
những tâm sự thầm kín, đầy bí ẩn của con người.
Truyện ngắn phát triển đa dạng cùng với sự nổi trội hình thức như truyện ngắn kỳ
ảo, giả lịch sử, nhại cổ tích, truyện ngắn dòng ý thức. Truyện ngắn kỳ ảo là đi sâu khám
phá thế giới tinh thần hết sức trừu tượng khó nắm bắt của con người để từ đó thấu hiểu
con người ở phần nhân tính mơ hồ huyền diệu ấy. Truyện ngắn giả lịch sử là dùng chất
liệu lịch sử làm cái vỏ nghệ thuật để truyền những thông điệp về hiện tại. Truyện ngắn
dòng ý thức (tâm trạng) với đặc điểm phi cốt truyện: Truyện ngắn không kể lại được bởi
không có cốt truyện tiêu biểu, nếu có là cốt truyện bên trong, cốt truyện tâm lý phản ánh
trạng thái tâm lý điển hình của nhân vật.
Bằng cách diễn đạt khác với những phương thức thể hiện đa dạng vừa truyền thống

vừa hiện đại, truyện ngắn trong một thời gian không dài đã làm được nhiều vấn đề mà
tiểu thuyết chưa kịp làm. Truyện ngắn đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể trong xây
dựng cốt truyện, trong cách nhìn nghệ thuật về con người và trong sáng tạo ngôn từ. Tiểu
thuyết là cái nhìn tập trung xoáy sâu vào những vấn đề của con người cá nhân cũng như
mối quan hệ của cá nhân và xã hội trên hành trình tìm kiếm và khẳng định những giá trị
nhân bản, nhà văn chú ý vào số phận, tính cách của nhân vật mà soi chiếu lại lịch sử xã
hội để khơi gợi những vấn đề triết lý nhân sinh. Trái lại, trong truyện ngắn, nhà văn chú
trọng vào việc xây dựng tình huống truyện: “Quan trọng nhất của truyện ngắn là tạo ra
một tình huống nào đó từ tình huống nổi bật của tính cách nhân vật” (Nguyễn Đăng
Mạnh). Nhà văn Nguyễn Kiên tâm đắc: “Điều quan trọng đối với truyện ngắn là phải lựa
chọn cho được cái tình thế, nó bộc lộ nét chủ yếu của tính cách số phận, nó đặc trưng
cho một hiện tượng xã hội [69].
Trong bài Những thành tựu của truyện ngắn sau 1975, tác giả Bích Thu đánh gía
tổng quát như sau: “Trong những năm gần đây, truyện ngắn có xu hướng tự nới mở đa
dạng hơn trong cách diễn đạt. Cốt truyện vận động đổi thay trong sự phát triển của thể
loại, có những cốt truyện vô hậu, phi kết cấu, có cốt truyện phản ánh hiện thực đương
đại, cốt truyện ảo, cổ tích…Truyện ngắn hôm nay ngày càng tăng cường cốt truyện bên
trong, biểu lộ trạng thái tâm tưởng của nhân vật chính, giảm bớt cốt truyện hành động


bên ngoài. Cốt truyện với đầy đủ chi tiết sự kiện không còn chiếm giữ vai trò cơ bản mà
lùi xuống hàng thứ yếu sau tính cách”. Đặc biệt, tác giả chỉ rõ ra rằng: “Một số cây bút
nữ đã góp phần làm nên sự đa dạng của từ ngữ sau 1975 bằng năng lực biểu cảm cuộc
sống qua thế giới tâm hồn theo dòng tâm trạng của nhân vật”.
Truyện ngắn của các nhà văn nữ đã mở ra một luồng sinh khí mới cho văn học thời
kỳ đổi mới. Lối viết trẻ trung đầy sáng tạo, cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh độc đáo của họ
đã thu hút được sự quan tâm của rất nhiều độc giả đương đại. Nói như nhà văn Bùi Hiển
“Nét sinh sắc là ở chỗ cây bút trẻ không hề hồn nhiên một cách dễ dãi, trái lại văn phong
mang vẻ trầm ngâm, để suy ngẫm về cuộc sống, về những thân phận khác nhau” [59].
1.1.1. Cốt truyện đan xen nhiều mạch truyện

