BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
TIỂU LUẬN
Môn: Kinh tế Quốc tế
ĐỀ TÀI:
“CƠ HỘI, THÁCH THỨC VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
HIỆU QUẢ HỘI NHẬP CỦA NỀN KINH TẾ VIỆT NAM KHI
GIA NHẬP CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN (AEC)”
Giảng viên hướng dẫn :
TS. Nguyễn Thị Thúy Hồng
Học viên
: Nguyễn Quỳnh Hoa
Lớp
: CH.K24N
THÁNG 6/2016
LỜI NÓI ĐẦU
1
Ngày nay, hội nhập Kinh tế Thế giới nói chung và ASEAN nói riêng là
những vấn đề đang được thu hút nhiều sự chú ý của các nước trên thế giới. Tại
Việt Nam vấn đề hội nhập cũng được quan tâm hàng đầu, thể hiện ở việc chúng
ta đã tích cực gia nhập các Tổ chức Kinh tế trên Thế giới, ký kết các hiệp định,
hiệp ước song phương, đa phương và đặc biệt là những hoạt động tích cực cho
sự ra đời của AEC – Cộng đồng Kinh tế ASEAN vào năm 2015.
AEC ra đời đã một bước ngoạt đánh dấu sự hội nhập khu vực một cách
toàn diện của các kinh tế Đông Nam Á, hướng tới mô hình một cộng động kinh
tế-an ninh-xã hội theo mô hình EU. Đồng thời, AEC ra đời cũng sẽ hòa trộn nền
kinh của 10 quốc gia thành viên thành một khối sản xuất, thương mại và đầu tư,
tạo ra thị trường chung của một khu vực có dân số 600 triệu người và GDP hàng
năm khoảng 2.000 tỉ đô la Mỹ.
Để cung cấp khái quát nhất, chung nhất về cộng đồng kinh tế ASEAN (gọi
tắt là AEC), trong khuôn khổ môn học, tôi chọn đề tài “Cơ hội, thách thức và
một số giải pháp nâng cao hiệu quả hội nhập của nền kinh tế Việt Nam khi
gia nhập cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC)”.
Do giới hạn về thời gian và tài liệu nghiên cứu, đề tài vẫn còn những điểm
thiếu sót và hạn chế. Tác giả rất mong nhận được sự quan tâm, góp ý của quý
thầy cô và các bạn để hoàn thiện đề tài.
Xin trân trọng cảm ơn!
2
CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN:
I.
Lịch sử hình thành.
Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) được thành lập từ năm 1967,
hiện tại bao gồm 10 nước: Brunei, Campuchia, Indonesia, Lào, Malaysia,
Myanmar, Philippines, Singapore, Thái Lan và Việt Nam.
Hiệp hội ASEAN dựa trên 03 trụ cột chính là cộng đồng an ninh chính trị
(ASC); cộng đồng kinh tế (AEC) và cộng động văn hóa xã hội (ASCC) trên cơ
sở giữ vững các nguyên tắc cơ bản của ASEAN “độc lập, chủ quyền, không can
thiệp vào công việc nội bộ, đồng thuận và giải quyết hòa bình mọi bất đồng,
tranh chấp, đồng thời khẳng định ASEAN tiếp tục đẩy mạnh và mở rộng quan
hệ hợp tác với các đối tác bên ngoài vì mục đích chung là hòa bình, ổn định và
hợp tác cùng có lợi”.
Các mốc thời gian quan trọng đánh dấu việc hình thành Cộng đồng kinh tế
ASEAN (Asean Economic Community, gọi tắt là AEC):
- Năm 1992: khái niệm hội nhập kinh tế ASEAN lần đầu tiên được đưa ra
trong Hiệp định khung về Thúc đẩy Hợp tác Kinh tế ASEAN ký tại
Singapore. Hiệp định này nhấn mạnh tầm quan trọng trong hợp tác trong
các lĩnh vực thương mại, công nghiệp, năng lượng và khoáng sản, tài
chính và ngân hàng, thực phẩm, nông nghiệp và lâm nghiệp, giao thông
và truyền thông.
- 1992: Hiệp định về Chương trình Ưu đãi Thuế quan có hiệu lực chung
(CEPT) được ký kết, sau đó được thay thế bởi Hiệp định về Thương mại
Hàng hoá ASEAN 2010.
- 1995: Hiệp định khung về Dịch vụ ASEAN được ký kết.
- 1998: Hiệp định khung về Đầu tư ASEAN được ký kết, sau đó được thay
thế bởi Hiệp định Đầu tư toàn diện ASEAN 2012.
- 2003: Tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN 9, các nhà lãnh đạo ASEAN lần
đầu tiên tuyên bố mục tiêu hình thành một Cộng đồng Kinh tế ASEAN
(ASEAN Economic Community - AEC). Mục tiêu này cũng phù hợp với
Tầm nhìn ASEAN 2020 thông qua vào năm 1997 với mục tiêu phát triển
ASEAN thành một Cộng đồng ASEAN.
- 2006: Tại cuộc họp các Bộ trưởng Kinh tế ASEAN lần thứ 38, Kế hoạch
tổng thể xây dựng AEC (AEC Blueprint) đã được đưa ra với các mục tiêu
và lộ trình cụ thể cho việc thực hiện AEC.
- 2007: Tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 12, các nhà lãnh đạo
ASEAN đã đồng ý đẩy nhanh việc hình thành AEC vào năm 2015 thay vì
2020 như kế hoạch ban đầu.
- 22/11/2015: Tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 27, các nhà lãnh
đạo ASEAN đã ký kết Tuyên bố Kuala Lumpur về việc thành lập AEC.
1.
3
-
31/12/2015: Cộng đồng kinh tế ASEAN chính thức có hiệu lực.
4
-
Biểu đồ 1: Các mốc thời gian quan trọng của AEC [1]
1967
- 1977
- 1993
- 1995
- 1997
- 2003
- 2007
- 2008
- 2010
- 2012
- 2015
- 2016-2025
- Kế hoạch tổng thể
- xây dựng AEC 2015
- AEC chính thức được thành lập
- Hiệp định đầu tư toàn diện Asean (ACIA) có hiệu lực
- Hiệp định thương mại hàng hóa Asean (ATIGA) có hiệu lực
- Hiến chương ASEAN
Vòng đàm phán Cebu (tăng tốc kế hoạch thành lập cộng đồng vào năm
2015)
- Kế hoạch tổng thể
- xây dựng AEC 2015
- Hiệp ước Bali II
- (Cộng đồng Asean
- Tầm nhìn
- ASEAN 2020
- Hiệp định về các Thỏa thuận Thương mại ưu đãi ASEAN
- Ký kết Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ (AFAS)
- Khu vực mậu dịch
- tự do ASEAN
- có hiệu lực
- ASEAN ra đời
-
-
5
Mục tiêu:
2.
-
Biểu đồ 2: 4 mục tiêu trụ cột của Cộng đồng Kinh tế ASEAN [2]
-
-
CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN (AEC)
- Thị trường và cơ sở sản xuất chung
- Khu vực kinh tế
- cạnh tranh
- Phát triển kinh tế
- cân bằng
- Hội nhập nền kinh tế toàn cầu
Tự do lưu chuyển hàng hóa;
Tự do lưu chuyển dịch vụ;
Tự do lưu chuyển đầu tư;
Tự do lưu chuyển lao động có tay nghề;
Lĩnh vực hội nhập ưu tiên;
Thực phẩm, nông nghiệp và lâm nghiệp.
Chính sách về cạnh tranh;
Bảo hộ người tiêu dùng;
Quyền sở hữu trí tuệ;
Phát triển cơ sở hạ tầng;
Thuế quan;
Thương mại điện tử.
- Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME);
- Sáng kiến hội nhập nhằm thu hẹp khoảng cách trong ASEAN.
- Tham vấn chặt chẽ trong đàm phán đối tác kinh tế;
- Nâng cao năng lực tham gia vào mạng lưới cung cấp toàn cầu.
-
-
6
Trong “Tầm nhìn ASEAN 2020”, mục tiêu của Cộng đồng Kinh tế
ASEAN nhằm hình thành một khu vực kinh tế ASEAN ổn định, thịnh vượng và
có khả năng cạnh tranh cao, trong đó năm yếu tố cơ bản là hàng hóa, dịch vụ,
đầu tư, vốn và lao động có tay nghề sẽ được di chuyển tự do trong phạm vi các
nước ASEAN, kinh tế phát triển đồng đều, đói nghèo và chênh lệch kinh tế - xã
hội được giảm bớt vào năm 2020 để từ đó nâng cao tính cạnh tranh và thúc đẩy
thịnh vượng chung cho cả khu vực, tạo sự hấp dẫn đối với đầu tư - kinh doanh
từ bên ngoài. Như vậy, có thể thấy nhiệm vụ của AEC là đưa ASEAN trở thành:
-
Thứ nhất, một thị trường hàng hóa và cơ sở sản xuất duy nhất, thúc đẩy
phát triển mạng lưới sản xuất trong khu vực, nâng cao năng lực của Asean với
vai trò là một trung tâm sản xuất đáp ứng yêu cầu đối với chuỗi cung ứng toàn
cầu; mang lại lợi ích cho các ngành được ưu tiên tham gia hội nhập, như nông
nghiệp, hàng không, ô-tô, điện tử (e-ASEAN), ngư nghiệp, chăm sóc sức khỏe,
cao su, dệt may và thời trang, du lịch, ngành công nghiệp gỗ và các ngành dịch
vụ khác.
- Thứ hai, một khu vực kinh tế có năng lực cạnh tranh cao, thịnh vượng và
ổn định, trên cơ sở ưu tiên sáu yếu tố chủ chốt, bao gồm: chính sách cạnh tranh,
bảo vệ người tiêu dùng, quyền sở hữu trí tuệ, phát triển kết cấu hạ tầng, hệ thống
thuế và thương mại điện tử. Asean cam kết thúc đẩy văn hóa cạnh tranh công
bằng thông qua việc ban hành các chính sách và luật cạnh tranh, bảo đảm sân
chơi bình đẳng trong Asean và hiệu quả kinh tế khu vực ngày càng cao.
