Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

HƯỚNG DẪN LÀM BÀI NGHỊ LUẬN truyện lớp 9 và tuyển sinh 10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.72 KB, 21 trang )

1

HƯỚNG DẪN LÀM BÀI NGHỊ LUẬN THƠ
1. Thế nào là nghị luận về đọa thơ, bài thơ
Nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) là trình bài những nhận xét, đánh giá của mình
về nhân vật, sự kiện, chủ đề hay nghệ thuật của một tác phẩm cụ thể.
Những nhận xét, đánh giá về truyện phải xuất phát từ ý nghĩa của cốt truyện, tính cách, số phận
của nhân vật và nghệ thuật trong tác phẩm được ngưới viết phát hiện và khái quát.
Các nhận xét và đánh giá về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) trong bài nghị luận phải rõ ràng,
đúng đắn, có luận cứ và lập luận thuyết phục.
Bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) cần có bố cục mạch lạc, có lời văn chuẩn
xác, gợi cảm.
2. Cách làm bài nghị luận về đoạn thơ, bài thơ
a. Mở bài
- Giới thiệu đoạn thơ, bài thơ (tác giả, tác phẩm, chủ đề...).
- Nêu ý kiến đánh giá sơ bộ của mình.
- Chuyển ý.
b. Thân bài
- Nêu các luận điểm chính về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm; có phân tích, chứng minh
bằng các luận cứ tiêu biểu và xác thực.
c. Kết bài
- Nêu nhận định, đánh giá chung của mình về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích).
3. Các bài văn tham khảo
==================
Đề 1: Phân tích nhân vật ông Hai trong tác phẩm "Làng" của Kim Lân.
“Làng” của nhà văn Kim Lân là một truyện ngắn đặc sắc về chủ đề tình yêu quê hương đất nước
của người nông dân Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp. Nhân vật chính của tác phẩm - ông Hai –
chẳng những là một người nông dân chất phác, hồn hậu như bao người nông dân khác mà còn là một
người có tình yêu làng quê, đất nước thật đặc biệt. Tác phẩm ra đời năm 1948 lấy bối cảnh là cuộc tản
cư kháng chiến của nhân dân ông Hai là người dân làng Chợ Dầu nhưng để phục vụ kháng chiến ông
cùng gia đình tản cư đến một nơi khác. Chính tại nơi đây ông luôn trăn trở về cái làng thân yêu của


mình với bao tình cảm, suy nghĩ vô cùng cảm động...
Trước hết, ông là một người nông dân chất phác, nồng hậu, chân chất... như bao người nông dân
khác. Đến nơi tản cư mới, ông thường đến nhà hàng xóm để cởi mở giãi bày những suy nghĩ tình cảm
của mình về cái làng Chợ Dầu thân yêu, về cuộc kháng chiến của dân tộc. Ông đi nghe báo, ông đi
nghe nói chuyện, ông bàn tán về những sự kiện nổi bật của cuộc kháng chiến... Ông Hai không biết
chữ, ông rất ghét những anh nào “ra vẻ ta đây” biết chữ đọc báo mà chỉ đọc thầm không đọc to lên cho
người khác còn biết. Ông ít học nhưng lại rất thích nói chữ, đi đính chính tin làng mình theo giặc ông
sung sướng nói to với mọi người: “Toàn là sai sự mục đích cả!”.... Tất cả những điều đó không làm ông
Hai xấu đi trong mắt người đọc mà chỉ càng khiến ông đáng yêu, đáng mến hơn.
Không chỉ vậy, điều đáng quý nhất ở ông Hai chính là tấm lòng yêu làng tha thiết. Và biểu hiện
của tấm lòng ấy cũng thật đặc biệt.
Cái làng đối với người nông dân quan trọng lắm. Nó là ngôi nhà chung cho cộng đồng, họ mạc.
Đời này qua đời.khác, người nông dân gắn bó với cái làng như máu thịt, ruột rà. Nó là nhà cửa, đất đai,
là tổ tiên, là hiện thân cho đất nước đối với họ. Trước Cách mạng tháng Tám, ông Hai thuộc loại "khố
rách áo ôm", từng bị "bọn hương lí trong làng truất ngôi trừ ngoại xiêu dạt đi, lang thang hết nơi này
đến nơi khác, lần mò vào đến tận đất Sài Gòn, Chợ Lớn kiếm ăn. Ba chìm bảy nổi mười mấy năm trời


2

mới lại được trở về quê hương bản quán. Nên ông thấm thía lắm cái cảnh tha hương cầu thực. Ông yêu
cái làng của mình như đứa con yêu mẹ, tự hào về mẹ, tôn thờ mẹ, một tình yêu hồn nhiên như trẻ thơ.
Cứ xem cái cách ông Hai náo nức, say mê khoe về làng mình thì sẽ thấy. Trước Cách mạng tháng Tám,
ông khoe cái dinh phần của viên tổng đốc làng ông: "Chết! Chết, tôi chưa thấy cái dinh cơ nào mà lại
được như cái dinh cơ cụ thượng làng tôi.". Và mặc dù chẳng họ hàng gì nhưng ông cứ gọi viên tổng
đốc là "cụ tôi" một cách rất hả hê! Sau Cách mạng, "người ta không còn thấy ông đả động gì đến cái
lăng ấy nữa", vì ông nhặn thức được nó làm khổ mình, làm khổ mọi người, là kẻ thù cùa cả làng: "Xây
cái lăng ấy cả làng phục dịch, cả làng gánh gạch, đập đá, làm phu hồ cho nó. [...] Cái chân ông đi tập
tễnh cũng vì cái lăng ấy" Bây giờ ông khoe làng ông khởi nghĩa, khoe "ông gia nhập phong trào từ hồi
kì còn trong bóng tối", rồi những buối tập quân sự, khoe những hố, những ụ, những giao thông hào cùa

làng ông,... Cũng vì yêu làng quá như thế mà ông nhất quyết không chịu rời làng đi tản cư. Đến khi
buộc phải cùng gia đình đi tản cư ông buồn khổ lắm, sinh ra hay bực bội, "ít nói, ít cười, cái mặt lúc
nào cũng lầm lầm . Ở nơi tản cư, ông nhớ cái làng của ông, nhớ những ngày làm việc cùng với anh em:
sao mà độ ấy vui thế. Ông thấy mình như trẻ ra.[...] Trong lòng ông lão lại thấy náo nức hẳn lên.". Lúc
này, niềm vui của ông chỉ là hàng ngày đi nghe tin tức thời sự kháng chiến và khoe về cái làng Chợ
Dầu của ông đánh Tây.
Ông lão đang náo nức, "ruột gan ông lão cứ múa cả lên, vui quá!" vì những tin kháng chiến thì
biến cố bất ngờ xảy ra. Một người đàn bà tản cư vừa cho con bú vừa ngấm nguýt khi nhắc đến làng
Dầu. Cô ta cho biết làng Dầu đã theo giặc chẳng “tinh thần” gì đâu. Ông Hai nhận cái tin ấy như bị sét
đánh ngang tai. Càng yêu làng, hãnh diện tự hào về làng bao nhiêu thì bây giờ ông Hai lại càng thấy
đau đớn, tủi hổ bấy nhiêu. Nhà văn Kim Lân đã chứng tỏ bút lực dồi dào, khả năng phân tích sắc sảo,
tái hiện sinh động trạng thái tình cảm, hành động của con người khi miêu tả diễn biến tâm trạng và
hành động của nhân vật ông Hai trong biến cố này.
Cái tin làng Chợ Dầu theo giặc đã làm ông điếng người: "Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt
tê rân rân. Ông lão lặng đi, tường như đến không thở được. Một lúc lâu ông mới rặng è è, nuốt một cái
gì vướng ở cổ [...] giọng lạc hẳn đi", "ông Hai cúi gằm mặt xuống mà đi" và nghĩ đến sự dè bỉu của bà
chủ nhà. Ông lão như vừa bị mất một cái gì quý giá, thiêng liêng lắm. Những câu văn diễn tả tâm trạng
thật xúc động: "Nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông lão cứ tràn ra. Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt
gian đấy? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu...". Nỗi nhục
nhã, mặc cảm phản bội hành hạ ông lão đến khổ sở: ''Chao ôi! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian! Rồi
đây biết làm ăn buôn bán ra sao? Ai người ta chứa. Ai người ta buôn bán mấy. Suốt cả cái nước Việt
Nam này người ta ghê tởm, người ta thù hằn cái giống Việt gian bán nước...". Cả nhà ông Hai sống
trong bầu không khí ảm đạm: "Gian nhà lặng đi, hiu hắt, ánh lửa vàng nhờ nhờ ở ngọn đèn dầu lạc vờn
trên nét mặt lo âu của bà lão. Tiếng thở của ba đứa trẻ chụm đầu vào nhau ngủ nhẹ nhàng nổi lên, nghe
như tiếng thở của gian nhà." ông Hai ăn không ngon, ngủ không yên, lúc nào cũng nơm nớp, bất ổn
trong nỗi tủi nhục ê chề. Thậm chí ông không dám nhắc tới, phải gọi tên cái chuyện phản bội là
"chuyện ấy". Ông tuyệt giao với tất cả mọi người, "không dám bước chân ra đến ngoài" vì xấu hổ. Và
cái chuyện vợ chồng ông lo nhất cũng đã đến. Bà chủ nhà bóng gió đuổi gia đình ông, chỉ vì họ là
người của làng theo Tây. Gia đình ông Hai ở vào tình thế căng thẳng. Ông Hai phải đối mặt với tình
cảnh khó khăn nhất: "Thật là tuyệt đường sinh sống! [..] đâu đâu có người Chợ Dầu người ta cũng đuổi

như đuổi hủi. Mà cho dẫu vì chính sách của Cụ Hồ người ta chẳng đuổi đi nữa, thì mình cũng chẳng
còn mặt mũi nào đi đến đâu.".
Từ chỗ yêu tha thiết cái làng của mình, ông Hai đâm ra thù làng: "Về làm gì cái làng ấy nữa.
Chúng nó theo Tây cả rồi. Về làng tức là bỏ kháng chiến. Bỏ Cụ Hồ... Và "nước mắt ông giàn ra". Ông
lại nghĩ đến cảnh sống nô lệ tăm tối, lầm than trước kia. Bao nỗi niềm của ông không biết giãi bày cùng
ai đành trút cả vào những lời trò chuyện cùng đứa con thơ dại:


3

- Hức kia! Thầy hỏi con nhé, con là con của ai?
- Là con thầy mấy lị con u.
- Thế nhà con ở đâu?
- Nhà ta ở làng Chợ Dầu.
- Thế con có thích về làng Chợ Dầu không?
Thằng bé nép đẩu vào ngực bố trả lời khe khẽ:
- Có.
Ông Lão ôm khít thằng bé vào lòng, một lúc lâu lại hỏi:
- À, thầy hỏi con nhé. Thế con ủng hộ ai?
Thằng bé giơ tay lên, mạnh bạo và rành rọt:
- Ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm!
Nước mắt ông lão giàn ra, chảy ròng ròng trên hai má. Ông nói thủ thỉ:
- Ừ đúng rồi, ủng hộ Cụ Hồ con nhỉ.
Những lời đáp của con trẻ cũng là tâm huyết, gan ruột của ông Hai, một người lấy danh dự của
làng quê làm danh dự của chính mình, một người son sắt một lòng với kháng chiến, với Cụ Hồ. Những
lời thốt ra từ miệng con trẻ như minh oan cho ông, chân thành và thiêng liêng như lời thề đinh ninh
vang lên từ đáy lòng ông:
“Anh em đồng chí biết cho bố con ông
Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông.
Cái lòng bố con ông là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ dám đơn

sai”
Nhà văn đã nhìn thấy những nét đáng trân trọng bên trong người nông dân chân lấm tay bùn.
Nhân vật ông Hai hiện ra chân thực từ cái tính hay khoe làng, thích nói về làng bất kể người nghe có
thích hay không; chân thực ở đặc điếm tâm lí vì cộng đồng, vui cái vui của làng, buồn cái buồn của
làng và chân thực ở những diễn biến của trạng thái tâm lí hết sức đặc trưng của một người nông dân tủi
nhục, đau đớn vì cái tin làng mình phản bội. Nếu như trong biến cố ấy tâm trạng cùa ông Hai đau đớn,
tủi cực bao nhiêu thì khi vỡ lẽ ra rằng đó chỉ là tin đồn không đúng, làng Chợ Dầu của ông không hề
theo giặc, sự vui sướng càng tưng bừng, hả hê bấy nhiêu. Ỏng Hai như người vừa được hồi sinh. Một
lần nữa, những thay đối cùa trạng thái tâm lí lại được khắc hoạ sinh động, tài tình: "Cái mặt buồn thiu
mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên. Mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt hung hung đỏ hấp háy...".
Ông khoe khắp nơi: "Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ Đốt nhẵn![...] Láo! Láo hết! Toàn là sai sự mục đích
cả., "Tây nó đốt nhà tôi rồi ông chủ ậ. Đốt nhẵn.[... ] Ra láo! Láo hết, chẳng có gì sất. Toàn là sai sự
mục đích cả!". Đáng lẽ ra ông phải buồn vì cái tin ấy chứ? Nhưng ông đang tràn ngập trong niềm vui vì
thoát khỏi cái ách "người làng Việt gian" Cái tin ấy xác nhận làng ông vẫn nhất quyết đứng về phía
kháng chiến. Cái tin ấy khiến ông lại được sống như một người yêu nước, lại có thể tiếp tục sự khoe
khoang đáng yêu của mình,... Mâu thuẫn mà vẫn hết sức hợp lí, điểm này cũng là sự sắc sảo, độc đáo
của ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật của nhà văn Kim Lân.
Người đọc sẽ không thể quên được một ông Hai quá yêu cái làng của mình như thế. Lúc ông nói
thành lời hay khi ông nghĩ, người đọc vẫn nhận thấy rất rõ đặc điểm ngôn ngữ của vùng quê Bắc Bộ,
của một làng Bắc Bộ: "Nắng này là bỏ mẹ chúng nó", "không đọc thành tiếng cho người khác nghe nhờ
mấy", "Thì vườn", "có bao giờ dám đơn sai",... Đặc biệt là nhà văn cố ý thể hiện những từ ngữ dùng sai
trong lúc quá hưng phấn của ông Hai. Những từ ngữ "sai sự mục đích cả" là dấu ấn ngôn ngữ của
người nông dân ở thời điểm nhận thức đang chuyển biến, muốn nói cái mới nhưng từ ngữ chưa hiếu
hết. Sự sinh động, chân thực, thú vị của câu chuyện phẩn nào cũng nhờ vào đặc điểm ngôn ngữ này.
Trong tác phẩm, nhà văn cũng thể hiện rõ sự thông hiểu về lề thói, phong tục của làng quê. Kim Lân đả
vận dụng những hiểu biết đó hết sức khéo léo vào việc xáy dựng tâm lí, hành dộng, ngôn ngữ nhân vật.


