Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

LUAN VAN giám hộ cho người chưa thành niên một số kiến nghị và giải pháp hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (320.77 KB, 50 trang )

Giám hộ cho người chưa thành niên. Một số kiến nghị và giải pháp hoàn thiện

MỤC LỤC

---------LỜI NÓI ĐẦU..........................................................................................................1

LỜI NÓI ĐẦU
---1. Tính cấp thiết của đề tài.
Trong bối cảnh chung của đất nước Đảng và Nhà nước ta đang chuẩn bị các
chiến lước phát triển kinh tế, xã hội của đất nước và định hướng chiến lược chăm
sóc và bảo vệ trẻ em. Các quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước ta đối với công
tác chăm sóc và giáo dục trẻ em không tách rời các quan điểm chỉ đạo của Đảng,
Nhà nước.
Trẻ em là những người làm chủ đất nước trong tương lai. Đảng và Nhà
nước ta luôn muốn tạo cho trẻ em cuộc sống vật chất và tinh thần tốt nhất, chuẩn
bị cho trẻ em hành trang đầy đủ cả về tri thức và sức khoẻ từ khi còn trong bào
thai đến khi trưởng thành. Muốn cho giống nòi ngày càng tốt thì phải quan tâm
đặc biệt đến sự phát triển của trẻ em. Tình trạng nghèo đói, mồ côi, trẻ em lang
thang không nơi nương tựa hoặc trẻ em không được cha mẹ chăm sóc (do hạn chế
hoặc mất năng lưc hành vi dân sự) và chậm phát triển kinh tế xã hội của đất nước
cản trở lớn đến điều kiện phát triển về thể chất và tinh thần của trẻ em. Ngược lại
một thế hệ trẻ em kém phát triển cả về trí lực và thể lực thì sẽ không thúc đẩy
được sự phát triển của đất nước mà còn làm chậm tốc độ phát triển, do đó phải có
một chế định giám hộ cho những người chưa thành niên và trẻ em mồ côi.
Thực hiện công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục người chưa thành niên và
trẻ em mồ côi vừa là bản chất nhân đạo, vừa giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa của đất nước ta trong nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế
thị trường dưới sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong khi các thành phố lớn, các khu vực có nhiều thuận lợi trong phát triển kinh
tế xã hội, người chưa thành niên và trẻ em mồ côi được chăm sóc và giáo dục tốt
1




Giám hộ cho người chưa thành niên. Một số kiến nghị và giải pháp hoàn thiện

thì tình trạng thiếu ăn, suy dinh dưỡng, thất học hiện nay tập trung chủ yếu tại các
vùng nghèo, vùng sâu, vùng xa là những nơi khó tiếp cận, điều kiện kinh tế còn
nghèo nàn, lạc hậu, người chưa thành niên và trẻ em mồ côi không được giám hộ
một cách tốt nhất. Bằng các cơ chế, chính sách đúng đắn và phù hợp với thực tiễn
phát triển kinh tế xã hội của đất nước, Đảng và Nhà nước ta đang cố gắng tạo mọi
điều kiện để tất cả người chưa thành niên đều được bảo vệ, chăm sóc và giáo dục
tốt cả về mặt pháp lý. Vấn đề đặt ra là việc bảo vệ về mặt pháp lý cho người chưa
thành niên như thế nào? Việc chăm sóc, giáo dục ra sao? Để góp phần vào sự
quan tâm chung của các chủ thể về vấn đề đặt ra. Đó cũng là lý do người viết
chọn đề tài “Giám hộ cho người chưa thành niên. Một số kiến nghị và giải pháp
hoàn thiện”.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu đề tài là tiếp cận nghiên cứu một cách có hệ thống các
quy định hiện hành của pháp luật về giám hộ cho người chưa thành niên, cũng như
thực tiễn thi hành các quy định đó nhằm hiểu thêm về quyền được giám hộ của
người chưa thành niên đối với thực tế áp dụng trong cuộc sống hằng ngày. Từ đó
tìm ra những thiếu sót, bất cập trọng các quy định của pháp luật về giám hộ cho
người chưa thành niên và các vấn đề có liên quan, sau cùng là đề xuất phương
hướng nhằm góp phần xây dựng pháp luật về giám hộ cho người chưa thành niên
ngày càng hoàn thiện hơn.
3. Phạm vi nghiên cứu
Chế định giám hộ quy định trong Bộ luật dân sự năm 2005 là một quy định
khá rộng so với kiến thức của người viết, kinh nghiệm thực tiễn còn hạn chế, thời
gian nghiên cứu đề tài có hạn nên người viết chỉ nghiên cứu các quy định về giám
hộ đối với người chưa thành niên được quy định từ Điều 58 đến Điều 73 của Bộ
luật dân sự năm 2005, quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, Nghị

định số 158/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của chính phủ về hộ tịch và quản lý hộ tịch.
Cụ thể là đối tượng giám hộ, người giám hộ, giám sát việc giám hộ, quyền và
nghĩa vụ của người giám hộ và các trường hợp thay đổi, chuyển giao, chấm dứt
việc giám hộ. Người viết không nghiên cứu các quy định về việc giám hộ đối với
người mất năng lực hành vi dân sự và các quy định về giám hộ người chưa thành
niên trong quá trình tố tụng hình sự, được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự.
2


Giám hộ cho người chưa thành niên. Một số kiến nghị và giải pháp hoàn thiện

Ngoài việc nghiên cứu các quy định của luật viết, người viết còn tìm hiểu
thực trạng việc áp dụng chế định giám hộ, những bất cập thiếu sót của pháp luật
mà các cơ quan tư pháp áp dụng và đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật và
phòng ngừa những hành vi xâm phạm đến quyền của trẻ em.

4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu người viết có sự phân tích, tổng hợp, liệt kê các
quy phạm của pháp luật về chế định giám hộ cho người chưa thành niên. Tìm hiểu
thực trạng việc áp dụng các quy định của pháp luật về giám hộ, đưa ra một số
kiến nghị và giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật dân sự Việt Nam.
5. Kết cấu luận văn
Cơ cấu đề tài gồm có:
 Mục lục.
 Lời nói đầu.
 Chương I: Khái quát chung về giám hộ người chưa thành niên trong luật
dân sự Việt Nam (từ mục 1.1 đến mục 1.4). Trong chương này người viết
sẽ trình bày phần lịch sử phát triển của chế định giám hộ người chưa thành
niên, một số khái niệm và sự cần thiết của chế định giám hộ và ý nghĩa của
việc giám hộ người chưa thành niên.

 Chương II: Chế độ pháp lý về giám hộ người chưa thành niên (từ mục 2.1
đến mục 2.7). Trong chương này người viết sẽ trình bày các vấn đề sau:
thế nào là người được giám hộ, người giám hộ, các hình thức của việc
giám hộ, đăng ký việc giám hộ, quyền và nghĩa vụ của người giám hộ,
giám sát việc giám hộ, những trường hợp thay đổi, chuyển giao và chấm
dứt việc giám hộ
 Chương III: Một số kiến nghị và giải pháp hoàn thiện về giám hộ cho người
chưa thành niên trong luật dân sự Việt Nam (từ mục 3.1 đến mục 3.2).
Trong chương này người viết sẽ đưa ra một số thực trạng trong việc áp
dụng các quy định về giám hộ, một số kiến nghị và giải pháp hoàn thiện
chế định này.

3


Giám hộ cho người chưa thành niên. Một số kiến nghị và giải pháp hoàn thiện

 Kết luận.
 Danh mục tài liệu tham khảo.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, với sự nổ lực của bản thân nhưng do
năng lực và nguồn tài liệu còn hạn chế, chưa tiếp cận nhiều với thực tiễn nên bài
viết khó tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong sự góp ý kiến của các thầy cô và
các bạn cho bài viết được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn cô Huỳnh Thị Trúc Giang đã tận tình hướng dẫn
và tạo điều kiện tốt nhất để tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp với đề tài “Giám hộ
cho người chưa thành niên. Một số kiến nghị và giải pháp hoàn thiện”.
Em chân thành cảm ơn!