- Thứ ba, một khu vực phát triển kinh tế đồng đều với hai điểm nhấn: (1)
Hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) phát triển bằng cách thuận lợi
hóa phương pháp tiếp cận thông tin, tài chính, kỹ năng, phát triển nguồn nhân
lực và công nghệ; (2) Thực hiện các sáng kiến liên kết Asean (IAI) để chỉ ra
những lĩnh vực hoạt động cụ thể. IAI là các sáng kiến, chương trình hợp tác
nhằm thu hẹp khoảng cách giữa các quốc gia thành viên Asean, nhất là giữa
ASEAN 6 (Bruney, Indonesia, Malaysia, Philipin, Singapour, Thái Lan) và
ASEAN 4 Indonesia, Malaysia, Philipin, Thái Lan) qua đó thúc đẩy hội nhập
kinh tế của nhóm nước Campuchia, Lào, Myama, Việt Nam (CLMV), cùng
hướng tới một mục tiêu chung và bảo đảm tất cả các quốc gia này đều có được
lợi ích công bằng trong quá trình hội nhập kinh tế.
- Thứ tư, một khu vực hội nhập hoàn toàn vào nền kinh tế thế giới, nhằm
giúp Asean có thể cạnh tranh thành công trên thị trường toàn cầu, đạt được mục
đích sản xuất, trở thành nơi cung ứng quan trọng cho thị trường quốc tế, đồng
thời bảo đảm thị trường Asean có sức hấp dẫn với các nhà đầu tư nước ngoài.
Các quốc gia thành viên Asean cũng nhất trí tham gia nhiều hơn nữa vào mạng
lưới cung ứng toàn cầu bằng việc nâng cao năng suất và hiệu quả. AEC sẽ trở
thành tâm điểm của Asean với vai trò chủ động tham gia cùng các đối tác
-
7
thương mại tự do của Asean và đối tác kinh tế bên ngoài trong việc đổi mới cấu
trúc khu vực.
- Các mục tiêu nói trên không tách rời mà liên quan chặt chẽ và có tác động
qua lại lẫn nhau. Vì thế có thể nói, AEC chính là sự đẩy mạnh những cơ chế liên
kết hiện có của Asean, như Hiệp định khu vực mậu dịch tự do Asean (AFTA),
Hiệp định khung Asean về dịch vụ (AFAS), Khu vực đầu tư Asean (AIA), Hiệp
định khung về hợp tác công nghiệp Asean (AICO), Lộ trình hội nhập tài chính
và tiền tệ Asean,... để xây dựng Asean thành “một thị trường và cơ sở sản xuất
thống nhất”. Nói cách khác, AEC là mô hình liên kết kinh tế khu vực dựa trên
nâng cao những cơ chế liên kết kinh tế hiện có của ASEAN, đồng thời bổ sung
thêm hai nội dung mới là tự do di chuyển lao động và tự do di chuyển vốn hơn
để tạo nên một AEC thịnh vượng và phát triển bền vững.[3]
- Thông qua những mục tiêu hướng đến của Cộng đồng kinh tế ASEAN
(AEC) cho thấy AEC mang những đặc điểm riêng, khác với những khu vực thể
chế tương tự khác, đó là:
- AEC là một tiến trình hội nhập kinh tế khu vực chứ không phải là một
Thỏa thuận hay một Hiệp định với các cam kết ràng buộc thực chất. Để đạt
được những mục tiêu này, các nước Asean đã tham gia hàng loạt các Hiệp
định, Thỏa thuận, Chương trình, Sáng kiến, Tuyên bố… và những văn bản
này có thể bao gồm những cam kết có tính ràng buộc thực thi, có văn bản
mang tính tuyên bố, mục tiêu hướng tới (không bắt buộc) cho các quốc gia
thành viên của Asean.
- AEC thực chất là đích hướng tới của các nước ASEAN thông qua việc
hiện thực hóa dần dần 04 mục tiêu kể trên (trong đó chỉ mục tiêu 01 là
được thực hiện tương đối toàn diện và đầy đủ thông qua các Hiệp định và
thỏa thuận ràng buộc đã ký kết, các mục tiêu còn lại mới chỉ dừng lại ở việc
xây dựng lộ trình, khuôn khổ, thực hiện một số chương trình và sáng kiến
khu vực).
- Việc hiện thực hóa AEC đã được triển khai trong cả quá trình dài trước
đây thông qua thực hiện các cam kết các Hiệp định thương mại cụ thể đã
được ký kết giữa các nước Asean và sẽ được tiếp tục thực hiện trong thời
gian tới (theo lộ trình thực hiện các Hiệp định, Thỏa thuận đã có và các
vấn đề mới, nếu có).
- Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) không được coi là một cộng đồng
kinh tế gắn kết giống như Cộng đồng châu Âu (EC), tức là không đặt mục
tiêu trở thành tổ chức siêu quốc gia, không có đồng tiền chung, chính sách
kinh tế, tiền tệ chung vì các nước ASEAN có các cấu trúc chính trị và văn
hóa khác nhau; không tạo lập các tổ chức quản lý trung ương có cơ cấu tổ
chức chặt chẽ và những điều lệ, quy định có tính chất ràng buộc cao, rõ
ràng như Ủy ban Liên minh châu Âu EU hay Ngân hàng Trung ương châu
Âu mà sẽ tập trung vào việc xóa bỏ các rào cản kinh doanh, thương mại.
8
Tuy nhiên, nhìn vào những bài học kinh nghiệm rút ra từ Cộng đồng châu
Âu, các nhà lãnh đạo AEC đồng tình rằng, ASEAN nên áp dụng các tiêu
chuẩn chung cũng như các luật lệ và quy định chung, đồng thời củng cố
sức mạnh của cơ quan lãnh đạo tập trung.
- Tóm lại, AEC sẽ biến ASEAN thành một khu vực với sự tự do dịch
chuyển hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, lao động có kỹ năng và tự do dịch chuyển
dòng vốn. Liên quan đến việc tạo lập một thị trường và cơ sở sản xuất thống
nhất, các quốc gia thành viên ASEAN đang tập trung thực hiện giảm và tiến tới
xóa bỏ các rào cản để đảm bảo dòng chảy hàng hóa, dịch vụ và vốn trở nên tự do
giữa các nước ASEAN.
- Đối với lĩnh vực dịch vụ tài chính, các quốc gia thành viên đã cam kết tự
do hóa mạnh mẽ, xóa bỏ các hạn chế trong các ngành ngân hàng, bảo hiểm và
các thị trường vốn vào năm 2015. Điều này bao hàm tự do hóa 4 phương thức
cung cấp thương mại dịch vụ qua biên giới như được định nghĩa trong WTO - là
cung cấp thương mại dịch vụ qua biên giới (phương thức 1), Tiêu dùng (sử dụng
dịch vụ) ở nước ngoài (phương thức 2), Hiện diện thương mại (Phương thức 3)
và Tự do dịch chuyển cá nhân (Phương thức 4) .
-
3.
Các hiệp định chính trong AEC
Hiệp định Thương mại hàng hóa Asean (ATIGA)
- Hiệp định Thương mại hàng hóa Asean (ATIGA) được ký từ tháng 2/2009
và có hiệu lực từ 17/5/2010, có tiền thân là Hiệp định Ưu đãi thuế quan chung
(CEPT/AFTA) ký năm 1992. Việt Nam tham gia Asean từ năm 1995, bắt đầu
thực hiện CEPT/AFTA từ năm 1996 và sau này tiếp tục thực hiện ATIGA. Đây
là hiệp định toàn diện đầu tiên của ASEAN điều chỉnh toàn bộ thương mại hàng
hóa trong nội khối và được xây dựng trên cơ sở tổng hợp các cam kết cắt
giảm/loại bỏ thuế quan đã được thống nhất trong CEPT/AFTA cùng các hiệp
định, nghị định thư có liên quan.
- Trong ATIGA, các nước Asean dành cho nhau mức ưu đãi tương đương
hoặc thuận lợi hơn mức ưu đãi mà Asean dành cho các nước đối tác trong các
Thỏa thuận thương mại tự do (FTA) hay ASEAN+.
- Ngoài ra, ATIGA cũng bao gồm nhiều cam kết khác như: cam kết xóa bỏ
các hàng rào phi thuế quan (cắt giảm theo lộ trình khác nhau với đối với Asean-6
và nhóm CLMV trong đó có Việt Nam), cam kết về quy tắc xuất xứ và thủ tục
chứng nhận xuất xứ, thuận lợi hóa thương mại, hải quan, các tiêu chuẩn và sự
phù hợp, các biện pháp vệ sinh dịch tễ…
- Biểu cam kết cắt giảm thuế quan của mỗi nước trong ATIGA so với CEPT
rất rõ ràng và dễ tra cứu (Phụ lục 02 của Hiệp định), nó bao gồm toàn bộ các sản
phẩm trong Danh mục hài hòa thuế quan của Asean (AHTN) và lộ trình cắt giảm
cụ thể cho từng sản phẩm trong từng năm.
- Theo ATIGA, đến năm 2010 các nước ASEAN-6 phải xóa bỏ thuế nhập
khẩu đối với 100% dòng thuế thuộc Danh mục thông thường; chỉ giữ lại một số
3.1.
9
dòng thuế thuộc Danh mục loại trừ chung gồm những sản phẩm được miễn trừ
vĩnh viễn vì lý do an ninh quốc gia, đạo đức và sức khỏe). Các nước nhóm
CLMV (gồm Campuchia, Lào, Myanmar và Việt Nam) có lộ trình dài hơn xóa
bỏ thuế cho hàng hóa từ các nước ASEAN muộn hơn, đến năm 2015 mới phải
xóa bỏ toàn bộ thuế nhập khẩu trong Danh mục thông thường nhưng được linh
hoạt giữ lại thuế suất đối với 7% số dòng thuế đến năm 2018.
