Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm hướng tiếp cận bài học nhằm tạo hứng thú cho học sinh khi học môn ngữ văn bậc THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (246.42 KB, 33 trang )

Sáng ki ến kinh nghi ệm :H ướ
n g ti ếp c ận bài h ọc nh ằm t ạo h ứng thú cho h ọ
c sinh
khi h ọc môn Ng ữv ăn b ậc THPT
MỤC LỤC
PHẦN I : ĐẶT VẤN ĐỀ. 1
1.

Lý do chọn đề tài 1

2.

Mục đích nghiên cứu. 2

3.

Nhiệm vụ nghiên cứu. 2

4.

Đối tượng nghiên cứu. 3

5.

Phạm vi nghiên cứu. 3

6.

Phương pháp nghiên cứu. 3

7.



Lịch sử đề tài 3

8.

Cấu trúc của SKKN.. 3

PHẦN II : NỘI DUNG.. 4
Chương 1. 4
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 4
1.1. Cơ sở lý luận chung 4
1.2. Các khái niệm cơ bản. 5
1.3. Các góc độ tác động của sự hứng thú. 6
Chương 2. 8
THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU.. 8
2.1. Khảo sát số liệu. 8
2.2. Về phía giáo viên. 8
2.3. Về phía người học: 9
Chương 3. 10


GIẢI PHÁP THỰC HIỆN.. 10
3.1. Tạo tâm thế học tập. 10
3.2. Linh hoạt, đa dạng trong phương pháp. 11
3.3. Ứng dụng công nghệ thông tin. 13
3.4. Lồng ghép các trò chơi trong dạy học Ngữ văn. 16
Chương 4. 21
KẾT QUẢ THỰC HIỆN.. 21
4.1. Kết quả từ các phiếu hỏi 21
4.2. Kết quả từ quan sát thực tế. 22

4.3. Kết quả kiểm tra. 22
PHẦN 3 : KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 22
1.

Kết luận. 22

2.

Kiến nghị 23

TÀI LIỆU THAM KHẢO.. 25

PH ẦN I : ĐẶT V ẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
Đổi mới căn bản, toàn diện là yêu cầu của giáo dục hiện nay. Việc xây dựng, áp dụng
những hướng tiếp cận, phương pháp mới trong dạy học bộ môn để nâng cao hiệu quả dạy
và học là yêu cầu phải được giải quyết. Đặc biệt, với xu hướng học lệch, học theo ban,
chọn ngành nghề theo khối hiện nay tạo ra rất nhiều bất cập trong việc lựa chọn môn học.
Các môn xã hội có xu hướng bị coi nhẹ. Môn Ngữ văn cũng không nằm ngoài xu hướng
ấy.


Thời gian qua, Ngành giáo dục đã thực hiện đổi mới phương pháp dạy học ở tất cả các
môn học trong đó có môn Ngữ văn. Tuy nhiên, điều khiến cho những giáo viên dạy văn
băn khoăn, trăn trở hơn hết đó là học sinh thường lựa chọn các môn học tự nhiên với mục
tiêu chọn trường, ngành, nghề sau này dễ dàng và thuận lợi hơn. Nhiều học sinh cho rằng
Ngữ văn là môn khoa học xã hội, tính ứng dụng không cao, không thiết thực với cuộc
sống, công việc. Từ đó, dẫn đến tình trạng chán học văn, hoặc học mang tính đối phó.
Học sinh thích học văn ngày càng ít đi.
Vì vậy, việc đổi mới phương pháp dạy học, trong đó có đổi mới phương pháp, tìm hướng

