Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Tiểu luận thực trạng và giải pháp khắc phục những hạn chế của việc trả hồ sơ vụ án hình sự giữa các cơ quan tố tụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.65 KB, 33 trang )

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
PHẦN NỘI DUNG
PHẦN I
VIỆN KIỂM SÁT QUYẾT ĐỊNH TRẢ HỒ SƠ VỤ ÁN HÌNH SỰ
CHO CƠ QUAN ĐIỀU TRA ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG
CHƯƠNG I
CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN CÔNG TÁC TRẢ HỒ
SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG.
1.1. Các quy định của pháp luật về việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
1.2.Thực trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung giữa Viện kiểm sát và Cơ quan
điều tra.
1.3.Nguyên nhân, trách nhiệm trong việc trả hồ sơ điều tra bổ sung giữa Viện
kiểm sát và Cơ quan điều tra.
1.3.1Nguyên nhân trả điều tra bổ sung.
1.3.1.1Nguyên nhân khách quan.
1.3.1.2 Nguyên nhân chủ quan.
1.3.2 Trách nhiệm của Viện kiểm sát với việc trả hồ sơ điều tra bổ sung.
CHƯƠNG II
MỘT SỐ BIỆN PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HẠN CHẾ TÌNH TRẠNG
TRẢ HỒ SƠ GIỮA VIỆN KIỂM SÁT VÀ CƠ QUAN ĐIỀU TRA.
2.1. Những biện pháp khắc phục nhằm hạn chế tình trạng trả hồ sơ giữa viện
kiểm sát và cơ quan điều tra.
2.2.Một số kiến nghị nhằm hạn chế tình trang tra hồ sơ điều tra bổ sung.

PHẦN II
TRẢ HỒ SƠ VỤ ÁN HÌNH SỰ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG GIỮA
TÒA ÁN VÀ VIỆN KIỂM SÁT
CHƯƠNG I
VẤN ĐỀ TRẢ HỒ SƠ ĐIỀU TRA BỔ SUNG CỦA TÒA ÁN
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN.


1.

1.1 Vấn đề trả hồ sơ điều tra bổ sung giữa Tòa án và Viện kiểm sát.
1.1.1 Trao đổi với Viện kiểm sát khi thấy cần thiết trả hồ sơ điều tra bổ sung.
1.1.2 Những căn cứ để Thẩm phán ra quyết định để điều tra bổ sung.
1


a – Khi cần xem xét thêm những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà
không thể bổ sung tại phiên tòa được ( Điểm a khoản 1 Điều 179 Bộ luật tố
tụng hình sự).
b – Khi có căn cứ để cho rằng bị cáo phạm một tội khác hoặc có đồng phạm
khác( Điểm b khoản 1 Điều 179 Bộ luật tố tụng hình sự).
c – Khi phát hiện có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng:( điểm c khoản 1
Điều 179 Bộ luật tố tụng hình sự).
1.2 Việc giải quyết yêu cầu điều tra bổ sung.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
VỀ VẤN ĐỀ TRẢ HỒ SƠ ĐIỀU TRA BỔ SUNG
GIỮA TÒA ÁN VÀ VIỆN KIỂM SÁT
2.1. Thực trạng về vấn đề trả hồ sơ điều tra bổ sung.
2.2. Một số kiến nghị về vấn đề trả hồ sơ điều tra bổ sung.

KẾT LUẬN

2


PHẦN MỞ ĐẦU
ơ


Hồ sơ vụ án được lập khi có quyết định khởi tố, là hệ thống các văn bản, tài
liệu do các cơ quan tiến hành tố tụng thu thập trong quá trình điều tra, truy tố xét
xử, tất cả được sắp xếp theo một trình tự hợp lý, đảm bảo đúng quy định pháp luật
về trình tự không gian và thời gian.
Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự, vai trò của điều tra
viên, kiểm sát viên và thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa là rất quan
trọng, đã quy định rõ trong bộ luật tố tụng hình sự về nhiệm vụ, quyền hạn trong
từng giai đoạn tố tụng nhất định. Như Thẩm phán có nhiệm vụ nghiên cứu hồ sơ,
đây là giai đoạn đầu tiên trong quá trình giải quyết vụ án của thẩm phán. Việc
nghiên cứu đầy đủ toàn diện, không bỏ sót bất cứ một tài liệu nào, chứng cứ có
trong hồ sơ vụ án, để có cở sở xét xử vụ án được chính xác đúng điều luật quy
định. Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa có nhiệm vụ xem xét điều tra,
truy tố có căn cứ và đúng pháp luật hay không, có quyền trả hồ sơ để Viện kiểm sát
điều tra bổ sung, nhằm khắc phục những thiếu sót trong quá trình điều tra, truy tố
và tùy từng trường hợp có quyền ra những quyết định sau:
- Đưa vụ án ra xét xử.
- Trả hồ sơ điều tra bổ sung.
- Đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.
Do đó trả hồ sơ điều tra bổ sung là một trong những quyết định rất quan
trọng, trong quá trình giải quyết một vụ án tránh việc định tội danh sai, bỏ sót tội
hoặc người phạm tội hoặc người bị truy tố oan. Khi xét xử tại phiên tòa nếu có các
tình tiết mới không thể bổ sung được tại phiên tòa như: các chứng cứ xác định việc
phạm tội, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can có
ảnh hưởng lớn đến việc quyết định hình phạt; xác định tính chất và mức độ thiệt
hại do hành vi phạm tội gây ra thì Hội đồng xét xử ra quyết định hoãn phiên tòa,
quyết định tạm đình chỉ vụ án để điều tra bổ sung khi thấy thiếu chứng cứ quan
trọng mà không thể bổ sung tại phiên tòa được. Những vấn đề nào có thể bổ sung
chứng cứ tại phiên tòa thì không yêu cầu điều tra bổ sung, tánh việc đòi hỏi chứng
cứ một cách máy móc, không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Có trường hợp

Tòa án ngại xử lý nên yêu cầu điều tra bổ sung mặc dù không còn khả năng điều
tra thêm hoặc tòa án ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung,
nhưng Viện kiểm sát không bổ sung thêm gì mà giữ đó rồi chuyển hồ sơ cho Tòa
án. Vấn đề này đã gây ra khó khăn cho việc giải quyết vụ án và thực tế việc trả hồ
sơ điều tra bổ sung vẫn còn những hạn chế nhất định. Việc yêu cầu điều tra bổ
3


sung và giải quyết các yêu cầu điều tra bổ sung như thế nào giữa các cơ quan tiến
hành tố tụng là một vấn đề còn nhiều bắt cập.
Trả hồ sơ điều tra bổ sung vụ án hình sự là một hoạt động tố tụng được thực
hiện giữa cơ quan viện kiểm sát đối với cơ quan điều tra và giữa Toà án với viện
kiểm sát . Hoạt động này được thực hiện nhằm đảm bảo cho việc điều tra được
khách quan, toàn diện và đầy đủ. Loại bỏ mọi vi phạm pháp luật trong quá trình
tiến hành tố tụng của Cơ quan điều tra, củng cố và xác định đầy đủ chứng cứ để
quyết định việc xử lý đối với tội phạm và người phạm tội.

Tuy nhiên, trong thực tế việc trả hồ sơ vụ án hình sự để điều tra bổ sung
giữa các cơ quan tiến hành tố tụng không phải là hoạt động thường xuyên. Song
tình trạng trả hồ sơ điều tra bổ sung được các cơ quan tiến hành tố tụng thực tế khá
phổ biến, tràn lan, thậm chí còn có biểu hiện tùy nghi, lạm quyền, làm cho thời
gian giải quyết vụ án hình sự kéo dài, ảnh hưởng đến tiến độ điều tra, thậm chí còn
quy phạm quyền và lợi ích của người tham gia tố tụng.
. Việc nghiên cứu đề tài “ Thực trạng và giải pháp khắc phục những hạn chế
của việc trả hồ sơ vụ án hình sự giữa các cơ quan tố tụng trên địa bàn học viên
đang công tác, cụ thể là Thị Xã Vị Thanh - tỉnh Hậu Giang” có ý nghĩa quan trọng
trong việc đánh giá thực trạng án trả điều tra bổ sung để trên cơ sở đó phân tích rõ
nguyên nhân, trách nhiệm; từ đó đề ra một số giải pháp nhằm hạn chế tình trạng trả
hồ sơ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra; giữa Tòa án và Viện kiểm sát.
Nội dung và phương pháp nghiên cứu đề tài dựa trên cơ sở phân tích, bình

luận và tổng hợp các vấn đề có liên quan chuyên sâu về việc trả hồ sơ để điều tra
bổ sung giữa Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra; giữa Tòa án và Viện kiểm sát.