- Theo thông tin từ Bộ Tài chính, tính đến năm 2015, thực hiện cam kết
ATIGA, Việt Nam đã cắt giảm, xóa bỏ được thuế nhập khẩu xuống còn 0-5%
đối với 8.603 dòng thuế, chiếm trên 90% Biểu thuế. Số còn lại gồm 669 dòng
thuế (chiếm 7% Biểu thuế), chủ yếu là những sản phẩm nhạy cảm trong thương
mại giữa Việt Nam và ASEAN, sẽ xuống 0% vào năm 2018, bao gồm: ô tô, xe
máy, phụ tùng linh kiện ô tô xe máy, dầu thực vật, hoa quả nhiệt đới, đồ điện dân
dụng như tủ lạnh, máy điều hòa, sữa và các sản phẩm sữa…
- [4] Từ năm 2018 Việt Nam chỉ còn được duy trì thuế nhập khẩu với mức
thuế suất tối đa là 5% đối với khoảng 3% số dòng thuế, bao gồm phần lớn là các
mặt hàng nông nghiệp nhạy cảm (gia cầm sống, thịt già, trứng gia cầm, quả có
múi, thóc, gạo lứt, thịt chế biến, đường). Hai nhóm mặt hàng có lộ tình cam kết
dài và chưa có lộ trình là xăng dầu (đến năm 2024) và thuốc lá (sẽ phải đưa ra lộ
trình cắt giảm trong tương lai gần).
3.2.
Hiệp định Khung về Dịch vụ ASEAN (AFAS)
Hiệp định Khung về Dịch vụ của ASEAN (AFAS) được ký lần đầu vào
tháng 12/1995 với các nội dung tương tự Hiệp định Chung về Thương mại Dịch
vụ của WTO để làm tiền đề cho các vòng đàm phán từng bước tự do hóa thương
mại dịch vụ giữa các nước ASEAN.
- Trong giai đoạn từ 1996-2015, các nước ASEAN đã tiến hành đàm phán
và đưa ra 9 Gói cam kết về dịch vụ, 6 Gói cam kết về dịch vụ tài chính và 8 Gói
cam kết về dịch vụ vận tải hàng không.
- Nguyên tắc đàm phán dịch vụ trong khuôn khổ AFAS được thực hiện theo
hình thức Chọn - Cho giống WTO, tức là tất cả các ngành/lĩnh vực có cam kết
mở cửa thì sẽ được đưa vào trong các Gói cam kết, còn trường hợp không đưa
vào là không có cam kết gì.
- Phạm vi cam kết trong các Gói cam kết về mở cửa dịch vụ của Hiệp định
AFAS chỉ bao gồm 3 Phương thức cung cấp dịch vụ: (1) Cung cấp dịch vụ qua
biên giới; (2) Tiêu dùng ở nước ngoài và (3) Hiện diện thương mại; còn riêng các
cam kết về (4) Hiện diện thể nhân hay còn gọi là Di chuyển thể nhân thì được
đàm phán riêng trong Hiệp định về di chuyển thể nhân ASEAN năm 2012.
- Ngoài ra, lĩnh vực dịch vụ Tài chính và Vận tải hàng không cũng được
đàm phán riêng, không nằm trong các Gói cam kết chung.
- Với mỗi Gói cam kết, để thực hiện, các nước ASEAN sẽ cùng ký vào một
Nghị định thư thực thi Gói cam kết đó. Hiệu lực của Gói cam kết sẽ phụ thuộc
vào quy định trong Nghị định thư.
-
10
Nhìn chung, các Gói cam kết trong AFAS có phạm vi cam kết rộng và
mức độ cam kết sâu hơn so với các cam kết trong WTO của mỗi nước thành
viên. Các Gói cam kết sau có mức độ cam kết cao hơn các Gói cam kết trước
nhằm tiến đến thực hiện các mục tiêu về tự do hóa dịch vụ đặt ra trong Kế hoạch
tổng thể xây dựng AEC (AEC Blueprint).
- Trong 9 Gói cam kết về dịch vụ trong AFAS, các Gói cam kết 17 của
Việt Nam có mức độ mở cửa dịch vụ thấp hơn hoặc bằng so với mức độ mở cửa
dịch vụ của Việt Nam trong WTO; nhưng bắt đầu từ Gói thứ 8 trở đi, một số
cam kết của Việt Nam trong một số phân ngành đã bắt đầu cao hơn mức độ mở
cửa trong WTO và bổ sung thêm cam kết cho một số phân ngành mới.
- Với Gói cam kết thứ 9, nhiều lĩnh vực Việt Nam cam kết cao hơn và mở
rộng thêm một số cam kết so với WTO như: dịch vụ quản lý bất động sản; dịch
vụ nghiên cứu và phát triển; lĩnh vực y tế, viễn thông, du lịch, vận tải (đường
sắt, đường biển, đường bộ hàng hóa; các dịch vụ hỗ trợ, bảo trì, sửa chữa thiết bị
vận tải).
- Hiện tại Việt Nam đã hoàn thành phê chuẩn Gói cam kết thứ 9 của AFAS
và thực hiện khi Gói này khi có hiệu lực (sau 180 ngày kể từ ngày ký Nghị định
thư 27/11/2015).
- Trong các Gói cam kết về dịch vụ Vận tải hàng không: Tính đến tháng
12/2015, các nước ASEAN đã đàm phán và đưa ra 8 Gói cam kết về dịch vụ
Vận tải hàng không; Gói mới nhất (Gói 8) được ký vào ngày 20/12/2013 tại
Pakse, Lào và các nước đang chuẩn bị thông qua Gói thứ 9.
- Trong Gói cam kết thứ 8 của Việt Nam về vận tải hàng không, các lĩnh
vực dịch vụ có cam kết cao hơn so với WTO như: dịch vụ bán và tiếp thị dịch vụ
vận tải hàng không; dịch vụ đặt, giữ chỗ bằng máy tính; dịch vụ cho thuê máy
bay kèm/không kèm đội bay và dịch vụ giao nhận hàng hóa vận chuyển bằng
đường hàng không (chưa có cam kết trong WTO); dịch vụ cung cấp bữa ăn trên
máy bay.
- Trong các Gói cam kết về dịch vụ Tài chính: Tính đến tháng 12/2015
các nước ASEAN đã tiến hành đàm phán và đưa ra 6 Gói cam kết về dịch vụ tài
chính. Gói mới nhất (Gói 6) được ký ngày 20/3/2015 tại KualaLumpur, Malaysia.
Tuy nhiên, do lĩnh vực tài chính là một trong những lĩnh vực nhạy cảm không
chỉ đối với Việt Nam mà đối với nhiều nước ASEAN, nên các cam kết mở cửa
dịch vụ tài chính trong các Gói cam kết tài chính của AFAS vẫn còn tương đối
hạn chế, thường thấp hơn hoặc ngang bằng cam kết trong WTO.
- Tuy nhiên, trong Nghị định thư thực hiện Gói cam kết thứ 6, các nước
ASEAN đã đưa vào một nội dung quan trọng đó là: Nhằm tăng cường hội nhập
khu vực trong lĩnh vực ngân hàng, hai hoặc nhiều nước thành viên ASEAN có
thể tiến hành đàm phán riêng và mở cửa thêm cho nhau trong lĩnh vực này, các
cam kết mở cửa riêng đó sẽ được đưa vào thành một phần của Gói cam kết dịch
vụ tài chính thứ 6 nhưng chỉ dành riêng cho các nước đàm phán mở cửa thêm,
-
11
còn có mở rộng cho các nước còn lại trong ASEAN hay không thì tùy thuộc vào
sự tự nguyện của các nước này.
- Đối với Việt Nam, trong Gói cam kết 6 về tài chính của AFAS, các cam
kết mở cửa dịch vụ tài chính của Việt Nam tương đương các cam kết mở cửa
trong WTO.
3.3.
Hiệp định ASEAN về Di chuyển thể nhân (MNP) [5]
- Nguồn gốc: Trong ASEAN, Phương thức thứ 4 trong 4 phương thức cung
cấp dịch vụ là Di chuyển thể nhân (là sự di chuyển của cá nhân từ nước này qua
nước khác để cung cấp một dịch vụ trong một khoảng thời gian nhất định) ban
đầu được đàm phán trong khuôn khổ Hiệp định Thương mại Dịch vụ ASEAN
(AFAS), nhưng sau đó được tách riêng ra để đàm phán trong một Hiệp định
riêng là Hiệp định ASEAN về Di chuyển thể nhân (MNP) năm 2012.
- Ngoài ra, để tạo thuận lợi hơn cho sự di chuyển của lao động có tay nghề
giữa các nước ASEAN, các nước đã ký kết các Thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau
trong một số lĩnh vực ngành nghề nhằm công nhận lẫn nhau về bằng cấp và trình
độ của lao động có kỹ năng trong khu vực. Đến thời điểm tháng 12/2015, các
nước ASEAN đã ký 8 Thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau (MRA) trong 8 lĩnh vực
dịch vụ là: Kiến trúc, Tư vấn kỹ thuật, Điều dưỡng, Hành nghề y, Nha sỹ, Du
lịch, Kế toán kiểm toán, và Khảo sát.
- Hiệp định ASEAN về Di chuyển thể nhân (MNP) được ký ngày
19/11/2012 tại Phnom Penh, Campuchia với mục tiêu dỡ bỏ đáng kể các rào cản
đối với việc di chuyển tạm thời qua biên giới của các thể nhân tham gia vào
thương mại hàng hóa, dịch vụ và đầu tư giữa các nước ASEAN.
- Hiệp định MNP áp dụng đối với các quy định ảnh hưởng tới việc di
chuyển tạm thời qua biên giới của thể nhân của một nước ASEAN sang lãnh thổ
của nước ASEAN khác trong các trường hợp: (1) khách kinh doanh; (2) người di
chuyển trong nội bộ doanh nghiệp; (3) người cung cấp dịch vụ theo hợp đồng và
(4) một số trường hợp khác quy định cụ thể trong Biểu lộ trình cam kết về Di
chuyển thể nhân của mỗi nước đính kèm theo Hiệp định này.