4


Cốt truyện đơn giản, sức nặng lại dồn cả vào mạch diễn biến tâm trạng, vào lời thoại của nhân vật nên
câu chuyện có sức hấp dẫn riêng, ấn tượng riêng, độc đáo.
Tình yêu làng của ông Hai không đơn giản, hẹp hòi là tình yêu chỉ riêng đối với nơi ông sinh ra
và lớn lên. Ê-ren-bua từng tâm đắc: “Tình yêu làng xóm trở nên tình yêu quê hương đất nước”. Và bởi
thế, tình yêu làng của ông Hai gắn bó chặt chẽ với tình yêu nước với tinh thần kháng chiến đang lên
cao của cả dân tộc. Đó cũng chính là biểu hiện chung của tình yêu đất nước của người nông dân Việt
Nam trong kháng chiến chống Pháp.
Trong số rất nhiều những nhân vật nông dân khác, người đọc khó có thể quên một ông Hai yêu
làng quê, yêu đất nước, thuỷ chung với kháng chiến, với sự nghiệp chung của dân tộc. Một ông Hai
thích khoe làng, một ông Hai sốt sắng nghe tin tức chính trị, một ông Hai tủi nhục, đau đớn khi nghe
tin làng mình theo giặc, một ông Hai vui mừng như trẻ thơ khi biết tin làng mình không theo giặc,... Ai
đó đã một lần thấy nhà vàn Kim Lân, nghe ông nói chuyện còn thú vị hơn nữa: hình như ta gặp ông đâu
đó trong Làng rồi thì phải. Ông Hai là một nhân vật độc đáo mang nhiều đặc điếm chung tiêu biểu cho
người nông dân Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp nhưng đồng thời cũng mang những đặc điểm
tính cách rất riêng, rất thú vị. Ông đã trở thành linh hồn của Làng và thể hiện trọn vẹn tư tưởng của nhà
văn và tác phẩm.
==================
Đề 2: Phân tích truyện ngắn "Chiếc lược ngà" của Nguyễn Quang Sáng.
Có những câu chuyện dù phải đọc nhiều lần ta vẫn không thể nhớ,. Lại có những câu chuyện dù
chỉ đọc một lần ta vẫn không thể quên. Có những hạnh phúc muộn màng và ngắn ngủi khiến ta phải
trào nước mắt. Có những tình cảm nồng ấm và thiêng liêng mà ta chỉ cảm nhận được trong tổ ấm gia
đình... Tất cả những ấn tượng ấy đều có từ truyện ngắn Chiếc lược ngà củ nhà văn Nguyễn Quang
Sáng. Một truyện ngắn dung dị nhưng gây xúc động lòng người trước tình cảm sâu nặng của cha con
ông Sáu. Đặc biệt truyện còn làm ngời sáng vẻ đẹp cứng cỏi cùng tình yêu thương cha mãnh liệt của
một em bé mới bảy tám tuổi.
Trong đời sống tự nhiên, ai ai cũng thầm công nhận một điều rằng, tình cảm cỉa con cái hình
như thân thiết và gần gũi với mẹ hơn. Còn với cha thì sao? Tình cha bao la và hy sinh vì con cái cũng
không kém gì người mẹ, đôi khi còn mãnh liệt và sâu sắc hơn. Là một chiến sỹ cách mạng xa nhà đi
thoát ly cách mạng từ khi đứa con đầu lòng còn chưa đầy tuổi, mãi đến khi hòa bình lập lại ông Sáu
mới có dịp về thăm nhà. Nôn nao và hạnh phúc khôn tả khi nghĩ đến giây phút gặp con, ông Sáu lại

thấy đau khổ và thất vọng hơn khi con không nhận cha. Cuộc gặp gỡ sau tám năm xa cách là khởi đầu
cho chuỗi những sự việc, thái độ, hành động thể hiện tình yêu thương cha mãnh liệt của Thu. Xa cách
bao năm, Thu và cha chưa một lần gặp mặt, ông Sáu “chỉ thấy con qua tấm ảnh nhỏ luôn mang bên
người”, bé Thu chỉ biết mặt cha qua tấm hình chụp chung với má. Xa cha, Thu nhớ thương vô cùng và
dường như hình ảnh người cha trong tấm ảnh đã in sâu vào trong trí nhớ của Thu, là hình ảnh đẹp nhất
trong lòng Thu. Tám năm sau khi người cha trở về, chiến tranh đã làm ông có sư thay đổi lớn khiến
Thu không thể nhận ra cha mình. Từ đằng xa thấy “một đứa bé độ tám tuổi, tóc cắt ngang vai, mặc
quần đen, áo bông đỏ đang chơi nhà chòi” ông Sáu đoán biết là con, không chờ xuồng cập bến “anh
nhún chân nhảy thót lên, xô chiếc xuồng tạt ra”. Linh tính của người cha cho ông biết đấy là con mình,
trái tim người cha hướng ông mau mau chạy về phía con để ôm lấy cái hình hài máu mủ mà ông hằng
thương nhớ trong bao năm xa cách. “Anh vừa bước, vừa khom người đưa tay đón chờ con... giọng lặp
bặp run run Ba đây con, ba đây con!”. Những tưởng cha con ông sẽ ôm chầm lấy nhau trong khoảnh
khắc sung sướng thì trớ trêu thay con bé không nhận ra ông, nó giật mình “tròn mắt nhìn...ngơ ngác, lạ
lùng”. Mặt Thu tái đi em kêu lên, bỏ chạy và cầu cứu “Má! Má”. Với ông Sáu thái độ của Thu khiến


5

ông hụt hẫng, đau đớn. Nhưng với Thu đây là phản ứng tâm lý tự nhiên. Bởi từ khi em lớn lên, ông Sáu
đâu có ở bên cạnh, chưa bao giờ em được trông thấy cha bằng xương, bằng thịt. Hôm nay một người
đàn ông lạ lẫm với “vết sẹo dài đỏ ửng, giật giật, trông rât dễ sợ” đột ngột xuất hiện tự xưng là cha, làm
sao em không sợ hãi? Một nghịch lý trớ trêu, đau xót cho người cha, một sự ngỡ ngàng, lạ lẫm cho đứa
con được Nguyễn Quang Sáng miêu tả thật sinh động, tài tình.
Những ngày sau đó, đáp lại tình cảm nồng nàn của cha, bé Thu lại càng tỏ ra sợ hãi, ngờ vực.
Trong ba ngày phép ngắn ngủi, ông Sáu càng vỗ về, Thu càng lùi ra xa, ông càng chiều thương, nó
càng lẩn tránh. Ông chỉ mong được nghe tiếng Ba mà sao khó khăn đến thế. Khi phải gọi ông Sáu ăn
cơm, dẫu được mẹ nhắc nhở, Thu vẫn chỉ nói trổng “vô ăn cơm” hoặc “cơm chín rồi”. Đặc biệt trong
một tình huống tưởng chừng cô bé không thể ương bướng hơn được nữa vậy mà Thu vẫn quyết liệt. Đó
là lúc nồi cơm sôi, một đứa bé không thể tự mình nhấc nồi để chắt nước. Tình thế đó cứ ngỡ rằng Thu
sẽ ngoan ngoãn nhờ ba giúp. Nhưng không, ngay cả khi bác Ba mờ đường cho “Cháu phải gọi Ba chắt

nước giùm con, phải nói như vậy”, Thu vẫn không cất tiếng dẫu mấy lần em tỏ ra lo sợ bị mẹ đánh đòn
nếu để cơm bị nhão. Bướng bình và bất cần, Thu tự mình làm một công việc nguy hiểm và quá sức.
Nghĩa là nó không chịu thua, không chịu nhượng bộ. Song đỉnh điểm của sự ương bướng được thể hiện
khi Thu “hất tung cái trứng cá to vàng” mà ông Sáu gắp cho nó. Bị đánh, nhưng Thu không khóc, lẳng
lặng gắp lại cái trứng cá rồi bỏ sang nhà ngoại. Lúc cởi dây xuồng, nó còn cố ý khua dây xích “kêu rổn
rảng” để tỏ ý bất bình, có lẽ nó muốn cho mọi người biết nó sắp đi để chạy ra dỗ dành. Một chuỗi
những thái độ của Thu khiến ta có thể cho Thu là một cô bé bướng bỉnh, cứng đầu. Nhưng xét căn
nguyên sâu xa, không thể coi đó là biểu hiện cửa sự ương ngạnh, cứng đầu, hỗn láo. Trong hoàn cảnh
xa cách và trắc trở của chiến tranh, bé Thu còn quá nhỏ để hiểu được những tình thế khắc nghiệt éo le
của cuộc sống, hơn nữa ba má bé Thu cũng không lường trước được sự việc để giải thích cho bé rõ.
Trong suy nghĩ non nớt của em, ông Sáu có vết sẹo đáng sợ ấy sao chẳng giống hình ba chụp chung với
má. Mà đã không phải là cha thì không thể gọi tiếng “ba”. Điều đó chi phối toàn bộ suy nghĩ, hành
động của em. Sự bướng bỉnh của Thu không thể hiểu là sự ương ngạnh của một đứa trẻ khó dạy mà là
sự kiên định của một cô bé có lập trường yêu ghét phân minh. Trong thái độ cứng đầu ẩn chứa sự kiêu
hãng dành cho người cha thân yêu - người cha trong tấm hình chụp chung với má. Thế mới biết Thu là
một cô bé có cá tính. Điều mà ở những đứa trẻ bày, tám tuổi thường không có. Đó cũng là tiền đề tạo
phẩm chất gan dạ, dũng cảm của cô giao liên sau này.
Tình yêu cha của Thu được thể hiện ngay trong chính hành động bướng bỉnh. Vì cha, Thu kiên
quyết từ chối sự quan tâm của ông Sáu, thương cha nên bao nhiêu yêu thương kính trọng được em giữ
gìn trong tiếng Ba trìu mến. Với em, ba là duy nhất, không ai có thể thay thế tình yêu ấy khiến em tỏ rõ
thái độ căm ghét những gì em hoài nghi là sự xâm phạm đến hình ảnh người cha yêu quý. Đó là nét đẹp
phẩm chất nơi Thu khiến ta khâm phục. Nhưng khi được ngoại giải thích rõ về nguyên nhân vết sẹo, thì
sự nghi ngờ của em được giải tỏa” “ Nghe bà kể, nó nằm im lăn lộn, thỉnh thoảng thở dài như người
lớn”. Sự miêu tả nội tâm gian tiếp qua hành động cho thấy những tình cảm, cảm xúc đang trào dâng
trong
lòng
em
yêu
thương
cha

xen
lẫn
nỗi
ân
hận.
Hôm sau trỏ về nhà, nhìn mọi người vây quanh cha, vẻ mặt Thu buồn ràu “Cái nhìn của nó không ngơ
ngác, lạnh lùng, nó nhìn với vẻ nghĩ ngợi, sâu xa”. Và khi bắt gặp ánh mắt của cha thì đôi mắt ấy như
xôn xao. Cái “xôn xao” của đôi mắt như nói lên bao điều. Khi ông Sáu cất tiếng chào “Thôi ba đi nghe
con” thì nỗi niềm trong nó bật tung thành tiếng “Ba.......a...a”. Tiếng kêu của nó như xé, xé sự im lặng
và xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa. Đó là tiếng “ba” mà nó cố đè nén trong bao nhiêu lâu
nay , tiếng ba như vỡ tung từ nỗi lòng nó. Đọc truyện ta như thấy cách Thu bộc lộ tình cảm với cha thật
xúc động, là người ngoài cuộc ta cũng không khỏi nhói lòng. Yêu thương cha vô cùng nên em quyết
định lạnh lùng với ông Sáu. Thương cha nên em không thể dành tiếng “ba” để gọi người xa lạ. Thế
nhưng khi biết ngọn nguồn vết sẹo, biết đích xác là ba rồi, tình cảm nơi em vỗ òa, tức tưởi. Cũng như


6

bao đứa trẻ khác có cha trên đời, em mong được cha chăm chút, yêu thương. Nhưng bất hạnh thay, em
xa cha từ bé, em đã trông ngóng biết bao ngày cha về nhưng chỉ tại vết sẹo, mà Thu đã để mất ba ngày
quý giá, làm tổn thương tình cảm cha mình. Chính vì thế nên ta không lạ gì Thu “ôm chặt lấy cổ ba
nó... dang cả hai chân rồi câu chặt lấy ba nó. Nó hôn ba cùng khắp...hôn cả vết thẹo dài bên má của ba
nó nữa”. Nếu như trước đây, Thu ghét ông Sáu bao nhiêu thì giờ đây tình cảm của em dành cho ông
mãnh liệt bấy nhiêu. Ta nhận ra hai thái độ ấy tuy trái ngược này thực ra lại nhất quán trong sự phát
triển tính cách- tính cách của cô bé dành trọn tất cả tình yêu cho người cha vô cùng kính mến. Có
người cho rằng tác giả xây dựng hình tượng bé Thu hơi thái quá, song thiết nghĩ thái độ ngang ngạnh
đó cũng vì xuất phát từ tình yêu thương cha mãnh liệt. Với sự am hiểu tâm lý trẻ thơ, ngòi bút miêu tả
sinh động diễn biến tâm lý trẻ thơ của tác giả đã xây dựng nên một cô bé Thu cứng cỏi, mạnh mẽ, sâu
sắc trong tình cảm. Tâm lý và hành động của Thu được miêu tả sinh động , sát với tâm lý lứa tuổi của
em. Điểm nổi bật gợi sự xúc động của em là một tình cảm chân thành, mãnh liệt mà thánh thiện dành