4



Giám hộ cho người chưa thành niên. Một số kiến nghị và giải pháp hoàn thiện

CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ GIÁM HỘ NGƯỜI
CHƯA THÀNH NIÊN TRONG LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM
1.1. Lịch sử phát triển của chế định giám hộ người chưa thành niên
trong pháp luật dân sự Việt Nam
A- Giai đoạn Luật cổ
Khái niệm pháp luật dân sự được trong luật cận đại và hiện đại của Việt
Nam, không tồn tại trong luật cổ, các quy tắc viết có tác dụng điều chỉnh các quan
hệ giữa cá nhân và cá nhân trong xã hội cổ thường nằm lẫn lộn trong các chương
về hình sự, hành chính, hôn nhân gia đình và ruộng đất.
Pháp luật thời Lê: pháp luật chỉ có thể được hình dung thông qua sách sử,
các tài liệu chuyên môn về luật đề bị thất lạc, một số sự kiện trong sách sử cho
phép suy đoán về sự tồn tại của các quy luật xử sự chung chi phối các quan hệ gia
đình tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng. Giai đoạn này là thời kỳ đỉnh cao của chế độ
phong kiến tập quyền cũng như các lĩnh vực khác mà đặc biệt là sự quan tâm cho
hoạt động lập pháp nó được đẩy mạnh để đáp ứng nhu cầu phát triển của chế độ
phong kiến thế kỷ thứ XV đánh dấu mốc phát triển quan trọng của lịch sử pháp
quyền phong kiến Việt Nam, Bộ quốc triều hình luật cũng đã giành hẳn hai
chương về Hộ hôn và Điền sản để nói không chỉ về hôn nhân gia đình và ruộng
đất nà còn có cả về chế độ tài sản vợ chồng, thừa kế, nghĩa vụ, hợp đồng.... Trong
đó có các quy định về giám hộ, các quy định ở thời kỳ này được ẩn chứa trong
các quy định của hôn nhân gia đình. Có thể nói, mặc dù chịu ảnh hưởng của văn
hóa pháp lý Trung Quốc, các nhà làm luật của thời Lê vẫn nhận ra những đặc
điểm riêng của đời sống dân sự Việt Nam và đã xây dựng được nhiều quy tắc
pháp lý thể hiện tính độc đáo và sự quan tâm đến thế hệ trẻ.
Pháp luật thời Nguyễn: Ở thời kỳ này pháp luật dân sự, Bộ luật Gia Long
hầu như chỉ lấy lại câu chữ trong các quy định liên quan trong Bộ luật nhà Thanh,

không có ý niệm gì về dân sự. Bộ luật Gia Long giải quyết các vấn đề dân sự như
5


Giám hộ cho người chưa thành niên. Một số kiến nghị và giải pháp hoàn thiện

là một phần của những vấn đề lớn hơn về gia đình, hành chính và hình sự, thời
Nguyễn bổ sung thêm một số quy định về dân sự trong các lĩnh vực hôn nhân gia
đình, thừa kế và nghĩa vụ, những bổ sung đó không ảnh hưởng đến các nguyên
tắc của Bộ luật này, các quy định về giám hộ người chưa thành niên cũng chưa
được quy định rõ ràng hơn.
B- Giai đoạn Luật cận đại
Trong lĩnh vực dân sự của Việt Nam trong thời kỳ này được xây dựng
theo khuôn mẫu pháp luật của Pháp, có sự cải biên cho phù hợp với bối cảnh
kinh tế và xã hội của Việt Nam thời kỳ đó. Luật viết thường chỉ ghi nhận những
quy phạm mang tính nguyên tắc và được bổ khuyết bằng các giải pháp được xây
dựng trong học thuyết pháp lý và án lệ. Bên cạnh đó, tục lệ đóng vai trò của một
nguồn quan trọng của luật, chưa có một Bộ luật Dân sự hoàn chỉnh. Ở thời kỳ
này Dân luật ra đời năm 1883 chỉ đề cập đến các vấn đề về nhân thân không có
quy định nào về giám hộ, tuy nhiên có sự tiến bộ hơn so với các văn bản pháp
luật trước đó.
C- Giai đoạn Luật hiện đại
Thời kỳ 1945-1995: Trong giai đoạn nhà nước phong kiến, luật dân sự Việt
Nam không được tách ra thành một bộ luật riêng mà được tìm thấy trong các điều
khoản của các bộ luật phong kiến như Lê triều hình luật (Luật Hồng Đức),
Nguyễn triều hình luật (Hoàng Việt luật lệ). Đến khi người Pháp chiếm đóng Việt
Nam thì các Bộ luật Dân sự được áp dụng riêng rẽ ở ba kỳ lần lượt xuất hiện. Ví
dụ ở Nam Kỳ thì Bộ luật Dân sự Nam Kỳ giản yếu ra đời năm 1883, Bộ dân luật
Bắc Kỳ ra đời năm 1931 và tại Trung Kỳ là Bộ dân luật Trung Kỳ ra đời năm
1936. Sau ngày 2 tháng 9 năm 1945, do hoàn cảnh chiến tranh với người Pháp

nên chính phủ của chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành sắc lệnh “... giữ tạm thời
các luật Bắc Kỳ- Trung Kỳ- Nam Kỳ đến khi ban hành các quy định chung cho
toàn quốc...”. Vì vậy, trong thời kỳ này những chế định về giám hộ người chưa
thành niên và bảo về quyền và lợi ích cho trẻ em khỏi bị xâm hại nên đã áp dụng
pháp luật của trước đây.. Ngày 22 tháng 5 năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký
Sắc lệnh số 97/SL để "sửa đổi một số quy lệ và chế định trong dân luật" nhằm sửa
đổi một số điều trong các bộ dân luật cũ này. Tại Miền Bắc Việt Nam, ngày 10
tháng 7 năm 1959 Tòa án tối cao ra chỉ thị số 772/TATC để "đình chỉ việc áp
6


Giám hộ cho người chưa thành niên. Một số kiến nghị và giải pháp hoàn thiện

dụng luật pháp cũ của phong kiến đế quốc". Từ thời điểm đó trở đi, tại Miền Bắc
Việt Nam thiếu hẳn Bộ luật Dân sự thực thụ. Một số mảng của luật dân sự được
tách ra thành các bộ luật khác như Luật hôn nhân và gia đình hay các văn bản
pháp quy dưới Luật như Thông tư, Chỉ thị, Nghị định, Pháp lệnh. Tuy nhiên,
nhiều lĩnh vực dân sự như thừa kế, quyền sở hữu trí tuệ v.v. không được điều
chỉnh trực tiếp. Các quy định về nghĩa vụ dân sự được quy định chủ yếu là các
vấn đề về nhà ở, vàng bạc, kim khí quý và đá quý v.v. và nói chung mang nặng
tính chất hành chính. Có thể liệt kê một số văn bản pháp luật trong lĩnh vực dân
sự như: Luật hôn nhân gia đình (1986), Luật Quốc tịch (1988), Pháp lệnh chuyển
giao công nghệ nước ngoài vào Việt Nam (1988), Pháp lệnh về sở hữu công
nghiệp (1989), Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế (1989), Pháp lệnh về thừa kế (1990),
Pháp lệnh về Hợp đồng dân sự (1991), Pháp lệnh về nhà ở (1991) v.v. Tuy các
pháp lệnh có nhiều nhưng đôi khi chồng chéo và mâu thuẫn với nhau nên đã gây
ra nhiều khó khăn cho việc áp dụng pháp luật.
Thời kỳ 1995-2005: Năm 1995, Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa
Việt Nam thông qua Bộ luật Dân sự (có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 1996).
Sau 10 năm thi hành, Bộ luật Dân sự đã có nhiều hạn chế, bất cập như: Một số

quy định không phù hợp với sự chuyển đổi nhanh của nền kinh tế thị trường,
không rõ ràng, không đầy đủ hoặc còn mang tính hành chính. Nhiều bộ luật mới
ra đời có các nội dung liên quan đến Bộ luật Dân sự Việt Nam 1995 nhưng bộ
luật này lại không điều chỉnh, sửa đổi dẫn đến mâu thuẫn giữa chúng cũng như
chưa có sự tương thích với các Điều ước quốc tế và thông lệ quốc tế . Tuy nhiên
Bộ luật Dân sự năm 1995đã hoàn thiện tất cả các luật trước đó và chế định về
giám hộ đã có cơ sở pháp lý và được quy định cụ thể từ Điều 67 đến Điều 83.
Mặc dù vậy, nhưng khi áp dụng vào thực tiễn thì những chế định về giám hộ của
Bộ luật 1995 bộc lộ nhiều thiếu sót, chưa chi tiết, còn mang tính tổng hợp của
nhiều ngành luật, như tại Điều 46 Luật hôn nhân gia đình 1986 quy định: “Liên
quan đến việc chăm sóc, giáo dục, bảo vệ quyền lợi cho người chưa thành niên
mà do những nguyên nhân khách quan không có sự chăm sóc của cha, mẹ hay
những người thân thích của họ”.
Từ năm 2005 đến nay: Bộ luật Dân sự năm 2005 được Quốc hội nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14/6/2005,
có hiệu lực từ ngày 01/01/2006. Đây là Bộ luật lớn nhất của nước ta hiện nay.
7


