Tải bản đầy đủ (.doc) (135 trang)

XUNG đột tâm lý GIỮA THIẾU NIÊN với CHA mẹ TRONG các GIA ĐÌNH có QUY mô KHÁC NHAU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (773.98 KB, 135 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
----------

TRẦN THỊ TUYẾT MAI

XUNG §éT T¢M Lý GI÷A THIÕU NI£N VíI CHA MÑ
TRONG C¸C GIA §×NH Cã QUY M¤ KH¸C NHAU
Chuyên ngành: Tâm lý học
Mã số: 60.31.04.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. DƯƠNG THỊ DIỆU HOA

HÀ NỘI - 2013


Lời====88====
cảm ơn!
Với tình cảm chân thành và lòng biết ơn sâu sắc, cho phép em được gửi
lời cám ơn đến:
Các thầy cô trong khoa Tâm lý – Giáo dục, phòng Sau đại học, trường Đại
học sư phạm Hà Nội đã tham gia giảng dạy, quản lý và giúp đỡ em hoàn thành
khóa học này.
Tiến sĩ Dương Thị Diệu Hoa, người trực tiếp hướng dẫn khoa học đã tận tình
chỉ bảo, động viên và giúp đỡ em về kiến thức cũng như phương pháp luận trong
suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn thạc sĩ.
Ban Giám hiệu, các thầy cô giáo, các bậc phụ huynh và các em thiếu niên tại
trường Trung học cơ sở Cổ Nhuế - Từ Liêm - Hà Nội đã tạo điều kiện cho em trong
quá trình tiến hành điều tra và nghiên cứu tại trường.


Trong quá trình nghiên cứu, do điều kiện và khả năng còn có những hạn
chế nên luận văn không tránh khỏi thiếu sót. Em kính mong được sự bổ sung,
đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo để luận văn của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cám ơn!
Hà Nội, ngày 20 tháng 09 năm 2013

Trần Thị Tuyết Mai


MỤC LỤC
25. Conflict with Friends and Family Impairs Teens' Social Functioning September 14th,
2012, ....................................................................................112


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9

Chữ viết tắt
ĐTB

QH

SHHN
TV
TB
TB

XĐTL

Chữ viết đầy đủ
Điểm trung bình
Gia đình
Quan hệ
Sinh hoạt hằng ngày
Thành viên
Thứ bậc
Trung bình
Xung đột
Xung đột tâm lý


DANH MỤC BẢNG
25. Conflict with Friends and Family Impairs Teens' Social Functioning September 14th,
2012, ....................................................................................112


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
1.1. Cơ sở lý luận
Với trẻ em, gia đình (GĐ) là môi trường đầu tiên và là tác nhân quan trọng
đảm bảo sự sống cho trẻ, chăm sóc và giáo dục trẻ đạt được đến mức tối đa những
giá trị xã hội cơ bản. GĐ là nhóm xã hội đầu tiên trẻ tham gia với tư cách là thành

viên. Tương tác giữa các thành viên trong GĐ, đặc biệt là cha mẹ với con sẽ dẫn
đến sự tương hợp tâm lý tạo nên bầu không khí tâm lý GĐ hòa thuận. Tuy nhiên,
trong quá trình tác động qua lại giữa cha mẹ với con cũng làm xuất hiện những mâu
thuẫn không thể giải quyết dẫn đến xung đột tâm lý (XĐTL). XĐTL giữa con với
cha mẹ trong GĐ là xung đột (XĐ) mang tính nền tảng, cần phải có sự giải quyết
kịp thời để thúc đẩy sự phát triển của trẻ em.
Lứa tuổi thiếu niên thường được bắt đầu từ 11, 12 tuổi và kết thúc vào lúc
14, 15 tuổi. Tuổi thiếu niên có vị trí và ý nghĩa đặc biệt trong suốt quá trình phát
triển của cả đời người. Đây là giai đoạn quá độ chuyển từ trẻ con sang người lớn. Ở
giai đoạn này, ý thức và tự ý thức phát triển, tính tích cực xã hội cũng tăng lên.
Thiếu niên bắt đầu xuất hiện cảm giác mới lạ, cảm giác mình đã trở thành người lớn
do sự phát triển của cơ thể và trí tuệ đem lại. Các em tò mò muốn khám phá thế
giới, muốn độc lập và bình đẳng với người lớn nhưng các em vẫn sống phụ thuộc
vào cha mẹ và chịu chế ước bởi những người lớn xung quanh các em. Sự mâu thuẫn
giữa nhu cầu vươn lên làm người lớn với địa vị thực tế của các em đã tạo nên khủng
hoảng tâm lý trong tâm hồn trẻ và làm nên những nét tâm lý nổi bật so với các lứa
tuổi khác và vì thế ở lứa tuổi này rất dễ dẫn đến XĐTL.
1.2. Cơ sở thực tiễn
Thực tế cho thấy, hiện nay đạo đức của học sinh tuổi thiếu niên đang xuống
cấp nghiêm trọng. Hiện tượng con cãi lại cha mẹ, chống đối thầy cô, bỏ học, bạo
lực học đường ngày càng gia tăng… Thực trạng về đạo đức của thiếu niên như
trên một phần do người lớn chưa hiểu được đặc điểm tâm lý của các em.
Bên cạnh đó, thiếu niên càng lớn càng mong muốn cha mẹ không can thiệp
một cách tỉ mỉ vào đời sống riêng tư của các em. Tuy nhiên hầu hết các bậc cha mẹ
1


vẫn xem các em là “còn nhỏ, còn dại dột” nên họ phải chăm sóc, điều khiển cũng
như kiểm soát con cái một cách tỉ mỉ. Mặt khác, lòng thương con càng khiến cha
mẹ khó từ bỏ thói quen quan tâm chăm sóc con thường xuyên, sâu sát với mọi hoạt

động của con. Thói quen chăm sóc con quá mức của cha mẹ có thể dẫn đến việc
thiếu niên không muốn trò truyện, gần gũi cha mẹ thậm chí cãi lại cha mẹ. Đó là
một nguyên nhân dẫn đến XĐTL giữa thiếu niên với cha mẹ.
XĐTL giữa thiếu niên với cha mẹ diễn ra rất đa dạng và đã được các tác giả
nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực, như: học tập, vui chơi, giải trí, quan hệ bạn bè, sinh
hoạt hằng ngày… Tuy nhiên, XĐTL giữa thiếu niên với cha mẹ trong các GĐ có
quy mô khác nhau vẫn chưa được quan tâm nghiên cứu.
Xuất phát từ những cơ sở trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
“XĐTL giữa thiếu niên với cha mẹ trong các GĐ có quy mô khác nhau”.
2. Mục đích nghiên cứu
Phát hiện XĐTL giữa thiếu niên với cha mẹ trên các lĩnh vực hoạt động của
trẻ trong các GĐ có quy mô khác nhau và những nguyên nhân dẫn đến hiện tượng
XĐTL. Từ đó, đưa ra một số khuyến nghị nhằm hạn chế XĐTL giữa thiếu niên với
cha mẹ, giúp thiếu niên phát triển nhân cách lành mạnh.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
XĐTL giữa thiếu niên với cha mẹ
3.2. Khách thể nghiên cứu
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên 105 GĐ có con ở độ tuổi thiếu niên, trong
đó: 35 thiếu niên trong GĐ 1 con; 35 thiếu niên trong GĐ 2 con; 35 thiếu niên trong
GĐ 3 con trở lên và 105 phụ huynh (cha hoặc mẹ) của các em.
Hiện tại các em đang là học sinh của trường THCS Cổ Nhuế - Huyện Từ
Liêm, Hà Nội. Trong tổng số thiếu niên được nghiên cứu có 48 em thiếu niên là
nam (45,7%) và 57 em thiếu niên là nữ (54,3%).
4. Giả thuyết khoa học
Có XĐTL giữa thiếu niên với cha mẹ trong các GĐ có quy mô khác nhau.
Mức độ XĐTL trong những GĐ có quy mô khác nhau là khác nhau. Nguyên