cho cha.
Trong Chiếc lược ngà, tình cảm của ông Sáu dành cho con cũng mãnh liệt, sâu nặng không kém.
Tình cảm ấy được tác giả thể hiện phần nào trong chuyến về thăm nhà và được miêu tả kỹ lưỡng hơn
khi ông ở căn cứ kháng chiên.
Sau khi chia tay với gia đình, nỗi day dứt ân hận ám ảnh ông Sáu nhiều ngày là việc là ông lỡ
tay đánh con. Nhớ lời dặn tha thiết của con, ông nghĩ đến việc làm một chiếc lược ngà nhỏ xinh tặng
con. Tìm được một khúc ngà voi, “anh hớt hải chạy về, tay cầm khúc ngà đưa lên khoe... mặt hớn hở
như đứa trẻ được quà”, “Những lúc rỗi, anh cưa từng chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và cố công như
người thợ bạc”. Tại sao chiếc lược bằng ngà mà không bằng một vật liệu gì khác? Phải chăng là để thể
hiện tình yêu thương của ông đối với con? Chiếc lược ngà ấy rất quý, phải như thế mới xứng đáng với
đứa con gái bé bỏng của ông, với tình yêu ông dành cho nó. Từng chiếc răng lược dần hiện ra là từng
niềm vui của ông. Bụi ngà rơi mỗi lúc một nhiều. Bao nhiêu bụi ngà rơi là bấy nhiêu tình cảm ông dành
cho con. Trên sống lưng lược, ông còn gò lưng, tẩn mẩn khắc từng nét “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”.
Bao trìu mến thân thương toát lên từ hai chữ “Yêu nhớ”, bao nồng nàn, thấm đẫm nhớ nhung, yêu
thương con của ông Sáu ẩn chứa trong những chữ “Thu con của ba”. Cây lược ngà ấy chưa chải được
mái tóc của con, nhưng nó gỡ rối được phần nào tâm trạng của anh.” Có cây lược, ông càng mong được
gặp con để trao tận tay cho nó nhưng éo le thay, chiến tranh đã vô tình cướp đi của ông giây phút vui
mừng trao cho con cây lược. Giây phút cuối, tình cảm cha con trong ông vẫn da diết, trước lúc nhắm
mắt, dòng suy tưởng của ông vẫn nhớ về con mình. Trút hơi thở cuối cùng, ông Sáu chỉ kịp gửi lại
chiếc lược ngà cho đồng đội. Lần đầu tiên một người chiến sỹ trở thành một nghệ nhân sáng tạo tài tình
dù chỉ sáng tạo một sản phẩm duy nhất Chiếc lược ngà. Người mất nhưng kỷ vật còn. Chiếc lược ngà là
gạch nối giữa cái mất mát và sự tồn tại, nó vẫn còn mãi, là kết tinh của tình phụ tử mộc mạc, đơn sơ mà
đằm thắm, kỳ diệu, là hiện hữu củatình cha con bất tử không bao giờ chết được.
Bản thân là người Nam bộ, là người lính từng chiến đấu xa nhà nên hơn ai hết Nguyễn Quang
Sáng hiểu được tình cảm gia đình đối với người lính sâu đậm biết chừng nào. Kết cấu truyện với nhiều
tình huống bất ngờ đã làm nổi bật vẻ đẹp tính cách của các nhân vật, gây xúc động sâu sắc cho người
đọc. Chuyện được ghi theo lời kể của một chiến sỹ cách mạng- người bạn thân thiết của ông Sáu, khiến
chuyện càng trở nên đáng tin cậy, trung thực.
Truyện Chiếc lược ngà là bài ca đẹp về tình cha con. Trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh, tình
cảm thiêng liêng ấy càng cao đẹp và càng ngời sáng. Truyện không chỉ nói lên tình cảm cha con thắm

thiết sâu nặng mà còn gợi cho ta suy nghĩ thấm thía về những éo le, đau thương, mất mát mà chiến
tranh gieo rắc cho bao nhiêu con người, bao nhiêu gia đình. Ta càng thấm thía rằng tình cảm gia đình là


7

sức mạnh , niềm tin để con người có thể vượt qua tất cả, ngay cả cái chết. Ta hiểu “ Nếu trên đời có
những nguồn vui chân chính và niềm hạnh phúc thật sự , thì nó sẽ nằm trong tổ ấm gia đình”
====================
Đề 3: Suy nghĩ về đời sống tình cảm gia đình, tình yêu làng, yêu nước trong chiến tranh
qua truyện ngắn "Chiếc lược ngà" của Nguyễn Quang Sáng và truyện ngắn "Làng" của Kim
Lân.
Chiến tranh! Hai tiếng vang lên nghe thật thương tâm, cũng chính vì hai tiếng đó mà bao người
phải khổ đau. Chiến tranh tàn khốc, gây ra các cuộc sinh ly tử biệt, vợ xa chồng, cha xa con, con xa
nhà. Nhưng cũng từ chiến tranh đã sản sinh ra những tình cảm vô cùng thiêng liêng và cao cả như: tình
yêu đôi lứa, tình đồng chí đồng đội, tình cảm gia đình và đặc biệt là tinh yêu quê hương, đất nước.
Nguyễn Quang Sáng đã khai thác và xây dựng thành công câu chuyện về cuộc gặp gỡ của hai cha con
đầy xúc động qua truyện ngắn “Chiếc lược ngà”. Còn nhà văn Kim Lân lại xây dựng rất thành công
nhân vật ông Hai với tình yêu làng, yêu nước rất đặc biệt qua truyện ngắn "Làng".
Câu chuyện kể về cha con ông Sau và bé Thu sau hơn tám năm xa cách mới có dịp gặp lại
nhau, nhưng Thu đã không nhận ra cha mình chỉ vì một vét thẹo dài trên má, thay vào đó là sự
vô cảm, thờ ơ như căm ghét ông. Nhưng rồi thật bất ngờ, khi ông Sáu chuẩn bị lại đi, Thu mới
chịu kêu lên tiếng “ba” với ông Sáu, không còn đủ thời gian để yêu thương nhau, ông Sáu đã ra
chiến khu và làm chiếc lược cho con mình. Nhưng ông đã hy sinh trong một trận càng, trong vài
giây cuối cuộc đời, ông đã kịp trao lại chiếc lược cho bác Ba- người bạn của ông – và nhờ đưa lại
cho Thu, rồi ông mới ra đi.
Đọc qua truyện ngắn này, ta mới thấy được tình cảm gia đình, cụ thể là tình cảm cha con thiêng
liêng và cao đẹp biết nhường nào. Trong hoàn cảnh khó khăn nhất đó là chiến tranh, tình cảm ấy vẫn
không biến mất mà vẫn còn ẩn chứa trong mỗi con người. Điều đó đã được thể hiện một cách sâu sắc
qua nhân vật ông Sáu.

Do chiến tranh ông Sáu phải sống xa nhà. Suốt tám năm, nỗi nhớ ấy càng ngày lớn thêm. Nhớ
quê, nhớ nhà, nhớ tình làng nghĩa xóm, và ông nhớ da diết đứa con gái của mình. Hòa bình lập lại,
được về nhà chỉ có ba ngày ngắn ngửi, ông vô cùng hạnh phúc. Cùng người bạn, bác Ba, ông về thăm
nhà, cốt là để gặp con mình, đã xa con quá lâu nên “…cái tình người cha cứ nôn nao trong người anh”.
Và lòng háo hức, niềm khát khao được thấy con, đã thúc giục ông không thể chậm trễ được nữa khi
nhìn thấy đứa bé giống đứa con mà mình “…không thể chờ xuồng cặp lại bến, anh nhún chân nhảy thót
lên, xô chiếc xuồng tạt ra, khiến tôi bị chới với”. Rồi hành động đã chuyển thành tiếng nói và những
biểu hiện trên khuôn mặt ông, ông kêu to một tiếng: "Thu! Con". Ông xúc động vô cùng “...vết thẹo dài
trên má phải lại đỏ ửng lên, giần giật, trông rất dễ sợ”, bật lên hai câu với giọng run run: “Ba đây con!
Ba đây con!”. Qua tất cả những điều đó, ta thấy được ở ông là một niềm thương con da diết, nhớ con và
khao khát gặp con, chính vì thế ông đã không ngăn cản được cảm xúc của mình dâng trào. Nhưng con
người ta lại hy vọng quá mức vào một điều để rồi thất vọng cũng vì điều đó, từ một cảm giác vui sướng
tột cùng, thay vào đấy là sự hụt hẫng vô bờ của cảm xúc, ông bàng hoàng trước sự sợ hãi, lạnh lùng, xa
lánh của bé Thu, niềm háo hức đã trở thành nỗi đau, “…nỗi đau như khiến mặt anh sầm lại trông thật
đáng thương và hai tay buông xuống như bị gãy”. Đó chắc chắn là một cảm giác rất đau đớn và thất
vọng, nỗi đau ấy có lẻ còn đau hơn khi ông phải hy sinh trên mặt trận, khi ông mong quay về sẽ được
nghe lại tiếng gọi: “Ba” mà ông chưa từng được nghe từ đứa con bé bỏng của mình, qua đó ta thấy lòng
yêu thương con của ông Sáu là rất chân thực và vô cùng to lớn.
Nhưng tình phụ tử không cho phép ông khóc ngay lúc này, chính vì yêu con, mà trong mấy ngày
nghỉ phép ông không ghét con mà tiếp tục vỗ về và chăm sóc con, làm mọi cách để con có thể kêu lên
một tiếng: "Ba” duy nhất. Nhưng trớ trêu thay, ông càng tỏ ra yêu thương bé Thu, cố gắng xóa bỏ một


8

đoạn ngăn cách giữa hai cha con, thì Thu lại nới rộng thêm khoảng cách đó ra. Thứ ông nhận được chỉ
là những lời nói trống không, sự vô cảm tàn nhẫn của bé Thu. Nỗi đau tinh thần lại càng lớn dần, khiến
ông không thể khóc mà chỉ cười được thôi “Anh quay lại nhìn con vừa khe khẽ lắc đầu vừa cười. Có lẽ
vì khổ tâm đến nỗi không khóc được, nên anh cười vậy thôi”, nụ cười mang trong đó là sự ngượng
ngạo, sự bất đắc dĩ, cười chỉ để quên đi nỗi đau vô bờ bến nhưng nỗi đau vẫn còn trong lòng. Và từ tâm

trạng thất vọng, ông đã trở thành tuyệt vọng khi bé Thu hất trứng cá ra khỏi bát, không thể kìm nén
được nữa, bây giờ cũng không thể cười được, nên ông đành giận dữ và đánh thật mạnh vào mông bé
Thu rồi hét lên rằng: “Sao mày cứng đầu quá vậy, hả?”. Thật là khổ tâm cho ông, tình yêu chưa thể
hiện được bao nhiều, đã phải đánh con, nỗi đau đánh con còn lớn hơn cả nỗi đau con không nhận ra
cha, bởi vì đánh con tức là phủ nhận tất cả niềm yếu thương mà ông đã dành cho con mình, nhưng ông
đành thế, vì ông muốn con biết ông chính là người cha của em.
Và rồi, nỗi tuyệt vọng càng kéo dài không nguôi đi được, nhưng ông vẫn không ghét con, chào
tạm biệt con ông cũng chỉ nói nhỏ nhẹ: "Thôi! Ba đi nghe con!". Nhưng một lần nữa, chuyện lại càng
trớ trêu và đầy bất ngờ, lúc ông cảm thấy không còn một chút hy vọng gì thì bé Thu lại kêu dài một
tiếng như xé toang cả khoảng không gian im lặng: “ Ba...a...a…Ba” và điều đó là một món quá vô cũng
ý nghĩa đối với ông, yêu con mà phải chịu cảnh thờ ơ của con đến mức giận dữ không kìm nén được thì
giờ đây còn gì bất ngờ và hạnh phúc hơn nữa. Chính tiếng kiêu tha thiết của bé Thu đã làm một người
lính như ông phải tỏ ra mềm yếu, và xúc động vô cùng, không thể nào ngăn được ông trào nước mắt
“…anh Sáu một tay ôm con, một tay rút khăn lau nước mắt, rồi hôn lên mái tóc con.” Niềm vui sướng
có pha lẫn một chút tiếc nuối vì giờ đây ông không thể dành thời gian yêu thương con được nữa, ông
phải đi rồi, bởi vậy, mang theo lời hứa “chiếc lược” cũng là lời hứa sẽ quay về nhà để được ở bên con
nhiều hơn. Nhưng ước sao ông hãy ở lại bên bé Thu một lúc mà đừng ra đi quá sớm, bởi vì lúc ông lần
đầu nghe tiếng gọi “Ba” của Thu cũng là lần cuối cùng mà ông được nghe và thấy mặt con.
Ở chiến khu, lòng nhớ con lại càng lớn dần lên, chính vì nhớ con mà ông rất ân hận vì đã trót
đánh con, và lòng yêu thương con càng thôi thúc ông làm chiếc lược tặng con mình. Hãy thử cảm nhận
được sự vui sướng khi ông tìm thấy chiếc ngà voi làm chiếc lược cho con mình, bằng một vỏ đạn ông
“…cưa từng chiếc răng lược, thân trọng tỉ mỉ cố công như người thợ bạc”. Giờ đây ta có thể thấy
được chính tình phụ tử, tình cảm gia đình khiến chúng ta như biến thành một con người khác,
cũng như ông Sáu là một người lính, nhưng với sự nhớ con vô bờ bến, ông đã trở thành một nghệ
nhân kiệt xuất với dụng cụ chỉ là một vỏ đạn và thứ ông chỉ có thể làm duy nhất là chiếc lược ngà
cho riêng con gái mình. Không chỉ vậy, thời gian ông làm chiếc lược là thời gian mà ông cảm
thấy hạnh phúc nhất, khắc lên trên cây lược dòng chữ: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”. Ông
muốn ghi dấu thời khắc quan trọng này, chính tình cha con đã làm ông thêm mạnh mẽ để có thể quên
đi mùi đạn khói của chiến tranh mà vẫn tiếp tục nâng niu chiếc lược cho con gái. Nhưng rồi mọi
chuyện thật tồi tệ, chiến tranh tàn ác hơn thế, tạo ra vết thẹo để Thu không nhận ra cha, lại còn dập tắt

một niềm khao khát nhỏ nho là được tận tay trao chiếc lược cho đứa con gái của mình, ông Sáu đã bị
chiến tranh giết chết, một vỏ máy bay giặc bắn vào người ông. Tưởng như một vết thương nặng có thể
khiến ông ra đi lập tức, nhưng ông trút hết những hơi thở cuối cùng bằng việc thò tay vào chiếc túi đẫm
máu để lấy ra chiếc lược ngà và trao lại cho người đồng đội nhờ đưa cho bé Thu, đến lúc đó, ông mới
chịu “…nhắm mắt đi xuôi”. Một hành động thật thiêng liêng cao đẹp, chính tình phụ tử đã góp sức cho
ông làm công việc cuối cùng này, “…tình cha con là không thể chết được”. Tình cha con được khẳng
định là một tình cảm bất diệt, cao quý, chiến tranh có thể làm sứt mẻ tình cảm gia đình, nhưng
không thể làm tổn thương đến tình cảm cha con, bởi vì trong chiến tranh, tình cha con lại càng
sâu nặng và thắm thiết hơn, chiếc lược ngà mà ông Sáu đã gửi lại ở cuối đoạn trích chính là một
nhân chứng chân thực nhất về tình cảm đẹp đẽ này.