Cốt truyện là những đường dây sự kiện, “hệ thống sự kiện cụ thể”, [Tr99,14] là sự
xâu chuỗi, liên kết, tổ chức các chi tiết, tình huống “theo yêu cầu tư tưởng và nghệ thuật
nhất định [Tr99,14] . Khi xây dựng cốt truyện, nhà văn có thể tạo ra một hoặc nhiều
đường dây sự kiện đan xen và bổ sung cho nhau nhằm làm nổi bật nội dung tư tưởng của
tác phẩm. Do vậy, mạch truyện có thể được hiểu là những đường dây chi tiết, sự kiện
nhất định trong từng cốt truyện, được tạo nên theo những khả năng kết hợp khác nhau,
một câu chuyện có thể có một hoặc nhiều mạch chuyện. Suy cho cùng, việc sáng tạo
mạch chuyện phụ thuộc chủ yếu vào ý đồ sáng tác và quan niệm về giá trị cốt truyện của
tác giả. Sự phức tạp và đầy biến động của đời sống xã hội sau đổi mới đã làm nảy sinh rất
nhiều phương diện và phạm vi hiện thực mới mẻ cần được khám phá, lí giải. Xu hướng
phản ánh cuộc sống đa chiều đã xuất hiện trong nhiều truyện ngắn thời kỳ sau này. Sự
chuyển đổi từ loại cốt truyện một mạch thẳng sang cốt truyện đan xen nhiều mạch chuyện
là một biểu hiện rõ nét của sự đổi mới nghệ thuật trong truyện ngắn hiện đại nói chung và
của các cây bút nữ thời kỳ này nói riêng. Do đó, cốt truyện được tổ chức linh hoạt và tinh
tế hơn với nhiều ngả rẽ, nhiều mạch chuyện.
Trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư, ta thấy nhà văn đã tạo ra sự đan xen của
nhiều mạch truyện, mạch quá khứ và mạch hiện tại, hay sự song song tồn tại của cái thực
và cái ảo…Nhà văn thường xây dựng kiểu cốt truyện có sự xáo trộn về mặt thời gian
nghệ thuật, đan xen những sự kiện quá khứ và hiện tại để đối chiếu và soi tỏ nhằm khắc
họa sâu sắc hình tượng nhân vật và bộc lộ tối đa tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Trong
truyện ngắn của chị, cốt truyện thường được bắt đầu ở hiện tại sau đó trở về quá khứ rồi
lại quay về hiện tại. Ở một số truyện ngắn khác lại có sự đan xen giữa quá khứ và hiện
tại, tạo điều kiện cho nhân vật bộc lộ tình cảm, suy nghĩ, hành động của mình trong các
giai đoạn khác nhau. Tuy nhiên, sự kết hợp giữa quá khứ và hiện tại trong truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư không chỉ dựa trên diễn biến nội tâm của các nhân vật mà chúng ta còn
thấy được qua chính lối tổ chức các sự kiện của nhà văn. Chính sự hợp lý, lô gíc của các


sự kiện khiến cho chính các sự kiện trong quá khứ cũng hiện lên một cách rõ nét và gần
gũi như trong hiện tại. Mô hình cốt truyện này được khái quát như sau:

(1)
Thời điểm hiện tại: Nhân vật xuất hiện
(2)
Thời điểm quá khứ: Những hồi tưởng của nhân vật
(3)
Trở lại thời điểm hiện tại: Kết thúc truyện, những so sánh chiêm nghiệm
của nhân vật
Rất nhiều truyện ngắn của chị được xây dựng với mô hình cốt truyện trên, trong đó
triển khai các chi tiết, sự kiện tạo thành các mạch hiện tại – quá khứ - hiện tại khá linh
hoạt. Sự đảo lộn trật tự thời gian là một trong những cách kéo gần thời gian quá khứ về
với thời gian hiện tại, làm cho tất cả các sự kiện, sự việc đồng hiện cùng một lúc, làm nên
những mảng màu đa dạng của cuộc sống. Từ đó giúp người đọc có thể soi chiếu vấn đề
đặt ra trong tác phẩm dưới nhiều góc độ khác nhau,nhất là nó có khả năng hình thành
nhiều liên tưởng bất ngờ, phức tạp cho độc giả. Có những khi người đọc phải sắp xếp lại
trật tự thời gian của cốt truyện thì mới có thể hiểu được những bước diễn tiến của truyện.
Chính sự nhập nhằng, đôi khi khó phân định ranh giới giữa hiện tại và quá khứ ấy khiến
người đọc trong quá trình sắp xếp lại các sự việc theo thời gian, buộc phải có những suy
nghĩ sáng tạo và liên tục đặt ra những câu hỏi mang tính dự cảm, đoán định.
Sầu trên đỉnh Puvan của Nguyễn Ngọc Tư là một kiểu đan xen các mạch truyện khá
phức tạp. Trong cốt truyện mỗi nhân vật tạo nên một mạch truyện tồn tại độc lập. Sự sắp
xếp nhiều mạch truyện trong tác phẩm tạo nên cảm giác về một không khí ngột ngạt, sự
đan xen của nhiều số phân các nhân vật tạo nên cảm giác vừa cay đắng vừa xót xa. Câu
chuyện thứ nhất là chuyện về số phận nhân vật Dịu. Hai vợ chồng giả vờ li dị để cô đi
xuất khẩu lao động Đài Loan. Nhưng cô bị ông chủ Đài Loan hãm hiếp và có con với ông
ta. Bà chủ đẩy cô ra đường, cô trở về nước với hai bàn tay trắng và một cõi lòng cay đắng
tê tái. Không chấp nhận nổi sự tha thứ của chồng, mà cô nghĩ đó là lòng thương hại, cô
bỏ đi kiếm tiền bằng nghề làm gái trên thành phố. Tại đây, cô gặp Vĩnh, chàng họa sỹ có
tình yêu mãnh liệt với vẻ đẹp của những cây sầu. Câu chuyện thứ hai là chuyện về người
tu sỹ Colègan đã chết khi tận mắt chứng kiến vẻ đẹp của hoa sầu nở. Thứ ba là chuyện về
cuộc đời của Vĩnh, nhà bị cháy rụi trong bom đạn, người yêu đầu đời chết đuối, quá khứ

mờ mịt và tương lai vô vọng....Cuối cùng là câu chuyện của chú bé chăn dê với người mẹ
nghèo…Mỗi số phận có một nỗi niềm riêng. Và tác giả đã khéo léo lồng ghép chúng
trong câu chuyện chung đó là hành trình tìm đến cái đẹp của ba con người: một chú bé
chăn dê, một cô gái điếm và một nghệ sỹ. Cách ứng xử của ba người trước cái đẹp hoàn
toàn khác nhau. Chú bé căm ghét cây sầu nở hoa vì năm nào sầu nở làng cũng đói và dê
chết nên bỏ về trước. Người nghệ sỹ chết vì cái đẹp còn cô gái điếm đi xuống núi một


mình và không tin vào lời nguyền. Đằng sau những câu chuyện về từng số phận, từng
cuộc đời đó là cái dư âm còn khắc khoải trong những trang viết của Nguyễn Ngọc Tư.
Một nhân vật có thể tạo nên không chỉ một mạch truyện mà có thể đan xen nhiều
mạch bằng những đoạn hiện tại, quá khứ, suy tưởng, ước mơ…Trong “ Tiếng đàn môi
sau bờ rào đá” của Đỗ Bích Thúy, số phận của một người phụ nữ vùng cao được thể hiện
thông qua một hệ thống các chi tiết sự kiện. Truyện được bắt đầu bằng hình ảnh của thời
hiện tại cảm nghĩ của ông Chúng về gia đình khi nhìn thấy những đứa con của mình, và
cả bà Chúng nữa. Mới đọc truyện, người đọc cứ ngỡ như đang tiếp xúc với một gia đình
hạnh phúc, cha mẹ đã đến tuổi xế bóng về già mãn nguyện nhìn con cái trưởng thành.
Nhưng hóa ra không phải vậy. Đằng sau vẻ bình thản của từng con chữ là bao nhiêu nỗi
nhọc nhằn của đời người xuất hiện. Từ đó, truyện phân chia thành những khúc đoạn kể về
những thăng trầm của một gia đình, trong đó mỗi cá nhân là một cảnh đời, một số phận
chớ trêu rất đáng thương. Mỗi khúc đoạn có thể tồn tại độc lập như một câu chuyện, trở
thành những mạch phụ trong sự liên hệ chung nhằm lí giải chủ đề. Mạch diễn tiến của
truyện có thể sơ đồ hóa như sau:

Thời gian hiện tại:
Chuyện gia đình ông
Chúng
Thời gian quá khứ:
Trước tết một tháng
Thời gian quá khứ:

Kía lấy Chúng mà
không có con
Thời gian quá khứ: mẹ
Hoa về

MẠCH
THỨ 2
MẠCH
THỨ 1


Thời gian hiện tại:
Chuyện của May

MẠCH
THỨ 3

Thời gian hiện tại:
Chuyện tình của mẹ
già

Câu chuyện xoay về thời gian của quá khứ gần “trước tết một tháng…”, hình ảnh
của mẹ Hoa xuất hiện. Từ đó, người đọc ngạc nhiên trước sự xuất hiện của một nhân vật
mới trong mạch truyện. Mẹ Hoa là người đàn bà được cha của May đem về sau những
năm tháng đằng đãng sống với mẹ già mà không có con. Từ đó, mối tình tay ba của họ
bắt đầu. Truyện lại quay trở lại mạch quá khứ với những dòng hồi cố về cuộc sống của
một gia đình vùng cao, về cảnh làm dâu và làm mẹ hai đứa con chồng của mẹ già. Xen kẽ
trong mạch truyện lúc ở thì hiện tại, lúc lại dội về quá khứ nhức nhối của mẹ già là câu
chuyện tiếng kèn môi dặt dìu của May. Tiếng khèn môi ấy làm trái tim thiếu nữ xao
xuyến. Nhưng tiếng khèn môi ấy còn gợi lại những kỉ niệm không thể nào quên của mẹ

già về một thời trẻ đã qua…Có thể nói, thông qua cốt truyện về số những số phận khác
nhau của cuộc sống con người nơi vùng cao, Đỗ Bích Thúy muốn gửi gắm sự đồng cảm,
thấu hiểu và chia sẻ tận đáy sâu tâm hồn mình với số phận của những người phụ nữ. Có
thể thấy, với người phụ nữ vùng cao, những chuỗi ngày được coi là hạnh phúc nhất của
đời họ thường qua ngắn ngủi. Hẳn đó chỉ là những tháng ngày mới bước vào tuổi cập kê,
biết ửng hồng đôi má khi bắt gặp một ánh nhìn như thiêu như đốt trong buổi chợ, biết cất
cao giọng hát đáp lời một tiếng hát nồng nàn, tình tứ phía đám trai bên kia. Còn khi đã
lấy chồng, họ sẽ phải chấp nhận muôn vàn nỗi khổ cực do hủ tục lạc hậu, do cái đói,
nghèo, do tối tăm lạc hậu và hơn hết là do những định kiến xã hội gây ra. Phải chăng, bởi
đúng như Đỗ Bích Thúy đã viết: “Bởi cuộc đời thì dài, âu lo thì lớn, khát vọng thì xa nên
cái khoảnh khắc ấy mới quý giá và ý nghĩa biết nhường nào”.
Ta còn có thể bắt gặp rất nhiều truyện khác có cùng kiểu cốt truyện như thế này:
Hậu thiên đường, Cát đợi, Đêm dịu dàng…(Nguyễn Thị Thu Huệ), Gió không ngừng
thổi, Ngải đắng ở trên núi…(Đỗ Bích Thúy), Cánh đồng bất tận (Nguyễn Ngọc Tư).
Chức năng lớn nhất của loại cốt truyện này là khả năng bao trùm hiện thực cuộc sống
ngổn ngang, bề bộn, phức tạp; không chỉ phản ánh mà còn nhằm lí giải hiện thực. Nằm
trong mạch vận động chung của văn học thời hiện đại , truyện ngắn ngày nay với xu