4


PHẦN NỘI DUNG
PHẦN I: VIỆN KIỂM SÁT QUYẾT ĐỊNH TRẢ HỒ SƠ
VỤ ÁN HÌNH SỰ CHO CƠ QUAN ĐIỀU TRA ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ
SUNG
CHƯƠNG I: CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN CÔNG
TÁC TRẢ HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG.
1.1 Các quy định của pháp luật về việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung:
Việc quyết định Viện kiểm sát trả hồ sơ để điều tra bổ sung được quy định
tại Điều 168 BLTTHS như sau: “Viện kiểm sát quyết định trả hồ sơ cho Cơ quan
điều tra để điều tra bổ sung khi nghiên cứu hồ sơ vụ án phát hiện thấy:
1. Còn thiếu những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà viện kiểm sát
không thể tự mình bổ sung được;
2. Có căn cứ để khởi tố bị can về một tội phạm khác hoặc có người đồng
phạm khác;
3. Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.”
Như vậy, những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà Viện kiểm sát không
thể tự mình kiểm tra được thì viện kiểm sát mới có quyền trả lại hồ sơ; nếu thiếu
những chứng cứ nhưng chứng cứ đó viện kiểm sát có thể tự mình bổ sung được thì
không được trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung. Ví dụ, ở một vụ án giết người bị can
khai là đã dùng dao đâm nạn nhân sau đó ném dao bên hàng cây ở bờ ruộng nhưng
trong quá trình điều tra Cơ quan điều tra chưa tiến hành thu con dao trên. Vì thế,
Viện kiểm sát phải trả hồ sơ để Cơ quan điều tra truy tìm con dao trên và tiến hành
dựng lại hiện trường. Còn nếu vụ án trên chỉ thiếu chứng cứ về lời khai của một
nhân chứng có thấy bị can đến khu vực gây án, nhân chứng này có địa chỉ rõ ràng;

trường hợp này Viện kiểm sát có thể tự mình mời nhân chứng đến để lấy lời khai
bổ sung nên Viện kiểm sát không có quyền trả lại hồ sơ cho Cơ quan điều tra. Sau
khi trả hồ sơ để điều tra bổ sung Viện kiểm sát phải có trách nhiệm theo dõi, đôn
đốc để Cơ quan điều tra hoàn thành hồ sơ đúng thời hạn đã quy định và đảm bảo
đúng thủ tục tố tụng. Về thời hạn điều tra bổ sung theo Khoản 2 Điều 121
BLTTHS quy định vụ án do Viện kiểm sát trả lại để điều tra bổ sung thì thời hạn
điều tra bổ sung không quá 02 tháng kể từ ngày Cơ quan điều tra nhận lại hồ sơ vụ
án và yêu cầu điều tra.
Theo quan điểm của tôi về thời hạn điều tra bổ sung được luật quy định như
trên là quá dài, chỉ quy định cho thời hạn điều tra bổ sung khi Viện kiểm sát trả hồ
sơ cho Cơ quan điều tra là không quá 30 ngày. Điều tra bổ sung là nhằm bổ sung
5


các chứng cứ đối với vụ án xét thấy còn thiếu, trong khi đó Khoản 1 Điều 119
BLTTHS chỉ quy định thời hạn điều tra vụ án hình sự không được quá 04 tháng kể
từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc điều tra. Vì thế nếu quy định về thời hạn
điều tra bổ sung như luật tố tụng hình sự hiện nay sẽ dẫn đến việc để vụ án điều tra
kéo dài của Cơ quan điều tra.
Sau khi đã điều tra bổ sung, hồ sơ vụ án được chuyển cho Viện kiểm sát.
Trong phạm vi trách nhiệm và quyền hạn của mình căn cứ vào các nội dung yêu
cầu điều tra bổ sung nếu việc phúc đáp của Cơ quan điều tra chưa đầy đủ, việc xử
lý vụ án, bị can còn vướng mắc nhưng chỉ được trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung
không quá 02 lần (Khoản 2 Điều 1221 BLTTHS).
Nếu kết quả điều tra bổ sung dẫn tới việc đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án
thì Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát ra quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ
vụ án; đình chỉ hoặc tạm đình chỉ điều tra đối với bị can theo thẩm quyền do luật
định.
1.2 Thực trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung giữa Viện kiểm sát và Cơ
quan điều tra:

Trong thời gian qua, án trả hồ sơ để điều tra bổ sung giữa các cơ quan tiến
hành tố tụng vẫn chiếm tỉ lệ đã vượt quá chỉ tiêu cho phép của ngành.
Những tồn tại trong việc trả hồ sơ được tập trung ở một số nội dung sau:
Do còn thiếu những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà Viện kiểm sát
không tự bổ sung được cụ thể như:
Xác định chứng cứ buộc tội đối với người phạm tội.
Xác định trách nhiệm dân sự, các căn cứ về bồi thường thiệt hại.
Cần phải tổ chức giám định hoặc giám định lại cho khách quan, truy tìm và
thu giữ tang vật, vật chứng, dấu vết của vụ án.
Thông qua nghiên cứu hồ sơ phát hiện có căn cứ khởi tố bị can về một tội
danh khác hoặc có người đồng phạm khác mà trong quá trình điều tra đã để lọt tội
phạm, xác định tội danh sai, không đúng với hành vi phạm tội.
Do thiếu về thủ tục tố tụng như trong hồ sơ chưa có lý lịch tư pháp, chưa
trích lục tiền án, tiền sự của bị can ở tỉnh xa, trích lục bản án hoặc thiếu thủ tục
khác như: biên bản giao nhận các lệnh, quyết định đối với bị can...
1.3 Nguyên nhân, trách nhiệm trong việc trả hồ sơ điều tra bổ sung giữa
Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra:
6


1.3.1Nguyên nhân trả điều tra bổ sung:
1.3.1.1Nguyên nhân khách quan:
Tình hình tội phạm diễn biến ngày càng phức tạp, quy mô tính chất mức độ
phạm tội, thủ đoạn hoạt động phạm tội ngày càng tinh vi, nhiều vụ án phạm tội có
tổ chức với số đông các đối tượng tham gia, phạm tội trên nhiều địa bàn, việc điều
tra, xác minh tội phạm gặp nhiều khó khăn, các thủ tục chứng cứ được thu thập
chưa đáp ứng được nội dung chứng minh tội phạm, tính dân chủ trong hoạt động tố
tụng hình sự ngày càng cao. Vì vậy, việc trả hồ sơ để yêu cầu điều tra, bổ sung
chứng cứ, tố tụng đối với một số vụ án là cần thiết và đúng quy định của pháp luật.
Do đặc điểm của tùng địa phương mà cụ thể là tại tỉnh Hậu Giang là một

trong những tỉnh mới chia tách, địa bàn rộng, phức tạp. đặc trưng là vùng sông
nước,đi lại khó khăn ảnh hưởng đến công tác điều tra, bên cạnh là số lượng Điều
tra viên, Kiểm sát viên hiện nay còn thiếu nhiều so với qui định, có một số Điều tra
viên là sinh viên mới ra trường chưa có nhiều kinh nghiệm thực tiễn trong công tác
điều tra tội phạm, đánh giá chứng cứ các vụ án nên khi kết luận điều tra vụ án
chuyển sang Viện kiểm sát đề nghị truy tố, Viện kiểm sát phải trả hồ sơ để điều tra
bổ sung.
Với số lượng công việc nhiều, số bị can trong các vụ án tại địa phương có
một bộ phận không nhỏ là người ngoài tỉnh, có những vụ án có đông bị can nên
việc xác minh lý lịch, trích lục tiền án, tiền sự, trích sao bản án hình sự tại các tỉnh
gặp nhiều khó khăn, Điều tra viên phải uỷ thác điều tra hoặc tự đi xác minh ở xa
trong khi kinh phí có hạn, thời gian điều tra không cho phép kéo dài nên khi hết
hạn điều tra Cơ quan điều tra có kết luận điều tra chuyển Viện kiểm sát và chấp
nhận việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Việc giám định tài sản, thương tật cũng như văn hoá phẩm còn khó khăn,
thực tế hiện nay chưa có quy định rõ về cơ quan giám định tư pháp giám định về
thiệt hại tài sản.
[

Một số điều luật của Bộ luật hình sự năm 1999 quy định còn thiếu cụ thể,
việc hiểu và vận dụng pháp luật chưa được thống nhất. Vì vậy, phải chờ hướng dẫn
của liên ngành hoặc của cấp trên để có sự thống nhất thực hiện.
Nghị quyết 388/2003/NQ-UBTVQH11 về “ Bồi thường thiệt hại cho người
bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra” cũng là
một nguyên nhân tác động đến tư tưởng và trách nhiệm của Kiểm sát viên và thẩm
7


phán trong quá trình tiến hành tố tụng. các Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến
hành tố tụng ở một số địa phương tỏ ra quá thận trọng trong việc đấu tranh, xử lý