9

Tình cảm của ông Sáu đối với bé Thu là vô bờ bến nhưng với bé Thu, em cũng rất yêu cha
mình. Xa cha từ khi còn nhỏ, mới khi biết nói và biết cảm nhận, em đã có thể thấy thiếu vằng hình ảnh
của người cha. Hình ảnh người cha duy nhất mà em thấy được là qua bức ảnh cũ kĩ mà ông Sáu đã
chụp với vợ. Chính vì vậy, một hình ảnh người cha trong tấm ảnh đã ăn sâu vào tâm trí và suy nghĩ của
em, nên không có gì quá ngạc nhiên khi em tỏ ra “ngơ ngác, lạ lùng” khi mới gặp ông Sáu, phản ứng
đầu tiên là “mặt bỗng tái đi, rồi vụt chạy và kêu thét lên: “Má ! Má !”. Đó là một cảm giác sợ hãi, cảm
giác như thế mình mất ba rồi, qua đấy, ta thấy bé Thu thật trẻ con và thật yêu cha, chính vì trẻ con mà
khi thấy vết sẹo trên má ông Sáu thì không cần nghĩ, em vẫn không tin đó là cha, yêu cha bởi vì chỉ có
thương nhớ người cha mà em không chấp nhận ai khác làm cha của mình.
Rồi trong những ngày nghĩ phép của ông Sáu, đáp lại một niềm mong mỏi kêu lên tiếng “Ba”
của ông, Thu chỉ tỏ ra thờ ơ với ông, nói trống không và kiên quyết không kêu lên tiếng “Ba” nào mà
tự mình làm công việc chắt nước.
“-Vô ăn cơm !... Cơm chín rồi !... Con kêu rồi mà người ta không nghe…. Cơm sôi rồi, chắt
nước giùm cái…. Cơm sôi rồi nhão bây giờ !”
Hàng loạt những câu nói của bé Thu cho thấy một sự ngang ngạnh, bường bỉnh của cô bé. Từ
“người ta” mà em dùng để gọi ông Sáu cho thấy một sự nhất quyết không lên bất cứ tiếng “Ba” nào.

Nhưng ta lại cảm thấy đáng thương hơn là đáng trách bé Thu, xuất phát từ lòng yêu cha, nhớ cha và
mong mỏi gặp cha, cô bé chắc chắn không gọi bất cứ ai là “Ba” nếu như chưa tin chắc đó là “Ba”
mình, chính vì xa lánh ông Sáu ta mới thấy bé Thu yêu ba mình, thật là một tâm hồn ngây thơ của trẻ
con. Và rồi, sự ngang ngạnh đã đến mức đỉnh điểm, dẫn đến phản ứng quyết liệt, Thu hất trứng cá ra
khỏi bát khi được ông Sáu gắp cho và bị ông Sáu đánh thật mạnh vào mông. Tưởng chừng sau cái đánh
đó, cô bé sẽ khóc lên nhưng không “…nó cầm đũa, gắp lại trứng cá để vào chén, rồi lặng lẽ đứng dậy,
bước ra khỏi mâm…. mở lòi tói cố làm cho dây lòi tói khua rổn rảng, khua thật, rồi lấy dầm bởi qua
sông”. Hành động bất ngờ nhưng cũng thật tự nhiên, bé Thu mạnh mẽ khi không khóc tiếng nào, thay
vào đó như là một việc làm trút giận lên chiếc dây lòi tói, nhưng bên trong đó, ta còn cảm thấy rằng,
dường như tâm trí bé Thu đã có suy nghĩ ông Sáu là ba của mình, bởi vì thế mà em mới không cãi lại
ông Sáu, em khua lòi tói để ông Sáu nếu là cha thì phải đi tìm để dỗ dành mình, toàn bộ hành động tuy
thật trẻ con nhưng lại rất đáng thương cho một cô bé như Thu. Và sau khi nghe được bà giải thích, Thu
mới hối hận nghĩ lại, trăn trở suốt đêm, thở dài và không ngủ được. Đến khi ông Sáu ra đi, cô bé mới
để cho cảm xúc của mình được bộc lộ ra hết.
“...kêu thét lên: - Ba…a…a…ba !....
…- Ba! Không cho ba đi nữa! Ba ở nhà với con.
…Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa”
Đó là một tình cảm đã dồn nén từ rất lâu rồi, hơn tám năm rồi, Thu chỉ mong được biểu lộ tình
cảm với ba thôi, tình cảm ấy được thể hiện thật mãnh liệt nhưng lại hòa đẫm sự hối hận của bé Thu.
Cái trẻ con trong bé Thu còn được thể hiện lần cuối khi xin ông Sáu mua chiếc lược cho mình. Đó là
kết thúc cho một cuộc gặp gỡ cảm động và thật thiêng liêng.
Qua cuộc gặp gỡ ấy, ta thấy Nguyễn Quang Sáng tuy không đề cập đến chiến tranh nhưng chiến
tranh vẫn luôn hiện lên qua vết thẹo của ông Sáu. Kết quả của tám năm đi lính xa nhà của ông sáu cũng
là nguyên nhân khiến bé Thu không nhận ra cha mình, giá như không có vết thẹo ấy thì bé Thu đã được
hưởng ba ngày tuyệt vời trong tình yêu thương của cha mình, nhưng nếu không có vết thẹo ấy, tình
cảm gia đình cũng không được thử thách và bộc lộ lên được, tình cảm cha con mà vì thế đã trở nên
thiêng liêng cao đẹp hơn trong tình cảnh chiến tranh.
Câu chuyện với tình huống bất ngờ độc đáo, khi bé Thu không nhận ra cha mình, qua đó làm nổi
bật lên tính cách, tình cảm cha con thực sự giữa ông Sáu và cả bé Thu. Ngôi kể bằng nhân vật bác Ba
tạo nên sự chân thực, khách quan và tự nhiên làm tăng thêm yếu tố cảm xúc.



10

“Chiếc lược ngà” là một câu chuyện cảm động và rất chân thực của Nguyễn Quang Sáng. Bằng
một sự cảm nhận chân thực về tình cảm gia đình trong chiến tranh, ông đã gợi lên một tình cảm cao
đẹp, thiêng liêng , đẹp đẽ, và trên thực tế còn rất nhiều tình cảm khác mà ta cần phải trân trọng và giữ
gìn.
Ở truyện ngắn "Làng" Kim Lân đã xây dựng thành công hình ảnh nhân vật ông Hai - một
người nông dân chân chất nhưng mang nặng tình yêu làng và lòng yêu quê hương, có tinh thần
kháng chiến mạnh mẽ.
Phải đi tản cư do làng bị giặc chiếm đóng nhưng ông lại không lúc nào nguôi nỗi nhớ về làng
mìríh. Đó là nỗi nhớ da diết của một con người cả đời gắn bỏ sâu nặng với mảnh đất nơi mình sinh ra,
lớn lên. Tình yêu ấy được Kim Lân cảm nhận một cách sâu sắc và thể hiện hết sức giản dị, chân thành.
Những ai đã đọc Làng đều cảm nhận được ở ông Hai tình yêu, sự gắn bó sâu sắc với làng xóm, với quê
hương. Đối với người nông dân chất phác ấy, tình cảm với làng quê, thôn xóm là tình cảm tự trong tim,
ngấm sâu vào máu thịt. Cũng như bao người dân lao động khác, cả một đời ông Hai gắn bó với mảnh
đất quê nghèo mà nặng sâu ân tình. Cái làng Chợ Dầu ấy đã trở thành nguồn vui sống của ông. Tác giả
đã để cho ông Hai bộc lộ tình yêu đó một cách chân thật, nồng nhiệt, vừa có những nét quen thuộc vừa
có những nét riêng biệt chỉ có ở ông Hai. Yêu làng, ông yêu tất cả nhửng gì thuộc về làng, thậm chí yêu
cả những cái mà ông và biết bao người đã phải khổ sở vì nó. Ông Hai tự hào vì làng Chợ Dầu của ông
có những ngôi nhà ngói san sát, sầm uất, đường trong làng toàn lát bằng đá xanh, trời mưa đi từ đầu
làng đến cuối xóm bùn không dính đến gót chân. Ông tự hào về tất cả những nét độc đáo, những thứ đả
làm nên bề dày lịch sử của làng ông.
Nhưng tình yêu làng của người nông dân ấy không bất biến mà thay đổi theo thời gian, theo sự
biến chuyển của thời đại. Kháng chiến nổ ra mang theo những luồng tư tưởng mới chiếu rọi tâm hồn
ông. Giờ đây, đối với ông Hai, cái lăng cụ Thượng, cái sinh phần kia đều đáng căm thù; niềm tin về
làng là những ngày khởi nghĩa dồn dập, những buổi tập quán sự có cụ râu tóc bạc phơ cũng vào gậy
tham gia; những hố, những ụ, những hào ,chòi phát thanh. Tất cả những điều đó, từ những cái nhỏ nhặt
cho đến điều lớn lao, đều trở thành đối tượng của tình yêu tha thiết, đậm sâu trong ông. Qua những lời

khoe của ông Hai, ta có cảm tưởng như cảnh vật, làng xóm đã hằn in trong ông chiếm trọn con tim,
khối óc người nông dân ấy.
Yêu làng, ông Hai có nhu cầu thể hiện, thổ lộ tình vêu ấy với tất cả mọi người. Đi đến đâu ông
cũng khoe về cái làng của ông. Ông say sưa kể về làng của mình mà không cần biết người nghe có chú
ý hay không. Mỗi khi bắt đầu nói về làng, “hai con mắt ông sáng hẳn lên, cái mắt biến chuyển”. Chỉ
một chi tiết ấy thôi, Kim Lân đã khắc họa thành công tình cảm thiêng liêng của ông Hai dành cho mảnh
đất quê mình. Tình yêu ấy luôn ấm nóng trong trái tim ông và càng trở nên mạnh mẽ hơn khi ông phải
xa làng. Trong những ngày xa quê, sống nơi sơ tán xa lạ. chính tình yêu làng đã trở thành sức mạnh
trong ông. Những khi mệt nhọc, chỉ cần nghĩ về làng, kể chuyện làng là ông quên hết tất cả.
Nếu như cuộc sống cứ diễn ra yên bình như thế thì tình yêu làng của ông Hai mới chỉ là
“tâm lí làng xã” của những người dân quê Việt Nam - những con người cả đời gắn bó với luỹ tre,
cây đa, bến nước, sân đình; yêu nơi “chôn rau cắt rốn” bằng một tình yêu bản năng, máu thịt.
Kim Lân đã để cho nhân vật trải qua tình huống truyện độc đáo: ông Hai nghe tin làng theo Tây.
Đây chính là tác nhân làm bùng nổ tình yêu nước thiết tha, sâu đậm của ông. Ở người nông dân
ấy, tình yêu làng gắn liền với lòng yêu nước.
Nghe tin làng theo giặc, “cổ ông nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân.., ông lão lảng đi, tưởng như
không thể thở đượ”. Trong ông đã diễn ra một cuộc đấu tranh nội tâm gay gắt: ông tủi nhục, đớn đau,
ông tự giày vò, ông hồi nghi rồi lại tự nhủ mình phải tin vì mọi chuyện đã hết sức rõ ràng. Cuốì cùng,
ông cay đắng rít lên: “Chúng bay ăn miệng cơm hay ăn miệng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt
gian bán nước để nhục nhã thế này...”. Tiếng rít ấy là tiếng nói của lòng căm hờn, sự căm giận đang


11

ngùn ngụt trong lòng ông Hai. Trong ông đang có cuộc giằng co dữ dội: Ông yêu làng, làng ông đáng
tự hào là thế, mà giờ lại theo Tây. Tình cảm của ông phải thế nào đây? Nhưng sự giằng co- ấy nhanh
chóng đi đến kết luận: “Làng thi yêu thật, nhưng làng theo Tây thì ta phải thù”. Một thái độ dứt khoát,
một tình yêu mạnh mẽ nhưng không mù quáng. Tình yêu làng trong ông rất mãnh liệt, nhưng làng phải
gắn với nước. Giờ đây, làng Chợ Dầu của ông theo Việt gian, tức là hại nước, hại cách mạng thì không
thế yêu làng như xưa được nữa. Niềm đau, sự oán trách cũng như thái độ kiên quyết... tất cả, tất cả đều