- Tuy nhiên, Hiệp định Di chuyển thể nhân (MNP) không áp dụng đối với
các quy định của một nước ASEAN liên quan tới việc hạn chế tiếp cận thị
trường lao động của người lao động các nước ASEAN khác. Việc mở cửa thị
trường lao động của mỗi nước chỉ áp dụng cho các ngành nghề được quy định
cụ thể trong Biểu lộ trình cam kết của nước đó và thuộc một trong 4 trường hợp
trên.
- So sánh cam kết WTO và Pháp luật Việt Nam cho thấy: Các cam kết của
Việt Nam trong MNP phù hợp với các cam kết của Việt Nam trong WTO và các
quy định pháp luật nội địa của Việt Nam. Đến thời điểm này, Hiệp định Di
chuyển thể nhân (MNP) hiện vẫn chưa có hiệu lực do một số nước ASEAN chưa
hoàn tất thủ tục phê chuẩn.
3.4.
Hiệp định đầu tư toàn diện ASEAN (ACIA)
12
- Hiệp định Đầu tư Toàn diện ASEAN (ACIA) được ký kết tháng 2/2009 và
có hiệu lực từ 29/3/2012 thay thế cho Hiệp định Khuyến khích và Bảo hộ Đầu tư
ASEAN (IGA) 1987 và Hiệp định Khu vực đầu tư ASEAN (AIA) 1998.
- Hiệp định ACIA bao gồm 4 nội dung chính là: Tự do hóa đầu tư, Bảo hộ
đầu tư, Thuận lợi hóa đầu tư và Xúc tiến đầu tư; gồm 49 điều, 02 phụ lục và 01
Danh mục bảo lưu (các trường hợp ngoại lệ: ngoại lệ chung, ngoại lệ về an ninh
quốc phòng, danh mục bảo lưu của từng nước. Tuy nhiên, theo quy định của
ACIA, các Thành viên sẽ phải cắt giảm hoặc xóa bỏ các bảo lưu trong Danh
mục bảo lưu của nước mình phù hợp với 3 giai đoạn của Lộ trình chiến lược
trong Kế hoạch tổng thể thực hiện AEC.:)
- Nội dung trong ACIA đề cập về: (1) các nghĩa vụ liên quan đến đầu tư:
(2) tự do hóa trong đầu tư liên quan đến các lĩnh vực: chế tạo, nông nghiệp, nghề
cá, lâm nghiệp, khai mỏ, các dịch vụ phụ trợ cho các ngành trên và bất kỳ lĩnh
vực nào khác nếu tất cả các Thành viên đồng ý và (3) các nghĩa vụ chính về đầu
tư [(3.1) nghĩa vụ về không phân biệt đối xử: (a) đối xử quốc gia, (b) tối huệ
quốc; (c) các yêu cầu về thực hiện và (d) các yêu cầu về quản lý cấp cao và Ban
Giám đốc. (3.2) nghĩa vụ về bảo hộ đầu tư]
Một số đặc điểm nổi bật của ACIA:
- - Phạm vi điều chỉnh của ACIA bao gồm cả đầu tư trực tiếp và gián tiếp.
- - ACIA mở rộng về phạm vi định nghĩa nhà đầu tư (ví dụ doanh nghiệp
100% vốn nước ngoài khối tại một nước ASEAN khi đầu tư sang một nước
ASEAN khác được coi là nhà đầu tư ASEAN).
- - ACIA quy định về các biện pháp/yêu cầu đối với đầu tư bị cấm mà các
nước thành viên không được phép sử dụng (ví dụ yêu cầu tỷ lệ nội địa hóa, cân
bằng cán cân thanh toán)
- - ACIA quy định cơ chế giải quyết tranh chấp trực tiếp giữa Nhà nước và
nhà đầu tư (Cơ chế ISDS: giải quyết tranh chấp thông qua hòa giải, đàm
phán/tham vấn và giải quyết bằng trọng tài).
-
Đánh giá về các hiệp định trong Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC)
- - Về tự do hóa hàng hóa: Trong số các FTA mà Việt Nam đã ký kết, các
cam kết về cắt giảm thuế quan trong AEC là cao nhất và nhanh nhất. Cho đến
nay, Việt Nam đã gần hoàn thành lộ trình cắt giảm thuế quan trong AEC.
- - Về tự do hóa dịch vụ: các cam kết về dịch vụ trong AEC đều tương tự
mức cam kết trong WTO, trong một số gói cam kết dịch vụ gần đây của AEC,
mức độ cam kết đã bắt đầu cao hơn so với WTO nhưng không nhiều và cũng
phù hợp với mức độ mở cửa thực tế về dịch vụ của Việt Nam.
- - Về tự do hóa đầu tư: các cam kết về đầu tư trong AEC toàn diện hơn
trong WTO và các FTA đã ký của Việt Nam nhưng cũng phù hợp với các quy
định về đầu tư trong pháp luật Việt Nam (việc thực thi các cam kết về đầu tư
trong AEC không buộc Việt Nam phải sửa đổi pháp luật trong nước)
4.
13
- Về tự do hóa lao động: Cho đến nay việc tự do hóa lao động trong AEC
mới chỉ dừng lại ở các Thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau (MRA) về trình độ của
lao động có kỹ năng (thông qua xây dựng hệ thống đăng ký hành nghề chung)
trong 8 ngành nghề, nhưng cho tới thời điểm hiện tại chỉ có 2 MRA đã được
thực thi đầy đủ.
-
II.
CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI VIỆT NAM KHI GIA NHẬP
CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN (AEC)
Cơ hội của Việt Nam khi gia nhập AEC
- [6] Thứ nhất, AEC sẽ là cơ hội để Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu, nhanh
chóng bắt nhịp với xu thế và trình độ phát triển kinh tế của khu vực và thế giới.
AEC ra đời cùng với việc Việt Nam mở rộng các hiệp định tự do thương mại sẽ
tạo động lực giúp các doanh nghiệp mở rộng giao thương, thu hút đầu tư, đẩy
mạnh xuất khẩu, cắt giảm chi phí nhập khẩu, hạ giá thành sản phẩm, tiếp cận các
thị trường rộng lớn hơn. Khi AEC hình thành, các doanh nghiệp Việt Nam có thể
bán hàng sang các nước ASEAN gần như bán hàng trong nước. Đây là một
trong những thuận lợi đối với việc lưu chuyển hàng hóa của các doanh nghiệp.
Hơn nữa, các thủ tục xuất nhập khẩu sẽ đỡ rườm rà hơn và việc cải cách thủ tục
xuất xứ, tiến tới cho phép doanh nghiệp tự chứng nhận xuất xứ cũng sẽ tạo điều
kiện thuận lợi cho doanh nghiệp thông quan hàng hóa sang các thị trường
ASEAN.
- Thứ hai, doanh nghiệp Việt Nam sẽ có cơ hội mở rộng thị trường trao đổi
thương mại, thu hút đầu tư, tham gia sâu hơn vào chuỗi sản xuất và cung ứng
khu vực, với hoạt động xuất khẩu thuận lợi hơn nhờ rào cản thuế quan, phi thuế
quan được tháo gỡ. Doanh nghiệp còn có thể tận dụng những hiệp định thương
mại tự do (FTA) mà ASEAN đã kí kết với Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc,
Ấn Độ, Úc, New Zealand như ưu đãi thuế quan 0%, cũng như Hiệp định đối tác
toàn diện khu vực (RCEP) sắp xây dựng. Trong thị trường chung AEC có 12
ngành công nghiệp được ưu tiên hội nhập gồm: sản phẩm từ nông nghiệp, hàng
không (vận tải hàng không), ô tô, điện tử ASEAN, thủy sản, y tế, các sản phẩm
cao su, dệt may và may mặc, du lịch, các sản phẩm gỗ và dịch vụ logistics cũng
như thực phẩm, nông lâm sản.
- Thứ ba, Việt Nam có cơ hội lớn trong việc thu hút đầu tư nước ngoài. Với
việc hình thành AEC, những ưu đãi về tự do di chuyển vốn sẽ gia tăng đầu tư lẫn
nhau giữa các nước trong nội khối.
- [7]Việc hình thành AEC được kỳ vọng sẽ mang lại tự do hóa đầu tư và
dòng vốn. Đây cũng được coi là cơ hội lớn, tạo đà cho sự phát triển mạnh mẽ
của thị trường tài chính cũng như nền kinh tế với những cam kết về việc mở cửa,
xóa bỏ các giới hạn trong lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm và thị trường vốn.
- Theo đó, khu vực tài chính trong nước sẽ phải liên thông, liên kết với thị
trường này của các nước AEC; hình thành một môi trường đầu tư chung. AEC sẽ
mở ra cơ hội đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ tài chính,
1.
14
đáp ứng tốt hơn các nhu cầu vốn; nhiều các nhà đầu tư tài chính nước ngoài
tham gia mở rộng hoạt động kinh doanh vào thị trường tài chính trong nước.
- Điều này đồng nghĩa với việc, mang lại sự lựa chọn đa dạng hơn về loại
hình sản phẩm, dịch vụ tài chính với chất lượng cạnh tranh hơn cho người tiêu
dùng; đồng thời, các doanh nghiệp tài chính cần sớm chuẩn bị đón đầu các cơ
hội một cách hiệu quả mà còn có những chính sách phù hợp để đối mặt với
những thách thức từ thị trường tài chính chung của AEC. Thêm vào đó, tự do
hóa đầu tư và dòng vốn trong AEC sẽ có tác động tích cực, góp phần thúc đẩy
thị trường tài chính nước ta vừa phát triển về chiều rộng, quy mô vừa phát triển
về chiều sâu, được nâng lên tầm cao hơn, theo hướng chuyên nghiệp hơn.
- Các nhà đầu tư nước ngoài, các quỹ đầu tư chứng khoán, các tập đoàn tài
chính lớn sẽ góp phần làm chuyên nghiệp, minh bạch hóa thị trường tài chính
trong nước. Từ đó, tăng cường kinh nghiệm và nâng cao tiêu chuẩn về quản trị
công ty, quản trị rủi ro, kỹ năng phân tích, đầu tư cho các doanh nghiệp trong
nước.