tội phạm, xuất hiện tư tưởng né tránh, đùn đẩy trách nhiệm giữa các cơ quan tiến
hành tố tụng, bằng việc tìm ra mọi lý do để trả hồ sơ mặc dù lý do đó không thật sự
thuyết phục và không có căn cứ.
1.3.1.2 Nguyên nhân chủ quan:
Điều tra viên chưa làm tốt hết trách nhiệm trong điều tra vụ án, không kiểm
tra thủ tục tố tụng, chứng cứ và những vấn đề khác có liên quan trong vụ án để bổ
sung đầy đủ trước khi có kết luận điều tra chuyển Viện kiểm sát đề nghị truy tố.
Một số Điều tra viên không thực hiện đầy đủ các yêu cầu điều tra của Viện kiểm
sát theo công văn hướng dẫn điều tra của Viện kiểm sát ngay từ giai đoạn khởi tố.
Lãnh đạo Cơ quan điều tra đôi lúc còn chưa bám sát quá trình điều tra của
Điều tra viên, do đó còn để xảy ra tình trạng điều tra viên không đảm bảo thời hạn
điều tra, vội kết luận điều tra chuyển Viện kiểm sát để chấp nhận việc Viện kiểm
sát trả hồ sơ để điều tra bổ sung nhằm có thêm thời gian để điều tra.
Một số địa phương chưa tạo điều kiện để Kiểm sát viên nghiên cứu hồ sơ
ngay khi vụ án được khởi tố, nhiều tài liệu điều tra không được Điều tra viên cung
cấp kịp thời cho Kiểm sát viên nghiên cứu hoặc có những tài liệu chỉ được cung
cấp “nhỏ giọt”. Bên cạnh đó, lãnh đạo liên ngành chưa thật sự dành nhiều thời gian
để quan tâm kiểm tra và chỉ đạo, nắm bắt tiến độ điều tra, chưa đánh giá kịp thời
những diễn biến khó khăn, thuận lợi của vụ án để bố trí cán bộ một cách hợp lý,
vừa phát huy được năng lực, trách nhiệm của cán bộ, vừa hoàn thành tốt nhiệm vụ
chuyên môn. Vì vậy, không phát hiện kip thời những thiếu sót trong công tác điều
tra dẫn đến chậm phát hiện những thiếu sót trong việc đánh giá chứng cứ, tội danh
dẫn đến phải trả điều tra bổ sung.
Một số vụ án do tính chất nghiêm trọng của tội phạm phải chuyển thẩm
quyền để điều tra, truy tố, xét xử khi vụ án được chuyển đến cấp có thẩm quyền thì
thời hạn điều tra đã hết, hồ sơ thụ lý ban đầu sơ sài không bảo đảm thủ tục về tố
tụng, chứng cứ, trong khi đó cấp được uỷ quyền không nghiên cứu kỹ hồ sơ nên
không phát hiện kịp thời những tồn tại thiếu sót trong điều tra.
Một số ít Điều tra viên, Kiểm sát viên năng lực nghiệp vụ chưa đáp ứng được
yêu cầu chuyên môn, còn lúng túng trong áp dụng pháp luật hoặc có biểu hiện chủ

quan thoả mãn với các tài liệu đã có, phiến diện trong đánh giá chứng cứ, chưa
xem xét đầy đủ, toàn diện vụ án. Nên khi kết thúc điều tra, chuyển đề nghỉ truy tố,
điều tra không đầy đủ nên phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
8


1.3.2 Trách nhiệm của Viện kiểm sát với việc trả hồ sơ điều tra bổ sung:
Điều 12 Luật Tổ chức VKSND năm 2002 và Điều 112 BLTTHS quy định về
nhiệm vụ của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự.
Qua thực tiễn công tác có thể thấy rõ trách nhiệm của Viện kiểm sát đối với
việc trả hồ sơ bổ sung là:
Chưa tổ chức thực hiện nghiêm chỉnh Chỉ thị của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân Tối cao đối với việc nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và
kiểm sát hoạt động tư pháp. Nhiều Viện kiểm sát địa phương tuy có đặt ra chỉ tiêu
trả hồ sơ điều tra bổ sung nhưng lại thiếu kiểm tra đôn đốc hoạt động của Kiểm sát
viên trong việc nghiên cứu và trả hồ sơ nghiệp vụ theo quyết định 24 của Viện
trưởng VKSND Tối cao. Qua kết quả kiểm tra ở một số địa phương cho thấy hồ sơ
kiểm sát điều tra không có quyết định phân công Kiểm sát viên nên không biết
Kiểm sát viên thụ lý vụ án là ai. Trong quá trình kiểm sát điều tra, Kiểm sát viên
không có trích cứu hồ sơ, không có yêu cầu điều tra. Vì vậy, không thể đánh giá
đúng hồ sơ còn thiếu thủ tục gì, còn thiếu chứng cứ gì để buộc tội...nên khi đưa ra
truy tố, xét xử phải trả hồ sơ điều tra để bổ sung.
Lãnh đạo Viện kiểm sát địa phương chưa chủ động phối hợp tốt với Thủ
trưởng Cơ quan điều tra, tạo sự phối hợp chặt chẽ trong quan hệ tố tụng để Kiểm
sát viên tiếp cận hồ sơ một cách thuận lợi ngay từ khi vụ án mới khởi tố, từ đó chủ
động đề ra yêu cầu điều tra đổi với vụ án hoặc có những ý kiến định hướng điều tra
đúng trọng tâm, tránh kéo dài thời hạn, lệch hướng điều tra.
Kiểm sát viên không tuân thủ đầy đủ các quy trình kiểm sát điều tra, còn thụ
động chờ việc, chưa chủ động trong quan hệ phối hợp với Điều tra viên để bám sát

tiến độ điều tra vụ án để giải quyết ngay những vấn đề mới phát sinh trong quá
trình điều tra, khi phát hiện các vấn đề cần thiết phải bổ sung vào hồ sơ vụ án như
thiếu chứng cứ, lý lịch tư pháp, bổ sung hoặc thay đổi tội danh... thì không đề ra
yêu cầu điều tra bằng văn bản mà chỉ trao đổi bằng miệng với Điều tra viên nên
tính pháp lý còn chưa cao, Điều tra viên tiếp thu chậm, có những vấn đề kéo dài
sau đó phải làm công văn yêu cầu điều tra mới thực hiện...Vì bỏ qua một số thao
tác trong quá trình kiểm sát điều tra mà dẫn đến tỷ lệ trả hồ sơ điều tra bổ sung còn
cao hơn tỷ lệ cho phép.

9


CHƯƠNG II: MỘT SỐ BIỆN PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HẠN
CHẾ TÌNH TRẠNG TRẢ HỒ SƠ GIỮA VIỆN KIỂM SÁT VÀ CƠ QUAN
ĐIỀU TRA.
2.1. Những biện pháp khắc phục nhằm hạn chế tình trạng trả hồ sơ giữa
viện kiểm sát và cơ quan điều tra:
Trả hồ sơ để điều tra bổ sung được pháp luật quy định trong Bộ luật tố tụng
hình sự nhằm đảm bảo cho việc điều tra, truy tố, xét xử một cách chính xác, đúng
người, đúng tội và đúng pháp luật. Tuy nhiên, để tình trạng trả hồ sơ xảy ra nhiều,
điều đó phản ánh một phần năng lực trách nhiệm của Kiểm sát viên, thể hiện chất
lượng còn yếu kém trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động
tư pháp. Muốn hạn chế tình trạng trả hồ sơ giữa các Cơ quan tiến hành tố tụng, cần
tổ chức thực hiện tốt một số biện pháp sau:
Mỗi Điều tra viên, Kiểm sát viên không ngừng học tập, nghiên cứu các quy
định của pháp luật, đặc biệt là các văn bản pháp luật về hình sự.
Điều tra viên, Kiểm sát viên trên cơ sở quán triệt quy chế phối hợp giữa hai
ngành Công an-Kiểm sát, tuân thủ quy trình hoạt động, đặt tinh thần trách nhiệm
cao trong công tác thụ lý điều tra và kiểm sát điều tra vụ án. Tăng cường công tác
kiểm sát điều tra từ đầu, nắm chắc tiến độ điều tra của Cơ quan điều tra, nghiên

cứu kỹ hồ sơ vụ án, kịp thời định hướng và đề ra các yêu cầu điều tra. Các yêu cầu
điều tra của Viện kiểm sát phải được thể hiện bằng văn bản trong thời hạn điều tra.
Nâng cao ý thức trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên trong việc
thực hiện quy chế nghiệp vụ của ngành, quy chế thực hành quyền công tố, kiểm sát
điều tra án hình sự; quy chế thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử án hình
sự, kiểm sát chặt chẽ việc lập hồ sơ theo Quyết định 24 ngày 6/8/1993 của Viện
trưởng VKSND Tối cao đối với từng Kiểm sát viên khi phân công thụ lý án.
Mỗi Kiểm sát viên phải thực hiện tốt việc mở sổ kiểm sát điều tra; ngay từ
giai đoạn khởi tố vụ án, khởi tố bị can, Kiểm sát viên phải có công văn hướng dẫn
điều tra, bám sát tiến độ điều tra. Định kỳ trao đổi với Điều tra viên để nắm thông
tin về tiến độ và nội dung điều tra vụ án để phối hợp cùng Điều tra viên giải quyết
ngay những vấn đề mới phát sinh; đối với những vấn đề mà Điều tra viên và Kiểm
sát viên không thể giải quyết phải báo cáo ngay lãnh đạo hai ngành cho ý kiến để
giải quyết dứt điểm. Đối với những vấn đề này, Kiểm sát viên phải ghi vào sổ kiểm
sát điều tra và có ký xác nhận giữa Điều tra viên và Kiểm sát viên. Trước khi hồ sơ
kết thúc chuyển sang Viện kiểm sát để truy tố, Kiểm sát viên phải nắm chắc kết
quả điều tra vụ án.
10