hướng “tiểu thuyết hóa” đã tìm đến một lượng chi tiết, sự kiện đa dạng với những giá trị
biểu hiện mới, đã tố chức hệ thống chi tiết sự kiện một cách linh hoạt và sinh động hơn.
1.1.2. Cốt truyện giàu chi tiết sự kiện:
Cốt truyện là một hệ thống các chi tiết, sự kiện, biến cố được kết nối với nhau một
cách đa dạng, linh hoạt. Đối với truyện ngắn, chi tiết trở thành vấn đề sống còn: “Truyện
ngắn sống bằng các chi tiết…không khí, cảnh trí, tình huống, nhân vật, tính cách, hành
động, tâm tư, diễn biến…đều phải được tạo ra, dựng nên từ các chi tiết[3], bởi “truyện
ngắn cũng có thể chẳng có cốt truyện gì cả, không kể được nhưng truyện ngắn không thể
nghèo chi tiết[Tr85,3]. Với đặc điểm là “ngắn”, truyện ngắn không có chỗ cho những chi
tiết rườm rà, không có giá trị cho sự phát triển cốt truyện, xây dựng tính cách nhân vật và
bộc lộ chủ đề tư tưởng tác phẩm. Mọi chi tiết sự kiện tham gia vào cốt truyện phải được

chọn lọc kỹ càng và có tác dụng nhất định trong việc chuyển tải ý đồ nghệ thuật của tác
giả. Bên cạnh chi tiết, sự kiện là những việc có ảnh hưởng và tác động đáng kể đến tính
cách và số phận nhân vật, là chất liệu cơ bản tạo thành một cốt truyện. Khẳng định vai trò
của chi tiết sự kiện trong truyện ngắn đồng thời cần thấy rằng tính chất chức năng và sự
tổ chức của các loại chi tiết, sự kiện sẽ có những biến đổi nhất định phụ thuộc vào từng
giai đoạn phát triển của thể loại. Khảo sát truyện ngắn của các tác giả Nguyễn Thị Thu
Huệ, Đỗ Bích Thúy, Nguyễn Ngọc Tư, ta thấy có rất nhiều tác phẩm xuất hiện nhiều chi
tiết, sự kiện .
Trước hết, đó là chi tiết có tính điển hình cao. Những chi tiết này có tác dụng cá
thể hóa một đặc điểm tính cách của một loại nhân vật trong tác phẩm. Ví dụ, để diễn tả
đặc điểm phong tục cưới hỏi của người dân tộc vùng cao, Đỗ Bích Thúy đã lựa chọn các
hình ảnh “Ngày em về làm dâu, nhà tôi có bao nhiêu trai bản uống rượu say không về
được. Người Tả Choóng bảo nhờ em Dân có cái chữ hơn người nên ông Dìn mới chịu gả
con gái cho mà chỉ lấy ba mươi, chứ người như thế phải lấy cả trăm mới xứng. Trăm
đồng bạc trắng, trăm cân gà, trăm cân lợn, trăm lít rượu ngô, không phải nhà giàu mấy
đời thì chịu thôi, làm đến chết cũng không trả hết nợ” (Ngải đắng ở trên núi). Diễn tả tình
yêu của đôi trai gái vùng cao, tác giả lựa chọn hình ảnh của tiếng đàn môi sau bờ rào đá,
tiếng đàn cứ vang lên, như giục giã, như cuống quýt, lưu luyến bước chân của con người
(Tiếng đàn môi sau bờ rào đá). Để nhằm khắc họa hình ảnh của một thế giới khi con người
đã trải qua những đau khổ, cay đắng của cuộc đời, Nguyễn Thị Thu Huệ dùng hình ảnh
“hậu thiên đường”, hay những chi tiết về “cánh đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư để mô
tả về cuộc sống bấp bênh, không chốn neo đậu rõ ràng của con người…Những chi tiết
điển hình đó góp phần đắc lực trong việc chuyển tải nội dung tác phẩm và ý đồ nghệ
thuật của người nghệ sỹ.