2



nhân chủ yếu dẫn đến XĐTL là do phong cách, phương pháp, nội dung ứng xử,
giao tiếp của cha mẹ với con, do sự khác nhau về tính cách, cá tính, sự thiếu hiểu
biết của cha mẹ về các đặc điểm tâm sinh lý của con ở tuổi thiếu niên.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận liên quan đến vấn đề nghiên cứu như:
XĐ, XĐTL và XĐTL ở tuổi thiếu niên, quy mô GĐ.
- Nghiên cứu thực trạng XĐTL giữa thiếu niên với cha mẹ trong các GĐ có
quy mô khác nhau; Xác định nguyên nhân và đưa ra một số khuyến nghị nhằm khắc
phục XĐTL giữa thiếu niên với cha mẹ.
6. Giới hạn nghiên cứu
XĐTL giữa thiếu niên với cha mẹ được nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực và
theo những khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên, trong đề tài này chúng tôi chỉ tập trung
nghiên cứu XĐTL giữa thiếu niên với cha mẹ trong các GĐ có quy mô khác nhau.
7. Các phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu
7.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
7.3. Phương pháp quan sát
7.4. Phương pháp phỏng vấn sâu
7.5. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động
7.6. Phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình
7.7. Phương pháp xử lý số liệu bằng thống kê toán học

3


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ XĐTL
GIỮA THIẾU NIÊN VỚI CHA MẸ
1.1. Tổng quan lịch sử nghiên cứu vấn đề

XĐ có thể mang đến những kết quả tiêu cực hoặc tích cực, phụ thuộc vào
bản chất và cường độ của XĐ và cách giải quyết XĐ. Thực tế, XĐ đã và đang ảnh
hưởng tới sự phát triển của mỗi cá nhân và cũng làm ảnh hưởng tới sự phát triển
chung của toàn xã hội. Vì thế, đây là một trong những vấn đề đã và đang thu hút
nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu.
1.1.1. Ở nước ngoài
Như chúng ta biết, C Mac và Ph. Ăng ghen có những công trình nghiên cứu
đồ sộ về chính trị - xã hội, trong đó có học thuyết về các quy luật phát triển của tự
nhiên và xã hội với hàng loạt phạm trù khoa học, như: mâu thuẫn, vận động, ý thức
xã hội và tồn tại xã hội… đã trở thành những nền tảng về lý luận quý báu cho các
tác giả khi nghiên cứu về XĐ.
Tomas Pasdel quan niệm XĐ được đề cập từ khi tâm lý học thực nghiệm
xuất hiện và từ đó đến nay vấn đề này vẫn được các tác giả quan tâm nghiên cứu.
Cụ thể có các hướng nghiên cứu sau:
* Hướng nghiên cứu XĐ trong nhóm nhỏ, XĐ trong tập thể
Một trong những khía cạnh mà các tác giả tập trung nghiên cứu từ trước đến
nay đó là XĐ trong nhóm nhỏ, XĐ trong tập thể và ảnh hưởng của nó tới bầu không
khí tâm lý nói chung. Tiêu biểu như các tác giả:
- E. Mayo (1880 – 1949) trong cuốn “Các vấn đề xã hội của nền văn minh công
nghiệp” đã chỉ ra sự XĐ giữa các nhóm và của các cá nhân trong nhóm. Đó là sự căm
ghét, bất hòa, nghi kỵ và thù địch được thay thế bằng hợp tác.
- Kurt Lewin (1935) quan niệm nhóm không bao giờ ở trạng thái cân bằng
ổn định mà ở trạng thái “không ngừng thích nghi lẫn nhau”. Quá trình hình thành
nhóm được quyết định bởi 3 yếu tố cơ bản là: đồng nhất về lợi ích; Gần gũi về
không gian; Nhu cầu đảm bảo các điều kiện thuận lợi cho các cá nhân hoạt động.

4


Quan điểm về động cơ XĐ nhóm (M.Deutsch, Mc.Clintock, C.G, Mr.Granth…)

gợi ra ý tưởng về sự trái ngược, đối lập những mong muốn, mục đích, dự kiến của các
thành viên. Sự trái ngược trong hệ thống động cơ này tạo cơ sở cho hành vi cạnh tranh,
trong đó các thành viên cản trở lẫn nhau trong việc đặt ra mục đích, nghi kỵ lẫn nhau khi
trao đổi, tiếp nhận thông tin, hình thành tâm thế tiêu cực đối với nhau. Dù sự cạnh tranh
này không nhất thiết dẫn đến XĐ nhưng việc nghiên cứu hành vi cạnh tranh cho phép
cung cấp những tư liệu kinh nghiệm để giải quyết XĐ trong nhóm [Dẫn theo 24, tr146].
- Kurt Lewin (1953) trong công trình nghiên cứu của mình cũng nhấn mạnh
đến động cơ. Ông cho rằng: XĐ là sự đối lập của các lực lượng tương đồng. Theo
ông có ba trường hợp cơ bản của XĐ như sau:
+ Đứa trẻ đứng giữa hai hóa trị dương, tức là những điều cùng muốn thực hiện.
+ Trẻ đối mặt với những điều cùng một lúc có cả hai hóa trị dương và âm,
tức là những điều vừa muốn và những điều vừa không muốn.
+ Trẻ đứng giữa hai hóa trị âm, tức là giữa những điều không muốn nhưng
phải chọn lấy một.
Đây chính là đóng góp lớn của K.Lewin trong nghiên cứu về XĐ. Căn cứ
vào đây người ta có thể tìm hiểu về nguồn gốc và những nguyên nhân gây ra XĐ.
- Theo A. Kauzer (1956), XĐ là một bộ phận không thể tách rời của tồn tại
xã hội và tác động qua lại giữa các cá nhân và của nhóm.
- Các nhà tâm lý học như A. Rapport (1974), JaCob Becrôvich (1984) đi
sâu nghiên cứu ảnh hưởng của XĐ tới bầu không khí tâm lý của tập thể. Đối với
tập thể phát triển nhanh, có tính ổn định thì XĐ ít xuất hiện hơn. Ngược lại, đối
với tập thể đang trong giai đoạn hình thành và phát triển thì mâu thuẫn kết thúc
bằng XĐ xảy ra không ít.
Cùng với hướng nghiên cứu đó, các tác giả như: Rachard D. Rende (1992),
D.A.Humburg (1994), đã cho rằng: Khi nảy sinh tình huống XĐ trong nhóm và tập
thể thì những quan hệ có tính chất công việc và liên nhân cách thường bị ảnh hưởng
qua lại đến nhau.
Bên cạnh đó, XĐ không chỉ xuất hiện giữa các cá nhân trong hoạt động cùng
nhau trong nhóm, tập thể mà nó còn xuất hiện ngay trong bản thân mỗi chủ thể và
làm ảnh hưởng tới đời sống tâm lý, tinh thần của con người.