Đối với Viện kiểm sát cấp dưới, khi có vụ án có những vấn đề tranh chấp về
quan điểm đánh giá chứng cứ, quan điểm xử lý giữa các Cơ quan tiến hành tố tụng
cần thực hiện nghiêm túc quy chế thỉnh thị đối với Viện kiểm sát cấp trên và ngược
lại khi Viện kiểm sát cấp dưới xin ý kiến về đường lối xử lý, Viện kiểm sát cấp
trên cần nhanh chóng cho ý kiến trả lời.
Tiếp tục xây dựng các chuyên đề về hình sự, trong đó có chuyên đề án trả hồ
sơ để điều tra bổ sung, thông qua đó quản lý chặt chẽ công tác giải quyết án, kịp
thời khắc phục vi phạm, tố chức thông báo rút kinh nghiệm chung.
Khi phân công Kiểm sát viên thực thực hành quyền công tố và kiểm sát điều
tra đối với vụ án phải căn cứ vào năng lực, trách nhiệm và yêu cầu nghiệp vụ đối

với từng vụ án để phân công, tránh tình cảm cá nhân dẫn đến không hoàn thành
nhiệm vụ.
Tăng cường công tác phối hợp với các cơ quan tiến hành tố tụng để thực hiện
tốt chức năng công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Duy trì chế độ lãnh đạo liên
ngành giao ban thường xuyên, bàn giải quyết kịp thời những vụ án phức tạp có
nhiều vướng mắc trong quá trình giải quyết án, để đảm bảo vụ án sẽ được giải
quyết trong hạn luật định, tránh tình trạng đùn đẩy, kéo dài thời hạn điều tra, dẫn
tới việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
2.2.Một số kiến nghị nhằm hạn chế tình trạng tra hồ sơ điều tra bổ sung:
Để đáp ứng yêu cầu nghiệp vụ và thực hiện tốt việc tăng thẩm quyền điều
tra, truy tố, xét xử theo quy định của pháp luật; đội ngũ cán bộ giải quyết án hình
sự (Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán) ở một số địa phương còn thiếu, trong
đó còn một số yếu về chuyên môn nghiệp vụ nên, cần có sự chủ động bố trí đội
ngũ cán bộ có năng lực nghiệp vụ, có kinh nghiệm công tác để tăng cường cho các
địa phương được tăng thẩm quyền và mở các lớp tập huấn chuyên sâu về nghiệp
vụ cho đội ngũ cán bộ giải quyết án hình sự.
Hệ thống hoá các văn bản pháp luật hình sự đang có hiệu lực trên từng lĩnh
vực nghiệp vụ để tiện tra cứu vận dụng, xác định rõ định lượng, tính chất, những
tình tiết liên quan đến việc xác định mức độ phạm tội, dấu hiệu bắt buộc cấu thành
tội hoặc những tình tiết liên quan đến việc định khung hình phạt và triển khai rộng
rãi đến các cơ quan tiến hành tố tụng để có nhận thức thống nhất về những quy
định của pháp luật, tránh sự tranh cải không cần thiết làm cho việc giải quyết vụ án
kéo dài.
11


Xây dựng các chuyên đề nghiệp vụ nhằm tạo sự chuyển biến mới trong nhận
thức và ý thức trách nhiệm để thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và
kiểm sát hoạt động tư pháp. Thông qua nghiên cứu hội thảo chuyên đề, xây dựng
các chỉ thị của lãnh đạo Viện triển khai tố chức thực hiện thống nhất trong toàn

ngành.

12


PHẦN II: TRẢ HỒ SƠ VỤ ÁN HÌNH SỰ
ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG
GIỮA TÒA ÁN VÀ VIỆN KIỂM SÁT
CHƯƠNG I: VẤN ĐỀ TRẢ HỒ SƠ
ĐIỀU TRA BỔ SUNG
CỦA TÒA ÁN
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

1.2 Vấn đề trả hồ sơ điều tra bổ sung giữa Tòa án và Viện kiểm sát:
1.2.1 Trao đổi với Viện kiểm sát khi thấy cần thiết trả hồ sơ điều tra bổ sung:
Để có cơ sở xét xử vụ án được chính xác đúng luật quy định, Thẩm phán có
quyền trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung nhằm khắc phục những thiếu
sót trong quá trình điều tra, truy tố. Trước khi trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều
tra bổ sung, Thẩm phán cần chủ động trao đổi với Kiểm sát viên sẽ tham gia phiên
tòa. Thẩm phán nêu rõ từng vấn đề cần điều tra bổ sung và nghe ý kiến của kiểm
sát viên để ra quyết định chính xác. Thẩm phán chỉ ra quyết định trả hồ sơ cho
Viện kiểm sát để điều tra bổ sung trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều
179 Bộ luật tố tụng hình sự .
Việc tiến hành trao đổi với viện kiểm sát trước khi quyết định trả hồ sơ vụ
án hành sự để điều tra bổ sung không là thủ tục bắt buộc được quy định trong bộ
luật tố tụng hình sự. Tuy nhiên, trong thực tiễn đây là một trong những thủ tục
được thực hiện khá thường xuyên, có sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan Tòa án và
Viện kiểm sát. Thẩm phán có quyền trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ
sung nhằm khắc phục những thiếu sót trong quá trình điều tra, truy tố.
Như vậy, trước khi trả hồ sơ bổ sung thì việc trao đổi với Viện kiểm sát giúp

cho việc ra quyết định của Tòa án được chính xác và cơ quan viện kiểm sát sẽ thực
hiện các vấn đề cần điều tra bổ sung một cách thuận tiện, không bỏ sót những vấn
đề cần điều tra bổ sung, hạn chế trường hợp phải ra quyết định điều tra lần 02 kéo
dài, mất thời gian....
Theo thông tư liên ngành số 01/TTLN, ngày 08.12.1988 của Tòa án nhân
dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ nội vụ, Bộ Tư pháp thì Tòa án cần
trao đổi với Viện kiểm sát trong những trường hợp sau đây:

13


Khi Tòa án thấy cần trả hồ sơ để Viện kiểm sát điều tra bổ sung, đổi tội danh
nặng hơn hoặc áp dụng khung hình phạt nặng hơn;
- Khi Tòa án thấy cần đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án;
- Khi cần nhập hoặc tách vụ án;
- Khi cần chuyển vụ án cho Tòa án khác giải quyết;
- Khi chuẩn bị xét xử những vụ án điểm hoặc vụ án phức tạp;
- Các trường hợp cần thiết khác;
Thủ tục tiến hành trao đổi:
- Mời Kiểm sát viên cùng trao đổi ( thông báo rõ thời gian, địa điểm tiến
hành trao đổi ). Những trường hợp bình thường thì Thẩm phán trao đổi với Kiểm
sát viên trường hợp phức tạp thì báo cáo Chánh án để trao đổi với lãnh đạo Viện
kiểm sát. Nếu xét thấy cần thiết thì có thể mời đại diện Cơ quan điều tra cùng trao
đổi.
- Bắt đầu trao đổi, Thẩm phán nêu vấn đề để đại diện Viện kiểm sát cho ý
kiến. Sau đó hai bên cùng thảo luận. Nếu hai bên thống nhất thì Tòa án trả hồ sơ
cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung, thay đổi cáo trạng hoặc Tòa án ra quyết
định tạm đình chỉ, đình chỉ vụ án, chuyển vụ án.
- Sau khi trao đổi nếu không đạt được sự nhất trí thì mỗi bên vẫn tiến hành
công việc theo chức năng của ngành mình, tức là Viện kiểm sát không nhất trí,

nhưng có căn cứ theo Điều 179 Bộ luật tố tụng hình sự thì Toà án ra quyết định trả
hồ sơ điều tra bổ sung. Nếu kết quả điều tra bổ sung dẫn đến đình chỉ vụ án thì
Viện kiểm sát ra quyết định đình chỉ vụ án và thông báo cho Tòa án biết. Trong
trường hợp Viện kiểm sát không bổ sung được những vấn đề mà Tòa án yêu cầu và
giữ nguyên quyết định truy tố thì Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử.
1.1.2 Những căn cứ để Thẩm phán ra quyết định để điều tra bổ sung:
Theo quy định tại khoản 2 Điều 176 Bộ luật tố tụng hình sự thì trong thời
hạn luật định, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa phải ra một trong các
quyết định như: Đưa vụ án ra xét xử, trả hồ sơ để điều tra bổ sung, đình chỉ hoặc
tạm đình chỉ vụ án.
Để thực hiện các quyết định đó Thẩm phán phải thực hiện một kỹ năng là
nghiên cứu trước hồ sơ. Trong quá trình nghiên cứu hồ sơ, theo khoản 1 Điều 179
Bộ luật tố tụng hình sự quy định:
“ 1 – Thẩm phán ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ
sung trong những trường hợp sau:
a)
Khi cần xét những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà không thể
bổ sung tại phiên tòa được;
14


b) Khi có căn cứ để cho rằng bị cáo phạm một tội khác hoặc có đồng phạm
khác;
c) Khi phát hiện có hành vi nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Những vấn đề cần điều tra bổ sung phải được nêu rõ trong quyết định yêu
cầu điều tra bổ sung.”.
Nếu xét thấy có một trong các trường hợp quy định tại khoản 01 Điều 179
BLTTHS thì căn cứ vào Điều 39; Điều 176 và Điều 179 BLTTHS và hướng dẫn
tại mục 4 phần I của Nghị Quyết 04/2004/NQHĐTP ngày 05/11/2004 của Hội
đồng Thẩm phán TAND Tối Cao để ra quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung. Và