Quan sát hiện thực dưới góc nhìn thế sự - đời tư, các tác giả còn lựa chọn những chi
tiết đời thƣờng, bình dị hàng ngày, những chi tiết, sự kiện có vẻ đơn giản, nhỏ bé, thậm
chí tản mạn nhưng lại có khả năng chuyển tải những vấn đề lớn lao của cuộc sống.
Truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ có nhiều khả năng dồn nén và dung chứa một lượng

lớn chi tiết, sự kiện. Sự kiện nọ nối tiếp sự kiện kia tái hiện cả cuộc đời số phận nhân vật.
Với sự trình bày hệ thống chi tiết sự kiện liên tiếp, người đọc sẽ có cái nhìn bao quát diễn
biến cuộc đời nhân vật, những biến động thăng trầm trong số phận con người, thậm chí
những góc khuất nhỏ trong tâm trạng con người cũng được tỏ bày rõ ràng. Đọc truyện
ngắn Giai nhân, người đọc có cảm giác như quay vòng trong mớ hỗn độn của những
giằng xé nội tâm của nhân vật Sao. Người đàn bà đầy kiêu hãnh đã bị đẩy đến nỗi cô đơn
cùng cực. Trong căn phòng câm lặng, Sao phải đối mặt với chính mình, đối diện với cái
điện thoại “không tiếng vang”, với cánh cửa “không một tiếng gõ”, với “mùi thơm ngàn ngạt”
của bún chả, với tiếng chửi rủa của nhà hàng xóm. Tất cả đều khiến Sao phải tuyệt vọng
thốt lên: “Ai đến với tôi bây giờ”. Không dừng lại ở đấy, Thu Huệ đã để cho nhân vật của
mình phải “rùng mình ớn lạnh” thực sự khi nhận ra vòng quay của số phận qua chi tiết
cuối của tác phẩm. Sao cùng những người hàng xóm đi phúng viếng người phụ nữ chết
trẻ. Giữa tiếng khóc “rộ lên ảo não”, Sao cúi nhìn “khuôn mặt người đàn bà chỉ còn lại là
một khung xương, hai bên tóc đen nhánh xõa mềm. Và tất cả cả là những cái hốc. Hốc mắt thì
xanh, hốc miệng thì đỏ”. Gương mặt người đàn bà ghê rợn giúp cô nhận ra rằng: “Cuộc
sống là vô giá”. Tác giả đã rất sắc sảo và tinh tế khi lựa chọn chi tiết đời thường nhưng

cũng rất đắt giá để khắc họa tâm trạng của người phụ nữ.
Chúng ta có thể gặp rất nhiều các chi tiết đời thường trong truyện ngắn của Nguyễn
Ngọc Tư, đó là hình ảnh ông già Chín với dáng người “gầy nhom, nhỏ thó nhưng tốt bụng
lởi xởi” (Cuối mùa nhan sắc), là hình ảnh em bé gái “chắt nước cơm tời sau bếp than” hồn
nhiên sống động (Ngọn đèn không tắt), là hình ảnh chàng trai miệt vườn sông nước Nam
Bộ “xoay trần với mười tám công kì hồ” (Lý con sáo sang sông), là hình ảnh người phụ nữ
chất phác khi yêu không biết làm gì, muốn nhìn thấy người mình yêu cho nên khi đi bán
hàng: “Chị lấy cớ bán thật rề rà và để nhìn anh lâu hơn nữa…Nhìn vậy thôi chứ không nói gì
hết “con trâu không nói sao cái cọc nói được”…Trong văn chương Đỗ Bích Thúy, đó là
hình ảnh “Ai cũng biết mang rượu đi chợ hai bảy để người bán người mua uống cùng với
nhau”, là hình ảnh của “con ma rừng muốn bắt ai thì đi vào mồm người ấy mới xuống bụng lôi
ruột đi được…”
Truyện của Nguyễn Ngọc Tư có khả năng dồn nén chi tiết cao độ, đặc biệt nhà văn

sử dụng các chi tiết rất sắc sảo tạo nên dụng ý nghệ thuật riêng cho từng tác phẩm. Trong
“Cánh đồng bất tận”, ta thấy tài năng của tác giả trong việc dồn nén dung lượng các chi
tiết. Đọc xong một truyện ngắn, người đọc có cảm giác như vừa trải qua một cuốn tiểu


×