- Sự luân chuyển tự do của các dòng vốn sẽ làm tăng đáng kể quy mô của
thị trường tài chính cũng như thị trường chứng khoán và đây thực sự trở thành
kênh huy động vốn quan trọng cho doanh nghiệp, đáp ứng các nhu cầu vốn để
phát triển kinh tế.
- Tuy nhiên, các doanh nghiệp cũng cần nhận thấy rõ đi cùng cơ hội luôn có
không ít thách thức. Thị trường tài chính trong nước sẽ phải đối mặt với áp lực
cạnh tranh lớn ngày càng tăng từ sự tham gia của các định chế tài chính, các tập
đoàn tài chính lớn trong khu vực.
- Thêm vào đó, thị trường tài chính vốn dĩ được xem là thị trường nhạy cảm
và phức tạp, nhất là trong quản lý điều hành. Bởi vậy, sự gia tăng mạnh của
dòng vốn, đặc biệt từ nước ngoài sẽ làm gia tăng mối lo về bong bóng giá tài
sản và ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động điều hành chính sách tiền tệ độc lập.
- Ngoài ra, nước ta đang trong giai đoạn phát triển và hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường nên việc nhận diện và giám sát rủi ro của hệ thống tài chính
còn yếu và thiếu. Khi tham gia vào thị trường chung AEC, việc nhận diện và
giám sát rủi ro hệ thống tài chính ở nước ta càng trở nên cần thiết hơn, với
những yêu cầu chặt chẽ và cao hơn.
- [8] Thứ tư, việc hình thành AEC sẽ tác động tới việc mở rộng thị phần và
thay đổi cơ cấu sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam theo chiều hướng tích cực. Cơ
cấu xuất khẩu của Việt Nam có điều kiện tốt để dịch chuyển tích cực hơn;
chuyển dịch và thay thế dần các mặt hàng có lượng chế tác thấp (như các mặt
hàng nông sản) sang mặt hàng tiêu dùng, hàng công nghiệp, nông sản chế biến,
mỹ phẩm có giá trị cao và ổn định. Bên cạnh đó, việc hình thành AEC sẽ giúp
Việt Nam có thể mở rộng thị phần các hàng hóa của mình trên các thị trường
như ASEAN, Hàn Quốc và Nhật Bản.
- Thứ năm, tạo ra sức ép, nâng cao năng lực cạnh tranh của các DN Việt
Nam: tham gia vào một sân chơi chung và chịu áp lực cạnh tranh từ các đối tác
khu vực cả về trình độ quản lý, công nghệ và nhân lực, sẽ buộc các DN Việt
15
Nam phải tự cải tổ, thay đổi, nâng cao năng lực cạnh tranh để có thể tồn tại và
phát triển. [9]
Thách thức của Việt Nam khi gia nhập AEC
2.1. Sự chênh lệch lớn về trình độ phát triển với các nước thành viên AEC [10]
- Trước khi hình thành thị trường chung, các nước EU đã có trình độ phát
triển tương đối cao về kinh tế nên hội nhập khu vực đã ngay lập tức mang lại lợi
ích kinh tế lớn cho các nước thành viên. Trong khi đó, các nước thành viên
ASEAN rất đa dạng về mô hình nhà nước, chính trị, văn hoá vàcó sự chênh lệch
lớn về trình độ phát triển.
- Khoảng cách giữa Việt Nam và các nước phát triển hơn trong khu vực là
khá lớn. Tính theo GDP bình quân đầu người, Việt Nam chỉ cao hơn Lào,
Campuchia và Myanmar, và thấp hơn nhiều so với.
- Chỉ số phát triển con người (HDI) cũng có sự khác biệt lớn giữa Việt Nam
và các nước ASEAN.Theo bảng xếp hạng của Chương trình Phát triển Liên Hợp
Quốc năm 2013, Việt Nam xếp hạng 121, cao hơn Lào (139), Campuchia (136),
Myanma (150) nhưng thấp hơn nhiều so với Singapore (9), Brunei (30) và
Malaysia (62) [UNDP 2014].
- Sự chênh lệch về trình độ phát triển được coi là yếu tố chính cản trở sự
hình thành thị trường chung ASEAN. Việt Nam cũng như các nước thành viên
AEC sẽ phải xây dựng những chính sách khác nhau để cân bằng giữa cam kết
xây dựng cộng đồng kinh tế chung và giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội
trong nước.
2.2. Năng lực cạnh tranh thấp cả trên phương diện quốc gia và doanh nghiệp
- - Năng lực cạnh tranh quốc gia
- Năng lực cạnh tranh của các nước ASEAN không đồng đều.Theo Báo cáo
Năng lực cạnh tranh toàn cầu 2015-2016 do Diễn đàn Kinh tế Thế giới công bố
[WEF 2015], Singapore tiếp tục giữ vị trí thứ 2 trên bảng xếp hạng năng lực
cạnh tranh toàn cầu,trong khi nhóm 3 nước Lào, Campuchia, Myanma có thứ
hạng năng lực cạnh tranh thấp, lần lượt đứng thứ 83, 90 và 131.
- Việt Nam đã có sự tiến bộ trong cải thiện môi trường kinh doanh, là quốc
gia có mức tăng bậc mạnh nhất, xếp thứ 56 trên bảng xếp hạng năng lực cạnh
tranh toàn cầu 2015-2016. Tuy nhiên, những tiến bộ đó vẫn chưa theo kịp sự
phát triển của nhiều quốc gia khác, môi trường kinh doanh và năng lực cạnh
tranh của Việt Nam so với các nước trong khu vực còn thấp, chỉ đứng thứ 6, sau
Singapore (2), Malaysia (18), Thái Lan (32), Indonesia (37) và Philippines (47).
Năng lực cạnh tranh quốc gia chưa được cải thiện nhiều, nhất là về thể chế kinh
tế, kết cấu hạ tầng và đổi mới công nghệ.
- [11]Về thể chế và chính sách quốc gia của Việt Nam mặc dù có nhiều thay
đổi tích cực tuy nhiên so với các nước trong ASEAN 6 còn rất lạc hậu. Theo xếp
hạng năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam do Diễn đàn Kinh tế Thế giới
(WEF) công bố cho năm 2014-2015 ở mức rất thấp và ít có cải thiện từ nhiều
2.
16
năm nay. Các doanh nghiệp Việt Nam cần đến 872 giờ/năm để đóng thuế trong
khi con số bình quân của dịch vụ đó ở các nước ASEAN-6 chỉ là 172 giờ/năm.
- Bảng 1: Xếp hạng về thể chế của Việt Nam
- (Nguồn Diễn đàn Kinh tế thế giới 2014-2015)
-
-
-
T
1
2
3
-
Thể chế
-
92
-
3.5
-
Thể chế công
-
85
-
3.5
-
Luật về sở hữu
-
104
-
3.4
-
Chi phí ngoài pháp luật và đút lót cho xuất,
nhập khẩu
Chi phí ngoài pháp luật và đút lót cho nộp thuế
hàng năm
Chi phí ngoài pháp luật và đút lót để nhận được
kết quả tư pháp thuận lợi
-
109
-
3.2
-
121
-
2.6
-
104
-
3.5
-
5
-
-
6
7
8
9
1
Điểm
thấp
nhất
đến
cao
nhất
(1-7)
-
4
-
Chỉ tiêu
Xếp
hạng
trên
144
nước
-
Hiệu quả của Chính phủ
-
117
-
2.9
-
Gánh nặng của Chính phủ
-
91
-
3.2
-
Gánh nặng của quy định của Chính phủ
-
101
-
3.1
-
Tính minh bạch của quá trình soạn thảo chính
sách của Chính phủ
-
116
-
3.5
- - Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
- Lực lượng doanh nghiệp của Việt Nam đã tăng lên đáng kể trong thời gian
qua. Tổng số doanh nghiệp đang hoạt động sản xuất kinh doanh tại thời điểm
cuối năm 2013 là 373.213 doanh nghiệp, tăng 3,3 lần so với năm 2005. Tuy
nhiên, 96,4% số doanh nghiệp này là doanh nghiệp ngoài nhà nước có quy mô
chủ yếu là nhỏ và vừa. Xét về lao động, 98,77% doanh nghiệp ngoài nhà nước
có quy mô nhỏ, ít hơn 200 lao động; 68% có quy mô siêu nhỏ, ít hơn 10 lao
động. Xét về quy mô vốn, có tới 73,86% doanh nghiệp ngoài nhà nước là doanh
nghiệp nhỏ, có quy mô vốn dưới 10 tỷ đồng.
- DNNVV chủ yếu tập trung vào thị trường nội địa, ít quan tâm đến thị
trường nước ngoài do thiếu năng lực tài chính, kỹ thuật, thông tin thị trường,
mạng lưới sản xuất,… (Mahani Z., Loh G. Nor I. 2012).Các doanh nghiệp xuất
khẩu của Việt Nam chủ yếu thực hiện các công đoạn sơ chế, gia công thuộc vị trí
thấp trong chuỗi giá trị toàn cầu.Do quy mô nhỏ nên hầu hết các doanh nghiệp
17
Việt Nam khó có thể đầu tư nhiều cho đổi mới công nghệ để nâng cao năng lực
cạnh tranh.
- So với DNNVV, các hãng sản xuất và nhà cung cấp dịch vụ lớn có thường
sự hào hứng hơn về việc thành lập AEC vì đã đầu tư hoặc đã có kế hoạch đầu tư
tại các nước ASEAN(Mahani Z., Loh G. Nor I. 2012). Tuy nhiên, đa số các doanh
nghiệp lớn của Việt Nam, kể cả doanh nghiệp tư nhân chưa tạo dựng được thương
hiệu trên thị trường thế giới. Phần lớn trong số 50 doanh nghiệp lớn nhất Việt
Nam là các tập đoàn kinh tế nhà nước và một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài [VNR500 2015]. Các tập đoàn kinh tế của nhà nước hoạt động trong những
ngành có độ mở cửa thấp hoặc được bảo hộ, trong khi các doanh nghiệp có vốn
nước ngoài quy mô lớn chủ yếu là các doanh nghiệp lắp ráp.