5


* Hướng nghiên cứu ảnh hưởng của XĐTL đến đời sống tình cảm con người
Mặt khác, có nhiều tác giả đã đi theo hướng nghiên cứu ảnh hưởng của XĐ
đến đời sống tình cảm của con người. Mandler (1979) đã đi theo các lý thuyết XĐ về
cảm xúc mà bắt đầu bằng những tên tuổi: Herbart. Deway, S. Freud và sau cùng là
D.Hebb và Mandler. Tư tưởng cốt lõi đó là: Khi một hoạt động của cơ thể bị cản trở
thì cảm xúc cũng bị ảnh hưởng theo...[Dẫn theo 1].
* Hướng nghiên cứu về nguồn gốc, cấu trúc XĐTL
Đồng thời, trong nhiều công trình nghiên cứu lý luận của các nhà tâm lý học phát
triển và khoa học xã hội thì XĐ cũng được xem như là những vấn đề hạt nhân. Dưới
hình thức này hay hình thức khác Sigmund Freud, B.F. Skinner, Jean Piaget, Donnald
Hebb và Kurt Lewin đã đề cập tới XĐ trong những mô hình lý thuyết khác nhau.
- Theo S. Freud thì XĐ chủ yếu do những xung lực bản năng vấp phải thực tế
(Những sự vật bên ngoài và sự ràng buộc của xã hội) không thể thỏa mãn trực tiếp
và đầy đủ. Đó là nguồn gốc và hành vi mà là các hành vi thỏa hiệp giữa các XĐ và
thực tế. XĐ là tình trạng thường xuyên xảy ra trong thực tế. Đối với lứa tuổi thiếu
niên thì đây là lứa tuổi phát triển mạnh mẽ nhưng cũng xuất hiện nhiều XĐ nhất.
Trẻ bắt đầu thấy bố mẹ không hoàn hảo trong GĐ, trẻ phát hiện những nhược điểm
của bố hoặc mẹ và nó xuất hiện cảm giác thất vọng về GĐ mình. Đó là nguyên nhân
dẫn đến các chứng bệnh như: tự kỉ, trầm cảm, hung tính…Theo ông, trẻ có mặc cảm
Ơ đip cũng dễ dẫn đến XĐ trong GĐ.
- Theo J. Piaget khẳng định sự phát triển tâm lý của trẻ em chính là sự phát
triển của các quá trình nhận thức. Trong đó, XĐ có ý nghĩa quan trọng đối với sự
phát triển nhận thức nói riêng và nhân cách nói chung của trẻ em. Trong quá trình
phát triển nhận thức, XĐ sẽ xảy ra khi có sự không phù hợp giữa những biểu tượng
đã có trong kinh nghiệm của trẻ với những hoạt động trên thực tế. Vấn đề điều
chỉnh và giải tỏa XĐ là vấn đề cần thiết trong sự phát triển tâm lý của trẻ, [14].

Theo Stulberg có 5 nhân tố cấu thành XĐ, ông gọi là “Five-P of conflict
management”, đó là: Nhận thức - Perceptions; Vấn đề - Problems; Quá trình
-Processes; Nguyên tắc - Processes; Hoàn cảnh thực tế - Practices. Cụ thể như sau:

6


+ Nhận thức: Con người thường nhận thức về XĐ theo hướng tiêu cực, do đó
phản ứng tiêu cực với XĐ phát sinh. Khi cố gắng loại trừ những yếu tố gây ra XĐ
với quan điểm này, ta vô tình kích thích XĐ.
+ Vấn đề: Bất kỳ ai cũng có thể bị cuốn vào XĐ. Bao gồm những người
trực tiếp có lợi, những người chịu ảnh hưởng gián tiếp, những người tham gia
giải quyết.
+ Quá trình: Giải quyết XĐ cần tuân theo một quy trình thích hợp.
+ Nguyên tắc: Xác định các bước tiến hành, việc ưu tiên xử lý với mỗi XĐ
cũng không kém phần quan trọng, xác định cần dựa trên các cơ sở hiệu quả, mức độ
và các bên tham gia, công bằng và độ phức tạp.
+ Hoàn cảnh thực tế: Quyền lực, lợi ích cá nhân và các tình huống nhất định là
các nguyên nhân trực tiếp đưa đến cách giải quyết XĐ của mỗi bên. [23].
* Hướng nghiên cứu XĐTL ở lứa tuổi thiếu niên
- A.I. Arginanova (1951) nghiên cứu về khó khăn trong quan hệ của trẻ và đầu
tiên là hiện tượng không cởi mở của trẻ (biểu hiện của XĐTL). Đây là sự phá vỡ sâu sắc
quá trình giao tiếp. Theo bà, việc XĐ này là do các nguyên nhân sau:
+ Điều kiện giáo dục không thuận lợi trong GĐ (sự dọa nạt và hình phạt, sự
không cởi mở và ít giao tiếp của cha mẹ).
+ Sự tổn thương tâm lý khác nhau (mất cha mẹ, sự quá sợ hãi, những trường
hợp bất hạnh).
+ Sự trêu chọc của những người xung quanh do trẻ bị khuyết tật gì đó về
thân thể.
+ Do sự giáo dục không đầy đủ của nhà trường.

- D.E Way (1953), Brett Laursen (1989) cũng nghiên cứu về XĐ ở trẻ em
trong đó có lứa tuổi thiếu niên. Theo các tác giả này, những biểu hiện XĐ của trẻ rất
đa dạng và phong phú. Cùng xuất phát từ một nguyên nhân nhưng biểu hiện hành vi
XĐ lại rất khác nhau, như: cãi lại, lý sự, bỏ đi lang thang hoặc chứng trầm cảm…
- B. Laursen (1989), Van dell, Bailey và Hurtup W.W (1992) đã nghiên cứu về
ảnh hưởng của XĐ đến đời sống của trẻ. Các tác giả này cho rằng, không phải bất cứ
XĐ nào trong các mối quan hệ của trẻ cũng mang ý nghĩa tiêu cực. XĐ không những
7


làm cho các mối quan hệ bị phá vỡ mà XĐ được xem như là rất cần thiết đối với việc
hình thành và duy trì việc gắn bó giữa các cá nhân.
- Các nhà tâm lý học Xô Viết có xu hướng nghiên cứu XĐ thông qua tính
quy định của các nhân tố lịch sử - xã hội. Họ đã có những đóng góp nhất định cho
việc lý giải vấn đề phức tạp này. Tiêu biểu là tác giả A.V.Petrovxki (1982). Ông đã
đi sâu nghiên cứu XĐ lứa tuổi thiếu niên với người lớn. Ông cho rằng nguyên nhân
XĐ là do người lớn không biết cách và không muốn tìm cho thiếu niên một vị trí
bên cạnh mình, [13, tr141].
Như vậy, có nhiều tác giả nước ngoài với những công trình nghiên cứu về
XĐ đã đưa ra các quan điểm hết sức đa dạng và phong phú. Các tác giả chủ yếu
nghiên cứu về XĐ tập thể, nhóm, các trường hợp xảy ra XĐ và nguồn gốc sâu xa
nảy sinh XĐ chứ chưa đi sâu nghiên cứu các XĐTL diễn ra trong các GĐ có quy
mô khác nhau.
1.1.2. Ở Việt Nam
* Vấn đề XĐ cũng thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của các nhà tâm lý
học trong nước. Có thể kể đến một số tác giả sau:
- Tác giả Nguyễn Khắc Viện (1983) cũng đã quan tâm nghiên cứu và đưa ra
khái niệm XĐ, ảnh hưởng của XĐ đối với những tâm bệnh của trẻ em và những
nhiễu tâm ở người lớn, [21].
- Tác giả Trần Trọng Thủy (1987) với công trình nghiên cứu: “XĐ và