chỉ được ra quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung không quá 02 lần.
Cần phân biệt trong giai đoạn hồ sơ vụ án hình sự tại Tòa án, Thẩm phán
chủ tọa phiên tòa ra quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung và quyết định trả hồ sơ
điều tra bổ sung của hội đồng xét xử, do Thẩm phán thay mặt hội đồng xét xử ký
quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung.
Trước khi quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung Thẩm phán cần nghiên cứu
kỹ mọi vấn đề trả hồ sơ điều tra bổ sung, phải ghi hết mọi vấn đề trả hồ sơ điều tra
bổ sung vào quyết định. Nếu viện kiểm sát không chấp nhận trả hồ sơ điều tra bổ
sung thì luật cho phép Tòa án vẫn tiến hành xét xử.
Thực tiễn xét xử cho thấy việc trả hồ sơ điều tra bổ sung giữa Tòa án với
Viện kiểm sát có nhiều vấn đề vướng mắc, nhưng chưa được các cơ quan có thẩm
quyền hướng dẫn.
Ví dụ: Tòa án cho rằng hồ sơ vụ án còn thiếu chứng cứ quan trọng, nhưng
Viện kiểm sát lại cho rằng không thiếu chứng cứ quan trọng hoặc Tòa án yêu cầu
Viện kiểm sát truy tố thêm người phạm tội, nhưng Viện kiểm sát cho rằng người
mà Tòa án yêu cầu truy tố thuộc trường hợp không phạm tội hoặc được miễn trách
nhiệm hình sự v.v… Không ít trường hợp vụ án bị kéo dài chỉ vì quan điểm giữa
Tòa án với Viện kiểm sát không thống nhất.
a – Khi cần xem xét thêm những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà
không thể bổ sung tại phiên tòa được ( Điểm a khoản 1 Điều 179 Bộ luật tố
tụng hình sự).
Theo điểm a khoản 1 Điều 179 Bộ luật tố tụng hình sự thì Thẩm phán ra
quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung khi thấy hồ sơ vụ án
thiếu những chứng cứ quan trọng mà không thể bổ sung tại phiên tòa được.
15


Thẩm phán ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung khi
thấy hồ sơ vụ án thiếu những chứng cứ quan trọng mà không thể bổ sung tại phiên
tòa được.

Chứng cứ quan trọng đó là các chứng cứ xác định sự việc phạm tội; xác định
bị can có tội hay không có tội, những tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự của bị can có ảnh hưởng rất lớn đến việc quyết định hình phạt; xác
định tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra. Nếu thiếu những
chứng cứ đó thì phải yêu cầu điều tra bổ sung nhưng nếu chỉ thiếu những chứng cứ
ít quan trọng có thể bổ sung tại phiên tòa thì không cần điều tra bổ sung. Ví dụ:
chỉ cần hỏi thêm bị cáo hoặc người làm chứng về một vài chi tiết để làm sáng tỏ
thêm tình tiết của vụ án. Cũng cần chú ý điều kiện thực tế khả năng của cơ quan
điều tra có thể bố sung khi thấy thiếu chứng cứ quan trọng mà không thể bổ sung
tại phiên tòa được. Những vấn đề nào có thể bổ sung chứng cứ tại phiên tòa thì
không yêu cầu điều tra bổ sung.
Đối với vụ án hình sự thì chứng cứ quan trọng nếu thiếu sẽ không thể xác
định được sự thật vụ án như: không thể xác định được bị cáo có tội hay không có
tội, nếu có tội thì tội gì, theo điều khoản nào của Bộ luật hình sự, các tài liệu có
liên quan mà thiếu nó không thể xử lý được vật chứng, không thể áp dụng hình
phạt bổ sung, áp dụng các biện pháp tư pháp cũng như quyết định việc bồi thường
thiệt hại. Để xác định việc điều tra của cơ quan điều tra đã đầy đủ hay chưa, Thẩm
phán nghiên cứu hồ sơ cần căn cứ vào các quy định tại Điều 63 Bộ luật tố tụng
hình sự về đối tượng chứng minh như: có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời
gian, địa điểm và những tình tiết khác có hành vi phạm tội; có lỗi hay không có
lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không, mực đích, động
cơ phạm tội những tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của
bị can, bị cáo và những đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo tính chất và mức
độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra. Nếu các tài liệu của hồ sơ vụ án đủ để xác
định những vấn đề trên, tức là không cần phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Yêu
cầu chứng minh tội phạm bao gồm những nội dung tương đối rộng và nếu cơ quan
điều tra thực hiện được như vậy thì chắc chắn không có việc trả hồ sơ điều tra bổ
sung. Tuy nhiên trong các nội dung cần phải chứng minh trên có những nội dung
nếu cơ quan điều tra chưa chứng minh mà tại phiên tòa có thể điều tra được thì
không phải điều tra bổ sung. Ví dụ: Bị cáo Bùi Quang V khai rằng khi thực hiện

hành vi phạm tội có yêu cầu của bị cáo là Chung Thị H cũng có mặt tại hiện
trường, nhưng cơ quan điều tra chưa lấy lời khai của Chung Thị H mặc dù bị cáo
khai rõ địa chỉ của Chung Thị H. Trong trường hợp này Tòa án không cần phải trả
hồ sơ cho Viện kiểm sát để lấy lời khai của Chung Thị H với tư cách là người làm
chứng mà không cần phải triệu tập Chung Thị H ra tòa với tư cách là người làm
chứng để xét hỏi. Việc xác định bị cáo cố ý phạm tội hay vô ý phạm tội nhiều
16


trường hợp không phải do điều tra mà là do đánh giá thông qua hành vi khách quan
của bị cáo, đối với các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhiều trường hợp có
thể xác định tại phiên tòa. Thậm chí có những chứng cứ rất quan trọng có ý nghĩa
quyết định đến việc kết tội bị cáo nhưng vẫn có thể chứng minh tại phiên tòa.
Thực tiễn xét xử cho thấy một số Thẩm phán không phân biệt giữa chứng cứ
và đánh giá chứng cứ nên đã quyết định trả hồ sơ bổ sung không đúng với quy
định tại điều Điều 179 Bộ luật tố tụng hình sự. Ví dụ: Lê Ngọc A bị truy tố về tội
lợi dụng tính nhiệm chiếm đoạt tài sản vì đã có hành vi nhận 1000 bao xi măng của
Công ty Xi măng X với giá trị là 49.500.000 đ. số xi măng trên Lê Ngọc A giao cho
xí nghiệp xây dựng đang thi công các công trình làm cầu nông thôn. Hết hạn hạn
toán, Lê Ngọc A chỉ giao cho công ty Xi măng X 30.000.000 đ còn 19.500.000đ A
không thanh toán được là vì còn một số Xí nghiệp chưa thanh toán cho A. Các tài
liệu này được cơ quan điều tra xác minh đầy đủ nhưng vì việc kiểm sát cho rằng A
vẫn có hành vi chiếm đoạt số tiền còn nợ, nên vẫn truy tố A về tội lạm dụng tính
nhiệm chiếm đoạt tài sản. Trong quá trình nghiên cứu hồ sơ, Thẩm phán chủ tọa
phiên tòa thấy hành vi của A không phải là hành vi chiếm đoạt, tức là hành vi
không cấu thành tội phạm, nhưng vì Điều 180 Bộ luật tố tụng hình sự không quy
định Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa được ra quyết định đình chỉ vụ
án, nên đã quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát và yêu cầu Viện Kiểm sát điều
tra bổ sung xem A có chiếm đoạt không? Trường hợp này, Tòa án phải mở phiên
tòa xét xử tại phiên tòa Tòa án chỉ cần xác định lại xem lý do mà A không thanh

toán đúng hạn với Công ty Xi măng X như bị cáo đã khai và Cơ quan điều tra đã
xác định có đúng hay không? Sau khi đã xác định lý do không thanh toán được nợ
đúng như bị cáo khai và cơ quan điều tra đã xác minh thì Toà án tuyên bị cáo A
không phạm tội vì không có hành vi chiếm đoạt. Trong trường hợp này, chứng cứ
để xác định A có chiếm đoạt hay không là một chứng cứ rất quan trọng đã được cơ
quan điều tra thu thập, đó là khoản nợ mà các Xí nghiệp xây dựng đang còn nợ A,
nhưng do đánh giá chứng cứ nên cơ quan điều tra và Viện kiểm sát cho rằng A
phạm tội và truy tố A ra tòa.
Qua thực tế nhận thấy, một số Tòa án khi nghiên cứu hồ sơ vụ án thấy hành
vi của bị cáo không phải là hành vi phạm tội nên đã quyết định trả hồ sơ để Viện
kiểm sát quyết định đình chỉ vụ án. Việc làm này là không đúng pháp luật, trái với
quy định tại Điều 180 Bộ luật tố tụng hình sự, vì theo quy định tại Điều 180 Bộ
luật tố tụng hình sự thì Thẩm phán ra quyết định đình chỉ vụ án khi có căn cứ quy
định tại Điều 160 của Bộ luật tố tụng hình sự; ra quyết định đình chỉ vụ án khi có
một trong những căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 105 và các khoản 3,4,5,6 và 7
Điều 107 Bộ luật tố tụng hình sự hoặc khi Viện kiểm sát rút toàn bộ quyết định
truy tố trươc khi mở phiên tòa. Như vậy, nếu có căn cứ quy định tại khoản 1,2
Điều 107 Bộ luật tố tụng hình sự thì phải mở phiên tòa và tại phiên tòa sau khi xét
17