- Như vậy, năng lực cạnh tranh của khu vực doanh nghiệp còn thấp, thiếu
những doanh nghiệp trong nước có thương hiệu mạnh và có khả năng cạnh tranh
trên thị trường khu vực và thế giới.
- Ngoài ra, việc cạnh tranh về dịch vụ đầu tư của các nước ASEAN sẽ dẫn
đến một số ngành, doanh nghiệp Việt Nam phải thu hẹp sản xuất, thậm chí rút
khỏi thị trường. Thực vậy, hiện nay, đa số doanh nghiệp của Việt Nam là doanh
nghiệp nhỏ, năng lực cạnh tranh hạn chế, các doanh nghiệp Việt Nam đối mặt
không ít khó khăn, thách thức trong việc cạnh tranh với các doanh nghiệp nước
ngoài. Khi AEC được thành lập, các nước trong nội khối sẽ mở rộng thị trường
xuất khẩu cho hàng hóa của Việt Nam nhưng đồng thời Việt Nam cũng phải mở
cửa cho hàng hóa cạnh tranh của các nước. Những doanh nghiệp có lợi thế xuất
khẩu sẽ ngày càng lớn mạnh hơn, trong khi doanh nghiệp có khả năng cạnh
tranh yếu đối với hàng hóa nhập khẩu sẽ gặp thách thức nghiêm trọng.
- Có thể nói, Việt Nam đứng trước sức ép rất lớn về cải cách thể chế, tái cơ
cấu kinh tế, nâng cao trình độ khoa học - công nghệ và năng lực cạnh tranh.
Hiện nay, trình độ phát triển của Việt Nam còn kém xa nhiều quốc gia trong
ASEAN do vậy, sức ép cải cách đặt ra với Việt Nam là rất lớn. Nền quản lý hành
chính lạc hậu, nhiều thủ tục rườm rà gây ảnh hưởng tiêu cực nghiêm trọng đến
năng lực cạnh tranh, chi phí về thời gian và tiền bạc của doanh nghiệp Việt Nam.
Có thể nói, cải cách thể chế, tái cơ cấu kinh tế, nâng cao trình độ khoa học-công
nghệ và năng lực cạnh tranh đang là đòi hỏi cấp thiết đặt ra cho Việt Nam khi
gia nhập AEC. [12]
2.3. Chất lượng, năng suất lao động thấp
- [13]Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tính đến giữa năm 2014, quy mô
lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên ở Việt Nam là 53,8 triệu người, trong đó số
người trong độ tuổi lao động là 47,52 triệu người. Tỷ lệ lao động khu vực nông,
lâm nghiệp và thủy sản là 47,1%; khu vực công nghiệp và xây dựng 20,8%; khu
vực dịch vụ là 32,1%. Chất lượng lao động cũng đã từng bước được nâng lên; tỷ
lệ lao động qua đào tạo tăng từ 30% lên 40% trong vòng 10 năm trở lại đây,
trong đó lao động qua đào tạo nghề đạt 30%.
18
- Chất lượng lao động Việt Nam thấp so với yêu cầu phát triển và hội nhập.
Hiện nay, chỉ có 20% lao động có bằng cấp, chứng chỉ qua đào tạo. Trình độ
ngoại ngữ của lao động trình độ đại học và lao động có tay nghề ở Việt Nam còn
nhiều hạn chế. Lao động Việt Nam làm việc tại các nước trong khu vực hầu hết
thuộc nhóm lao động phổ thông, trình độ tay nghề hạn chế, hưởng lương thấp
hơn so với người lao động làm cùng ngành nghề của một số quốc gia trong khu
vực.
- Ngân hàng Thế giới (WB) đánh giá Việt Nam đang thiếu lao động có trình
độ tay nghề, công nhân kỹ thuật bậc cao. Nếu lấy thang điểm là 10 thì chất
lượng nhân lực của Việt Nam chỉ đạt 3,79 điểm, xếp thứ 11/12 nước châu Á
tham gia xếp hạng của Ngân hàng Thế giới (trong khi Hàn Quốc đạt 6,91 điểm;
Ấn Độ đạt 5,76 điểm; Malaysia đạt 5,59 điểm...
- Do vậy nên năng suất lao động của Việt Nam thuộc nhóm thấp ở châu Á Thái Bình Dương, ở mức trung bình của khối ASEAN, cao hơn Lào,
Campuchia, Myanma; thấp hơn Singapore gần 15 lần, thấp hơn Nhật Bản 11 lần
và thấp hơn Hàn Quốc 10 lần. Năng suất lao động của Việt Nam bằng 1/5
Malaysia và 2/5 Thái Lan. Chất lượng lao động, năng suất lao động thấp càng
trở nên bức xúc khi Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế khu
vực và thế giới.
- Với chất lượng và năng suất lao động như vậy, gia nhập AEC, Việt Nam
sẽ đối mặt với sự di chuyển lao động, việc làm. Việc cho phép tự do di chuyển
lao động có tay nghề, tạo điều kiện thuận lợi cho các chuyên gia và lao động có
tay nghề của ASEAN tham gia vào hoạt động liên quan đến thương mại và đầu
tư qua biên giới Việt Nam. Tám ngành nghề lao động dự kiến trong AEC được
tự do di chuyển qua các thỏa thuận công nhận tay nghề tương đương, gồm: kế
toán, kiến trúc sư, nha sĩ, bác sĩ, điều dưỡng, kỹ sư, vận chuyển và nhân viên
ngành du lịch. Trên thực tế, chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam còn thấp
và có khoảng cách khá lớn so với các nước trong khu vực. Việt Nam còn thiếu
nhiều lao động lành nghề, nhân lực qua đào tạo chưa đáp ứng được nhu cầu của
trị trường lao động và doanh nghiệp về tay nghề và các kỹ năng mềm khác.
Trình độ ngoại ngữ của lao động Việt Nam chưa cao nên gặp nhiều khó khăn
trong quá trình hội nhập.[14]
2.4. Thông tin về hội nhập kinh tế quốc tế chưa được phổ biến rộng rãi đến
cộng đồng doanh nghiệp và người dân
- Quá trình đàm phán hội nhập kinh tế quốc tế thường được thực hiện theo
cách từ trên xuống. Những nội dung chi tiết trong đàm phán các hiệp định
thương mại, bao gồm cả thành lập AEC hầu như không được phổ biến kịp thời
đến công chúng. Một trong những lý do là thiếu những quy định về chia sẻ
thông tin mật và nội dung các điều khoản kỹ thuật trong quá trình đàm phán. Do
đó, các thành phần liên quan đã không có cơ hội tham gia ý kiến về các nội dung
trong quá trình đàm phán và thành lập AEC. Họ cũng không được cung cấp đầy
19
đủ, kịp thời thông tin để hoạch định và chuẩn bị trước khi thực hiện những nội
dung đó.
2.5. Nguy cơ bất ổn kinh tế vĩ mô
- Đối với những nền kinh tế nhỏ, tiếp nhận những dòng vốn lớn vượt quá
khả năng hấp thụ có thể dẫn tới những bất ổn kinh tế vĩ mô như lạm phát cao,
bong bóng bất động sản, sức ép lên hệ thống tài chính ngân hàng, rủi ro đạo đức,
tấn công đầu cơ.... Trên thực tế, Việt Nam đã từng quản lý không hiệu quả dòng
vốn vào sau khi gia nhập WTO năm 2007, dẫn đến tình trạng lạm phát cao và
bất ổn kinh tế vĩ mô.
- Gia nhập AEC cuối năm 2015 cùng với việc thực hiện Hiệp định Đối tác
xuyên Thái Bình Dương (TPP) và những hiệp định thương mại tự do đã được ký
kết, Việt Nam có nhiều cơ hội thu hút mạnh hơn dòng vốn quốc tế. Nếu không có
sự quản trị tốt, Việt Nam có thể lại phải đối mặt với những bất ổn kinh tế vĩ mô.
2.6. Văn hóa và tư duy [15]
- Chiến lược văn hóa doanh nghiệp và tư duy văn hóa kinh doanh
- Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau của đất nước, người Việt Nam
nói chung và tầng lớp Doanh nhân Việt nói riêng, việc sản xuất hàng hóa lớn
chưa từng trải qua, việc xây dựng văn hóa công ty dựa trên đạo đức và chuẩn
mực cao cấp về "giá trị mềm" của doanh nghiệp chưa thực sự được trú trọng.
Khi bước vào thời kỳ đổi mới, các doanh nghiệp khấp khểnh trong tiến trình mới
đó là sản xuất và kinh doanh, văn hóa kinh doanh chưa tìm ra chân lý mà các
doanh nghiệp thường thu gọn vào các PR hay lễ hội hoành tráng phô trương, ban
phát huân chương, đánh bóng cho tên tuổi cá nhân, dựa hơi quan chức... thay vì
cho nhu cầu của khách hàng, sáng tạo của sản phẩm hay sự bền vững của thương
hiệu.
- Thiếu tầm nhìn chiến lược dài hạn, người quản lý doanh nghiệp chưa định
rõ được tầm nhìn và giới hạn của công ty để có một kế hoạch phát triển lâu dài
và bền vững. Không một hành trình kinh doanh nào mà không gặp trắc trở và
thách thức. Vì vậy, người lãnh đạo phải biết rõ đích đến của doanh nghiệp và
xây dựng chiến lược vững vàng trước các cơn sóng lớn nhỏ trước mọi sự biến
động của thị trường trong và ngoài nước. Mọi hình thức lấy ngắn nuôi dài, đi tắt
đón đầu, dùng “sở đoản” để xây dựng chiến lược chiến thắng “sở trường” ... đều
có thể tạo hiệu ứng nhất thời, nhưng sớm muộn gì thì các trò chơi ngắn hạn này
sẽ có tác hại lớn là làm doanh nghiệp đi quá xa ra khỏi mục tiêu và vướng vào
tình thế lầy lội, loay hoay trong việc xử lý tình huống.