không khí tâm lý trong tập thể” đã chỉ rõ: XĐ là hiện tượng nảy sinh trong hoạt
động cùng nhau của các cá nhân trong tập thể. Nó liên quan đến bầu không khí
tâm lý trong tập thể.
- Tác giả Hồ Ngọc Đại (1991) có những kiến giải sâu sắc về nguồn gốc, bản
chất của XĐ đó là mâu thuẫn giữa ý thức cá nhân và ý thức vợ chồng, sự không ăn
khớp giữa hai khái niệm GĐ và cá nhân, [3].
- Tác giả Ngô Công Hoàn (1993) đã nghiên cứu về XĐ giữa các thế hệ, XĐ
giữa các thành viên trong GĐ. Trong đó, ông tập trung nghiên cứu XĐ giữa ông bà
với cha mẹ và XĐ trong quan hệ vợ chồng, [7].

8


- Tác giả Nguyễn Ngọc Phú (2000) đã đề cập đến vấn đề XĐTL và giải
quyết XĐTL trong lãnh đạo, quản lý bộ đội nhằm xây dựng quân đội vững mạnh.
Các tác giả Ngô Minh Tuấn và Nguyễn Văn Tuân cũng đã tiến hành tìm hiểu những
biểu hiện XĐ giữa các cá nhân trong tập thể quân nhân và ảnh hưởng của XĐ đến
bầu không khí tâm lý tập thể.
- Tác giả Cao Thị Huyền Nga (2000) nghiên cứu về “Sự XĐ tâm lý trong
quan hệ vợ chồng” đã chỉ rõ những biểu hiện của XĐ tâm lý trong quan hệ vợ
chồng ở những GĐ khác nhau. Theo tác giả một trong những nguyên nhân dẫn
đến việc ly hôn giữa các cặp vợ chồng là bắt nguồn từ những XĐTL.
- Tác giả Đinh Thị Kim Thoa (2002) với công trình nghiên cứu về “XĐ tâm
lý của trẻ mẫu giáo trong hoạt động vui chơi” đã làm nổi bật được ý nghĩa của
XĐTL trong sự phát triển của trẻ.
- Tác giả Nguyễn Thị Hiền (2009) với nghiên cứu “XĐTL của các cặp vợ
chồng trẻ trong ba năm đầu kết hôn”, đã chỉ ra được những biểu hiện XĐ của các
cặp vợ chồng, những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến XĐ và một số biện pháp tác động
nhằm làm giảm thiểu XĐ, để tạo ra sự hòa thuận trong GĐ.
* Ở Việt Nam, vấn đề XĐ ở lứa tuổi thiếu niên cũng có một số tác giả

nghiên cứu:
- Tác giả Nguyễn Ánh Tuyết (1997), trong tác phẩm “Khi con đến tuổi dậy
thì” đã cung cấp cho cha mẹ một số biểu hiện về lứa tuổi thiếu niên và đưa ra một
số câu chuyện về sự XĐ giữa thiếu niên với cha mẹ nhằm giúp cha mẹ có kinh
nghiệm thêm trong giáo dục con cái.
- Tác giả Ngô Thị Kim Dung (2003) trong luận văn thạc sĩ “Một số biểu hiện
XĐTL của thiếu niên trong quan hệ với cha mẹ” đã chỉ ra được những biểu hiện
XĐTL trên các lĩnh vực: học tập, quan hệ bạn bè, sinh hoạt hằng ngày, những nguyên
nhân và biện pháp khắc phục những XĐTL của thiếu niên trong quan hệ với cha mẹ.
- Tác giả Lê Minh Nguyệt (2004) trong luận văn thạc sĩ “Nghiên cứu XĐTL
của thiếu niên với thiếu niên trung học cơ sở” đã tập trung nghiên cứu về những
XĐTL của thiếu niên với thiếu niên, hình thức biểu hiện, mức độ, nguyên nhân dẫn
đến các XĐTL của các em. Từ đó, tác giả đưa ra các phương thức giải quyết XĐTL

9


giữa thiếu niên với thiếu niên, để các em có thể hòa đồng với nhau trong quá trình
học tập và hoạt động.
- Tác giả Nguyễn Thị Tế (2005) với luận văn thạc sĩ “Một số biểu hiện
XĐTL trong quan hệ cha mẹ với con cái tuổi thiếu niên về nhu cầu độc lập” đã chỉ
ra những biểu biện cụ thể của XĐTL giữa cha mẹ với con về nhu cầu độc lập trong
các lĩnh vực: học tập, quan hệ bạn bè, quan hệ với các thành viên khác trong GĐ…
và đưa ra các biện pháp tác động phù hợp nhằm khắc phục những XĐTL trên.
- Tác giả Đặng Thị Mai Hiên (2011) với luận văn thạc sĩ “Tìm hiểu một số
biểu hiện XĐTL của học sinh trung học cơ sở trong quan hệ với cha mẹ” đã tập
trung nghiên cứu XĐTL ở hai góc độ: hình thức và mức độ biểu hiện XĐTL ở học
sinh trung học cơ sở trong quan hệ với cha mẹ. Từ đó xác định nguyên nhân và
phương thức giải quyết các XĐTL của thiếu niên với cha mẹ.
Như vậy, các công trình nghiên cứu đã cho chúng ta thấy XĐ là tất yếu trong

quá trình trẻ tham gia vào các hoạt động đa dạng và các mối quan hệ liên nhân cách.
Từ đó các tác giả chỉ ra nguyên nhân và phương thức giải tỏa XĐ để thúc đẩy sự
phát triển của trẻ. Tuy nhiên, lĩnh vực XĐ của thiếu niên với cha mẹ thì còn ít các
tác giả quan tâm nghiên cứu, chủ yếu nghiên cứu những khó khăn của mối quan hệ
này ở thiếu niên mà chưa chú ý nghiên cứu trong các quy mô GĐ khác nhau thì XĐ
biểu hiện như thế nào. Để giúp các bậc cha mẹ hiểu hơn về thiếu niên và các XĐ
thường xuyên xảy ra trong thế giới nội tâm của các em, cách thức để giải tỏa nó,
chúng tôi tiến hành nghiên cứu “XĐTL giữa thiếu niên với cha mẹ trong các GĐ có
quy mô khác nhau”.
1.2. Khái niệm XĐ và XĐTL
“XĐ” có nguồn gốc từ tiếng Latinh là “Conflictus”: đó là sự va chạm, bất
hòa, sự tranh cãi, đụng độ, xô xát, chống đối giữa những khuynh hướng đối lập
nhau, không tương hợp nhau trong ý thức của các cá nhân riêng biệt, trong sự tác
động qua lại liên nhân cách của các cá nhân hay nhóm người gắn liền với các trạng
thái cảm xúc tiêu cực hay gay gắt.
Theo “Từ điển Tiếng Việt”, XĐ được hiểu theo 2 nghĩa:
- Nghĩa thứ nhất, XĐ là sự đánh nhau của các lực lượng đối địch.
- Nghĩa thứ hai, XĐ là sự va chạm, chống chọi nhau do có mâu thuẫn gay gắt, [15].
10


Như vậy, dưới từng góc độ thì XĐ được định nghĩa theo những khía cạnh
khác nhau.
1.2.1. Khái niệm XĐ dưới góc độ Triết học
Theo quan điểm duy vật biện chứng, thế giới vật chất không tự nhiên sinh ra
và cũng không tự nhiên mất đi mà nó luôn vận động, biến đổi và phát triển không
ngừng. Điều này có nghĩa là trong bản thân mọi sự vật, hiện tượng đều chứa những
các mâu thuẫn nội tại và nó trở thành động lực cho sự phát triển của sự vật đó. Khi
có đấu tranh của hai mặt đối lập của mâu thuẫn ấy sẽ tạo ra sự chuyển biến mới về
chất của sự vật.