Giám hộ cho người chưa thành niên. Một số kiến nghị và giải pháp hoàn thiện

Với 777 điều luật, Bộ luật Dân sự điều chỉnh các quan hệ xã hội có tính phổ biến
trong đời sống xã hội của nhân dân ta hiện nay. Về cơ bản các quy định trong chế
định giám hộ của Bộ luật Dân sự năm 2005 đã kế thừa các quy định các quy định
về giám hộ của Bộ luật năm 1995 và quy định cụ thể từ Điều 58 đến Điều 73 và
có một số điểm sửa đổi, bổ sung chủ yếu là những quy định về thực hiện các
quyền và nghĩa vụ về tài sản của người được giám hộ và một số quy định liên
quan đến chế độ pháp lý về giám hộ.
Tóm lại, ngành luật dân sự quy định cung cách chuẩn mực pháp lý cho cách
ứng xử của các chủ thể trong giao lưu dân sự nhằm bảo đảm sự ổn định và lành

mạnh hoá các quan hệ dân sự trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Luật dân sự được coi là luật chung trong lĩnh vực luật tư
bao gồm các quy định liên quan đến quyền lợi của chủ thể và về nguyên tắc có
thể thay đổi bằng sự thoả thuận của các bên.
1.2. Khái niệm người chưa thành niên và năng lực hành vi dân sự của
người chưa thành niên.
1.2.1. Khái niệm người chưa thành niên
Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định tại Điều 18, “Người đủ mười tám tuổi
trở lên là người thành niên, người chưa đủ mười tám tuổi là người chưa thành
niên”.
Ví dụ: Nguyễn Thanh Giang sinh ngày 08/3/1986 đến ngày 08/3/2006 là đủ
18 tuổi, các trường hợp có ngày sinh, tháng, năm sinh nhỏ hơn ngày 08/3/1986 thì
chưa đủ 18 tuổi và là người chưa thành niên. Ở trường hợp này đến ngày
08/3/2006 Giang đã đủ 18 tuổi theo quy định trên thì là người thành niên.
Người chưa đủ 18 tuổi theo quy định tại khoản 1 Điều 141 Bộ luật Dân sự
năm 20051 thì cha, mẹ đại diện cho con xác lập tất cả các giao dịch dân sự. Tuy
nhiên, theo điểm a khoản 2 Điều 58 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định người
chưa thành niên không còn cha, mẹ, không xác định được cha, mẹ hoặc cha, mẹ
đều mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, bị Tòa án
hạn chế quyền của cha, mẹ hoặc cha, mẹ không có điều kiện chăm sóc, giáo dục
người chưa thành niên đó và nếu cha, mẹ có yêu cầu thì người chưa thành niên có
1

Khoản 1 Điều 141 quy định người đại diện theo pháp luật là cha, mẹ đối với con chưa thành niên.

8


Giám hộ cho người chưa thành niên. Một số kiến nghị và giải pháp hoàn thiện


hai trường hợp để có người giám hộ đó là: Người giám hộ đương nhiên 2 hoặc
người giám hộ được cử3.
1.2.2. Năng lực hành vi dân sự của người chưa thành niên
Theo Điều 17 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: “Năng lực hành vi dân sự
của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền
và nghĩa vụ dân sự”. Đây là chủ thể của quan hệ pháp luật đầy đủ. Cũng theo quy
định tại Điều 20 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: Năng lực hành vi dân sự của
người chưa thành niên từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi như sau:
Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi khi xác lập, thực hiện giao
dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch nhằm
phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi hoặc pháp luật có quy
định khác. Theo quy định này ta có thể chia thành hai trường hợp sau đây:
+ Người chưa thành niên từ đủ sáu tuổi đến dưới mười lăm tuổi: Trường hợp
này người chưa thành niên có năng lực hành vi chưa đầy đủ nên còn gặp nhiều
khó khăn trong đời sống và sinh hoạt nên cần phải được giám hộ, quan tâm chăm
sóc giúp đỡ trong sinh hoạt hàng ngày, ở giai đoạn này người chưa thành niên cần
người giám hộ chăm sóc đóng vai trò như cha, mẹ của người chưa thành niên để
nuôi dạy cho người chưa thành niên phát triển một cách tốt nhất và đại diện cho
họ thực hiện một số giao dịch dân sự mà pháp luật đòi hỏi phải có người đại diện.
+ Người chưa thành niên từ đủ mười lăm tuổi đến dưới mười tám tuổi:
Trong trường hợp này người chưa thành niên nếu có tài sản riêng đảm bảo thực
hiện nghĩa vụ thì có thể tự mình xác lập giao dịch dân sự mà không cần có sự
đồng ý của người đại diện theo pháp luật, nói khác hơn thì vai trò của người giám
hộ trong trường hợp này đóng vai trò là người trợ giúp pháp lý cho người chưa
thành niên.
Theo quy định tại Điều 20 Bộ luật Dân sự năm 2005 chia năng lực hành vi
dân sự của người chưa thành niên làm hai trường hợp là hoàn toàn phù hợp với
thực tế, trong cuộc sống những người chưa thành niên họ được pháp luật bảo vệ
để thực hiện quyền và nghĩa vụ của họ. Họ có thể bằng hành vi của mình tạo ra
quyền và nghĩa vụ khi tham gia các giao dịch để phục vụ những nhu cầu thiết yếu

2
3

Điều 61 Bộ luật Dân sự năm 2005.
Điều 63 Bộ luật dân sự năm 2005.

9


Giám hộ cho người chưa thành niên. Một số kiến nghị và giải pháp hoàn thiện

hàng ngày phù hợp với lứa tuổi. Pháp luật Việt Nam không quy định giao dịch
nào là giao dịch “phục vụ nhu cầu thiết yếu hàng ngày” và giao dịch nào là giao
dịch “phù hợp với lứa tuổi” nhưng chúng ta có thể hiểu đó là những giao dịch có
giá trị nhỏ, phục vụ cho nhu cầu học tập, vui chơi giải trí trong cuộc sống hàng
ngày và những giao dịch này phải được người đại diện hoặc người giám hộ của
họ cho phép thực hiện.
Trên thực tế người giám hộ của người chưa thành niên có quyền yêu cầu
tuyên bố những giao dịch cho người chưa thành niên thực hiện mà không có sự
đồng ý của họ và các trường hợp đó được xem là giao dịch vô hiệu và những
trường hợp này thì tòa án cần xem xét cụ thể để chấp nhận yêu cầu đó theo quy
định của pháp luật dân sự. Nếu người giám hộ không yêu cầu tòa án xem xét thì
những giao dich này mặc nhiên có hiệu lực. Trong thực tế có rất nhiều trẻ em đi
bán vé số, trường hợp này là giao dịch có giá trị tương đối lớn nhưng pháp luật
chưa có quy định cụ thể nào để điều chỉnh vấn đề này.
Theo khoản 2 Điều 20 Bộ luật Dân sự lại quy định có tính ngoại lệ của
nguyên tắc là: “Trong trường hợp người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười
tám tuổi có tài sản riêng bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thì có thể tự mình xác lập,
thực hiện giao dịch dân sự mà không cần phải có sự đồng ý của người đại diện
theo pháp luật, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác’. Với quy định này của

Bộ luật là sự cần thiết và phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội hiện nay, vì trong
thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, thị trường đang mở của thì ở độ tuổi nêu trên họ
đã có thể tự mình tham gia vào việc xác lập các giao dịch dân sự mà cụ thể là các
hợp đồng lao động theo quy định của pháp luật lao động. Trong những trường
hợp này người chưa thành niên vẫn có thể có các tài sản riêng (do nhận được từ
tài sản thừa kế hoặc tặng cho) hoặc có thu nhập riêng, do đó họ có thể tự mình
tham gia vào các giao dịch dân sự có liên quan đến bản thân mà không cần phải
có sự đồng ý của người đại diện hoặc người giám hộ.
1.3. Khái niệm về giám hộ
Giám hộ là chế định quan trọng trong Bộ luật Dân sự năm 2005 nhằm mục
đích để thực hiện việc chăm sóc và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người
chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự. Chế định giám hộ được quy
định ở mục 4, Chương III Phần thứ nhất Bộ luật Dân sự năm 2005 với 16 Điều (từ
10