- Sự thỏa mãn của khách hàng, khách hàng là tài sản lớn nhất của doanh
nghiệp. Doanh nghiệp hiện đại sống vì khách hàng, sản phẩm phải thích hợp và
cải tiến thường trực để đáp ứng nhu cầu luôn thay đổi của khách hàng. Dịch vụ
hậu mãi phải hoàn thiện để giữ sự trung thành của khách hàng. Yếu tố sáng tạo
là cách tạo thích thú cho khách hàng để biến họ thành một công cụ truyền bá sản
phẩm ra các cộng đồng xã hội. Tuy nhiên, doanh nghiệp vẫn có tâm lý và
phương thức sở đoản là “dựa hơi” quan chức và có cái nhìn méo mó về ưu tiên
20
phục vụ. Đây cũng là một lý do tại sao các doanh nghiệp lớn của Việt Nam vẫn
chưa đủ khả năng để cạnh tranh trên biển lớn.
- Thiếu cương lĩnh tôn chỉ kinh doanh, mỗi công ty phải có một cương lĩnh
để mọi thành phần nhân viên theo đó mà vận hành. Như một quốc gia có hiến
pháp, tuyên ngôn về dân quyền, các bộ luật...doanh nghiệp phải có cương lĩnh,
chiến lược và điều lệ...để không bị rối loạn khi gặp khó khăn hay khi có thay đổi
về bộ phận quản lý. Nhưng hiện nay đa số các doanh nghiệp vẫn chưa xây dựng
hoàn chỉnh được tôn chỉ chiến lược kinh doanh và chỉ tôn kinh doanh mạch lạc.
- Nhiều vị quản lý các doanh nghiệp Nhà nước vẫn có tư duy “nhiệm kỳ” và
“hạ cánh an toàn” dẫn đến thiếu hoặc không có trách nhiệm, đây là rủi ro lớn nhất
thường làm các nhà đầu tư nước ngoài bất an khi quyết định đầu tư. Thêm vào đó,
thay vì một chính sách "thông tin toàn bộ và kịp thời" (on-time full disclosure)
theo như luật định, nhiều nhà quản lý che giấu, trì hoãn, sửa đổi hay sáng tạo
thông tin để tránh những phản ứng tiêu cực cho vị trí và quyền lợi của họ.
- Thiếu đào tạo và thăng tiến đội ngũ nhân viên một cách liên tục và kịp
thời, để phát triển bền vững, doanh nghiệp cần tạo cho đội ngũ cán bộ một niềm
tin vào tương lai đường dài của doanh nghiệp và các quyền lợi đính kèm. Ngoài
lương bổng và nhu cầu về thăng tiến, các nhân sự đều muốn tham dự vào thành
công sau cùng của đơn vị. Tuy nhiên, lĩnh vực này các doanh nghiệp Việt vẫn
còn nhiều hạn chế và chưa có chiến lược rõ ràng, định hướng cụ thể. Cũng như
thiếu sót so với nước ngoài là các chương trình huấn luyện liên tục, và các
quyền mua cổ phiếu (options) để gắn bó nhân viên vào với công ty trong hợp tác
lâu dài. Nhưng quan trọng phải đối xử công bằng trong mọi hành động và phán
đoán, không phân biệt thành phần gia đình hay xã hội, hoàn toàn dựa trên kỹ
năng và thành quả của nhân viên.
- Lợi ích cho xã hội và nghĩa vụ với thân nhân, một doanh nghiệp phải có
nghĩa vụ với cộng đồng xã hội chung quanh. Những tệ nạn gây ô nhiễm trong
không khí, trên sông biển, thấm vào các tầng nước ngầm, việc xử lý rác thải, rác
y tế nguy hiểm, tiếng ồn và an toàn giao thông ... là những kỷ cương không
những chỉ quan trọng trên phương diện pháp lý mà còn là nghĩa vụ để thể hiện
đạo đức của doanh nghiệp, doanh nghiệp không thể vì lợi ích của mình mà làm
phương hại đến môi trường và xã hội. Nghĩa vụ đóng góp cho xã hội còn là tấm
gương để doanh nghiệp soi rọi mình là doanh nhân chân chính thành đạt.
- Do bối cảnh lịch sử dân tộc luôn luôn chịu sự đe dọa của các kẻ thù xâm
lược và luôn phải đối chọi với các thế lực mạnh hơn trong mọi thời đại và chịu
hệ tư tưởng của thời kỳ bao cấp, kinh tế tập trung dẫn đến văn hóa kinh doanh
và khát vọng kinh doanh cùng với văn hóa doanh nghiệp phát triển rất chậm và
thiếu định hướng như đã nêu trên. Kèm theo nó là hệ lụy về mặt khoa học quản
lý tài chính, khoa học tự nhiên, tư suy khuyến khích phát minh, sáng tạo … cũng
rất lạc hậu.
- Tư duy chiến lược tài chính
21
- Trong lĩnh vực tài chính, các doanh nghiệp Việt còn yếu kém ở tất cả
các vấn đề căn bản về tài chính như sau:
- Về quản trị dòng tiền (cash flow) cho doanh nghiệp, những chỉ số như IRR
(tỷ lệ hoàn vốn nội bộ), ROI (hoàn vốn trên đầu tư), ROA (hoàn vốn trên
tài sản), acid test (tài sản ngắn hạn trên nợ ngắn hạn)... là những tín hiệu để
xác định hiệu năng của doanh nghiệp so với các đối thủ cùng ngành.
- Đối với kỷ luật tài chính, chưa kiểm soát chặt chẽ thu – chi, ngân sách đề ra
phải được mọi bộ phận tuân thủ và thực thi; mọi điều chỉnh phải được điều
nghiên chính xác; kể cả việc cắt giảm hay gia tăng vì sự cố bất thường.
- Yếu về dự báo nhu cầu tương lai, mọi phát triển đều cần vốn đầu tư, từ tiền
lời tích lũy nội bộ hay tiền vay hay tiền góp vốn từ các cổ đông bên ngoài.
Người quản lý tài chính theo đúng vai trò phải duyệt khán và đồng ý với kế
hoạch phát triển. Mặt khác doanh nghiệp Việt thường dùng vốn vay ngắn
hạn để đầu tư dài hạn, đây là điều rủi ro cao trong nguyên tắc đầu tư tài
chính mà các doanh nghiệp Việt Nam thường mắc phải.
2.7. Hạn chế về khoa học kỹ thuật công nghệ
- Áp lực cạnh tranh về hàng rào kỹ thuật trong nông nghiệp
- Theo đánh giá của các chuyên gia Dự án EU-Mutrap (Dự án hỗ trợ
thương mại đa biên của EU đối với Việt Nam), trong quá trình đàm phán Hiệp
định EVFTA, lĩnh vực nông nghiệp và thủy sản là những ngành nhạy cảm đối
với cả Việt Nam và EU. Những biện pháp phi thế quan (NTM) có ý nghĩa quan
trọng trong khu vực nông nghiệp gồm yêu cầu về vệ sinh, kiểm dịch; đóng gói,
bao bì; khả năng truy soát nguồn gốc và thủ tục hải quan nghiêm ngặt, các tiêu
chuẩn (Global GAP) do EU áp đặt thường nằm trong số các tiêu chuẩn cao nhất
trên thế giới và khó đạt được nhất với chi phí cao nhất là thách thức đối với các
nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam.
- Công nghiệp gặp nhiều thách thức
- Lĩnh vực công nghiệp tập trung vào sáu ngành gồm dệt may, da giày, ôtô,
công nghệ cao, hàng thủ công và sản phẩm gỗ qua xử lý. Ngành da giày Việt
Nam vẫn phải đối mặt với cạnh tranh gay gắt từ các nước có ngành da giày phát
triển như Ấn Độ, Indonesia, Thái Lan và dự báo thị trường đang nổi lên như
Myanmar cũng là những áp lực lớn. Ngành dệt may Việt Nam phụ thuộc tương
đối cao vào nhập khẩu nguyên liệu phục vụ sản xuất, giá trị gia tăng tạo ra của
ngành tương đối thấp (ước tính chung ở mức 40%). Trong đó, nguyên liệu thô
nhập chủ yếu từ Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan; còn máy móc thì từ các
nước Trung Quốc, Nhật Bản...Thêm vào đó, các mức độ yêu cầu cao của người
tiêu dùng EU cũng như quy tắc xuất xứ và những quy định của EU về đăng ký,
đánh giá, chứng nhận và hạn chế hóa chất là những rào cản đáng kể với Việt
Nam. Ngành thủ công mỹ nghệ, phụ thuộc chủ yếu vào nguồn lực trong nước
(mây, tre, gỗ, gốm), nhưng gần đây Việt Nam bắt đầu nhập khẩu nguyên vật liệu
từ Trung Quốc, Lào, Campuchia. Những hạn chế từ giá nguyên vật liệu, năng
lượng, vận chuyển cao cho đến các tiêu chuẩn chất lượng cao cho thấy ngành
22
chế biến gỗ và thủ công mỹ nghệ Việt Nam gặp phải sự cạnh tranh gay gắt với
các nước khác để tiếp cận thị trường EU.
- Tóm gọn lại trình độ khoa học công nghệ và khả năng sáng tạo phát minh
trong lĩnh vực khoa học công nghệ của Việt Nam vô cùng thấp dẫn đến công
nghiệp của chúng ta chậm phát triển cả công nghiệp mũi nhọn, công nghiệp
nặng và công nghiệp phụ trợ... Đang là rào cản cần phải bức phá của doanh
nghiệp Việt trong giai đoạn hiện nay.
III.
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HỘI NHẬP CỦA NỀN
KINH TẾ VIỆT NAM KHI GIA NHẬP CỘNG ĐỒNG AEC
Về phía Nhà nước
- [16] Thứ nhất, kết hợp chặt chẽ bàn tay nhà nước với bàn tay thị trường,
coi trọng tính đồng bộ, hài hòa của các mục tiêu, loại công cụ chính sách và sự
phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng hữu quan, và tạo mọi điều kiện
thuận lợi nhất cho kinh tế tư nhân phát triển.