là biểu hiện sống động nhất của tình yêu nước trong ông Hai.
Những diễn biến trong cảm xúc, tâm trạng, những suy nghĩ và cuộc đấu tranh nội tâm gay gắt
của ông Hai trong những ngày nghe tin làng theo Tây chính là tình huống giúp Kim Lân khắc họa rõ
nét hơn bức chân dung tinh thần và lòng yêu nước sâu nặng, tình yêu làng tha thiết của ông Hai. Ông
thấy tủi hổ vì niềm tự hào bấy lâu nay của ông giờ thành ra như thế. Ông chỉ biết “cúi gằm mặt xuống
mà đi”, ông thương lũ con ông vì chúng có một quê hương đáng xấu hổ: “nhìn lũ con, tủi thân, nước
mắt ông lão cứ tràn ra. Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu”.
Suốt những ngày đó, ông không dám đi đâu, chỉ “nằm rũ ở trên giường, không nói gì”, “quanh quẩn
trong cái gian nhà chật chội mà nghe ngóng”, lúc nào cũng nơm nớp lo âu. Ta bỗng hiểu hơn tại sao tác
giả lại kể và tả tỉ mỉ những biểu hiện của tình yêu làng nơi ông Hai những ngày làng còn chưa bị đồn là
theo Tây. Nó là sự đối nghịch với thái độ kiên quyết khi nghe tin làng làm Việt gian, là sự khẳng định
mạnh mẽ tình yêu nước lớn lao trong ông. Tình yêu ấỵ không chỉ là bản năng mà đã trở thành ý thức
của một công dân. Nó gắn liền với tình cảm dành cho kháng chiến và đối với Cụ Hồ, được thể hiện thật
cảm động khi ông giãi bày tâm sự với đứa con út ngây thơ. Thực chất đó là lời thanh minh với Cụ Hồ,
với anh em đồng chí và là lời tự nhủ của chính ông trong những lúc căng thẳng, thử thách. Ông mong
“anh em đồng chí biết cho bố con ông. Cụ Hồ trên đầu trên cổ soi xét cho bố con ông”. Những lời bộc
lộ chân tình ấy là biểu hiện của tấm lòng trung thành tuyệt đốì với cách mạng, với kháng chiến mà biểu
tượng là Cụ Hồ; cũng là thể hiện tình yêu đất nước thiết tha của ông Hai. Tình cảm của một người nông
dân nghèo đối với đất nước và kháng chiến thật sâu nặng và thiêng liêng: “chết thì chết có bao giờ dám
đơn sai”.
Niềm vui sướng vỡ òa khi ông Hai biết rằng làng mình vẫn là làng Kháng chiến Không còn nỗi
tủi nhục đè nặng trong lòng, ông lại tiếp tục khoe về làng Chợ Dầu anh dũng của mình, “lại ngồi, trên
chiếc chõng tre, vén quần lên tận bẹn mà nói chuyện về cái Làng của ông”. Người nông dân vốn gắn bó
với nhà cửa ruộng vườn... Phải bỏ nhà ra đi họ đã xót xa lắm, ông Hai cũng thế. Nhưng ta lại bắt gặp
hình ảnh ông Hai tất bật đi khoe cái tin “Tây nó đốt hết nhà tôi rồi, hết hẳn”, ông sung sướng bởi việc
Tây đốt nhà là biểu hiện của làng ông trong sạch, làng ông không làm Việt gian. Làng vẫn là tình yêu,
là niềm tự hào tha thiết của ông Hai. Nhà ông bị đốt hết nhưng như thế có là gì. Đó chỉ là một phần ông
cống hiến cho đất nước. Tài sản riêng mất mát nhưng cách mạng, đất nước sẽ vững mạnh hơn, đó mới
thực sự là niềm vui, là hạnh phúc.
Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975 đã xây dựng thành công hình ảnh những con

người Việt Nam kiên cường, bất khuất với một tinh yêu quê hương đất nước tha thiết, sâu nặng.
Không những thế nó còn khắc sâu những tình cảm gia đình thiêng liêng, cao quí. Ở truyện ngắn
“Chiếc lược ngà” là một câu chuyện cảm động và rất chân thực của Nguyễn Quang Sáng. Bằng một sự
cảm nhận chân thực về tình cảm gia đình trong chiến tranh, ông đã gợi lên một tình cảm cao đẹp,
thiêng liêng, đẹp đẽ mà ta cần phải trân trọng và giữ gìn. Còn ở truyện ngắn "Làng" là tình yêu làng,
yêu nước, hòa quyện trong tâm hồn người nông dân mộc mạc, chất phác thật đẹp biết bao. Làng của
Kim Lân là một khúc ca về tình yêu quê hương đất nước mà những người lao động nghèo là những
thanh âm trong trẻo, réo rắt nhất, để lại bao dư âm lắng đọng trong lòng độc giả.
=================


12

Đề 4: Em hãy viết bài văn phân tích truyện ngắn "Lặng lẽ Sa Pa" của Nguyễn Thành
Long.
Nguyễn Thành Long là một nhà văn mà tên tuổi đã trở thành quen thuộc với bạn độc yêu thích
truyện ngắn Việt Nam hiện đại. Các tác phẩm của ông là sự chắt lọc hiện thực của cuộc sông sôi dộng
đang diễn ra hằng ngày, hằng giờ trên đất nước thân yêu. Suốt cuộc đời cầm bút, nhà văn đã sáng tác
hơn chục tập truyện và kí, trong đó có những truyện ngắn gây được ấn tượng lâu đài và sâu đậm. Lặng
lè Sa Pa được viết sau chuyên nhà văn đi thực tế ở Sa Pa, một vùng núi cao đẹp nổi tiếng của Hoàng
Liên Sơn. Truyện in trong tập Giữa trong xanh, xuất bản năm 1972. Qua hình ảnh người thanh niên
một mình làm việc ở trạm khí tượng trên đỉnh Yên Sơn và một số nhân vật khác, tác giả ca ngợi phẩm
chất tốt đẹp của những con người lao động mới đang ngày đêm âm thầm công hiến cho nhân dân, cho
Tổ quốc. Bên cạnh đó, tác giả cũng kín đáo gửi gắm vào truyện lời khuyên mọi người hãy thương yêu
nhau hơn và sống tốt đẹp hơn.
Nội dung truyện có thể tóm tắt như sau: Một họa sĩ già trước khi nghỉ hưu đã đi thực tế vùng
cao. Tình cờ, ông ngồi cùng hàng ghế với cô kĩ sư trẻ người Hà Nội lên nhận công tác tại Lai Châu.
Qua hai ngày, họ đã làm quen với nhau. Khi đến Sa Pa, bác tài cho xe nghỉ để lấy nước, nhân tiện giới
thiệu với hoạ sĩ và cô gái nhân vật đặc biệt trên đoạn đường này, để họa sĩ vẽ chân dung.
Đó là anh thanh niên làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu trên đỉnh Yên Sơn cao hai nghìn

sáu trăm mét. Bốn người gặp nhau trong một thời gian ngắn ngủi, giữa khung cảnh núi non hùng vĩ và
tĩnh lặng của Sa Pa. Chỉ tiếp xúc trong ba mươi phút nhưng bước đầu họ đã hiểu nhau và hai người
khách đã nhận biết được từ anh thanh niên bao điều bổ ích. Qua các trang viết của Nguyễn Thành
Long, tính cách của từng nhân vật đã được thế hiện rồ nét và khắc sâu trong tâm trí người đọc.
Nhân vật chính là anh thanh niên trông coi trạm khí tượng được giới thiệu qua lời kể của bác lái
xe. Bác lái xe gọi anh là người cô độc nhất thế gian vì anh sống một mình trên đỉnh núi, bốn bề chỉ cỏ
cây cỏ và mây mù lạnh lẽo. Bạn bè của anh toàn là những vật vô tri: máy đo gió, đo nắng,đo mây, đo
nhiệt độ… Tuy sống trong điều kiện thiếu thốn cả vật chất lẫn tinh thần nhưng người thanh niên ấy vần
yêu đời, vẫn làm việc với tinh thần trách nhiệm cao nhất. Anh biết làm chủ, biết sắp xếp, lo toan cuộc
sống riêng ngăn nắp, ổn định. Anh nuôi gà, trồng hoa, đọc sách. Thỉnh thoảng, anh xuống đường, tìm
gặp bác lái xe cùng hành khách để trò chuyện và giúp đỡ họ cho nguôi bớt nỗi cô đơn.
Thái độ nồng nhiệt, hiếu khách của anh đã gây được thiện cảm đối với mọi người ngay từ lúc
đầu. Anh biếu bác lái xe gói củ tam thất để mang về cho người vợ mới ốm dậy. Anh mừng rỡ đón
quyển sách bác mua hộ. Niềm vui được gặp gờ dào dạt trong lòng anh, bộc lộ qua nét mặt và từng cử
chỉ. Bác lái xe giới thiệu với anh những người khách mới: Đây, tôi giới thiệu với anh một họa sĩ lão
thành nhé. Và cô đây là kĩ sư nông nghiệp. Anh vui vẻ mời hai người lên nhà anh chơi. Anh chạy ra
vườn cắt một bó hoa, rất tự nhiên trao cho cô gái mới quen. Trò chuyện với khách, anh đã nói lên
những suy nghĩ chân thành của mình. Người thanh niên ấy không những đáng yêu ở cách sống mà còn
đáng yêu vì những điều anh suy nghĩ và cảm nhận. Ban đầu, lúc mới lên nhận việc, sống một mình tít
trên đỉnh núi, bốn bề chỉ có cỏ và mây mù lạnh lẽo, chưa quen, thèm người quá, anh đã nghĩ ra kế lăn
khúc cây ra chặn đường xe đi để được gặp người, được nói chuyện trong giây lát.
Nhưng đến bây giờ, khi bày tỏ quan niệm thế nào là người cô độc, anh lập luận thật sắc sảo. Anh
nói với họa sĩ: Khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được? Huống chi việc của
cháu gắn liền với việc của bao anh em, đồng chí dưới kia. Công việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất
nó đi, cháu buồn đến chết mất. Anh tâm sự với cô kĩ sư trẻ: Lúc nào tôi cũng có người trò chuyện.
Nghĩa là có sách ấy mà.
Anh giải thích về nỗi nhớ người của mình bằng những lời nói mộc mạc, chân thành: Còn người
thì ai mà chả “thèm” hở bác? Mình sinh ra là gì, mình đẻ ở đâu, mình vì ai mà làm việc ?… Bác lái xe
đi, về Lai Châu cứ đến đấy dừng lại một lát. Không phải giờ “ốp” là cháu chạy xuống chơi, lâu thành



13

lệ. Cháu bỗng dưng tự hỏi: Cái nhớ xe, nhớ người ấy thật ra là cái gì vậy? Nếu là nỗi nhớ phồn hoa đồ
thị thì xoàng. Cháu ở liền trong trạm hàng tháng. Bác lái xe bao lần dừng, bóp còi toe toe, mặc, cháu
gan lì nhất định không xuống. Ấy thế là một hôm, bác lái phải thân hành lên trạm cháu. Cháu nói:
“Đấy, bác chẳng “thèm” người là gì.
Thực ra, anh thanh niên không phải là loại người đặc biệt, không biêt nhớ người, nhớ nhà, mà là
anh cố nén nỗi nhớ da diết ấy để hoàn thành nhiệm vụ, đóng góp một phần sức lực nhỏ bé với quê
hương, đất nước và để xứng đáng với người cha đang đối đầu với giặc Mĩ xâm lược trong chiến trường
miền Nam.
Tuy công việc của anh khó khăn, vất vả và rất quan trọng nhưng anh vẫn cảm thấy nó nhỏ bé,
bình thường so với công việc của người khác. Chúng ta hãy lắng nghe anh kể về công việc âm thầm
của mình: Công việc nói chung dễ, chỉ cần chính xác… Xách đèn ra vườn, giỏ tuyết vù lặng im ở bên
ngoài như chỉ chực đợi mình ra là ào ào xô tới. Cái lặng im lúc đó mới thật dễ sợ: nó như bị gió chặt ra
từng khúc, mà gió thì như những nhát chổi lớn muốn quét đi tất cả, ném vứt lung tung… Anh kể về lần
nhờ phát hiện ra một đám mây khô mà anh đã góp phần cùng không quân ta hạ được máy bay phản lực
của Mĩ. Anh sung sướng nói với ông hoạ sĩ rằng: Từ hôm ấy cháu sống thật hạnh phúc. Người thanh
niên hiếu khách và sôi nổi ấy cũng rất khiêm tốn. Anh ngượng ngùng khi thấy ông hoạ sĩ già phác thảo
chân dung của mình vào cuốn sổ tay. Anh giới thiệu cho ông những người đáng để vẽ hơn mình: Ông
kĩ sư ở vườn rau dưới Sa Pa vượt qua bao khó khăn vất vả để tao ra những củ su hào to hơn, ngon hơn
cho nhân dân toàn miền Bắc. Anh cán bộ khí tượng dưới trung tâm suốt mười một năm chuyên tâm
nghiên cứu và thiết lập một bản đồ sét: Nửa đêm mưa gió rét buốt, mặc, cứ nghe sét là đồng chí choáng
choàng chạy ra. Như thế mười một năm… Có cái bản đồ ấy thì lắm của lắm bác ạ. Của chìm nông, của
chìm sâu trong lòng đất đều có thể biết, quý giá lắm.
Sở dĩ anh có cách suy nghĩ và hành động như thế là vì anh yêu mùa, tự hào về mảnh đất quê
hương: Trong cái lặng im của Sa Pa, dưới những dinh thự cũ kĩ của Sa Pa, Sa Pa mà chỉ nghe tên,
người ta đã nghĩ tới chuyện nghỉ ngơi, có những con người làm việc và lo nghĩ như vậy cho đất nước.
Yêu con người, yêu cuộc sống, quê hương, đam mê công việc… tình cảm ấy đã trở thành sức mạnh,
thành điểm tựa để anh thanh niên trông coi trạm khí tượng hăng say làm việc và học tập. Tuy là nhân

vật phụ nhưng bác lái xe, ông hoạ sĩ và cô kĩ sư trẻ cũng được tác giả gửi gắm nhiều ý tưởng.
Bác lái xe gắn bó suốt ba mươi năm với con đường khủc khuỷu, gập ghềnh, lắm đèo, nhiều dốc.
Ở bác, dường như nụ cười lúc nào cũng nở trên môi. Với hành khách, bác hiểu ý họ và tạo mọi thuận
lợi cho khách trong suốt mấy ngày đường vất vả. Người đọc cảm động trước chi tiết: đã thành lệ, chiếc
xe của bác chuyến nào cũng dừng lại nửa giờ trên đỉnh núi cao. Những giây phút quý giá ấy vừa để
thỏa nguyện vọng gặp người của chàng trai khí tượng trẻ, vừa là dịp để bác gặp gỡ và tỏ lòng yêu mến
một tâm hồn trong sáng. Khi biết người khách ngồi cạnh mình là hoạ sĩ, bác muốn giới thiệu với ông
về người bạn trẻ của mình để ông vẽ chân dung. Đúng như hoạ sĩ nhận xét, bác là một tay lái có máu
nghệ thuật. Bác lái xe là hình ảnh của một người lao động bình thường nhưng tấm lòng của bác thật là
đáng quý: chan chứa tình yêu thương con người và có tinh thần trách nhiệm cao.
Hoạ sĩ già là nhân vật phụ của câu chuyện nhưng nếu chúng ta đọc kĩ tác phẩm thì sẽ nhận thấy
nhân vật này chính là hoá thân của nhà văn. Hoạ sĩ vừa là nhân vật tham gia câu chuyện, vừa là người
thay mặt tác giả gửi đến bạn đọc những điều tâm đắc về con người và cuộc sông.
Cũng như các nhân vật khác trong truyện, ông là một hoạ sĩ vô danh. Nhà văn không giới thiệu
tên tuổi, chỉ nhắc sơ qua là hoạ sĩ suốt đời theo đuổi nghệ thuật hội hoạ. Trước lúc về hưu, ông còn xin
đi thực tế một lần cuối ở Tây Bắc để vẽ, với ước mơ phải vẽ được cái gì suốt đời mình thích.
Hoạ sĩ già có một khả năng cảm nhận nhạy bén và tinh tế. Trong những giây phút trái tim xao
động, ông có thể nhận biết được những âm thanh rất nhỏ của cuộc đời để rồi âm thanh ấy vang vọng
mãi trong tâm hồn ông.