Giám hộ cho người chưa thành niên. Một số kiến nghị và giải pháp hoàn thiện

Điều 58 đến Điều 73), với những sửa đổi bổ sung quan trọng so với các điều của
tương tự của Bộ luật Dân sự 1995.
Theo khoản 1 Điều 58 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định “Giám hộ là việc
cá nhân, tổ chức (sau đây gọi chung là người giám hộ) được pháp luật quy định
hoặc được cử để thực hiện việc chăm sóc và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự (sau đây gọi chung là
người được giám hộ).
Việc giám hộ có nội dung cơ bản là người giám hộ chăm sóc và bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người được giám hộ và các quan hệ tài sản của
người được giám hộ. Người giám hộ thực chất là người đại diện theo pháp luật
cho người được giám hộ trong các mối quan hệ với nhà nước và trong các giao
dịch dân sự, trừ một số giao dịch đơn giản, nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu hàng

ngày của người được giám hộ.
Pháp luật quy định người chưa đủ mười tám tuổi là người chưa thành niên,
giai đoạn này là giai đoạn đang phát triển mạnh mẽ về mặt tâm sinh lý của người
chưa thành niên, nó ảnh hưởng và chi phối rất lớn đến quá trình hình thành và
phát triển nhân cách của một con người. Ở giai đoạn này người chưa thành niên
phát triển chưa đầy đủ cả về thể chất lẫn tinh thần, họ chưa thể tự mình xác lập
các giao dịch dân sự hay thực hiện tất cả những giao dịch mà cần phải có người
đại diện theo pháp luật để thực hiện. Từ những nguyên nhân trên Bộ luật Dân sự
năm 2005quy định một cách cụ thể, rõ ràng hơn chế độ pháp lý về giám hộ người
chưa thành niên. Còn đối với người đã thành niên thì theo quy định của pháp luật
họ là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và đủ năng lực hành vi xác lập
giao dịch bằng tài sản của chính mình mà không cần có người đại diện, cũng như
các giao dịch khác phục vụ nhu cầu cuộc sống cuộc sống của con người.
1.4. Sự cần thiết của chế định giám hộ và ý nghĩa của việc giám hộ
người chưa thành niên
1.4.1. Sự cần thiết của chế định giám hộ
Trong quá trình xây dựng đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt
Nam, đây là thời kỳ kinh tế Việt Nam đi vào ổn định và phát triển. Bên cạnh
các mặt tích cực đó thì trên tất cả các lĩnh vực xã hội vẫn còn nhiều biểu hiện

11


Giám hộ cho người chưa thành niên. Một số kiến nghị và giải pháp hoàn thiện

tiêu cực như tình trạng vi phạm pháp luật và tệ nạn xã hội luôn xảy ra ngày
càng nhiều, mà nhất là trong những năm gần đây tình trạng trẻ em, vị thành
niên vi phạm pháp luật hình sự và tham gia vào các tệ nạn xã hội ngày càng
nhiều. Mặt khác một số bộ phận tha hóa về thể chất đã dụ dỗ, xúi dục trẻ em
vào con đường phạm pháp gây ảnh hưởng xấu đến xã hội và nền giáo dục của

Việt Nam. Từ những lý do trên, việc giáo dục cho người chưa thành niên trở
thành người tốt là yêu cầu cấp thiết trong việc giáo dục thế hệ trẻ, là điều kiện
đảm bảo cho sự phát triển lâu dài của đất nước. Bên cạnh việc giáo dục của
nhà trường, gia đình, pháp luật Việt Nam còn quy định về việc giám hộ cho
người chưa thành niên nhằm giáo dục, chăm sóc, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho họ trong trường hợp cha, mẹ họ không thể làm giám hộ đương nhiên
cho họ. Đặc biệt là bảo vệ về mặt pháp lý cho họ, các quy định này được cụ
thể từ Điều 58 đến Điều 73 Bộ luật Dân sự năm 2005 và một số văn bản pháp
luật khác như luật chăm sóc và bảo vệ trẻ em...
1.4.2. Ý nghĩa của việc giám hộ người chưa thành niên
Chế định giám hộ người chưa thành niên được quy định cụ thể trong Bộ
luật Dân sự năm 2005 có ý nghĩa quan trọng trong việc chăm sóc, giáo dục, bảo
về quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên. Thể hiện sự quan tâm
sâu sắc của Đảng, Nhà nước và xã hội đối với người chưa thành niên trong các
trường hợp đã phân tích ở phần trên mà họ cần sự giúp đỡ về mặt pháp lý của
những người thân thích trong gia đình, cơ quan, đoàn thể, tổ chức xã hội từ
thiện để bảo vệ cho họ khi họ chưa đủ năng lực hành vi dân sự để xác lập một
số giao dịch theo quy định của pháp luật bắt buộc khi xác lập các giao dịch đó
phải có người làm đại diện. Ngoài ra, việc giám hộ cho người chưa thành niên
còn có ý nghĩa trong các quan hệ tài sản của người được giám hộ, các nhu cầu
và nghĩa vụ của người được giám hộ khi cần thiết phải dùng tài sản của người
được giám hộ để xác lập giao dịch hoặc thực hiện một nghĩa vụ khác.

CHƯƠNG 2

12


Giám hộ cho người chưa thành niên. Một số kiến nghị và giải pháp hoàn thiện


CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ GIÁM HỘ
NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TRONG LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM
2.1. Người được giám hộ
Theo quy định cụ thể tại khoản 2 Điều 58 Bộ luật Dân sự năm 2005 bao
gồm: “Người chưa thành niên không còn cha, mẹ, không xác định được cha, mẹ
hoặc cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân
sự, bị Toà án hạn chế quyền của cha, mẹ hoặc cha, mẹ không có điều kiện chăm
sóc, giáo dục người chưa thành niên đó và nếu cha, mẹ có yêu cầu; người mất
năng lực hành vi dân sự”. Theo quy định này thì người chưa hành niên cần phải
có người giám hộ trong những trường hợp sau đây:
Trường hợp thứ nhất: Người chưa thành niên không còn cha, mẹ, không xác
định được cha, mẹ. Đây là những trẻ em mồ côi cha, mẹ hay không xác định được
cha, mẹ. Đặc biệt đối với người chưa đủ mười lăm tuổi thì rất dễ bị xâm hại nên
cần phải có người giám hộ để quan tâm chăm sóc họ như cha, mẹ của họ. Đối với
trường hợp này thì xã hội cũng cần phải đặc biệt quan tâm, vì người chưa thành
niên không có người giám hộ, đại diện theo pháp luật cho họ thì không thể bảo vệ
quyền và lợi ích của họ, ở trường hợp này luật bắt buộc phải có người giám hộ.
Trường hợp thứ hai: Cha, mẹ bị mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn
chế năng lực hành vi dân sự.
Cha, mẹ mất năng lực hành vi dân sự: Theo quy định tại Điều 22 Bộ luật
Dân sự năm 2005, người mất năng lực hành vi dân sự là người bị bệnh tâm thần
hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình
đã bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi. Người không có năng lực hành vi
vẫn có khả năng hưởng các quyền và nghĩa vụ dân sự; tuy nhiên trên nguyên tắc,
luật không cho phép người này tự mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ đó, bởi
trong hầu hết các trường hợp, người này không đủ khả năng nhận thức được đầy
đủ các quyền và lợi ích hợp pháp của con. Trong đó có việc chăm sóc, giáo dục,
đồng thời cha mẹ cũng là người giám hộ đương nhiên cho con chưa thành niên
xác lập các giao dịch dân sự. Luật nói rằng người không có khả năng tự mình
thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự nhất thiết phải được đại diện trong quá