- Đặc biệt, cần tôn trong quy trình và yêu cầu của các quy luật kinh tế thị
trường và cam kết hội nhập quốc tế, tăng cường kiểm toán độc lập, xây dựng và
áp dụng rộng rãi hệ thống chỉ tiêu hiệu quả và hệ số tín nhiệm; giảm điều hành
nền kinh tế bằng các giải pháp hành chính kéo dài, thị trường nửa vời, hoặc
ngược với quy trình thị trường; nâng cao chất lượng văn bản luật và các văn bản
dưới luật, hướng dẫn thực hiện luật...
- Thứ hai, nâng cao chất lượng công tác thông tin, dự báo, phản biện và chủ
động các phương án và giải pháp phòng ngừa, ngăn chặn khủng hoảng...
- Trên cơ sở các kết quả dự báo và phản biện đó và các yếu tố cần thiết
khác, cần chủ động có các phương án, đối sách phòng ngừa hiệu quả cho mọi
tình huống với giả định mức xấu nhất có thể xẩy ra; phát triển hệ thống dự báo
và thông tin thị trường, các chính sách và các cam kết, yêu cầu hội nhập cần
thiết cho doanh nghiệp, nhằm tăng năng lực phản ứng chính sách và thị trường
trong quản lý nhà nước và quản lý kinh doanh của doanh nghiệp ..
- Thứ ba, coi trọng đào tạo, thu hút sử dụng và tôn vinh nhân tài, các doanh
nhân, nguồn nhân lực trình độ cao và nâng cao chất lượng công tác cán bộ.
Cần có nhiều bứt phá về cơ chế phát hiện, tuyển dụng và bảo vệ nhân tài; tiêu
chuẩn hóa, công khai hóa và bình đẳng hóa các yêu cầu thi tuyển công chức,
giám đốc, lãnh đạo các doanh nghiệp và đơn vị, sao cho để những người xứng
đáng nhất cả về tài và đức được lựa chọn vào những vị trí quan trọng nhất, để từ
đó cải thiện năng lực, hiệu quả bộ máy công quyền và hoạt động quản trị doanh
nghiệp.
- Hơn nữa, cần xây dựng và tạo sự đồng thuận sâu sắc về hệ thống chuẩn
giá trị quốc gia nhằm tạo sự đồng thuận xã hội rộng rãi trong nước và quốc tế,
tạo thước đo tin cậy trong định hướng, đánh giá các hoạt động kinh tế – xã hội,
cũng như không ngừng hoàn thiện cơ chế bảo vệ lợi ích quốc gia và đột phá
trong cơ chế phân cấp, kiểm soát quyền lực, công tác cán bộ, xây dựng các thiết
1.
23
chế đủ hiệu lực bảo vệ, phát huy hiệu quả các nguồn lực và sức mạnh của quốc
gia, của các địa phương và doanh nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh nền kinh tế
trong hội nhập quốc tế, cả vĩ mô và vi mô, trước mắt và lâu dài.
- - [17] Đẩy mạnh tái cơ cấu nền kinh tế, đổi mới thể chế, xây dựng hành
lang pháp lý nhất quán, thông thoáng, minh bạch, công khai, dễ dự báo, tạo môi
trường thuận lợi hơn cho kinh doanh và đầu tư; thiết lập lộ trình phát triển, quy
hoạch chiến lược cho các mặt hàng, ngành mũi nhọn của Việt Nam để tận dụng
được hết những lợi thế về trí địa lý, nguồn nhân lực... đem lại.
- - Cần có sách lược phát triển, bảo vệ quyền lợi cho doanh nghiệp và
phòng chống rủi ro về tài chính (nhất là đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa) trong
việc phát triển thị trường nội địa và khu vực ASEAN.
- - Từng bước chuyển đổi mô hình tăng trưởng trên cơ sở đẩy mạnh tái cơ
cấu nền kinh tế, nâng dần tỷ trọng đóng góp của công nghệ, vốn con người vào
tăng trưởng. Hoàn thiện thể chế về công tác quy hoạch nhằm nâng cao chất
lượng và tăng cường hiệu quả của công tác quy hoạch. Rà soát các sản phẩm chủ
yếu, nghiên cứu những tiềm năng, lợi thế của đất nước để có chiến lược phát
triển ngành nghề phù hợp. Tập trung nguồn lực cho những ngành công nghiệp
gần với thế mạnh của Việt Nam, như: các sản phẩm nông nghiệp, thủy sản, dệt
may và da giày...
- - Tăng cường phổ biến thông tin cho doanh nghiệp về hội nhập kinh tế
quốc tế, nhất là những thông tin về quy tắc nguồn gốc xuất xứ, tiêu chuẩn hàng
hoá... Các đại diện thương mại, kinh tế, đầu tư của Việt Nam tại các nước
ASEAN cần đẩy mạnh hoạt động, tăng cường cung cấp thông tin về thị hiếu thị
trường, mạng lưới sản xuất, các cơ hội đẩy mạnh đầu tư, trao đổi thương mại với
các nước.
- - Đổi mới và hoàn thiện chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư nhằm khuyến
khích sự phát triển của doanh nghiệp trong nước, trong đó chú trọng các doanh
nghiệp nhỏ và vừa và các doanh nghiệp dễ bị tổn thương trong quá trình hội
nhập. Nghiên cứu, ban hành Luật Hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, có
giải pháp để giúp đỡ doanh nghiệp khắc phục những điểm yếu chung về vốn,
thông tin, kỹ thuật, hỗ trợ khởi nghiệp và hoạt động sản xuất, kinh doanh hiệu
quả.
- - Khuyến khích nghiên cứu, phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ,
tăng cường năng lực khoa học công nghệ nội sinh. Tiếp tục cải thiện chất lượng
giáo dục và đào tạo để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tăng năng suất lao
động.
- - Thực hiện các chính sách bảo đảm an sinh xã hội phù hợp để hỗ trợ
những nhóm dễ bị tổn thương trong quá trình hội nhập kinh tế.
- - [18] Phát triển cơ sở hạ tầng bao gồm hệ thống đường sắt, đường thủy
(cảng biển) và đường bộ, điện, nước và viễn thông… góp phần phát triển vận tải
đa phương thức, kết nối các khu vực, đón nhận các luồng hàng hóa, dịch vụ và
đầu tư từ các nước ASEAN và ngoài các nước ASEAN đến Việt Nam.
24
- - Đào tạo nguồn nhân lực: đảm bảo số lượng và chất lượng; thực hiện:
Chiến lược phát triển nguồn nhân lực 2011-2020, Chiến lược phát triển giáo dục
2011-2020, Chiến lược đào tạo nghề 2011-2020, Chương trình đào tạo nghề cho
lao động nông thôn đến năm 2020 và luật dạy nghề.
- Thời gian tới cũng phải có chính sách và giải pháp thu hút các doanh
nghiệp tham gia vào đào tạo nguồn nhân lực, gắn kết giữa Nhà nước - Nhà
trường và Doanh nghiệp vào quá trình đào tạo. Về mặt này, Việt Nam cần học
tập kinh nghiệm của Nhật Bản và các nước ASEAN khác như Singapore,
Malaixia và Thái Lan.
•
Một số giải pháp đổi mới căn bản và toàn diện hệ thống giáo dục - đào
tạo, trong đó có đào tạo nghề ở nước ta với một số giải pháp cụ thể sau:
[19] Thứ nhất, nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí của dạy nghề trong
chiến lược phát triển nhân lực của đất nước thời kỳ 2011 - 2020. Ưu tiên đầu tư
đào tạo nghề trong từng chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội của các
địa phương, vùng, ngành. Hình thành thang giá trị nghề nghiệp trong xã hội.
-
Thứ hai, hoàn thiện cơ chế, chính sách về dạy nghề, học nghề; sửa Luật
Dạy nghề và các quy định liên quan. Có cơ chế để cơ sở dạy nghề là một chủ thể
độc lập, tự chủ. Có chính sách đãi ngộ, thu hút giáo viên dạy nghề; chính sách
đối với người đứng đầu cơ sở dạy nghề, người lao động qua đào tạo nghề; chính
sách đào tạo liên thông, hỗ trợ người học nghề. Xây dựng cơ chế để các doanh
nghiệp và cơ sở sử dụng lao động tham gia xây dựng, đánh giá, điều chỉnh
chương trình đào tạo, hướng dẫn thực hành và đánh giá năng lực người học,
hướng tới doanh nghiệp phải là một trong những chủ thể đào tạo nghề. Đổi mới
chính sách tài chính về dạy nghề; đẩy mạnh xã hội hóa, đa dạng nguồn lực cho
phát triển dạy nghề; khuyến khích hợp tác và thành lập các cơ sở dạy nghề có
vốn đầu tư nước ngoài cũng như các cơ sở dạy nghề chuyên biệt đối với người
khuyết tật, người dân tộc thiểu số.
-
Thứ ba, đổi mới cơ cấu dạy nghề trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Chuyển hệ thống dạy nghề khép kín thành hệ thống đào tạo mở, linh hoạt, liên
thông giữa các thành tố của hệ thống và liên thông với các bậc học khác. Đổi
mới cơ cấu hệ thống dạy nghề trên cơ sở khung trình độ quốc gia, tiêu chuẩn kỹ
năng nghề phù hợp với đất nước, xu thế các nước trong khu vực và trên thế giới.
Hình thành hệ thống giáo dục nghề nghiệp gồm ba cấp trình độ là sơ cấp, trung
cấp và cao đẳng, trên cơ sở sáp nhập trung cấp nghề và trung cấp chuyên
nghiệp; cao đẳng nghề và cao đẳng.
-
Thứ tư, tăng cường các điều kiện bảo đảm chất lượng dạy nghề, bao gồm
phát triển đội ngũ giáo viên dạy nghề chuẩn hóa về trình độ đào tạo, kỹ năng
nghề, nghiệp vụ sư phạm theo các cấp độ (quốc gia, khu vực và quốc tế). Phát
triển chương trình đào tạo phù hợp với công nghệ sản xuất hiện đại theo hướng
mở, linh hoạt, thích hợp với các cấp và trình độ đào tạo nghề; áp dụng một số
chương trình đào tạo của các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới phù hợp
-
25