XĐ nảy sinh trong quá trình vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng.
Nó xuất hiện khi hai mặt đối lập có sự va chạm hay có sự đấu tranh với nhau.
Những mâu thuẫn không đối kháng, không cơ bản không dẫn đến XĐ. Còn những
mâu thuẫn đối kháng, mâu thuẫn cơ bản sẽ dẫn đến XĐ. XĐ như một cấp độ phát
triển, một biểu hiện của mâu thuẫn và như một cách để giải quyết mâu thuẫn.
Theo “Từ điển Triết học”: XĐ là “sự va chạm”, “xúc phạm nhau”, “đánh
nhau” [18]. XĐ là sự tranh chấp giữa những xu hướng, lợi ích trong chủ thể thấy mình
bị giằng xé giữa những sức mạnh ngược chiều và ngang hay XĐ là sự va chạm giữa
hai mục đích, quyền lợi, địa vị, ý kiến, quan điểm của thành viên hay chủ thể trong
hoạt động cùng nhau. Tình huống XĐ cũng chứa đựng chủ thể XĐ và đối tượng của
nó. Để XĐ xảy ra thì một bên bắt đầu hành động và lấn át quyền lợi của đối phương.
Như vậy, theo góc độ triết học duy vật biện chứng, XĐ được hiểu là đỉnh cao
của mâu thuẫn đối kháng, là sự đấu tranh sống còn của những khuynh hướng,
những lực lượng xã hội mà lợi ích căn bản trái ngược nhau không điều hòa được.
XĐ là phương thức giải quyết mâu thuẫn và tạo ra động lực thúc đẩy sự phát triển
đi lên của xã hội.
1.2.2. Khái niệm XĐ dưới góc độ Tâm lý học
Dựa trên những tư tưởng triết học về XĐ, các nhà Tâm lý học đi sâu nghiên cứu
XĐ dưới góc độ tâm lý học và đưa ra những quan điểm riêng về vấn đề này. Khái niệm
XĐ được rất nhiều tác giả đề cập đến mặc dù còn rất nhiều ý kiến khác nhau.
- U. Lehrova cho rằng: XĐ phần lớn để chỉ tình thế mà cá nhân quyết
định lựa chọn.

11


- J.Nuttin, nhà Tâm lý học người Bỉ quan niệm: XĐ là trạng thái xáo trộn về
tổ chức đối với sự cân bằng trước đó về nhóm.
- Theo Follet thì XĐ như là biểu hiện sự khác biệt ý kiến và lợi ích chứ
không phải là sự tranh chấp.

Xuất phát từ những quan điểm trên, ta có thể khái quát XĐ dưới góc độ Tâm
lý học như sau:
* XĐ được hiểu như chủ thể đứng trước một tình thế có nhiều khả năng đòi
hỏi phải chọn lấy một.
* XĐ để chỉ tình thế xuất hiện những khuynh hướng đối lập
* XĐ được hiểu một cách khác là sự phản ánh rối loạn tổ chức của hành vi
* XĐ như là sự mất định hướng hay là tình thế thất vọng
* XĐ còn được hiểu như là sự mất định hướng trong đó cá nhân phải trải qua
sự căng thẳng quyết định hay lựa chọn.
Có thể thấy khái niệm XĐ dưới góc độ Tâm lý học khác với góc độ Triết học ở chỗ:
- Nếu triết học gắn XĐ với tất cả các sự vật hiện tượng trong thế giới tự
nhiên cũng như trong xã hội thì trong Tâm lý học, XĐ luôn gắn với hiện tượng có ở
con người. Vì thế, XĐ luôn mang màu sắc tâm lý và diễn ra dưới các mức độ khác
nhau. Khái niệm XĐ trong Tâm lý học có phạm vi hẹp hơn XĐ trong Triết học.
- Mâu thuẫn dẫn đến XĐ không nhất thiết phải là mâu thuẫn đối kháng, điều
hòa được mà những mâu thuẫn không đối kháng có thể điều hòa đươc cũng có thể
dẫn đến XĐ. Mỗi con người có một nhân cách riêng, có nhận thức, quan điểm, thái
độ, niềm tin riêng, có những nhu cầu, lợi ích riêng không giống với người khác và
đôi khi đối lập lại với người khác. Những XĐ đó thường chỉ là sự khác biệt về ý
kiến và lợi ích mà thôi và mâu thuẫn dẫn đến XĐ này có thể điều hòa được. Xuất
phát từ những quan điểm trên, khái niệm XĐ dưới góc độ Tâm lý học được hiểu:
XĐTL là sự va chạm hay đấu tranh giữa những xu hướng tâm lý
khác nhau trong một cơ cấu thống nhất của các cá nhân khác nhau
hay trong bản thân một chủ thể.
Đồng thời, khái niêm XĐTL của thiếu niên trong quan hệ với cha mẹ cũng
được đưa ra như sau:
12


XĐTL của thiếu niên trong quan hệ với cha mẹ là sự va chạm, đụng độ,

chống đối lại cha mẹ khi giữa thiếu niên với cha mẹ xuất hiện những khuynh hướng
đối lập nhau, không tương hợp nhau, do sự khác biệt về định hướng giá trị, nhu
cầu, sở thích, tình cảm và thói quen của các em với cha mẹ trong cuộc sống. Những
XĐTL ngày thường dẫn đến làm cho trẻ ít cởi mở, có xu hướng thu mình hay những
hành vi gây hấn trong quan hệ với mọi người xung quanh, làm cho quá trình xã hội
hóa của các em diễn ra khó khăn.
Bên cạnh đó, bản chất XĐTL ở lứa tuổi này cũng giống như bản chất XĐ ở
các lứa tuổi khác, đó là quá trình làm thay đổi trạng thái tâm lý căn bản, gây xáo trộn
về tổ chức đối với sự cân bằng tồn tại trước đó trong cấu trúc tâm lý bên trong của cá
các em. Một khi XĐ được giải quyết sẽ tạo ra sự phát triển tâm lý của thiếu niên.
1.3. Bản chất, cơ chế và các mức độ của hiện tượng XĐTL
1.3.1. Bản chất của hiện tượng XĐ
Mỗi nhóm nhỏ trong xã hội, để tồn tại và phát triển tạo thành một hệ thống
cấu trúc ổn định, đều có tính chất cân bằng tương đối. Đó có thể là sự phát triển tự
nhiên mang tính chất cố hữu của một cơ thể sống. Nhưng cũng có thể là sản phẩm
xã hội được kiến lập theo một mô hình xã hội nào đó. Do ảnh hưởng của nguyên
nhân chủ quan và khách quan dẫn đến sự phá vỡ cân bằng của nhóm, làm thay đổi
cấu trúc nhóm. Yếu tố này được coi như động lực, làm xuất hiện sự căng thẳng hoặc
một chuỗi căng thẳng, dẫn đến việc tìm kiếm sự cân bằng mới, tức là làm thay đổi
tổ chức của nhóm.
Cuộc sống nhóm biểu hiện qua quá trình lần lượt thay đổi các trạng thái cân
bằng và phá hủy sự cân bằng đó. Trong nhóm thường tồn tại hai lực đối lập nhau:
Các lực có sự nhất trí, có xu hướng muốn giữ lại cấu trúc nhóm và các lực có sự
phân hóa, có chiều hướng muốn thay đổi cấu trúc đó. Sự cân bằng của nhóm tồn tại
trong trường hợp nếu các lực nhất trí của nhóm chiến thắng các lực phân hóa. Từ
đó, ta thấy rằng XĐ là một quá trình có tính khách quan trong sự phát triển của
nhóm. Đó là trạng thái thay đổi căn bản, gây xáo trộn về tổ chức đối với sự cân
bằng tồn tại trước đó. Nhóm thay đổi lại cấu trúc của mình khi trải qua XĐ.
Bản chất của XĐTL tuổi thiếu niên với cha mẹ giống như bản chất của sự