trình xác lập và thực hiện các quyền và nghĩa vụ, nên trong trường hợp này bắt

13


Giám hộ cho người chưa thành niên. Một số kiến nghị và giải pháp hoàn thiện

buộc phải có người giám hộ cho con của họ khi họ bị mất năng lực hành vi dân
sự. Như vậy, người chưa thành niên nào gặp phải trường hợp này phải có người
giám hộ khác ngoài cha, mẹ. Khi cha, mẹ của họ là những người mất năng lực
hành vi dân sự thì không những cha, mẹ không chăm lo, giáo dục con cái mà đôi
khi gây thiệt hại về quyền và lợi ích cho con cái. Để giải quyết quyền lợi cho họ
một khi có sự cố xảy ra liên quan đến quyền lợi của họ thì phải có người đại diện
trong trường hợp này để bảo vệ cho họ. Cũng chính vì lý do đó mà pháp luật quy
định những trường hợp này thì người chưa thành niên phải có người giám hộ.
Cha, mẹ bị hạn chế năng lực hành vi dân sự: Theo quy định tại khoản 1
Điều 23 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định người hạn chế năng lực hành vi dân
sự là “người nghiện ma túy, các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của
gia đình thì theo yêu cầu của người có quyền và lợi ích liên quan, cơ quan, tổ
chức hữu quan, Tòa án có thể ra quyết định tuyên bố là người bị hạn chế năng lực
hành vị dân sự”. Nếu thuộc vào trường hợp này thì người chưa thành niên cần có
người giám hộ khác ngoài cha, mẹ bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, bởi họ
không thể chăm lo, giáo dục người chưa thành niên một cách tốt nhất mà còn có
thể xâm hại hoặc ảnh hưởng không tốt về mặt tâm lý và thói quen xấu cho trẻ, có
thể dẫn trẻ em vào con đường phạm pháp.
Trường hợp thứ ba:
Cha, mẹ bị hạn chế quyền: Trong trường hợp này, nếu như cha mẹ đã có
hành vi vi phạm pháp luật, bị Tòa án tước bỏ hoặc hạn chế quyền của cha mẹ (cả
cha và mẹ không có điều kiện chăm sóc giáo dục con là vì họ phải thi hành án
phạt tù) thì con chưa thành niên bắt buộc phải có người giám hộ như luật định và

cũng có thể là người chưa thành niên bị cha, mẹ đánh đập hay ngược đãi gây bức
xúc trong xã hội, vi phạm luật phòng chống bạo lực gia đình được những người
thân khác yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ vì không quan tâm chăm
sóc mà còn đối xử bạt đãi, trường hợp này người chưa thành niên chưa đủ mười
lăm tuổi bắt buộc phải có người giám hộ.
Cha, mẹ không có điều kiện chăm sóc: Người chưa thành niên còn cha mẹ
nhưng cha mẹ không có điều kiện nuôi dưỡng chăm sóc, giáo dục người chưa
thành niên, thì phải có yêu cầu của cha, mẹ. Nếu một trong hai người yêu cầu
hoặc cả hai không có yêu cầu có người giám hộ cho con chưa thành niên thì việc
14


Giám hộ cho người chưa thành niên. Một số kiến nghị và giải pháp hoàn thiện

giám hộ không đặc ra, bởi vì nghĩa vụ chăm sóc, giáo dục con cái, đại diện cho
con chưa thành niên trong các giao dich dân sự trước tiên thuộc về cha, mẹ, người
đã sinh ra người chưa thành niên đó. Nếu người chưa thành niên không còn cha
hoặc cha còn sống nhưng không có điều kiện chăm sóc con thì người mẹ phải
thực hiện công việc này và ngược lại. Ví dụ: cha mẹ đi công tác nước ngoài
không có điều kiên chăm sóc, giáo dục cho con nên cần người giám hộ...
Trường hợp thứ tư: Về nguyên tắc, một người có thể giám hộ cho nhiều
người, nhưng một người chỉ có thể được một người giám hộ, trừ trường hợp
người giám hộ là cha, mẹ hoặc ông, bà theo quy định tại khoản 2 Điều 61 hoặc
khoản 3 Điều 62 của Bộ luật Dân sự năm 2005". Quy định này chủ yếu có tác
dụng làm tăng trách nhiệm của người giám hộ đối với người được giám hộ, làm
cho nghĩa vụ giám hộ được xác định một cách rõ ràng.
Tóm lại, người chưa thành niên là người có năng lực hành vi không đầy đủ
là một trong những chủ thể hạn chế của pháp luật dân sự. Họ không thể xác lập
các giao dịch có giá trị lớn mà chỉ có thể xác lập các giao dịch nhỏ phục vụ cho
các nhu cầu thiết yếu hàng ngày nên họ cần được pháp luật bảo vệ, Bộ luật Dân

sự năm 2005 quy định cụ thể về việc bảo vệ quyền lợi cho họ,quy định đó gọi là
giám hộ. Với chế định này của Bộ luật Dân sự năm 2005 đã thể hiện tính nhân
đạo và truyền thống tương thân tương ái của người Việt Nam nói riêng và thế giới
nói chung. Chế định này nhằm bảo vệ người chưa thành niên và tạo điều kiện cho
người chưa thành niên có một môi trường sống trong sạch và lành mạnh để phát
triển toàn diện, đây là một chế định tiến bộ của hệ thống pháp luật Việt Nam. Chế
định mới mang tính đột phá so với Bộ luật Dân sự năm 1995 và đây cũng chính là
sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước ta đối với người chưa thành niên.
2.2. Người giám hộ
2.2.1. Điều kiện cá nhân người làm giám hộ.
Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định tại điều 60 thì để một người có thể làm
giám hộ cho một người chưa thành niên cá nhân đó phải đáp ứng các điều kiện
sau đây: Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; Có tư cách đạo đức tốt; không phải
là người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc bị kết án nhưng chưa được
xóa án tích và một trong các tội xâm hại tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân

15


Giám hộ cho người chưa thành niên. Một số kiến nghị và giải pháp hoàn thiện

phẩm, tài sản của người khác; Có điều kiện cần thiết đảm bảo việc thưc hiên
giám hộ.
Như vậy, theo quy định của điều luật trên về nguyên tắc cá nhân để có thể
làm giám hộ cho người chưa thành niên phải đáp ứng đầy đủ các yêu cầu sau:
Thứ nhất: Theo Điều 17 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: “Năng lực
hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình
xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự”. Đây là chủ thể của quan hệ
pháp luật đầy đủ.
Cũng theo quy định tại Điều 20 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: Người

từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự
phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu
cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi hoặc pháp luật có quy định khác.
Theo quy định này ta có thể chia thành các trường hợp sau đây:
Người chưa thành niên từ đủ sáu tuổi đến dưới mười lăm tuổi: Trường hợp
này người chưa thành niên có năng lực hành vi chưa đầy đủ nên còn gặp nhiều khó
khăn trong đời sống và sinh hoạt nên cần phải được giám hộ, quan tâm chăm sóc
giúp đỡ trong sinh hoạt hàng ngày, ở giai đoạn này người chưa thành niên cần
người giám hộ chăm sóc đóng vai trò như cha, mẹ của người chưa thành niên để
nuôi dạy cho người chưa thành niên phát triển một cách tốt nhất và đại diện cho họ
thực hiện một số giao dịch dân sự mà pháp luật đòi hỏi phải có người đại diện.
Người chưa thành niên từ đủ mười lăm tuổi đến dưới mười tám tuổi:
Trong trường hợp này người chưa thành niên nếu có tài sản riêng đảm bảo thực
hiện nghĩa vụ thì có thể tự mình xác lập giao dịch dân sự mà không cần có sự
đồng ý của người đại diện theo pháp luật, nói khác hơn thì vai trò của người
giám hộ trong trường hợp này đóng vai trò là người trợ giúp pháp lý cho người
chưa thành niên.
Theo quy định trên, Luật chia năng lực hành vi dân sự của người chưa thành
niên làm hai trường hợp là hoàn toàn phù hợp với thực tế, trong cuộc sống những
người chưa thành niên họ được pháp luật bảo vệ để thực hiện quyền và nghĩa vụ
của họ. Họ có thể bằng hành vi của mình tạo ra quyền và nghĩa vụ khi tham gia các
giao dịch để phục vụ những nhu cầu thiết yếu hàng ngày phù hợp với lứa tuổi.