tiếp cận mới trong dạy học môn Ngữ văn, tạo hứng thú, nâng cao năng lực học tập cho
học sinh, giúp học sinh cảm nhận được cái hay, cái đẹp, biết cảm thông, yêu thương chia
sẻ với những số phận, cuộc đời thông qua mỗi trang sách, thông qua từng tác phẩm là
điều rất cần thiết. “Văn học là nhân học” học văn là để hình thành nhân cách con người.
Và Ngữ văn là môn học quan trọng giúp học sinh có kỹ năng giao tiếp ứng xử trong cuộc
sống. Tìm hướng tiếp cận, đổi mới phương pháp, từ đó tạo hứng thú trong học tập cho
học sinh, khơi gợi, đánh thức niềm đam mê với văn học, tìm về với giá trị đời sống tâm
hồn của con người là vấn đề được đặt ra và cần phải giải quyết.
Luận ngữ có câu: “Biết mà học không bằng thích mà học, thích mà học không bằng say
mà học”. Yếu tố cảm xúc, say mê chính là động lực lớn thúc đẩy, nuôi dưỡng sự cố gắng,
nỗ lực học tập không ngừng của mỗi chúng ta.
Với vai trò là người tổ chức, hướng dẫn và điều khiển quá trình học tập của học sinh, hơn
ai hết giáo viên phải tìm, xây dựng hướng tiếp cận mới, phương pháp mới để phát tính
tích cực sáng tạo của người học, tạo hứng thú, hưng phấn, khơi dậy đam mê học tập ở
học sinh.
Ngày nay, với xu thế, tác động của cơ chế thị trường, nhiều giá trị nhân văn, nhiều yếu tố
văn hóa đang trở nên bị coi nhẹ, bị lai tạp, giao thoa, mai một. Từ thực tế ấy, đòi hỏi giáo
viên nói chung và đặc biệt là các thầy cô – giáo viên dạy Ngữ văn nói riêng phải nhận
thức rõ vai trò và trách nhiệm của mình – những người nghệ sĩ tâm hồn là vô cùng quan
trọng và nhiều thử thách. Thực tế ấy cũng khiến cho việc tổ chức, dẫn dắt học sinh tiếp
cận tác phẩm văn chương, tìm hiểu các giá trị nhân văn, đạo lí truyền thống càng trở nên
nhọc nhằn hơn. Nó đòi hỏi người giáo viên Ngữ văn ngoài chuyên môn vững vàng cần có


tâm thế tốt, luôn nhiệt huyết, yêu nghề, luôn trau dồi đổi mới phương pháp để tạo được
hứng thú học tập, nâng cao chất lượng giáo dục.
Có thể nói, cốt lõi của việc tạo hứng thú, tạo tâm thế hưng phấn, tích cực cho học sinh
trong học tập bộ môn nói chung và môn Ngữ văn nói riêng là đổi mới phương pháp dạy
học, dạy học theo hướng lấy hoạt động học tập của học sinh làm trung tâm, học trò là
người chủ động khám phá, lĩnh hội kiến thức, người thầy đóng vai trò là người tổ chức,

chỉ đạo. Vì vậy, việc nghiên cứu tìm những hướng tiếp cận bài học linh hoạt, khoa học,
hợp lí nhằm tạo hứng thú học tập của học sinh trong dạy học Ngữ văn là rất cần thiết.
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, kết hợp kinh nghiệm giảng dạy thực tiễn của bản
thân, với mong muốn, trong từng bài dạy, trong từng giờ học văn, học sinh luôn hứng
thú, chủ động, yêu thích môn học, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả dạy và học tôi chọn
đề tài: “Hướng tiếp cận bài học nhằm tạo hứng thú cho học sinh khi học môn Ngữ
văn bậc THPT ”.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của tôi khi nghiên cứu vấn đề này là tìm được những hướng tiếp cận,
phương pháp dạy học tích cực nhằm tạo được hứng thú học tập môn Ngữ văn của học
sinh khi học môn Ngữ văn nói chung và Ngữ văn THPT nói riêng. Đồng thời, qua thực
trạng, tìm hiểu được nguyên nhân, các yếu tố ảnh hưởng tới việc học văn của học sinh, từ
đó đề xuất một số biện pháp tạo hứng thú học tập môn Ngữ văn, góp phần nâng cao hơn
nữa chất lượng học tập môn Văn cho học sinh THPT.
Hơn nữa, qua đề tài này tôi mong rằng có thể góp phần nào đó trong việc bồi dưỡng tâm
hồn người học, như Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh từng nói: “Học văn là làm cho tâm hồn
mỗi con người phong phú thanh cao và yêu đời hơn, người học văn sẽ có ý thức được và
không bao giờ là người thô lỗ, cục cằn”.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
– Nghiên cứu, tìm hiểu các phương pháp dạy học, hướng tiếp cận bài học nhằm tạo sự
hứng thú học tập cho học sinh.
– Đề xuất biện pháp, hướng tiếp cận bài học tạo được hứng thú trong học tập từ đó nâng
cao hiệu quả dạy và học.


4.