14

Tình cờ, ông ngồi chung xe với cô kĩ sư trẻ người Hà Nội lên Lai Châu công tác. Hai ngày ngồi
gần và trò chuyện với cô gái, ông hiếu được nỗi băn khoăn, trăn trở của cô trước lúc lên đường. Cô
cũng đã có lần yêu nhưng rồi thôi ngay khi biết mình lầm. Hoạ sĩ an ủi cô bằng những lời chân tình :
Đối với một người khát khao trời rộng, sự dứt bỏ tình yêu nhiều khi Lại nhẹ lòng. Lời nói đó làm cho
cô gái xúc động. Từ phút đó trở đi, hai người hiểu nhau thêm.
Những lời giới thiệu về chàng trai khí tượng của bác lái xe làm cho hoạ sĩ có cảm tình với anh.
Lúc gặp mặt, hoạ sĩ già xức động mạnh khi nhìn thấy người con trai tầm vóc bé nhỏ, nét mặt rạng rỡ từ

trên sườn núi trước mặt chạy lại chỗ xe đỗ.
Ông cùng cô kĩ sư lên thăm nơi anh ở và làm việc. Câu chuyện anh kể làm ông xúc động thực
sự. Ông cảm thấy đã bắt gặp một điều thực ra ông vẫn ao ước được biết, ôi, một nét thôi đủ khẳng định
cho tăm hồn, khơi gợi một ý sáng tác, một nét mới đủ là giá trị một chuyến đi dài. Trước chàng trai trẻ
tuổi đáng yêu, ông đã tìm được đề tài và cảm hứng nghệ thuật thúc giục ông phải sáng tạo, phải vẽ.
Hoạ sĩ già vừa nói chuyện với chàng trai, vừa hí hoáy vào cuốn sổ tì trên đầu gối. Ông cảm nhận
ngòi bút của ông bất lực khi khắc hoạ tính cách người con trai ấy trên trang giấy, nhưng ông lại cảm
thấy trong lồng ngực ông dường như có một quả tim nữa, hay chính là quả tim cũ được “để cao” lên,
do đó mà ồng khao khát, mà ông yêu thcni cuộc sống.
Dường như câu chuyện của người thanh niên đã bắt ông suy nghĩ về những cái đã làm và chưa
làm được, cái ông dám nghĩ và không dám làm. Ông cho rằng: Những điều suy nghĩ đúng đắn bao giờ
cũng có những vang âm, khơi gợi bao điều, suy nghĩ khác trong óc người khác, có sẵn mà chưa rõ hay
chưa được đúng. Ví dụ quan niệm về cái đất Sa Pa mà ông quyết định sẽ chỉ đến để nghỉ ngơi trong
giai đoạn cuối đời, mà ông yêu nhưng vẫn còn tránh. Đó cũng chính là niềm vui, niềm hạnh phúc mà
hoạ sĩ già cảm nhân được từ người thanh niên đầy nhiệt huyết.
Cô kĩ sư trẻ từ Hà Nội lên tận Lai Châu, miền núi cao Tây Bắc của Tổ quốc để nhận công tác.
Lần đầu tiên ra khỏi Hà Nội, qua cuộc đời học trò chật hẹp, bước vào cuộc sống bát ngát mới tinh, cái
gì cũng làm cô háo hức. Cô bước vào đời với thái độ thanh thản, tuy trong trái tim còn vương vấn mối
tình đầu dang dở, ông hoạ sĩ và cô gái cùng lên thăm chỗ làm việc của chàng trai. Một thoáng gặp
nhau, chàng trai rất tự nhiên tặng hoa và cô gái cũng rất tự nhiên nhận hoa. Từ lúc lên xe, ngồi cùng
ông họa sĩ, được ông tận tình giúp đỡ, cho đến khi gặp gỡ và nghe những điều chàng trai nói, cô hiểu
thêm về cuộc sống âm thầm nhưng tuyệt đẹp của người thanh niên, của những con người như anh qua
lời anh kể. Cô suy nghĩ về con đường cô đang đi tới, về công việc mà cô lựa chọn. Những điều đó làm
cho cô bâng khuâng, xúc động.
Qua hai nhân vật ông hoạ sĩ già và cô kĩ sư trẻ, tác giả muốn nói với bạn đọc rằng tuy thuộc hai
thế hệ khác nhau nhưng họ đều ý thức được vị trí, trách nhiệm của mình trong công cuộc xây dựng đất
nước. Họ là những con người nhạy cảm trước cái đúng, cái sai, luôn hướng thiện, mong muôn làm
được những điều tốt đẹp cho cuộc đời.
Vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Sa Pa được tái hiện qua;truyện bằng ngôn ngữ nghệ thuật
tạo hình, giàu chất thơ và qua sự rung cảm tinh tế của một tâm hồn nghệ sĩ.

Sa Pa hiện dần lên, mỗi cảnh là một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp: … Xe trèo lên núi. Mây hất
từng chiếc quạt trắng lên từ các thung lũng. Xe tới đỉnh núi: Nắng bây giờ bát đầu len tới đốt cháy rừng
cây, Những cây thông chỉ cao quá đầu, rung tít trong nắng những ngón tay bàng bạc dưới cái nhìn bao
che của những cây tử kinh thỉnh thoảng nhô cái đầu màu hoa cà lên trên màu xanh của rừng. Mây bị
nắng xua, cuộn tròn lại từng cục , lăn trẽn các vòm lá ướt sương, rơi xuống, đường cái, luôn cả vào gầm
xe.
Cảnh chia tay giừa chàng trai và cô gái trên đỉnh núi vào buổi chiều thật đẹp: Lúc bấy giờ, nắng
đã mạ bạc cả con đèo, đốt cháy rừng cây hừng hực như một bó đuốc lớn. Nắng chiều Làm cho bó hoa
thèm rực rở và làm cho cô gái thấy mình rực rỡ theo.


15

Dường như trong mỗi bức tranh tả cảnh, tả người, nhà văn đều gửi gắm tình cảm yêu mến của
mình vào đó. Qua Lặng lẽ Sa Pa, Nguyễn Thành Long không những lôi cuốn người đọc bằng tình tiết,
sự kiện, bằng phẩm chất của từng nhân vật mà còn làm cho cảm xúc thẩm mĩ của người đọc dược mở
rộng, nâng cao. Những bức tranh phong cảnh được vẽ bằng ngôn ngữ văn học trong sáng thể hiện sự
rung cảm tinh nhạy và tài năng của nhà văn. Cái hay của truyện Lặng lẽ Sa Pa không phải ở cốt truyện
li kì, hấp dẫn, không phải ở những nhân vật phi thường mà nó ấn chứa trong ngôn ngữ tự nhiên, sinh
động, trong những hình ảnh tuyệt đẹp của thiên nhiên và con người, tác động mạnh đến cảm xúc người
đọc. Thông qua tác phẩm, nhà văn muốn nói với chúng ta: Hãy yêu thương con người và hặy sống tốt
đẹp hơn!
=================
Đề 5: Phân tích truyện ngắn "Những ngôi sao xa xôi" của Lê Minh Khuê.
Lê Minh Khuê thuộc, thế hệ nhà văn trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Những
tác phẩm đầu tay của chị ra mắt vào những năm 70, nội dung viết về cuộc sống chiến đấu sôi nổi, hào
hùng của thanh niên xung phong và bộ đội trên tuyến đường Trường Sơn. Một số truyện ngắn đã gây
được sự chú ý và tình cảm yêu mến của bạn đọc. Truyện Những ngôi sao xa xôi phản ánh chân thực
tâm hồn trong sáng, mơ mộng, tinh thần dũng cảm, cuộc sống chiến đấu đầy gian khổ, hi sinh nhưng
rất hồn nhiên, lạc quan của những cô gái thanh niên xung phong. Đó chính là những hình ảnh đẹp đẽ,

tiêu biểu cho phẩm chất cao quý của thế hệ trẻ Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ vừa qua.
Cốt truyện đơn giản, mạch truyện phát triển theo diễn biến tâm trạng của người kể, kết hợp đan
xen giữa hiện tại và quá khứ. Có thể tóm tắt như sau: Ba nữ thanh niên xung phong làm thành tổ trinh
sát mặt đường tại một trọng điểm trên tuyến đường Trường Sơn. Tổ trưởng là chị Thao và tổ viên là hai
cô gái trẻ tên Định và Nho. Nhiệm vụ của họ là quan sát máy bay địch ném bom, ước chừng khối lượng
đất đá dùng để san lấp hố bom, đánh dấu vị trí các trái bom chưa nổ và phá bom nổ chậm. Công việc
hết sức nguy hiểm vì máy bay địch có thể ập đến bất cứ lúc nào. Họ phải đối mặt với thần chết trong
mỗi lần phá bom, mà công việc này thì lại diễn ra thường xuyên. Các cô gái ở trong một cái hang dưới
chân cao điểm, cách xa đơn vị. Cuộc sống dù khắc nghiệt và nguy hiểm nhưng họ vẫn có những niềm
vui hồn nhiên, những giây phút thanh thản, mơ mộng. Đặc biệt là ba chị em rất gắn bó, yêu thương
nhau trong tình đồng đội, dù mỗi người một cá tính. Ớ phần cuối, tác giả tập trung miêu tả hành động
và tâm trạng của các nhân vật, chủ yếu là của Phương Định trong một lần phá bom. Nho bị thương đã
được đồng đội lo lắng và săn sóc. Cơn mưa đá ở cao điểm khiến cho Phương Định hồi tưởng về tuổi
học trò ở Hà Nội: Chao ôi, có thể là tất cả những cái đó. Những cái đó ở thật xa…
Để cho nhân vật chính là Phương Định đứng ra kể chuyện, điều đó phù hợp với nội dung truyện
và tạo thuận lợi để tác giả vừa miêu tả, vừa thể hiện đời sống tâm hồn của nhân vật. Truyện viết về
chiến tranh nên có những chi tiết, hình ảnh về bom đạn, chiến đấu, hi sinh… nhưng chủ yếu vẫn hướng
vào thế giới nội tâm, làm hiện lên vẻ đẹp tâm hồn của con người.
Ba cô gái sống và chiến đấu trên một cao điểm giữa một vùng trọng điểm bắn phá của máy bay
Mĩ trên tuyến đường Trường Sơn. Công việc của họ rất nguy hiểm vì giữa ban ngày, họ phải phơi mình
dưới tầm đánh phá của máy bay địch. Nguy hiểm khôn lường nhưng các cô tự hào về công việc của
mình và cái tên gọi mà đơn vị đặt cho là: tổ trinh sát mặt đường. Gắn với cái tên gợi sự khát khao làm
nên những sự tích anh hùng ấy là công việc chẳng nhẹ nhàng, đơn giản chút nào. Định hồn nhiên kể:
Chúng tôi bị bom vùi luôn. Có khi bò trên cao điểm về chỉ thấy hai con mắt lấp lánh. Cười thi hàm
răng lóa lên trên khuôn mặt nhem nhuốc. Những lúc đấy chúng tôi gọi nhau là “những con quỷ mắt
đen". Sau mỗi trận bom, các cô phải lao ngay ra trọng điểm, đo đạc và ước tính khối lượng đất đá bị
bom địch đào xới, đếm những quả bom chưa nổ và dùng những khối thuốc nổ đặt vào cạnh từng trái


16


bom để phá. Đó là một công việc mạo hiểm với cái chết, thần kinh luôn căng thẳng, đòi hỏi sự dũng
cảm và hết sức bình tĩnh. Nhưng với ba cô gái thì những công việc khủng khiếp ấy đã trở thành bình
thường: Có ở đâu như thế này không: đất bốc khói, không khí bàng hoàng, máy bay đang ầm ì xa dần.
Thần kinh căng như chão, tim đập bất chấp cả nhịp điệu, chân chạy mà vẫn biết rằng khắp chung quanh
có nhiều quả bom chưa nổ. Có thể nổ bây giờ, có thể chốc nữa. Nhưng nhất định sẽ nổ… Rồi khi xong
việc, quay lại nhìn cảnh đoạn đường một lần nữa, thở phào, chạy về hang.
Đối lập với cảnh tàn khốc do bom đạn giặc gây ra là sự bình tĩnh đến lạ lùng của các cô gái.
Cảnh các cô sống trong hang sao mà lạc quan, thơ mộng đên thê : Bên ngoài nóng trên 30 độ, chui vào
hang là sà ngay đến một thê giới khác. Cái mát lạnh làm toàn thân run lẽn đột ngột- Rồi ngửa cô uông
nước trong ca hay trong bi đông. Nước suối pha đường. Xong thì nằm dài trên nền ẩm lười biếng nheo
mắt nghe ca nhạc tử cái đài bán dẫn nhỏ mà lức nào cũng có pin đầy đủ. Có thể nghe, có thể nghĩ lung
tung… hình như ta sắp mở chiến dịch lớn. Cả ba cô đều là con gái Hà Nội. Tuy cá tính và hoàn cảnh
riêng mỗi người mỗi khác nhưng họ đều có phẩm chất chung vô cùng tốt đẹp của thanh niên xung
phong tiền tuyến. Đó là tinh thần dũng cảm tuyệt vời, không sợ gian khổ, hi sinh, quyết tâm khắc phục
khó khăn để hoàn thành tốt nhiệm vụ và tình cảm đồng đội gắn bó, yêu thương. Ở họ còn có những nét
chung của các cô gái trẻ là dễ xúc động, nhiều khát vọng và hay mơ mộng, dễ vui mà cũng dễ buồn.
Trong bom đạn, cận kề cái chết mà họ vẫn thích làm đẹp cho cuộc sống của mình: Nho thích thêu thùa,
chị Thao chăm chép bài hát, Định thích ngắm mình trong gương, thích ngồi bó gối thả hồn theo dòng
hồi tưởng và cất tiếng hát.
Phương Định vốn là một học sinh Thủ đô. Tính cách Phương Định vừa vô tư, tinh nghịch, vừa
dịu dàng, lãng mạn. Cô hay hồi tưởng những kỉ niệm của tuổi thiếu nữ vô tư giữa gia đình và thành phố
thân yêu. Vào chiến trường, những kỉ niệm êm dẹp ấy luôn sống dậy trong tâm trí cô. Nó vừa là niềm
khao khát, vừa làm dịu mát tâm hồn cô trong hoàn cảnh căng thẳng, khốc liệt của chiến tranh. Giống
như các cô gái mới lớn khác, Phương Định khá nhạy cảm về bản thân và cũng rất quan tâm đến hình
thức của mình. Cô tự đánh giá: Tôi là con gái Hà Nội, Nói một cách khiêm tốn, tôi là một cô gái khá.
Hai bím tóc dày, tương đối mềm, một cái cổ cao, kiêu hãnh như đài hoa loa kèn. Còn mắt tôi thì các
anh lái xe bảo: “Cô có cái nhìn sao mà xa xăm”. Xa đến đâu mặc kệ, nhưng tôi thích ngắm mắt tồi
trong gương. Nó dài dài màu nâu, hay nheo lại như chổi nắng. Cô biết mình được nhiều người để ý,
nhất là các anh lính lái xe. Điều đó làm cho cô thấy vui và tự hào, nhưng cô chưa dành riêng tình cảm