16


Giám hộ cho người chưa thành niên. Một số kiến nghị và giải pháp hoàn thiện

Pháp luật Việt Nam không quy định giao dịch nào là giao dịch “phục vụ nhu cầu
thiết yếu hàng ngày” và giao dịch nào là giao dịch “phù hợp với lứa tuổi” nhưng

chúng ta có thể hiểu đó là những giao dịch có giá trị nhỏ, phục vụ cho nhu cầu học
tập, vui chơi giải trí trong cuộc sống hàng ngày và những giao dịch này phải được
người đại diện hoặc người giám hộ của họ cho phép thực hiện.
Trên thực tế người giám hộ của người chưa thành niên có quyền yêu cầu
tuyên bố những giao dịch cho người chưa thành niên thực hiện mà không có sự
đồng ý của họ và các trường hợp đó được xem là giao dịch vô hiệu và những
trường hợp này thì tòa án cần xem xét cụ thể để chấp nhận yêu cầu đó theo quy
định của pháp luật dân sự. Nếu người giám hộ không yêu cầu tòa án xem xét thì
những giao dich này mặc nhiên có hiệu lực. Trong thực tế có rất nhiều trẻ em đi
bán vé số, trường hợp này là giao dịch có giá trị tương đối lớn nhưng pháp luật
chưa có quy định cụ thể nào để điều chỉnh vấn đề này.
Theo khoản 2 Điều 20 Bộ luật Dân sự năm 2005 lại quy định có tính ngoại
lệ của nguyên tắc là: “Trong trường hợp người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ
mười tám tuổi có tài sản riêng bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thì có thể tự mình xác
lập, thực hiện giao dịch dân sự mà không cần phải có sự đồng ý của người đại
diện theo pháp luật, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác’. Với quy định
này của Bộ luật là sự cần thiết và phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội hiện nay,
vì trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, thị trường đang mở của thì ở độ tuổi
nêu trên họ đã có thể tự mình tham gia vào việc xác lập các giao dịch dân sự mà
cụ thể là các hợp đồng lao động theo quy định của pháp luật lao động. Trong
những trường hợp này người chưa thành niên vẫn có thể có các tài sản riêng (do
nhận được từ tài sản thừa kế hoặc tặng cho) hoặc có thu nhập riêng, do đó họ có
thể tự mình tham gia vào các giao dịch dân sự có liên quan đến bản thân mà
không cần phải có sự đồng ý của người đại diện hoặc người giám hộ, trừ một số
giao dịch dân sự đặc biệt mà tại khoản 2 Điều 20 có dự liệu “Trong trường hợp
pháp luật có quy định khác” đó là những giao dịch có liên quan đến tài sản có giá
trị lớn của người đó mà pháp luật quy định khi họ tham gia các giao dịch đó phải
có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật.

17



Giám hộ cho người chưa thành niên. Một số kiến nghị và giải pháp hoàn thiện

Thứ hai: Có tư cách đạo đức tốt không phải là người đang bị truy cứu trách
nhiệm hình sự hoặc bị kết án nhưng chưa được xóa án tích và một trong các tội xâm
hại tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của người khác.
Có tư cách tốt là người có lập trường tư tưởng vững vàng, sống và làm việc
theo Hiến pháp và không vi phạm pháp luật, được cộng đồng đánh giá là người
có đủ điều kiện, đủ tư cách đạo đức để thực hiện việc giám hộ theo đúng quy
đinh của pháp luật về giám hộ. Đồng thời họ phải là người có uy tín hay sự tín
nhiệm tại nơi họ đang thường trú (cũng chính là nơi cư trú của người được giám
hộ) và phải có sự xác nhận là người không bị truy cứu trách nhiệm hình sự, có
lối sống lành mạnh, là công dân tốt trong xã hội.
Không phải là người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự (lừa đảo chiếm
đoạt tài sản, trộm cắp tài sản….và một số tội danh khác theo Bộ luật hình sự),
những người trong trường hợp này thì theo luật họ không đủ điều kiện làm người
giám hộ theo khoản 2 Điều 60 Bộ luật dân sự năm 2005. Bởi họ vi phạm pháp
luật không được cộng đồng đánh giá là đủ tư cách để thực hiện việc giám hộ.
Nếu để họ giám hộ thì có thể người được giám hộ không được giáo dục tốt và có
thể theo bước chân của những người này vi phạm pháp luật.
Những người bị kết án nhưng chưa được xóa án tích và một trong các tội
xâm hại tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của người khác,
trường hợp này thì pháp luật không chấp nhận họ là người giám hộ cho người
chưa thành niên. Bởi lẽ nhân thân của họ không được tốt sẽ ảnh hưởng đến việc
chăm sóc, giáo dục và ảnh hưởng quyền lợi và lợi ích hợp pháp của người chưa
thành niên, có thể dẫn dắt người chưa thành niên vào con đường phạm pháp.
Quy định này xuất phát từ thực tế người giám hộ khi thực hiện nghĩa vụ
chăm sóc giáo dục, đại diện cho người được giám hộ, người giám hộ có nhân
thân, tư cách đạo đức không tốt ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của người

được giám hộ mà đặc biệt là người chưa thành niên. Đồng thời quy định này
không chỉ nhằm bảo vệ quan hệ thân nhân, mà còn bảo vệ quan hệ tài sản liên
quan đến người được giám hộ theo Điều 69 Bộ luật Dân sự năm 2005 4.

4

Thực tế khó hình dung một người có khả năng thanh toán nợ nần của bản thân lại đi quản lý tài sản của
người khác,

18


Giám hộ cho người chưa thành niên. Một số kiến nghị và giải pháp hoàn thiện

Thứ ba: Điều kiện cần thiết để đảm bảo việc thực hiện việc giám hộ là vấn
đề gì pháp luật không đề cập đến và cũng không quy định cụ thể trong luật, mặc
dù chưa có quy định cụ thể trong luật nhưng theo tôi những điều kiện đó có thể
là: người giám hộ cần có chổ ở nhất định, có thu nhập ổn định, có thời gian chăm
sóc, giáo dục và thực hiện các công việc cần thiết nhằm bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của người được giám hộ.
Người giám hộ theo quy định của pháp luật, cụ thể tại điều 58 khoản 1
quy định là cá nhân hoặc tổ chức để chăm sóc và bảo vệ quyền, lợi ích của người
chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự. Quy định này có thể hiểu là
người giám hộ có thể là cá nhân, tổ chức nhưng lại không quy định là tổ chức
như thế nào? Thì mới được quyền giám hộ người chưa thành niên, có lẽ đây là
điểm thiếu sót mà khi soạn thảo nhà làm luật chưa dự liệu ra được hay họ cho
rằng ở việt Nam rất ít tổ chức làm giám hộ nên chưa cần thiết để quy định điều
luật cụ thể. Mặc dù pháp luật không có quy định gì về điều kiện đặt ra đối với tổ
chức làm giám hộ, tuy nhiên đó một tổ chức từ thiện hoạt động xã hội, chẳng
hạn: Hội liên hiệp phụ nữ, Ủy ban bảo vệ chăm sóc trẻ em, trung tâm dạy trẻ mồ

côi, … có thể là người giám hộ của người chưa thành niên nếu như tổ chức đó
nhận nuôi dưỡng chăm sóc, giáo dục và bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp cho
người chưa thành niên hoặc được Ủy ban nhân dân cấp cơ sở cử.
Về nguyên tắc, theo quy định tại khoản 4 Điều 58 một người giám hộ cho
nhiều người nhưng một người chỉ có thể được một người giám hộ, trừ trường
hợp giám hộ là cha, mẹ hoặc ông, bà. Pháp luật cho phép người giám hộ có thể
cùng lúc giám hộ cho nhiều người, quy định này nhằm khuyến khích cá nhân, tổ
chức có điều kiện thì cùng lúc giám hộ cho nhiều người nhằm đáp ứng nhu cầu
xã hội ngày nay thực tế có nhiều trẻ em rất cần đến sự giúp đỡ của các tổ chức từ
thiện xã hội chăm sóc họ.
2.2.2. Điều kiện của một tổ chức làm giám hộ
Luật không quy định tổ chức như thế nào có chức năng giám hộ nhưng
chúng ta có thể hiểu đó là bất kỳ tổ chức hợp pháp nào cũng có điều kiện làm
giám hộ nếu như tổ chức đó nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của người chưa thành niên. Theo chúng ta biết thì các tổ chức hoạt
đồng với mục đích vì trẻ em và bảo vệ cho người chưa thành niên có được chổ ở
19