13


XĐTL trong nhóm nói chung và các độ tuổi khác nói riêng. Đó là quá trình làm
thay đổi trạng thái căn bản, gây xáo trộn về tổ chức đối với sự cân bằng tồn tại
trước đó trong cấu trúc tâm lý bên trong nhóm và của chính các em. XĐ được giải
quyết sẽ là động lực cho sự phát triển tâm lý trẻ em.
1.3.2. Cơ chế của hiện tượng XĐTL
XĐ có thể xảy ra bên ngoài mỗi cá nhân hoặc xảy ra giữa các cá nhân trong
hoạt động cùng nhau. Mỗi loại XĐ cũng có cơ chế và biểu hiện rất khác nhau.
Trước hết, chúng ta xem xét cơ chế của các XĐTL bên trong nhân cách (còn
gọi là XĐ nội tâm). Cơ chế của XĐ bên trong nhân cách được S. Freud lý giải
tương đối đầy đủ trong học thuyết của mình. Theo S. Freud những mâu thuẫn nội
tâm không được giải tỏa dồn nén, ức chế dần dần được tích tụ lại và đến một lúc
nào đó sẽ bùng nổ thành XĐ. XĐ nội tâm diễn ra gay gắt chính là căn nguyên của
bệnh tâm thần.
Thông qua cơ chế trên chúng ta phần nào giải thích được các hiện tượng XĐ
nói chung và XĐTL tuổi thiếu niên nói riêng. Tuy nhiên, XĐTL ở thiếu niên với
cha mẹ là một loại XĐ liên nhân cách nếu chỉ dựa vào cơ chế của XĐ nội tâm để
giải thích thì chưa đủ mà nhiều khi có thể dẫn tới sai lầm đáng tiếc xảy ra.
Theo các công trình nghiên cứu, XĐTL còn diễn ra theo cơ chế thứ hai là
cơ chế của XĐTL liên nhân cách. Các nhà Tâm lý học người Mỹ Hay (1984) và
Shantz (1987) cho rằng XĐ liên nhân cách thì XĐ bắt đầu từ sự đối lập công khai
của các cá nhân và kéo dài cho đến khi sự đối lập này chấm dứt. Có thể hiểu cơ
chế của XĐ này như sau: Do sự khác nhau về nhu cầu của các cá nhân, về sự hiểu
biết, về định hướng giá trị và về quan điểm sống giữa các cá nhân trong hoạt động
cùng nhau đã tạo ra mâu thuẫn giữa cá nhân với cá nhân. Những mâu thuẫn này
ban đầu có thể gây ra những tâm trạng khó chịu, bực bội, vướng víu, khoảng cách
riêng tư bị xâm phạm. Sự khó chịu này sẽ tích tụ dần cho đến một thời điểm nào
đó khi mâu thuẫn giữa các cá nhân trở nên gay gắt thì nó tạo thành những XĐ

mạnh như cãi lại, chống đối lại, xa lánh không muốn gặp mặt nhau. Cơ chế này
giải thích đầy đủ hơn XĐTL giữa thiếu niên với cha mẹ. Khi nắm được rõ cơ chế
của hiện tượng XĐ sẽ giúp cho chúng tôi giải thích một cách cụ thể, sâu sắc những

14


kết quả nghiên cứu trong thực tế.
1.3.3. Các mức độ XĐTL
Có rất nhiều công trình nghiên cứu về các mức độ XĐTL. Dựa trên kết quả
nghiên cứu của các nhà tâm lý học về vấn đề này (MurrichZamses,V.A.Sysenko…)
có thể đưa ra cách phân định mức độ XĐTL như sau:
+ Mức độ 1(Sự đồng nhất): Giữa các cá nhân, giữa các nhóm, giữa các cá
nhân với nhóm… có sự tương đồng, thống nhất hay hòa hợp về nhận thức, quan
điểm, thái độ, hành động. Tuy nhiên, trong sự đồng nhất vẫn ẩn dấu sự khác biệt
chưa có cơ hội bộc lộ ra ngoài. Chúng ta không thấy XĐ vì XĐ đang ở dạng ẩn dấu
(đồng nhất tiêu cực).
+ Mức độ 2: (Sự khác nhau): Ở mức độ này, có sự khác nhau về nhận thức,
quan điểm, thái độ, hành động giữa các cá nhân, giữa các nhóm, giữa các cá nhân
với nhóm đã được bộc lộ ra ngoài. XĐ bắt đầu xuất hiện nhưng chưa gay gắt.
+ Mức độ 3 (Sự đối lập): Giữa các cá nhân với nhau có sự ngược nhau về
nhận thức, quan điểm, thái độ và hành động. Sự ngược chiều nhau được bộc lộ và
XĐ dần dần trở nên gay gắt.
+ Mức độ 4 (Mâu thuẫn): Đó là sự khác biệt trong nhận thức, quan điểm,
thái độ và hành vi giữa thiếu niên với cha mẹ. Những mâu thuẫn này chưa đến mức
đối kháng và vẫn có thể điều hòa được.
+ Mức độ 5 (XĐ gay gắt): Trong giai đoạn này, XĐ đã trở nên rất gay gắt
không thể điều hòa được giữa các cá nhân, giữa cá nhân với nhóm về nhận thức,
quan điểm, thái độ và hành động. Có sự phản kháng mạnh mẽ từ cả hai bên XĐ.
1.4. Khái niệm GĐ và quy mô GĐ Việt Nam hiện nay

1.4.1. Khái niệm về GĐ
Hiện nay có rất nhiều khái niệm về GĐ, mỗi khái niệm đều nhằm mục đích
khái quát đến những yếu tố cơ bản, đặc thù của GĐ. Qua nghiên cứu các định nghĩa
khác nhau về GĐ, có thể chia làm 2 nhóm cơ bản sau:
* Quan niệm GĐ như một nhóm nhỏ xã hội, trong đó có sự liên kết tác động
qua lại giữa các thành viên.
Theo T.A. Phanaxêva cho rằng có ít nhất 3 quan điểm về vấn đề GĐ:
- Quan điểm thứ nhất: GĐ là nhóm xã hội nhỏ liên kết với nhau bằng chỗ ở,
bằng một ngân sách chung và mối quan hệ ruột thịt.
- Quan điểm thứ hai: Ngoài các yếu tố trên thì GĐ muốn tồn tại cần có sự