cho một ai. Tuy vậy, cô không hay biểu lộ tình cảm và thường tỏ ra kín đáo giữa đám đông, nhìn qua sẽ
tưởng như là kiêu kì. Phương Định yêu mến hai bạn gái trong tổ trinh sát mặt đường và đồng đội trong
đơn vị. Đặc biệt, cô dành tình yêu và niềm cảm phục cho tất cả chiến sĩ mà cô gặp trên đường vào mặt
trận: Không hiểu sao các anh pháo thủ và lái xe lại hay hỏi thăm tôi. Hỏi thăm hoặc viết những bức thư
dài gửi đường dây làm như ở cách xa nhau hàng nghìn cây số, mặc dù có thể chào nhau hằng ngày. Tôi
không săn sóc, vồn vã. Khi bọn con gái xúm nhau lại đối đáp với một anh bộ đội nói giỏi nào đấy, tôi
thường đứng ra xa, khoanh tay lại trước ngực và nhìn đi nơi khác, môi mím chặt. Nhưng chẳng qua tôi
điệu thế thôi. Thực tình trong suy nghĩ của tôi, những người đẹp nhất, thông minh, can đảm và cao
thượng nhất là những người mặc quân phục, có ngôi sao trên mũ. Là một nhà văn thanh niên xung
phong nên Lê Minh Khuê am hiểu và miêu tả khá tinh tế tâm lí của những cô gái trong nhóm trinh sát
mặt đường mà tiêu biểu là nhân vật Phương Định. Tâm trạng của Định lúc phá bom nổ chậm được tác
giả miêu tả rất thực: … máy bay rít, bom nổ. Nổ trên cao điểm, cách hang này khoảng 300 mét. Đất
dưới chân chúng tôi rung. Mấy cái khăn mặt mắc ở dây cũng rung. Tất cả cứ như lên cơn sốt. Khói lên
và cửa hang bị che lấp. Không thấy mây và bầu trời đâu nữa. Quả bom nằm lạnh lùng trên một bụi cây
khô, một đầu vùi xuống đất. Đầu này có vẽ hai vòng tròn màu vàng…Tôi dùng xẻng nhỏ đào đất dưới
quả bom. Đất rắn. Những hòn sỏi theo tay tôi bay ra hai bên. Thỉnh thoảng lưỡi xẻng chạm vào quả
bom. Một tiếng động sắc đến gai người, cứa vào da thịt tôi. Tôi rùng mình và bỗng thấy tại sao mình


17

làm quá chậm. Nhanh lên một tí! vỏ quả bom nóng. Một dấu hiệu chẳng lành. Hoặc là nóng từ bên
trong quả bom. Hoặc là mặt trời nung nóng.
Cảnh mưa bom bão đạn của giặc Mĩ diễn ra hằng giờ, hằng ngày, hết ngày này sang ngày khác
và sức chịu đựng của các cô gái thật tuyệt vời: Quen rồi. Một ngày chúng tôi phá bom đến năm lần.
Ngày nào ít: ba lần. Tôi có nghĩ tới cái chết. Nhưng một cái chết mờ nhạt, không cụ thể. Còn cái chính:
liệu mìn có nổ, bom có nổ không? Không thì làm cách nào để châm mìn lần thứ hai? Tôi nghĩ thế, nghĩ
thêm: đứng cẩn thận, mảnh bom ghim vào cánh tay thì khá phiền. Và mồ hôi thấm vào môi tôi, mằn
mặn, cát lạo xạo trong miệng. Nhưng quả bom nổ. Một thứ tiếng kì quái đến váng óc. Ngực tôi nhói,
mắt cay mãi mới mở ra được. Mùi thuốc bom buồn nôn. Ba tiếng nổ nữa tiếp theo. Đất rơi lộp bộp, tan

đi âm thầm trong những bụi cây. Mảnh bom xé không khí, lao và rít vô hình trên đầu. Mặc dù đã thành
thạo trong công việc nguy hiểm, thậm chí một ngày có thể phải phá tới năm quả bom, nhưng mỗi lần
phá bom nổ chậm vẫn là một thử thách thần kinh cao độ đối với Phương Định. Từ khung cảnh và
không khí chứa đầy sự căng thẳng đến cảm giác là các anh cao xạ ở trên kia đang dõi theo từng động
tác, cử chỉ của mình, để rồi tinh thần dũng cảm ở cô như được kích thích bởi lòng tự trọng đáng khâm
phục: Tôi đến gần quả bom. Cảm thấy có ánh mắt các chiến sĩ dõi theo mình, tôi không sợ nữa. Tôi sẽ
không đi khom. Các anh ấy không thích cái kiểu đi khom khi có thề cứ đàng hoàng mà bước tới.
Ở bên quả bom, đối mặt với cái chết cảm giác của cô như nhạy cảm hơn, sắc bén hơn: Thỉnh
thoảng lưỡi xẻng chạm vào quả bom. Một tiếng động sắc đến gai người, cứa vào da thịt tôi. Tôi rùng
mình và bỗng thấy tại sao mình làm quá chậm. Nhanh lên một tí! vỏ quả bom nóng. Một dấu hiệu
chẳng lành. Tiếp đó là cảm giác căng thẳng chờ đợi tiếng nổ của quả bom, đồng nghĩa với công việc đã
hoàn thành. Vào chiến trường đã ba năm, đã quá quen với những thử thách và nguy hiểm, giáp mặt
hằng ngày với oái chết, nhưng Phương Định và đồng đội của cô không mất đi sự hồn nhiên, trong sáng
và những mơ ước vẻ tương lai. Trong những phút giây yên tĩnh ngắn ngủi, cô thường tự tạo ra những
niềm vui nho nhỏ: Tôi sẽ hát. Thường cứ thuộc một điệu nhạc nào đó rồi bịa ra lời mà hát. Lời tôi bịa
lộn xộn mà ngớ ngẩn đến tôi cũng ngạc nhiên, đôi khi bò ra mà cười một mình… Tôi thích nhiều bài.
Những bài hành khúc bộ đội hay trên những ngả đường mặt trận. Tôi thích dân ca quan họ mềm mại,
dịu dàng. Thích Ca-chiu-sa của Hồng quân Liên Xô. Thích ngồi bó gối mơ màng: “Về đây khi mái tóc
còn xanh xanh…”. Đó là dân ca Ý trữ tình giàu có, phải lấy giọng thật trầm… Những lúc như thế nỗi
nhớ Hà Nội lại ùa về, tràn ngập tâm hồn cô gái, khiến cô bâng khuâng, nuôi tiếc khi cơn mưa rừng chợt
đến, chợt đi: Nhưng tạnh mất rồi. Tạnh rất nhanh như khi mưa đến. Sao chóng thế! Tôi bỗng thẫn thờ,
tiếc không nói nổi. Rõ ràng tôi không tiếc những viên đá. Mưa xong thì tạnh thôi. Mà tôi nhớ một cái gì
đấy, hình như mẹ tôi, cái cửa sổ, hoặc những ngôi sao to trên bầu trời thành phố. Phải, có thể những cái
đổ… Hoặc là cây, hoặc là cái vòm tròn của nhà hát, hoặc bà bán kem đẩy chiếc xe chở đầy thùng kem,
trẻ con háo hức bâu xung quanh. Con đường nhựa ban đêm, sau cơn mưa mùa hạ rộng ra, dài ra, lấp
loáng ánh đèn trồng như một con sông nước đen. Những ngọn điện trên quảng trường lung linh như
những ngôi sao trong câu chuyện cổ tích nói về những xử sở thẩn tiên. Hoa trong công viên. Những
quả bóng sút vô tội vạ của bọn trẻ con trong một góc phố. Tiếng rao của bà bán xôi sáng có cái mủng
đội trên đầu…Chao ôi, có thể là tất cả những cái đó. Những cái đó ở thiệt xa… Rồi bỗng chốc, sau một
cơn mưa đá, chúng xoáy mạnh như sóng trong tâm trí tôi…

Tổ trưởng tổ trinh sát mặt đường là chị Thao, một con người từng trải và chín chắn. Những dự
tính về tương lai của chị có vẻ thiết thực hơn nhưng những khát khao và rung động của tuổi trẻ vẫn
nồng nàn trong tim chị. Chỉ vài nét phác họa tương phản, tác giả đã vẽ nên chân dung của chị: Tiếng
máy bay trinh sát rè rè. Phản lực gầm gào lao theo sau… Chị Thao móc bánh bích quy trong túi, thong
thả nhai. Những khi biết rằng cải sắp tới sẽ không êm ả thì chị tỏ ra bình tĩnh đến phát bực. Nhưng thấy
máu, thấy vắt là chị nhắm mát lại, mặt tái mét. Áo lót của chị cái nào căng thêu chữ màu, Chị lại hay tỉa
lông mày của mình, tỉa nhỏ như cái tăm. Nhưng trong công việc ai cũng gờm chị: cương quyết, táo bạo.


18

Nhân vật thứ ba trong nhóm là Nho, một cô gái nhỏ nhắn, trông mát mẻ như một que kem trắng,
tưởng như mềm yếu nhưng thực ra rất can đảm, kiên cường. Ngày ngày, Nho cùng đồng đội phá bom
nổ chậm. Có lần, Nho bị bom vùi và mảnh bom găm vào cánh tay, máu túa ra rất nhiều, da xanh xao,
quần áo đầy bụi. Được đồng đội cứu kịp thời, Nho cắn răng chịu đau, không khóc. Cả ba cô gái đều
không khóc bởi họ cho rằng: Nước mắt đứa nào chảy trong khi cần cái cứng cỏi của nhau là bị xem
như bằng chứng của một sự tự nhục mạ. Cách nhìn nhận và thể hiện con người thiên về cái tốt đẹp,
trong sáng, cao thượng là nét chủ đạo và thống nhất trong văn học thời kì kháng chiến chống Mĩ.
Tương tự như vậy nhưng truyện của Lê Minh Khuê không rơi vào tình trạng minh họa giản đơn
vì tác giả đã phát hiện và miêu tả chân thật đời sống nội tâm với những nét tâm lí đa dạng, phong
phú của từng nhân vật. Tác giả tỏ ra rất sắc sảo trong việc thể hiện khung cảnh và không khí sôi
sục ở một trọng điểm trên tuyến đường Trường Sơn bằng một vài nét điển hình. Thành công hơn
cả là nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật. Bằng cách để cho người đứng ra kể chuyện là cô thanh
niên xung phong Phương Định, tác giả dã phản ánh một cách tự nhiên và tinh tế tâm trạng của
những cô gái ở chiến trường, luôn đối mặt với cái chết mà vẫn sống hồn nhiên, lạc quan và không
kém phần lãng mạn. Chiến tranh làm cho họ dày dạn và cứng cỏi hơn, nhưng vẫn không thể làm
mất đi nét hồn nhiên, trong sáng của tuổi trẻ.
Trong truyện có nhiều chi tiết về cuộc sống gian khổ, hiểm nguy, về những chiến công thầm
lặng và sự dụng cảm, hi sinh của thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn ác liệt. Nhưng
cái tạo nên sức hấp dẫn của truyện ngắn này là ở sự am hiểu cặn kẽ của tác giả về đời sống của những

con người đang hiến dâng tuổi thanh xuân cho Tổ quốc. Qua đó, người đọc hình dung được phần nào
về chủ nghĩa anh hùng cách mạng của tuổi trẻ Việt Nam và dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến
chống Mĩ cứu nước oanh liệt vừa qua.
================
Đề 6: Phân tích truyện ngắn "Bến quê" của Nguyễn Minh Châu.
Bến quê là truyện ngắn được lấy làm tên chung cho tập truyện của nhà văn quân đội Nguyễn
Minh Châu (1930 – 1989), xuất bản năm 1985. Ở tác phẩm này, ngòi bút của nhà văn hướng vào những
sự việc tưởng chừng nhỏ nhặt, tầm thường, để thông qua đó phát hiện ra chiều sâu của đời sống tinh
thần với bao nhiêu quy luật và nghịch lí, vượt ra khỏi tầm nhìn, tầm suy nghĩ hạn hẹp trước đây của tác
giả nói riêng và mọi người nói chung. Truyện ngắn Bến quê của Nguyễn Minh Châu chứa đựng những
suy ngẫm, trải nghiệm sâu sắc của nhà văn về con người và cuộc đời, thức tỉnh mọi người sự trân trọng
vẻ đẹp và giá trị của những điều bình dị, gần gũi của gia đình, quê hương. Triết lí trong Bến quê sâu
sắc, mang tính trải nghiệm, có ý nghĩa tổng kết của một con người sắp giá từ cuộc sống.
Cốt truyện được xây dựng trên một tình huống chứa đựng mâu thuẫn. Nhân vật chính là anh
Nhĩ, người đã từng đi khắp nơi trên thế giới, nhưng cuối đời lại bị cột chặt vào giường bởi một căn
bệnh hiểm nghèo. Nhưng cũng chính vào thời điểm ấy, Nhĩ đã phát hiện ra vùng đất bên kia sông, nơi
bến quê quen thuộc một vẻ đẹp mộc mạc mà vô cùng quyến rũ. Cũng như mãi cho đến lúc nằm liệt
giường, nhận sự săn sóc từng miếng ăn, ngụm nước của vợ con, Nhĩ mới cảm nhận được nỗi vất vả, sự
tần tảo, tình yêu và đức hi sinh thầm lặng của người vợ hiền. Nhĩ khao khát được một lần đặt chân lên
bờ bãi bên kia sông, cái miền đất gần gũi nhưng đã trở nên xa vời đối với anh. Anh đã suy ngẫm và
chiêm nghiệm ra cái quy luật đầy nghịch lí của đời người: Con người ta trên đường đời thật khó tránh
được những cái điều vòng vèo hoặc chùng chình.
Nhân vật Nhĩ rơi vào một hoàn cảnh đặc biệt là bị liệt toàn thân. Căn bệnh hiểm nghèo ấy khiến
anh hầu như không thể tự di chuyển, dù chỉ là nhúc nhích đôi chút trên giường. Mọi sinh hoạt của anh
đều phải nhờ vào sự giúp đỡ của người khác, mà chủ yếu là chị Liên, vợ anh. Trong nhiều tác phẩm,