Giám hộ cho người chưa thành niên. Một số kiến nghị và giải pháp hoàn thiện

ổn định và được nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp có thể là Trung tâm trại trẻ mồ côi, Trung tâm bảo trợ xã hội, Hội chữ thập
đỏ… Nhưng vấn đề đặt ra là các tổ chức khác có được giám hộ hay không và điều
kiện như thế nào? Trước tình hình nạn buôn bán trẻ em thì các tổ chức này có thể
lợi dụng việc giám hộ để buôn người qua biên giới. Theo người viết thì pháp luật
cần có quy định cụ thể về điều kiện để trở thành một tổ chức có chức năng giám
hộ để bảo vệ cho người chưa thành niên và chống tội phạm buôn người.
2.3. Các hình thức của việc giám hộ
Theo pháp luật hiện hành thì việc giám hộ người chưa thành niên được chia

ra làm hai hình thức đó là: Giám hộ đương nhiên và cử người giám hộ.
2.3.1. Giám hộ đương nhiên của người chưa thành niên
Giám hộ đương nhiên được thiết lập khi các điều kiện về nội dung có đủ;
người giám hộ đương nhiên không cần có văn bản, cũng không phải đăng ký tư
cách giám hộ của mình
Theo quy định cụ thể tại Điều 61 Bộ luật Dân sự năm 2005, người giám
hộ đương nhiên của người chưa thành niên mà không còn cả cha và mẹ, không
xác định được cha, mẹ hoặc cha, mẹ mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế
năng lực hành vi dân sự, bị Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ hoặc cha, mẹ
không có điều kiện chăm sóc người chưa thành niên đó và có cha, mẹ yêu cầu
đươc xác định theo khoản 1 điều này, thì có hai cơ chế lựa chọn người giám hộ
đối với người chưa thành niên:
Thứ nhất: Anh, chị em ruột có thể thỏa thuận chọn ra một người làm giám
hộ cho người chưa thành niên.
Thứ hai: Anh, chị em ruột không thỏa thuận được là ai là người giám hộ
cho em chưa thành niên, thì việc giám hộ được thực hiện theo cơ chế đương
nhiên, mang tính bắt buộc. Cụ thể là anh cả, chị cả đủ 18 tuổi trở lên có năng lực
hành vi dân sự đầy đủ có điều kiện cần thiết để thực hiện việc giám hộ, phải là
giám hộ cho em chưa thành niên, nếu anh cả hoặc chị cả không đủ điều kiện làm
người giám hộ thì anh hoặc chị tiếp theo đã thành niên đủ điều kiện theo Điều 60
Bộ luật Dân sự năm 2005 phải là người giám hộ.

20


Giám hộ cho người chưa thành niên. Một số kiến nghị và giải pháp hoàn thiện

Trong trường hợp không có anh ruột hoặc chị ruột hoặc có anh ruột, chị
ruột không đủ điều kiện làm người giám hộ. Theo quy định tại điều 60 Bộ luật
Dân sự năm 2005, thì ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, bà ngoại làm người

giám hộ cho cháu chưa thành niên. Trong trường hợp ông, bà nội, ông, bà ngoại
đều còn sống thì hộ phải thỏa thuận cử một bên làm giám hộ trên cơ sở cân nhắc
điều kiện thực tế của mỗi bên.
Tóm lại, mặc dù Bộ luật Dân sự năm 2005 đã có hiệu lực và thay thế cho
Bộ luật Dân sự năm 1995, song nhưng về cơ bản các quy định trong chế định
giám hộ của Bộ luật Dân sự năm 2005 đã kế thừa các quy định về giám hộ trong
Bộ luật Dân sự năm 1995 nhưng luật là một lĩnh vực phải xuất phát từ thực tiễn
trong cuộc sống. Cho nên, nhiều năm áp dụng Bộ luật Dân sự năm 1995 đã bộc
lộ nhiều điểm hạn chế, không phù hợp với cuộc sống thực tiễn pháp lý và xã hội.
Cho nên Bộ luật Dân sự năm 2005 ra đời một số điểm sửa đổi bổ sung là một
yêu cầu cần thiết và phù hợp với tình hình thực tế đặt ra. Các quy định về người
làm hộ đương hiên của người chưa thành niên nêu trên cũng được quy định tại
Điều 70 Bộ luật Dân sự năm 1995. Bộ luật Dân sự năm 2005 còn quy định bổ
sung trong trường hợp không có anh ruột hoặc chị ruột hoặc có anh ruột, chị ruột
không đủ điều kiện làm người giám hộ, ông bà nội, ông bà ngoại đều đã mất
hoặc ông bà nội, ông bà ngoại sống nhưng đã quá già yếu không đủ điều kiện
làm người giám hộ cho cháu chưa thành niên, thì những người thân thích là bác,
chú, cậu, cô, dì đủ điều kiện làm người giám hộ sẽ là người giám hộ cho cháu
chưa thành niên. Quy định bổ sung của Bộ luật Dân sự năm 2005 về người giám
hộ đương nhiên của người chưa thành niên là phù hợp với thực tế. Đồng thời
đảm bảo cho người chưa thành niên không còn cả cha mẹ hoặc còn nhưng họ
mất năng lực hành vi dân sự, bị Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ hoặc cha, mẹ
không có điều kiện chăm sóc giáo dục và có yêu cầu được chăm sóc bảo vệ.
Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định chặt chẻ hơn Bộ luật Dân sự năm 1995
trong trường hợp không có người giám hộ đương nhiên nếu không có người thân
thích hoặc không cữ được thì Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi người
được giám hộ cư trú có trách nhiệm cử người giám hộ hoặc đề nghị tổ chức từ
thiện đảm nhận việc giám hộ”. Với quy định này thì không thể xảy ra trường hợp
Ủy ban nhân dân xã không cử được người giám hộ.


21


Giám hộ cho người chưa thành niên. Một số kiến nghị và giải pháp hoàn thiện

2.3.2. Giám hộ được cử và thủ tục cử người giám hộ
Bộ luật Dân sự năm 2005 phân biệt người giám hộ đương nhiên và giám hộ
được cử, việc cử người giám hộ chỉ được tiến hành trong trường hợp không có
người giám hộ đương nhiên. Luật không quy định gì về thể thức cử người giám hộ.
Điều 63 Bộ luật Dân sự năm 2005 Quy định: “Trong trường hợp người
chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự không có người giám hộ
đương nhiên thì Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi người được giám hộ
cư trú có trách nhiệm cử người giám hộ hoặc đề nghị tổ chức từ thiện đảm nhận
việc giám hộ.”
Sau khi đã cử được người giám hộ thì thủ tục cử người giám hộ được thực
hiện theo quy định tại điều 64 về thủ tục cử người giám hộ: “Việc cử người giám
hộ phải lập thành văn bản, trong đó ghi rõ lý do cử người giám hộ, nghĩa vụ của
người giám hộ, tình trạng tài sản của người được giám hộ; Việc cử người giám
hộ phải được sự đồng ý của người được cử làm người giám hộ”.
So với điều 72 Bộ luật Dân sự năm 1995 thì điều 63 Bộ luật Dân sự năm
2005 ngoài việc thay thế cụm từ ”người mất năng lực hành vi dân sự” cho cụm
từ ”người mắc bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức
mà không thể làm chủ hành vi dân sự của mình”, còn bỏ quy định: “những
người thân thích của người được giám hộ cử một người trong số họ làm người
giám hộ; nếu không có ai trong số người thân thích có đủ điều kiện làm người
giám hộ, thì họ có thể cử một người khác làm người giám hộ”.
Việc bỏ quy định trên là chính xác, vì Điều 61 và Điều 62 Bộ luật Dân sự
năm 2005 đã quy định người giám hộ đương nhiên của người chưa thành niên và
của người mất năng lực hành vi dân sự trong đó quy định rõ thứ tự người thân
thích của người được làm giám hộ sẽ đảm nhiệm việc làm giám hộ. Hơn nữa

theo quy định Điều 72 Bộ luật Dân sự năm 1995 những người thân thích của
người được giám hộ nếu không có ai có đủ điều kiện làm người giám hộ thì họ
có thể cử một người khác làm người giám hộ. Quy định này không thực tế vì
những người thân thích của người được giám hộ có quyền gì để làm người giám
hộ, xác nhận việc giám hộ và nội dung của việc giám hộ, việc cử người giám hộ
do cơ quan cấp cơ sở công nhận.