hỏi mà thấy có đủ căn cứ xác định không có sự việc phạm tội hoăc hành vi không
cấu thành tội phạm thì Hội đồng xét xử tuyên bị cáo không phạm tội.
Như vậy, chứng cứ và đánh giá chứng cứ là hai phạm trù khác nhau. Chứng
cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự do Bộ luật hình sự mà cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án dùng làm căn cứ để xác định có hay không có
hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi tội phạm cũng như những tình tiết khác
cần thiết cho việc giải quyết đúng đắng vụ án. Chứng cứ được xác định bằng: vật
chứng, lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân
sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án người bị bắt, người bị tạm

giữ, bị can, bị cáo; kết quả giám định, biên bản về hoạt động điều tra, xét xử và các
tài liệu, đồ vật khác( Điều 64 Bộ luật tố tụng hình sự). Còn đánh giá chứng cứ là
việc điều tra viên, kiểm sát viên, Thẩm phán và Hội thẩm xác định và đánh giá mọi
chứng cứ với đầy đủ tinh thần, trách nhiệm sau khi nghiên cứu một cách tổng hợp,
khách quan, toàn diện và đầy đủ tất cả các tình tiết của vụ án. Mọi chứng cứ phải
được đánh giá để xác định tính hợp pháp, xác thực và liên quan đến vụ án. Việc
xác định các chứng cứ thu thập được phải đảm bảo đủ để giải quyết vụ án hình
sự(Điều 66 Bộ luật tố tụng hình sự). Vì vậy, khi nghiên cứu hồ sơ Thẩm phán được
phân công chủ tọa phiên tòa phải phân biệt cái gì là chứng cứ còn vấn đề nào thuộc
lĩnh vực đánh giá chứng cứ để quyết định việc có cần trả hồ sơ điều tra bổ sung
hay không.
b – Khi có căn cứ để cho rằng bị cáo phạm một tội khác hoặc có đồng
phạm khác( Điểm b khoản 1 Điều 179 Bộ luật tố tụng hình sự).
Mục đính của việc điều tra bổ sung là để xác định có hay không việc phạm
tội, ai là người phạm tội, những chứng cứ chứng minh việc phạm tội. Để đảm bảo
cho việc xét xử được chính xác, tránh làm oan hoặc bỏ lọt tội phạm. Qua nghiên
cứu hồ sơ nếu thấy có người khác cùng thực hiện tội phạm với bị can nhưng chưa
bị truy tố hoặc có căn cứ xác định bị can phạm một tội khác thì Thẩm phán quyết
định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung. Tuy nhiên, nếu thấy việc điều
tra đã đầy đủ nhưng Viện kiểm sát truy tố không đúng tội danh và Tòa án có thể
xét xử bị cáo về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố thì
vẫn đưa vụ án ra xét xử mà không cần trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Trong trường
hợp phải xét xử bị cáo theo khung hình phạt nặng hơn khung hình phạt mà Viện
kiểm sát đã truy tố khung hình phạt này, vẫn thuộc quyền xét xử của tòa án, Thẩm
phán, chỉ cần trao đổi trước với Viện kiểm sát mà không cần phải ra quyết định trả
hồ sơ bổ sung.

18



Trong khi nghiên cứu hồ sơ Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa
phát hiện còn người đồng phạm khác( người phạm tội khác là người đồng phạm
với bị cáo). Thì ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để truy tố lại.
Xin nêu ra một ví dụ trả hồ sơ điều tra bổ sung của TAND Thị Xã Vị Thanh
- tỉnh Hậu Giang để chứng minh cho vấn đề trên: Theo hồ sơ vụ án hình sự tại cáo
trạng số 53/KSĐT ngày 28/11/2006 của Viện kiểm sát nhân dân Thị xã Vị Thanh tỉnh Hậu Giang đã truy tố Lê Hải Sơn, Kiều Đình Tâm về tội “ cố ý gây thương
tích” theo khoản 02 Điều 104 Bộ luật hình sự. Tại các biên bản ghi lời khai và các
biên bản hỏi cung bị cáo Sơn và Tâm, bản kết luận điều tra vụ án, cáo trang đều thể
hiện khi sự việc xảy ra có cả Phạm Văn Kha dùng ly chọi, dùng bàn mê ca chân sắt
đánh vào đầu bị hại Lê Tấn Thành. Nhưng quá trình điều tra, truy tố chỉ truy tố đối
với bị cáo Sơn và Tâm, còn Phạm Văn Kha không đề cặp đến, tư cách tham gia tố
tụng trong vụ án này là gì mà chỉ nêu trong cáo trạng “ Phạm Văn Kha sau khi
phạm tội cơ quan điều tra tiến hành điều tra , nhưng do địa phương quản lý không
tốt nên đã rời khỏi địa phương đi xuất khẩu lao động ở Malaysia, sẽ xử lý sau”.
Viện dẫn trên không thỏa đáng, nên Tòa án nhân dân Thị xã Vị Thanh đã ra quyết
định trả hồ sơ để điều tra bổ sung với lý do có đồng phạm khác trong vụ án, còn bỏ
lọt tội phạm. Thực tế nếu Phạm Văn Kha có đi xuất khẩu lao động Malaysia thì cơ
quan điều tra không thể không tìm được địa chỉ để triệu tập, nếu đã xác định sẽ xử
lý sau thì thời hạn xử lý là bao lâu, có thể dẫn đến hết thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 23 Bộ luật hình sự và bỏ lọt tội phạm hay
không?
Việc xác định có thêm người phạm tội, nhưng người này phải là người đồng
phạm với người đã bị truy tố thì mới thuộc trường hợp trả hồ sơ, nếu phát hiện có
người phạm tội nhưng người này lại không phải là người đồng phạm theo quy định
tại Điều 20 Bộ luật hình sự thì tòa án không được trả hồ sơ để truy tố lại mà chỉ có
quyền khởi tố tại phiên tòa theo Điều 104 Bộ luật tố tụng hình sự.
Theo khoản 1 Điều 20 Bộ luật hình sự thì có hai người trở lên cùng có ý
thức thực hiện một tội phạm thì mới coi là đồng phạm và khoản 2 Điều 20 Bộ luật
hình sự thì người đồng phạm là người tổ chức, người thực hành, người xúi giục,
người giúp sức.

Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm; Người tổ chức là
người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm. Người xúi giục là người
kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm. Người giúp sức là
người tạo những điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm.
Phạm tội có tổ chức cũng là một hình thức đồng phạm nhưng có sự cấu kết chặt
chẽ giữa những người thực hiện tội phạm. Thực tiễn xét xử cho thấy nhiều trường
19


hợp xác định đồng phạm trong một vụ án không phải dễ dàng, nó là kết quả của sự
đánh giá chứng cứ, nên nó phụ thuộc vào nhận thức của con người mà như chúng
ta đã biết nhận thức là cả một quá trình và tùy thuộc vào từng chủ thể nhận thức.
Thẩm phán đánh giá khác Kiểm sát viên và điều tra viên hoặc ngược lại. Do đó,
thực tiễn xét xử có không ít trường hợp Tòa án trả hồ sơ để Viện kiểm sát truy tố
thêm người phạm tội nhưng Viện kiểm sát không chấp nhận vì cho rằng Thẩm
phán xác định vụ án có người đồng phạm là không có căn cứ.
Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 179 Bộ luật tố tụng hình sự thì chỉ
khi nào xác định có người đồng phạm khác thì tòa án mới trả hồ sơ để điều tra bổ
sung, nhưng thực tiễn xét xử có những trường hợp người có hành vi phạm tội
không phải là người đồng phạm với người mà Viện kiểm sát đã truy tố, nhưng
không thể tách ra để xét xử bằng vụ án khác mà nhất thiết phải xét xử cùng vụ án
với người bị truy tố.
Ví dụ: A trộm cắp tài sản, sau đó đem bán cho B, B biết tài sản mà A bán
cho mình là tài sản trộm cắp mà có, nhưng B vẫn mua. Nếu xét về mối quan hệ A
và B trong vụ án thì A phạm tội trộm cắp còn B chỉ phạm tội tiêu thụ tài sản do
người khác phạm tội mà có và vì thế mà vụ án không có đồng phạm. Viện kiểm sát
đã truy tố A về tội trộm cắp tài sản, còn B không bị khởi tố, điều tra với lý do là tài
sản đã được thu hồi và trả cho chủ sở hữu. Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án Thẩm phán
phát hiện không truy tố B là bỏ lọt tội phạm vì B phạm tội lần này thuộc trường
hợp tái phạm nguy hiểm nên đã quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra

bổ sung nhằm truy tố B với lý do còn bỏ lọt người phạm tội. Trong các trường hợp
tương tự, trường hợp này hầu hết các Viện kiểm sát chấp nhận yêu cầu của Tòa án.
Tuy nhiên về lý luận, có vấn đề phải xem xét đó là B không phải là người đồng
phạm với A mà chỉ là người có hành vi phạm tội có liên quan chặt chẽ với A ( Tiêu
thụ tài sán do A trộm cắp ), không truy tố B và A trong cùng một vụ án sẽ làm cho
việc xác định sự thật của vụ án, không đảm bảo, mà yêu cầu Viện kiểm sát truy tố
B lại trái với quy định tại điểm b khoản 1 Điều 179 Bộ luật tố tụng hình sự. Cũng
chính vì vậy, việc quy định “ có đồng phạm khác”. Vẫn còn được hiểu ở nhiều góc
độ khác nhau, có thể là người đồng phạm trong cùng một vụ án hoặc là người đồng
phạm không cùng trong một vụ án.
c – Khi phát hiện có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng:( điểm c khoản
1 Điều 179 Bộ luật tố tụng hình sự).
Vi phạm thủ tục tố tụng ở đây là của cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong
hoạt động điều tra và truy tố. Thẩm phán quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung
khi phát hiện có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong điều tra, truy tố. Đây
là những vi phạm do việc cơ quan tiến hành tố tụng không làm hoặc làm không
20