19

các nhà văn hay đặt nhân vật vào hoàn cảnh giáp ranh giữa sự sống và cái chết và khai thác tình huống

ấy để nói về khát vọng sống và sức sống mạnh mẽ của con người, về lòng nhân ái, sự hi sinh cao
thượng… Nhưng ở truyện này, nhà văn Nguyễn Minh Châu không khai thác theo hướng đó mà lại
chiêm nghiệm, suy ngẫm để rút ra triết lí về đời người. Kịch tính của truyện nằm ở cái điều trớ trêu là
suốt mấy chục năm công tác, Nhĩ đã có điều kiện đặt chân đến hầu như khắp mọi nơi trên thế giới. Ấy
thế mà những năm cuối đời, căn bệnh bại liệt quái ác lại buộc chặt anh vào giường và hành hạ anh suốt
mấy năm trời.
Vào một buổi sáng, Nhĩ muốn nhích người đến gần bên cửa sổ. Anh phải nhờ đám trẻ hàng xóm
giúp đỡ. Tình huống nghịch lí ấy lại dẫn đến một tình huống thứ hai trong truyện cũng không kém phần
nghịch lí: Nhĩ phát hiện ra vẻ đẹp lạ lùng của bãi bồi bên kia sông ngay phía trước cửa sổ nhưng anh
biết rằng mình sẽ không bao giờ có thể được đặt chân lên mảnh đất ấy, dù nó ở rất gần. Nhĩ đã nhờ cậu
con trai thực hiện giúp mình điều khao khát đó, nhưng rồi cậu ta lại sa vào một đám chơi phá cờ thế
trên hè phố và có thể sẽ để lỡ mất chuyến đò ngang duy nhất trong ngày. Tạo ra một chuỗi những tình
huống nghịch lí như trên, tác giả muốn người đọc lưu ý đến một vấn đề của cuộc đời: cuộc sống và số
phận con người chứa đầy những điều bất thường, ngẫu nhiên, vượt ra ngoài dự định, ước muốn và cả
những tính toán cố sẵn. Nhưng ý nghĩa của tình huống trong truyện Bến què không dừng ở dó mà nó
còn mồ ra một nội dung triêt lí mang tính tổng kết những trải nghiệm của cả đời người, qua suy ngẫm
của nhân vật Nhĩ: Con người ta trên đường đời thật khó tránh được những cái điều vòng vèo hoặc
chùng chình… Cũng như sự giàu có lẫn vẻ đẹp gần gũi của bãi bồi bên kia sông hay phẩm chất của
người vợ tần tảo, giàu tình yêu và đức hi sinh thì phải đến lúc này, khi sắp giã biệt cuộc đời, Nhĩ mới
thấu hiểu và cảm nhận thấm thía.
Vẻ đẹp của thiên nhiên trong một buổi sáng đầu thu được miêu tả qua cái nhìn và cảm xúc tinh
tế của nhân vật Nhĩ. Cảnh vật được miêu tả theo tầm nhìn của Nhĩ từ gần đến xa, tạo thành một không
gian có chiều sâu, chiều rộng. Đầu tiên, anh nhìn thấy những bông bằng lăng tím ngay phía ngoài cửa
sổ, rồi đến con sông Hồng với màu nước đỏ nhạt và sau cùng là bãi bồi bên kia sông. Cảnh vật thiên
nhiên hiện ra với vẻ đẹp vô cùng quyến rũ: Bên kia những cây bằng lăng, tiết trời đầu thu đem đến cho
con sông Hồng một màu đỏ nhạt, mặt sông như rộng thêm ra. Vòm trời cũng như cao hơn. Những tia
nắng sớm đang từ từ di chuyển từ mặt nước lên những khoảng bờ bãi bên kia sông, và cả một vùng phù
sa lâu đời của bãi bồi ở bèn kia sông Hồng lúc này đang phô ra trước khuôn cửa sổ của gian gác nhà
Nhĩ một thứ màu vàng thau xen với màu xanh non – những màu sắc thân thuộc quá như da thịt, hơi thở
của đất màu mỡ… Không gian và những cảnh sắc ấy vốn quen thuộc, gần gũi, nhưng hầu như rất mới

mẻ đối với Nhĩ. Tưởng chừng như lần đầu tiên trong đời, anh cảm nhận được vẻ đẹp phong phú của nó.
Từ hoàn cảnh cụ thể của mình, Nhĩ đã quan sát, suy ngẫm để rút ra quy luật giống như một nghịch lí
của đời người.
Nhĩ bị bệnh đã lâu ngày. Mọi sự, anh đều phải trông cậy vào vợ con. Trong buổi sáng hôm đó,
Nhĩ đã linh cảm rằng thời gian của đời mình không còn bao lâu nữa: Nhĩ khó nhọc nâng một cánh tay
lên khẽ ẩy cái bát miến trên tay Liên ra. Anh ngửa mặt như một đứa trẻ để cho thằng Tuấn cầm chiếc
khăn bồng tẩm nước ấm khẽ lau miệng, cằm và hai bên má cho mình. Rồi anh hỏi vợ : Đêm qua lúc
gần sáng em cô nghe thấy tiếng gì không?… Hôm nay đã là ngày mấy rồi em nhỉ? Chị Liên dường như
cũng đã cảm nhận được tình cảnh và tâm trạng của chồng nên lảng tránh trả lời những câu hỏi của anh.
Anh Nhĩ nghĩ về chị Liên thật cảm động. Lần đầu tiên, anh để ý thấy vợ mình mặc tấm áo vá. Những
ngón tay gầy guộc của chị âu yếm vuốt ve vai anh và Nhĩ nhận ra tất cả tình yêu thương, sự tần tảo và
đức hi sinh thầm lặng của vợ. Nhĩ nói với vợ: Suốt đời anh chỉ làm em khổ tâm… mà em vân nín thinh.
Chị Liên trả lời: Có hề gì đâu… Miễn là anh sống, luôn luôn có mặt anh, tiếng nói của anh trong gian
nhà này. Chính trong những ngày cuối đời, Nhĩ mới thực sự thấu hiểu và biết ơn sâu sắc người vợ hiền
thục, đảm đang:…, cũng như cảnh bãi bồi đang nằm phơi mình bên kia, tâm hồn Liến vẫn giữ nguyền


20

vẹn những nét tần tảo và chịu đựng hi sinh từ bao đời xưa, và cũng chính nhờ có điều đó mà sau nhiều
ngày tháng bôn tẩu, tìm kiếm… Nhĩ đã tìm thấy được nơi nương tựa là gia đình trong những ngày này.
Vào buổi sáng hôm ấy, khi nhận ra vẻ đẹp bình dị, gần gũi của cảnh vật qua ô cửa sổ, đồng thời
cũng hiểu rằng mình sắp phải giã biệt cõi đời, trong tâm thức Nhĩ bừng dậy một khát khao vô vọng là
được đặt chân một lần lên cái bãi bồi bên kia sông. Điều ước muốn ấy chính là sự thức tỉnh về những
giá trị bền vững của những điều bình thường và sâu sắc của cuộc sống thường bị người ta bỏ qua hoặc
lãng quên, nhất là thời còn trẻ, khi những ham muốn xa vời, hão huyền đang lôi cuốn con người tìm
đến. Sự thức tỉnh này chỉ đến với người ta ở cái tuổi đã từng trải, với Nhĩ thì đó là thời gian cuối đời,
lại phải nằm liệt trên giường bệnh. Bởi thế sự thức tỉnh của anh xen lẫn niềm ân hận, xót xa: Họa chăng
chỉ có anh đã từng trải, đã từng in gót chân khắp mọi chân trời xa lạ mới nhìn thấy hết sự giàu có lẫn
mọi vẻ đẹp của một cái bãi bồi sông Hồng ngay bờ bên kia. Nhĩ đã nhờ con trai thay mình đi sang bên

kia sông, đặt chân lên bãi phù sa màu mỡ ấy. Nhưng anh lại gặp thêm một nghịch lí nữa là đứa con
không hiểu được ước muốn tha thiết của cha nên làm theo một cách miễn cưỡng và rồi lại bị cuốn hút
vào trò chơi phá cờ thể rất hấp dẫn mà nó gặp trên đường đi, để rồi cố thể sẽ lỡ chuyến đò ngang duy
nhất trong ngày. Anh Nhĩ không trách con, bởi vì nó đã thấy có gì đáng hấp dẫn ở bên kia sông đâu. Nó
cũng giông hệt như anh mấy mươi năm về trước.
Cuối truyện, tác giả tả khi thấy con đò ngang vừa chạm mũi vào bờ đất bên này, Nhĩ đã thu hết
tàn lực dồn vào một cử chỉ có vẻ kì quặc: Anh đang cố thu nhặt hết mọi chút sức lực cuối cùng còn sót
lại để đu mình nhô người ra ngoài, giơ một cánh tay gầy guộc ra phía ngoài cửa sổ khoát khoát như
đang khẩn thiết ra hiệu cho một người nào đó. Hành động này của Nhĩ có thể hiểu là anh đang nôn
nóng thúc giục cậu con trai hãy mau mau xuống bến kẻo lỡ đò, nhưng hình ảnh này còn có ý nghĩa sâu
xa hơn. Đó là ý muôn thức tỉnh mọi người về những cái vòng vèo, chùng chình mà chúng ta đang sa
vào trên đường đời, hãy cố gắng dứt ra khỏi nó để hướng tới những giá trị đích thực, bền vững vốn rất
giản dị, gần gũi của cuộc đời xung quanh ta. Nhân vật Nhĩ là nhân vật tư tưởng, một loại nhân vật xuất
hiện khá nhiều trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu giai đoạn sau 1975. Nhà văn đã gửi gắm qua
nhân vật này nhiều điều mà ông quan sát, suy ngẫm, triết lí về cuộc đời và con người. Nhưng nhân vật
không bị biến thành cái loa phát ngôn cho tác giả. Những chiêm nghiệm, triết lí của ông đã được
chuyển hóa nhuần nhuyễn vào đời sống nội tâm của nhân vật, với diễn biến tâm trạng tinh tế dưới sự
tác động của hoàn cảnh bất thường.
Đặc điểm nổi bật trong nghệ thuật của truyện là nhà văn đã sáng tạo ra những hình ảnh giàu ý
nghĩa biểu tượng. Vậy hình ảnh biểu tượng là gì? Trong truyện Bến quê, hầu như mọi hình ảnh đều
mang hai lớp nghĩa: nghĩa thực và nghĩa biểu tượng. Hai lớp nghĩa này gắn bó thống nhất, khiến cho
các hình ảnh không bị tước đi giá trị tạo hình và sức gợi cảm để chỉ đơn thuần là hình ảnh ước lệ. Ý
nghĩa biểu tượng được gợi ra từ hình ảnh thực, nhưng phải đặt nó vào trong cả hệ thống hình ảnh và nó
chỉ có thể toát lên ý nghĩa khi đối chiếu với chủ đề của tác phẩm. Hình ảnh bãi bồi, bến sông và toàn bộ
khung cảnh thiên nhiên được miêu tả trong truyện cũng mang ý nghĩa khái quát, tượng trưng. Đó là vẻ
đẹp dung dị, tự nhiên của đời sông thể hiện qua những sự vật gần gũi, thân thuộc như một bến đò, một
dòng sông, một bãi bồi,… nói rộng ra là quê hương, xứ sở. Nhiều hình ảnh và chi tiết khác trong truyện
cũng chứa đựng ý nghĩa biểu tượng khá rõ: Những bông hoa bằng lăng cuối mùa màu sắc như đậm
hơn; tiếng những tảng đất lở ở bờ sông bên này, khi cơn lũ đầu nguồn dồn về, đã đổ ụp vào cả trong
giấc ngủ của Nhĩ lúc gần sáng. Hai chi tiết này gợi cho người đọc ý nghĩ là sự sống của nhân vật Nhĩ

đã ở vào những ngày cuối cùng. Đứa con trai của Nhĩ sa vào một đám chơi phá cờ thế trên lề đường là
chi tiết giống như điều mà Nhĩ gọi là sự chùng chình, vòng vèo mà trên đường đời, người ta khó lòng
tránh khỏi. Hành động và cử chỉ của Nhĩ ở cuối truyện cũng mang ý nghĩa biểu tượng. Bằng việc đặt
nhân vật vào tình huống có tính nghịch lí, truyện Bến quê phát hiện một điều có tính quy luật: trong
cuộc đời, con người thường khó tránh khỏi những diều vòng vèo, chùng chình, đồng thời thức tỉnh về


21

những giá trị và vẻ đẹp đích thực của đời sống ở những điều quen thuộc, bình thường mà bền vững
muôn đời. Qua cảnh ngộ và tâm trạng của nhân vật Nhĩ, chúng ta cảm nhận dược ý nghĩa triết lí về
cuộc đời con người mà nhà văn dặt ra trong tác phẩm: Hãy cố gắng tìm hiểu và cảm nhận những vẻ đẹp
bình dị mà quý giá ẩn chứa trong những gì quen thuộc, gần gũi nhất của gia đình và quê hương.
Truyện được kể theo cái nhìn và tâm trạng của nhân vật Nhĩ, trong một cảnh ngộ đặc biệt. Giọng
trầm tư, suy ngẫm của một người từng trải, cùng với giọng xúc động, đượm buồn, có cả sự ân hận và
xót xa của một người nhìn vào hiện tại và quá khứ của mình ở cái thời điểm biết mình sắp phải từ giã
cuộc đời. Những đoạn tả hàng cây bằng lăng, con sông, bờ bãi bên kia sông là những đoạn vãn rất hay.
Tác giả đã miêu tả những sắc thái khác nhau của vẻ đẹp thiên nhiên bằng tính từ chỉ màu sắc và những
đường nét tạo hình rất gợi cảm. "Bến quê" là một truyện ngắn xuất sắc, chứa đựng những chiêm
nghiệm, triết lí sâu sắc về đời người. Những cảm xúc tinh nhạy đã được tác giả thể hiện bằng lời vãn
hàm súc, giản dị và những hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng nhưng dễ hiểu.
==================



×