22


Giám hộ cho người chưa thành niên. Một số kiến nghị và giải pháp hoàn thiện

2.4. Đăng ký việc giám hộ
Việc đăng ký được quy định cụ thể tại Điều 1 Nghị định 158/2005/NĐ-CP
ngày 27/12/2005 của chính phủ quy định về hộ tịch và đăng kí hộ tịch như sau:
Hộ tịch là những sự kiện cơ bản xác định tình trạng thân nhân của một người từ
khi sinh ra cho đến khi chết; Đăng kí hộ tịch theo quy định của Nghị định này là
việc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền; xác nhận sự kiện sinh, kết hôn, tử, nuôi
con nuôi, giám hộ; nhận cha mẹ con; thay đổi, cải chính, bổ sung, điều chỉnh hộ
tịch, xác định lại giới tính, xác định lại dân tộc.
Như vậy, theo quy định trên thì giám hộ được coi là những sự kiện cơ bản
xác định tình trạng nhân thân của một người theo quy định của pháp luật là phải
đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, với mục đích quy định tại Điều 2
Nghị định 158 như sau: “quản lý hộ tịch là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên
của chính quyền các cấp nhằm theo dõi thực trạng và biến động về hộ tịch, trên
cơ sở đó bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân và gia đình, đồng thời góp
phần xây dựng các chính sách về kinh tế xã hôi, an ninh quốc phòng, kế hoạch
hóa gia đình”. Vì tính chất quan trọng của quy định này nên Điều 3 của Nghị định
158 đã quy định cơ sở pháp lý về quyền và nghĩa vụ đăng ký hộ tịch như sau: “cá
nhân có quyền và nghĩa vụ đăng ký hộ tịch”.

- Người có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đăng ký hộ tịch phải tự giác
đăng ký sự kiện hộ tịch, theo quy định của nghị định này. Cơ quan đăng ký hộ
tịch có trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi để cá nhân thực hiện quyền và nghĩa
vụ đăng ký hộ tịch. Với những quy định trên ta có thể xác định giám hộ là một
sự kiện mà theo quy định của pháp luật phải được đăng ký. Vậy thẩm quyền, thủ
tục đăng ký việc giám hộ được thực hiện như thế nào? Và nghĩa vụ đăng ký
chấm dứt, thay đổi việc giám hộ được thực hiện như thế nào?
* Thẩm quyền đăng ký giám hộ: theo quy định tại điều 29 Nghị định 158
“Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi cư trú của người giám hộ hoặc nơi cư trú của cơ
quan, tổ chức đảm nhận giám sát thực hiện đăng kí viêc giám hộ”. Tại Điều 8
Nghị định 158 quy định chung xác định thẩm quyền đăng ký hộ tịch do đây là
những quy định chung nên ta có thể lấy làm cơ sở cho việc xác định thẩm quyền
đăng ký việc giám hộ. Trong trường hợp này Nghị định này quy định thẩm
quyền đăng ký hộ tịch theo nơi cư trú, thì thẩm quyền đăng ký hộ tịch được xác
23


Giám hộ cho người chưa thành niên. Một số kiến nghị và giải pháp hoàn thiện

định: Đối với công dân Việt Nam ở trong nước, thì việc đăng ký hộ tịch được
thực hiện tại nơi đăng ký hộ khẩu thường trú, nếu không có nơi đăng ký hộ khẩu
thường trú thì việc đăng ký hộ tịch sẽ được thực hiện tại nơi đăng kí tạm trú có
thời gian theo quy định của pháp luật về đăng ký hộ khẩu; Đối với người nước
ngoài cư trú tại Việt Nam thì việc đang ký hộ tịch thực hiện tại nơi người đó
đăng ký thường trú; nếu không có nơi đăng ký thường trú thì việc đăng ký hộ
tịch thực hiện tại nơi đăng tạm trú.
Tóm lại, Thẩm quyền đăng ký việc giám hộ là nơi cư trú (thường trú hoặc
tạm trú) của người giám hộ hoặc nơi có trụ sở, cơ quan, tổ chức đảm nhận việc
giám hộ.
* Thủ tục đăng ký giám hộ:

Giám hộ đương nhiên không cần văn bản cũng không phải đăng ký tư
cách giám hộ của mình. Trong các trường hợp không có giám hộ đương nhiên
việc cử người giám hộ phải được lập thành văn bản, trong đó ghi rõ lý do cử
người giám hộ, quyền và nghĩa vụ của người giám hộ, tình trạng tài sản của
người này theo khoản 1 điều 61 Bộ luật Dân sự năm 2005. Luật không nói rõ ai
là người lập văn bản và nội dung văn bản như thế nào mới được xem là hợp lệ,
luật cũng không đòi hỏi văn bản cử người giám hộ phải được đăng ký. Thế
nhưng theo Điều 30 Nghị định 158 quy định về việc đăng ký giám hộ như sau:
Người được cử làm giám hộ phải nộp giấy cử giám hộ. Giấy cử giám hộ do
người cử giám hộ lập; nếu có nhiều người cùng cử một người làm giám hộ thì tất
cả phải cùng ký vào giấy cử người giám hộ.
Trong thời hạn 5 ngày, kể từ ngày nhận đủ giấy tờ hợp lệ, nếu xét thấy việc
giám hộ có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật thì Ủy ban nhân dân xã
đăng ký việc giám hộ, trường hợp cần phải xác minh, thì thời gian nói trên được
kéo dài thêm không quá 5 ngày.
Khi đăng ký việc giám hộ, người cử giám hộ và người được cử làm giám
hộ phải có một cán bộ tư pháp hộ tịch ghi vào sổ đăng ký giám hộ và quyết định
công nhận việc giám hộ. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã ký và cấp cho người
giám hộ, người cử giám hộ mỗi bên một bản chính quyết định công nhận việc

24


Giám hộ cho người chưa thành niên. Một số kiến nghị và giải pháp hoàn thiện

giám hộ, bản sao quyết định công nhận giám hộ được cấp theo yêu cầu của
người giám hộ và người cử giám hộ.
Trong trường hợp người được giám hộ có tài sản riêng thì người được cử
giám hô phải lập danh mục tài sản và ghi rõ tình trạng của tài sản đó có chữ ký của
người cử giám hộ và người được cử làm giám hộ. Danh mục tài sản phải được lập

thành ba bản, một bản lưu lại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi đăng ký giám hộ, một
bản giao cho người giám hộ , một bản giao cho người được cử làm giám hộ.
Ngoài ra Nghị định 9 Điều 158 phần quy định chung, quy định người đăng
ký giám hộ phải xuất trình các giấy tờ sau: khi đăng ký hộ tịch nếu cán bộ tư
pháp xã, phường, thị trấn (sau đây gọi là cán bộ tư pháp hộ tịch) hoặc cán bộ tư
pháp của phòng tư pháp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đậy gọi là
cán bộ tư pháp của phòng tư pháp) hoặc cán bộ hộ tịch của sở tư pháp không
biết rõ thân nhân hoặc nơi cư trú của người đương sự, thì yêu cầu xuất trình các
loại giấy tờ sau đây:
Giấy CMND hoặc hộ chiếu của người đăng ký hộ tịch để xác định về cá
nhân cử người đó.
Sổ hộ khẩu, giấy chứng nhận nhân khẩu tập thể hoặc giáy đăng ký tạm trú có
thời hạn (đối với công dân Việt Nam ở nước ngoài), thẻ thường trú, thẻ tạm trú
hoặc giấy chứng nhận tạm trú (đối với người nước ngoài cư trú tại Việt Nam) để
làm căn cứ xác định thẩm quyền đăng ký hộ tịch theo quy định của nghị định này.
Tóm lại, việc đăng ký giám hộ, chấm dứt thay đổi giám hộ trước cơ quan
nhà nước có thẩm quyền là quyền và nghĩa vụ của người giám hộ và người được
giám hộ, và nó là cơ sở pháp lý để nhận kiện sự kiện hộ tịch của một cá nhân.
2.5. Quyền và nghĩa vụ của người giám hộ
2.5.1. Quyền của người giám hộ
Các quyền của người giám hộ được quy định cụ thể tại Điều 68 và Điều
69 Bộ luật Dân sự năm 2005 như sau:
Quyền sử dụng tài sản: Theo khoản 1 Điều 68 Bộ luật Dân sự năm 2005
người giám hộ có quyền sử dụng các tài sản của người được giám hộ để chăm
sóc, chỉ dùng cho ngững nhu cầu thiết yếu của người được giám hộ. Trên nguyên

25



×