đúng với quy định của pháp luật, ảnh hưởng đến việc xác định sự thật vụ án hoặc
xâm phạm đến quyền tố tụng, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng. Những
vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng có thể là không thay đổi điều tra viên, Kiểm
sát viên trong những trường hợp quy định tại Điều 44, 45 Bộ luật tố tụng hình sự
và không thay đổi người giám định, người phiên dịch ( Điều 60,61 Bộ luật tố tụng
hình sự ) trong những trường hợp có lý do phải thay đổi quy định tại điều 42 Bộ
luật tố tụng hình sự. Vi phạm nghiêm trọng quyền bào chữa của bị can, không
chưng cầu giám định trong những trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định,
có việc bức cung hoặc dùng nhục hình đối với bị can, việc lấy lời khai người làm
chứng của điều tra viên không đúng với quy định của pháp luật v.v…
Các biên bản, các lệnh tạm giữ, tạm giam và các biên bản khác không được

thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Ví dụ: lấy lời khai của bị
can là người chưa thành niên nhưng không có mặt của Luật sư hoặc người đại diện
hợp pháp của bị can, biên bản thu giữ niêm phong vật chứng nhưng không có sự
chứng kiến của người thu giữ và chữ ký của họ. Lệnh tạm giam không có phê
chuẩn của Viện kiểm sát v.v …
Trong các vi phạm thủ tục tố tụng ở giai đoạn điều tra có vi phạm dẫn đến
việc truy tố sai, nhưng cũng có vi phạm không ảnh hưởng đến nội dung các quyết
định của Viện kiểm sát nhưng vẫn bị coi là nghiêm trọng.
Ví dụ: Tại bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Thị xã Vị Thanh đã
truy tố bị cáo Diệp Tuấn Tài về tội “ Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện
giao thông đường bộ” theo quy định tại khoản 1 Điều 202 Bộ luật hình sự. Hồ sơ
vụ án thể hiện khi xảy ra va chạm dẫn đến tai nạn giao thông bị can Diệp Tuấn Tài
là người điều khiển xe mô tô biển số 68S2 - 8251, nhưng hồ sơ chưa có căn cứ
chứng minh xe này do ai là chủ sở hữu để buộc trách nhiệm (nếu có) và chưa xác
đinh được khi điều khiển xe bị can Diệp Tuấn Tài có giấy phép láy xe hay không.
Đây cũng là căn cứ để xác định trách nhiệm hình sự với tình tiết tăng nặng định
khung.
Mặc khác, hồ sơ thể hiện nồng độ ALcol/máu của bị can Diệp Tấn Tài khi
gây tai nạn ngày 17/5/2006 là 1,2g/l. Đối chiếu nồng độ trong máu của bị can với
quy định của pháp luật tại điểm 8 Điều 8 của Luật giao thông đường bộ thì bị can
điều khiển xe trong khi say rượu ( thuộc trường hợp phải truy tố tại điểm b khoản 2
Điều 202 Bộ luật hình sự).
Do vậy, trong trường hợp này Tòa Án nhân dân Thị xã Vị Thanh căn cứ
mức hình phạt quy định tại khoản 2 Điều 202 Bộ luật hình sự; Điều 3 Nghị quyết
24/2003/QH11 ngày 26/11/2003 của Quốc Hội đề nghị Viện kiểm sát nhân dân thị
21


xã Vị Thanh chuyển vụ án đến viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hậu Giang truy tố theo
thẩm quyền.

Ví dụ khác về việc giám định lại nhưng không do giám định viên khác tiến
hành mà vẫn do Giám định viên khác thực hiện mặc dù kết quả giám định đúng với
thực tế khách quan ( Vi phạm điều 159 Bộ luật tố tụng hình sự).
Khi Tòa án quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung phải
làm văn bản, trong quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung Thẩm phán phải ghi rõ
những vấn đề cần điều tra bổ sung một cách cụ thể, ngắn gọn, rõ ràng đễ việc bổ
sung được nhanh chóng, chính xác. Trong thực tế qua kiểm tra thấy có nhiều quyết
định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung không ghi cụ thể vấn đề cần
điều tra bổ sung mà chỉ ghi chung chung “ Hồ sơ chưa đủ những tài liệu chứng
minh bị cáo phạm tội” hoặc ghi “ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án chưa đủ để kết
tội bị cáo, trả hồ sơ để Viện kiểm sát giải quyết theo thẩm quyền, có quyết định trả
hồ sơ lại ghi: “ trả hồ sơ yêu cầu của Viện kiểm sát”. Việc trả hồ sơ không đúng
quy định tại điều 179 Bộ luật tố tụng hình sự dẫn đến những hậu quả không chỉ
làm vụ án kéo dài mà nhiều trường hợp vụ án bị đình chỉ một cách không có căn
cứ làm cho mối quan hệ công tác giữa Viện kiểm sát và Tòa án không tuân thủ
theo những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
1.2 Việc giải quyết yêu cầu điều tra bổ sung:
Khi ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung, Tòa án xóa sổ thụ lý. Hồ sơ
vụ án được trở lại giai đoạn điều tra và tiến hành các hoạt động điều tra bổ sung.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 179 Bộ luật tố tụng hình sự thì: Nếu kết quả điều
tra bổ sung dẫn tới việc đình chỉ vụ án thì Viện kiểm sát ra quyết định đình chỉ vụ
án và thông báo cho Tòa án biết. Tức là kết quả điều tra bổ sung xác định có một
trong những căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 179 Bộ luật tố tụng hình sự hoặc tại
điều 19,25 và khoản 2 Điều 69 Bộ luật hình sự. Ví dụ: Viện kiểm sát truy tố bị can
về tội : “ Giao cấu với trẻ em” theo khoản 2 Điều 115 Bộ luật hình sự. Khi nghiên
cứu hồ sơ, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa thấy hồ sơ vụ án không
có giấy khai sinh của người bị hại mà chỉ có lời khai của bố mẹ người bị hại với
nội dung người bị hại mới 15 tuổi. Tòa án quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát
để điều tra bổ sung đã xác định người bị hại đã trên 16 tuổi nên Viện kiểm sát
quyết định đình chỉ vụ án vì hành vi của bị can không cấu thành tội giao cấu với trẻ

em.
Trong trường hợp đã làm hết khả năng nhưng Viện kiểm sát không thể bổ
sung được những vấn đề mà Tòa án yêu cầu bổ sung và vẫn giữ nguyên quan điểm
truy tố thì Thẩm phán ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Nếu Viện kiểm sát chỉ bổ
22


sung được một phần yêu cầu điều tra bổ sung của Tòa án nhưng thấy vẫn còn khả
năng điều tra bổ sung tiếp hoặc thấy cần điều tra bổ sung thêm những vấn đề khác
thì Thẩm phán ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung tại khoản 2 Điều 121 Bộ
luật tố tụng hình sự. Đây là trường hợp mà giữa Viện kiểm sát và Tòa án có cách
hiểu khác nhau nên dẫn đến việc áp dụng cũng khác nhau. Như Viện kiểm sát cho
rằng những yêu cầu mà Tòa án đặt ra không thể bổ sung được, nhưng Tòa án lại
cho rằng những yêu cầu đó lại có thể bổ sung được, ở đây khoản 2 Điều 179 Bộ
luật tố tụng hình sự quy định là trong trường hợp Viện kiểm sát không thể bổ sung
được, tức là đã làm mà không được chứ không phải không làm, nếu không làm mà
đã nói là không làm được thì không phải là không bổ sung được mà là không bổ
sung. Không bổ sung được với không bổ sung là hoàn toàn khác nhau. Nếu Viện
kiểm sát chưa thực hiện việc điều tra mà cho rằng không bổ sung được để lấy lý do
chuyển lại hồ sơ cho Tòa án là không đúng với quy định tại khoản 2 Điều 179 Bộ
luật tố tụng hình sự
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
VỀ VẤN ĐỀ TRẢ HỒ SƠ ĐIỀU TRA BỔ SUNG