15


giúp đỡ lẫn nhau.
- Quan điểm thứ ba: GĐ hiện đại là một nhóm xã hội nhỏ bao gồm bố mẹ và
con cái của vài thế hệ trong đó ngân sách và chỗ ở chung không phải là điều kiện bắt
buộc. Điều chủ yếu là họ cảm thấy mình là thành viên của một cơ cấu chung nhất,
giữa họ tồn tại mối quan hệ vật chất và tinh thần bền vững, có những mục đích và
nguyên tắc sống như nhau đối với những vấn đề chủ yếu trong sinh hoạt, cảm thấy
mối liên quan này ràng buộc lẫn nhau, sẵn sàng giúp đỡ nhau, có trách nhiệm với số
phận của từng người tham gia kế hoạch GĐ.
Cùng có chung quan điểm này, dưới góc độ tâm lý học, tác giả Ngô Công Hoàn
trong cuốn “Tâm lý học GĐ” đã đưa ra định nghĩa: GĐ là một nhóm xã hội. Các thành
viên trong nhóm có quan hệ gắn bó về hôn nhân hoặc huyết thống, tâm sinh lý, tinh
thần ổn định trong các thời điểm lịch sử nhất định, [7].
Trong cuốn “Tâm lý học tình yêu GĐ”, tác giả Nguyễn Đình Xuân đã nêu ra
định nghĩa: GĐ là một đơn vị, một nhóm nhỏ xã hội với số lượng thành viên ít nhất
là hai người: vợ và chồng. Sau đó, sinh sôi nảy nở thêm con cái, trong đó mối quan
hệ vợ chồng là giường cột, [22].

* Quan điểm tiếp cận gia đình như một thiết chế xã hội:
Quan điểm này nhấn mạnh mối quan hệ giữa gia đình với xã hội. GĐ được
coi như thế thiết chế xã hội đầu tiên của con người.
Đại diện cho quan điểm này là Levistrauss. Ông coi GĐ là một nhóm xã hội
được quy định bởi 3 đặc điểm nổi bật là bắt nguồn từ hôn nhân, bao gồm vợ chồng,
con cái phát sinh từ sự hôn phối của đôi nam nữ và những người họ hàng, bà con
hoặc con nuôi. Họ gắn với nhau bằng nghĩa vụ và quyền lợi có tính chất kinh tế và
về sự cấm đoán tình dục giữa các thành viên.
- Trong “Từ điển Tiếng Việt” của Hoàng Phê: GĐ là tập hợp những người
cùng chung sống thành một đơn vị nhỏ nhất trong xã hội, gắn với nhau bằng quan
hệ hôn nhân và dòng máu, [15].
- Theo “Từ điển Tiếng Việt” của Nguyễn Lân quan niệm: GĐ là một đơn vị
xã hội bao gồm cha mẹ và con cái, đôi khi có cả ông bà và con cháu. GĐ là gốc của
loài người, [9].
Từ các quan niệm, định nghĩa trên, chúng tôi hiểu về GĐ như sau: GĐ là một

16


thiết chế xã hội, bắt đầu bằng mối quan hệ hôn nhân, quan hệ giữa các thành viên
trong gia đình là quan hệ huyết thống và ràng buộc, gắn kết với nhau bằng tình cảm
trách nhiệm, theo đạo lí và pháp luật và có ngân sách chung.
Từ định nghĩa trên ta thấy rằng GĐ là một thiết chế của xã hội, nó gắn bó với
nhau bằng mối quan hệ hôn nhân, các thành viên trong GĐ có chung huyết thống.
Không chỉ có vậy, mọi thành viên đều có trách nhiệm, bổn phận riêng và có những
tình cảm gắn bó keo sơn với nhau, để mỗi khi đi xa thì mỗi người vẫn nhớ về mái
ấm chung của mình. Đời sống GĐ được duy trì bằng một nguồn ngân sách chung,
mỗi người đều có những đóng góp riêng cho sự tồn tại và phát triển của GĐ.
1.4.2. Quy mô gia đình Việt Nam hiện nay
Trên thực tế, quy mô GĐ thay đổi theo thời gian. Từ chuẩn mực “Quy mô

GĐ ít con” trong giai đoạn 1961 - 1975, đến cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch với
chuẩn mực “Quy mô GĐ có từ hai đến ba con” trong giai đoạn 1975 - 1991 và sau
đó là cuộc vận động thực hiện kế hoạch hóa GĐ với chuẩn mực “Quy mô GĐ có từ
một đến hai con” trong giai đoạn từ năm 1993 - 2003. Nghị định 104/2003/NĐ - CP
của Chính phủ xác định duy trì mỗi cặp vợ chồng có một hoặc hai con để đạt quy
mô dân số, bảo đảm cơ cấu dân số và phân bổ dân cư hợp lý, nâng cao chất lượng
dân số. Ngày 21 - 2- 2005, Ban Bí thư đã có chỉ thị số 49 – CT/TW “Về xây dựng
GĐ thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” với mục tiêu chủ yếu là: ổn
định, củng cố và xây dựng GĐ theo tiêu chí ít con (Mỗi cặp vợ chồng chỉ một đến
hai con), no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, để mỗi GĐVN thực sự là tổ ấm của
mỗi người và là tế bào lành mạnh của xã hội.
Kết quả đạt được của công tác dân số trong thời gian qua đã khẳng định
chuẩn mực “Quy mô GĐ ít con” đã được đông đảo nhân dân đồng tình, chấp nhận
và thực hiện. Các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ đã hiểu rằng, thực hiện mỗi
GĐ có một hoặc hai con là nhân tố quyết định để nâng cao chất lượng cuộc sống
của từng GĐ và toàn xã hội.
Thực hiện quy mô GĐ ít con không những có ý nghĩa lớn lao đối với sự phát
triển của đất nước mà còn có ý nghĩa đặc biệt đối với hạnh phúc GĐ. Đối với mỗi
cặp vợ chồng, việc quyết định lựa chọn thời gian sinh con, số con và khoảng cách

17


giữa các lần sinh phù hợp với sức khỏe, khả năng nuôi dạy con chính là nhằm bảo
đảm điều kiện cho con được học tập, chăm sóc sức khỏe đầy đủ, được vui chơi, giải
trí và phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức, trở thành công
dân có ích cho xã hội. Đồng thời, chỉ làm như vậy vợ chồng mới có đủ sức khỏe,
thời gian để lao động, công tác, học tập, xây dựng cuộc sống và phấn đấu vươn lên
hoàn thiện bản thân mình.
Hiện nay có nhiều cách phân loại quy mô GĐ. Cụ thể như sau:

* Theo cơ cấu số thế hệ trong GĐ:
- GĐ hạt nhân: Đây là GĐ đang phát triển mạnh mẽ ở nước ta và trên thế
giới do nền sản xuất đại công nghiệp và xu hướng đô thị hóa. GĐ hạt nhân bao gồm
hai thế hệ chung sống là bố mẹ và con cái.
- GĐ mở rộng: Gia đình này là GĐ tam, tứ…đại đồng đường khi có thêm ông
bà, cụ, kị, cô dì, chú bác dưới một mái nhà. Hiện nay, kiểu GĐ này còn tồn tại phổ
biến ở các đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa và một số ít ở nông thôn nước ta.
* Theo sự hiện diện của cha mẹ
+ GĐ đầy đủ (có cả bố và mẹ)
+ GĐ không đầy đủ (thiếu bố, mẹ do ly hôn hoặc góa bụa)
GĐ này thường gặp khó khăn về kinh tế, tình cảm và giáo dục con cái.
* Theo mức sống của GĐ
+ GĐ giàu có
+ GĐ khá giả (đầy đủ)
+ GĐ nghèo.
* Theo thành phần giai cấp hoặc nghề nghiệp: GĐ công nhân, nông dân, trí
thức, GĐ quân nhân, quan chức…
* Căn cứ vào số con trong GĐ: Trong đó, GĐ có quy mô nhỏ có từ một đến
hai con, GĐ có quy mô lớn: có từ ba, bốn con trở lên.
Với đề tài này, chúng tôi dựa theo cách phân loại quy mô GĐ theo số lượng
con trong GĐ để nghiên cứu về XĐTL giữa thiếu niên với cha mẹ. Trong mỗi GĐ có
quy mô khác nhau, ít con hay đông con thì XĐTL giữa thiếu niên với cha mẹ sẽ có
những biểu hiện, mức độ và những sắc thái khác nhau.
1.5. XĐTL giữa thiếu niên với cha mẹ trong các GĐ có quy mô khác nhau

18


1.5.1. Đặc điểm tâm – sinh lý lứa tuổi thiếu niên
1.5.1.1. Đặc điểm sinh lý của thiếu niên

Tuổi thiếu niên là thời kì quá độ từ trẻ thơ sang tuổi trưởng thành. Sự chuyển
tiếp này thể hiện ở tất cả các bình diện sinh học, tâm lý và xã hội. Trong đó sự phát
triển về sinh học và giải phẫu sinh lý diễn ra mạnh mẽ nhất.
Ở lứa tuổi thiếu niên, cơ thể các em mạnh mẽ nhưng không cân đối. Chiều
cao của các em nữ mỗi năm tăng 4 – 5cm, các em nam tăng khoảng 5 – 6cm. Tỷ lệ
thân thể của các em thay đổi hẳn so với lứa tuổi trước và làm cho các em có vẻ
giống với người lớn hơn. Tuy nhiên có sự phát triển không cân đối hệ xương và hệ
cơ. Chính sự không cân đối này khiến thiếu niên cao, gầy và có những cử động
vụng về, lung túng…
Bên cạnh đó, hệ tim mạch của các em cũng phát triển nhưng không cân đối.
Thể tích tim tăng nhanh, tim to hơn, hoạt động mạnh hơn trong khi đường kính
các mạch máu lại phát triển chậm, dẫn đến sự rối loạn tạm thời của tuần hoàn máu
nên thiếu niên thường có cảm giác chóng mặt, mệt mỏi, tim đập nhanh.
Trong hoạt động thần kinh cấp cao của thiếu niên, quá trình hưng phấn
chiếm ưu thế rõ rệt, sự ức chế kém đi, hưng phấn mang tính chất lan tỏa hơn. Do
vậy, nhiều khi thiếu niên không làm chủ được cảm xúc của mình và không kiềm chế
được những cơn xúc động mạnh, hay mất bình tĩnh.
Do sự phát triển mạnh của cơ thể và sự phát triển khá hoàn thiện cấu tạo
cũng như chức năng của các cơ quan, các tuyến nội tiết như thượng thận, tuyến
giáp, tuyến yên và tuyến sinh dục mà ở thiếu niên đã xuất hiện một hiện tượng mới
đặc trưng cho lứa tuổi - hiện tượng dậy thì.
Hiện tượng dậy thì là hiện tượng tương đối độc đáo mang tính chất giới tính
đã ảnh hưởng lớn đến đời sống tâm lý của trẻ, trước hết là lĩnh vực tình cảm. Nhiều
thiếu niên từ việc nhận thức những biến đổi mới lạ của cơ thể, của sinh lý mà xuất
hiện sự ngộ nhận bản thân, cho rằng mình đã là người lớn và điều này trái lại với
địa vị thực tế của các em làm cho các em có sự khủng hoảng tâm lý sâu sắc, gây
khó khăn cho tiến trình xã hội hóa của các em.
Như vậy, tuổi thiếu niên là lứa tuổi có nhiều biến đổi về mặt sinh lý. Những

19



biến đổi này có ảnh hưởng đến toàn bộ đời sống tâm lý của trẻ. Nếu chúng ta hiểu rõ
các đặc điểm sinh lý của trẻ sẽ là cơ sở quan trọng giúp chúng ta hiểu hơn về những
đặc trưng tâm lý của các em trong giai đoạn lứa tuổi này.
1.5.1.2. Đặc điểm tâm lý của thiếu niên
Lứa tuổi thiếu niên bắt đầu từ 11, 12 tuổi đến 14, 15 tuổi. Nó chiếm vị trí đặc
biệt quan trọng trong cuộc đời mỗi con người, là thời kỳ quá độ từ tuổi thơ lên tuổi
trưởng thành. Nó có sự phát triển đặc thù về mọi mặt: là giai đoạn tuổi dậy thì, hình
thành tính tích cực xã hội, chuẩn mực và các giá trị xã hội, xây dựng mối quan hệ
thỏa đáng với người lớn, bạn bè. Sự biến đổi tâm sinh lý ở giai đoạn này diễn ra trong
thời gian ngắn, bất ngờ, khó hiểu, làm xuất hiện những khó khăn chủ quan ở các em.
Vị thế của các em trong GĐ thay đổi. Trong tập thể xuất hiện những mối tương tác xã
hội, hình thành nên tình bạn, đặc biệt là bạn thân để trao đổi, học hỏi kinh nghiệm.
Hoạt động học tập cũng có sự thay đổi. Đối với lứa tuổi này vấn đề quan
trọng là phương pháp học nói chung, cách học các môn khoa học như thế nào cho
hiệu quả là mối quan tâm hàng đầu của các em. Đối tượng học tập của thiếu niên là
những tri thức thuộc các lĩnh vực khoa học riêng.
Mặt khác, thái độ học tập ở thiếu niên đã được cấu trúc lại. Ở thiếu niên có
sự phân hóa thái độ với các môn học, có môn thích, có môn không thích, có môn
cần, môn không cần…Thái độ khác nhau với các môn học của thiếu niên phụ thuộc
vào hứng thú, sở thích của các em, vào nội dung môn học và phương pháp giảng
dạy của giáo viên.
Đồng thời, tính chất và hình thức hoạt động học cũng thay đổi. Thiếu niên
hứng thú với những hình thức học tập đa dạng, phong phú, những hình thức sinh hoạt
theo chủ đề, hoạt động văn nghệ, thể dục thể thao, hoạt động ngoại khóa, hoạt động
ngoài nhà trường…
Bên cạnh đó, giao tiếp là hoạt động chủ đạo của tuổi thiếu niên. Trong giao
tiếp với người lớn tính chủ thể của thiếu niên rất cao, đòi hỏi nhu cầu được người
lớn tôn trọng. Điều đáng nói đó là lứa tuổi thiếu niên xuất hiện cảm giác về sự

trưởng thành. Các em cảm nhận mình không phải là trẻ con nhưng cũng chưa phải là
người lớn, điều này dẫn đến những hành động khác lạ ở các em. Người lớn vẫn cho

20


×