2.1. Thực trạng về vấn đề trả hồ sơ điều tra bổ sung:
Như vậy quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung quan trọng nhất là việc trả hồ
sơ có căn cứ theo quy định tại Điều 179 Bộ luật tố tụng hình sự hay không? Theo
quy định tại Điều 121 Bộ luật tố tụng hình sự thì Tòa án được quyền trả hồ sơ hai
lần để điều tra bổ sung. Tuy nhiên các yêu cầu điều tra bổ sung phải cụ thể rõ ràng.
Ngoài ra, theo quy định tại khoản 2 Điều 199 Bộ luật tố tụng hình sự thì hội đồng

xét xử cũng có quyền “ yêu cầu điều tra bổ sung”. Luật không quy định việc trả hồ
sơ nhưng thực tế Hội đồng xét xử ra yêu cầu điều tra bổ sung thì cũng phải trả hồ
sơ và xóa sổ thụ lý như trường hợp quy định tại Diều 179 Bộ luật tố tụng hình sự.
Việc Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung thì buộc Viện kiểm sát phải nhận, không
phụ thuộc vào việc lãnh đạo Viện kiểm sát có chấp nhận hay không. Vì vậy nên có
sự trao đổi trước với Viện kiểm sát nếu Viện kiểm sát không đồng ý thì vẫn trả hồ
sơ.
Khi Tòa án nhận hồ sơ vụ án có kèm theo tang vật là tiền hoặc các giấy tờ có
giá trị mà có căn cứ nghi ngờ là tiền giả, giấy tờ có giá trị giả, thì cần phải làm rõ
xem tiền, giấy tờ có giá trị có phải là giấy tờ của vật chứng hay không hoặc nếu
không khám xét, cơ quan điều tra thu được cũng chưa được điều tra làm rõ thì
trong giai đoạn chuẩn bị xét xử Thẩm phán quyết định trả hồ sơ làm rõ. Nếu tại
phiên tòa mới xác định được thì hội đồng xét xử có thể yêu cầu điều tra bổ sung.
Nếu khi nhận hồ sơ vụ án nhưng trong hồ sơ chưa có biên bản định giá tài sản, chỉ
23


có lời khai của bị hại về giá trị tài sản, nhưng có căn cứ cho rằng lời khai của bị hại
là quá cao so với giá thị trường thì tòa án cần phải xác định tài sản đó còn hay
không thu giữ được. Nếu tài sản đó còn thì Tòa án trả hồ sơ yêu cầu định giá tài
sản đó. Nếu tài sản đó không còn nữa thì theo hướng dẫn tại điểm 4 mục II Thông
tư liên tịch số 02/2001/TTLT - TANDTC – VKSND - BCA – BTP, ngày
25/12/2001 của liên ngành Trung Ương hướng dẫn áp dụng một số quy định tại
chương XIV “ các tội xâm phạm sở hữu” của Bộ luật hình sự năm 1999 cụ thể là: “
Để xác định đúng giá trị tài sản bị xâm phạm trong trường hợp tài sản không còn
nữa, cơ quan điều tra cần lấy lời khai của những người biết về tài sản này để xác
định đó là tài sản gì, nhãn mác của tài sản đó như thế nào; giá trị tài sản đó theo
thời giá thực tế tại địa phương vào thời điểm tài sản bị xâm phạm là bao nhiêu; tài
sản đó còn khoản bao nhiêu phần trăm… Để trên cơ sở đó có kết luận cuối cùng về
giá trị tài sản bị xâm phạm.

Việc trả hồ sơ điều tra bổ sung giữa Tòa án với Viện kiểm sát có nhiều vấn
đề vướng mắc, có những trường hợp việc giải quyết giữa Tòa án và Viện kiểm sát
về việc trả hồ sơ điều tra bổ sung không đúng với quy định tại Điều 179 Bộ luật tố
tụng hình sự. Như yêu cầu của Tòa án về việc điều tra bổ sung thêm những chứng
cứ quan trọng không thể bổ sung được tại phiên tòa; truy tố thêm người phạm tội
nhưng Viện kiểm sát lại cho rằng không thiếu chứng cứ quan trọng; Người mà Tòa
án yêu cầu truy tố thuộc trường hợp không phạm tội… chính vì vậy có những vụ
án bị kéo dài chỉ vì quan điểm giữa Viện kiểm sát và Tòa án không thống nhất với
nhau.
Thực tiễn cho thấy việc thu thập chứng cứ và đánh giá chứng cứ của cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát chưa chính xác không rõ ràng để cũng cố hồ sơ vụ án làm
phát sinh nhiều vấn đề khi hồ sơ chuyển sang Tòa án và Tòa án xác định thiếu
chứng cứ, chứng cứ chưa rõ ràng nên đã trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Sau khi đã
điều tra bổ sung xong Viện kiểm sát chuyển hồ sơ qua Tòa án, nhưng vẫn không
đáp ứng được yêu cầu của Tòa án và đến lần thứ hai trả hồ sơ để điều tra bổ sung
mà không điều tra thêm gì và vẫn giữ nguyên quan điểm của Viện kiểm sát thì Tòa
án phải đưa vụ án ra xét xử mặc dù chứng cứ cần điều tra thêm vẫn chưa được làm
rõ chứng cứ yếu và thiếu khó quyết định hình phạt cho bị cáo. Ví dụ: Bài: “ Qua
xét xử vụ án giết người tại Tân Mai( Hà Nội ) Nhiều chứng cứ không có thật” của
Báo Pháp luật – Bộ Tư pháp đăng ký ngày 10.8.2004 như sau: ngày 26.5.2004
phiên Tòa xét xử vụ án giết người tại Tân Mai (Hà Nội) Tòa án nhân dân thành
phố Hà Nội quyết đình trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Theo yêu cầu ngày 15.6.2004
Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội đã phúc đáp những mâu thuẫn trong hồ
sơ vụ, song không thể lấp hết được những vô lý và đáng tiếc Tòa án vẫn chấp nhận
để đưa vụ án ra xét xử. Với yêu cầu làm rõ hành vi trái pháp luật của nạn nhân
24


Đào Xuân Thủy, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đề nghị Viện kiểm sát nhân
dân thành phố Hà Nội điều tra bổ sung hai vấn đề cơ bản.

- Vết thương của bị cáo Bùi Ngọc Anh do ai gây ra, do hung khí hay bị tai
nạn giao thông?
- Giấy chứng nhận thương tích mang tên Nguyễn Trọng Hùng, 37 tuổi tại
sau lại cấp cho Bùi Ngọc Anh 41 tuổi?
Nếu hai vấn đề này được làm rõ thì sẽ là căn cứ để Tòa án xác định nạn nhân
Thủy có lỗi nghiêm trọng hay không và Bùi Ngọc Anh giết người có trong tình
trạng tinh thần bị kích động hay không? Tuy nhiên Viện kiểm sát hầu như chỉ dựa
trên lời khai của bị cáo và người nhà của bị cáo vẫn khẳng định: Thương tích của
bị cáo Bùi Ngọc Anh do Thủy và người nhà Thủy gây ra bằng hung khí. Nhưng tại
phiên tòa sơ thẩm ngày 23.7.2004 chính Bùi Ngọc Anh đã lật lại khẳng định này
khi chắc chắn cho rằng không biết ai đã chém mình chỉ biết có Thủy và người nhà
Thủy đuổi đánh. Như thế Viện kiểm sát không thể suy luận thương tích 11% của
Ngọc Anh có sự dính líu của Thủy. Thủy chỉ đánh đuổi thì không thể coi là có lỗi
nghiêm trong để Ngọc Anh bị kích động nảy sinh hành động giết Thủy được. Việc
kiểm sát vụ án này rắc rối nhất là kiểu gâu ông nọ cắm cằm bà kia của giấy chứng
nhận mang tên Nguyễn Trọng Hùng 37 tuổi được cấp cho bị cáo Bùi Ngọc Anh 41
tuổi. vấn đề này Viện kiểm sát lý giải do sợ bị trả thù nên bị cáo phải đổi tên khi
vào khám ở Bệnh viện Việt – Tiệp ( Hải Phòng). Mặt khác Viện kiểm sát cho rằng
giấy chứng nhận thương tích này là do Bệnh viện Việt Tiệp cấp cho cơ quan điều
tra sau khi Ngọc Anh bị bắt tạm giam một tháng( cấp ngày 09.10.2002 ) chứ không
phải cấp cho chính bệnh nhân.
Về lý do đổi tên, có thể nói hoàn toàn không thuyết phục bởi trước đó Ngọc
Anh đã vào Bệnh viện 354 ( Hà Nội) xử lý các vết thương vẫn lấy tên thật của
mình, kèm theo địa chỉ nhà rõ ràng. Địa bàn Hà Nội rõ ràng Ngọc Anh phải sợ
người nhà nạn nhân trả thù hơn chứ không phải chạy xuống đến Hải Phòng mới
nghỉ cách đối phó. Rất có thể Ngọc Anh không có thương tích không trực tiếp
khám ở Bệnh viện Việt – Tiệp và giấy chứng nhận thương tích được cấp khống.
điều này có cơ sở khẳng định khi nội dung giấy chứng thương để lộ sự mâu thuẫn
đó là thời điểm cấp giấy chứng thương cho cơ quan điều tra là sau khi Ngọc Anh bị
bắt tạm giam một tháng mà Bệnh viện vẫn ghi: “ Thương tích hiện nay: Vết

thương khô, liền sẹo tốt”. Không nhìn thấy vết thương của bệnh nhân làm sau
khám được mà Bệnh viện vẫn “phán” như thường?! Tại phiên tòa, bị cáo khẳng
định trong quá trình bị tạm giam không hề được cơ quan điều tra trích xuất để tái
khám cũng như không có chuyện được Bác sĩ vào khám tại trại giam. có thể giấy
chứng nhận thương tích của một cơ quan Nhà nước cấp cho cơ quan điều tra xác
nhận về tình trạng thương tích sức khỏe của một con người có liên quan đến việc
xác định sự thật một vụ án mà ở đây lại hết sức sơ sài, không cơ sở, không có đính
chính về sự khác tên cùng người. liệu Bệnh viện Việt – Tiệp cấp như vậy có đúng
25


×