Đối tượng và khách thể nghiên cứu
Tìm hiểu phương pháp, hướng tiếp cận bài học nhằm tạo hứng thú trong việc dạy


và học môn Ngữ văn ở THPT.
5. Phạm vi nghiên cứu
– Phạm vi kiến thức: Chương trình Ngữ văn bậc THPT.
– Phạm vi địa bàn nghiên cứu: Học sinh các lớp được phân công giảng dạy tại nhà trường
đang công tác.
– Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 09 năm 2015 đến tháng 03 năm 2016.
6. Phương pháp nghiên cứu:
– Phương pháp điều tra (Phỏng vấn, phiếu điều tra).
– Phương pháp đối chứng.
– Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
– Phương pháp kiểm tra.
7. Lịch sử đề tài
Vấn đề nghiên cứu Hướng tiếp cận bài học nhằm tạo hứng thú cho học sinh khi học môn
Ngữ văn bậc THPT đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu như :


“Đổi mới phương pháp dạy học trong các trường đại học, cao đẳng đào tạo
giáo viên trung học cơ sở”. Hà Nội tháng 9/2003.



“Các phương pháp dạy học hiệu quả”. NXB trẻ, 2001.



M. Iacoplep. “Phương pháp và kỹ thuật lên lớp ở trường phổ thông”. NXB
Giáo dục, 1975 – 1978.

Tuy nhiên các tác giả chỉ chỉ đề cập ở mức độ khái quát, có tính chất lí luận, chứ chưa đi
sâu tìm hiểu Hướng tiếp cận bài học nhằm tạo hứng thú cho học sinh khi học môn Ngữ

văn bậc THPT một cách cụ thể.
8. Cấu trúc của SKKN


Gồm : 3 phần
Phần I : Đặt vấn đề
Phần II : Nội dung
Phần III : Kết luận, kiến nghị

PH ẦN II : N ỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ TH ỰC TI ỄN C ỦA ĐỀ TÀI
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Cơ sở lí luận chung
Bác Hồ đã từng căn dặn các thế hệ học sinh : “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp
được hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quanh để sánh vai với các cường
quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em.”
Và như Jacques Delors đã nói : “Giáo dục là một trong những công cụ mạnh nhất mà
chúng ta có trong tay để đào tạo nên tương lai”. Đảng và Nhà nước ta đã luôn xác định
“Giáo dục là quốc sách hàng đầu”.
Chúng ta đang trên đà đổi mới, hội nhập cùng xu thế chung của thời đại. Cùng với sự đổi
mới đó, đòi hỏi nền giáo dục nước ta có sự đổi mới, đổi mới toàn diện để bắt kịp thời đại.
Đảng ta đã khẳng định: “Giáo dục là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân và giáo viên là
nhân tố quyết định chất lượng giáo dục” (Nghị quyết TW II – Khóa VIII).
Văn kiện Đại hội XI của Đảng xác định: “Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu.
Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa,
xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục,
phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt. Tập trung nâng cao
chất lượng giáo dục, đào tạo, coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ
năng thực hành, khả năng lập nghiệp. Đổi mới cơ chế tài chính giáo dục. Thực hiện kiểm

định chất lượng giáo dục, đào tạo ở tất cả các bậc học. Xây dựng môi trường giáo dục
lành mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường với gia đình và xã hội”.


Luật Giáo dục đã ghi: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tích tích cực, tự
giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm từng lớp học, môn học; bồi
dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm, rèn kỹ năng vận dụng kiến
thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học
sinh”.
Như vậy, vai trò của giáo dục là cực kì quan trọng, liên quan đến sự phát triển bền vững
của một quốc gia. Đảng, Nhà nước và nhân dân ta luôn nhận thức rất rõ điều đó. Trong
xu thế mới, điều kiện phát triển mới, thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước giáo
dục càng được ưu tiên hàng đầu. Để đáp ứng nhu cầu mới, nhất thiết phải đẩy mạnh đổi
mới, đổi mới toàn diện giáo dục. Trong đó, việc đổi mới phương pháp dạy học, đặc biệt
là với môn Ngữ văn là điều rất cần thiết. Trong đó nhiệm vụ đầu tiên là làm cách nào để
người học luôn sẵn tâm thế và yêu thích môn học, từ đó say mê, chủ động tích cực coi
học tập là nhiệm vụ hàng đầu.
1.1.2. Các khái niệm cơ bản
Với đề tài đã lựa chọn “Hướng tiếp cận bài học nhằm tạo hứng thú cho học sinh khi học
môn Ngữ văn lớp 11 THPT” trước hết tôi muốn làm rõ một số vấn đề: Hướng tiếp cận,
hứng thú, hứng thú học tập là gì?
– Theo Từ điển tiếng Việt (nhà xuất bản trẻ, 2002), hướng được hiểu là phía, mặt,
ngoảnh về. Ở đây chúng ta có thể hiểu hướng là phương thức, phương hướng, góc độ,
chiều hướng tiếp cận vấn đề.
– Theo Từ điển tiếng Việt (nhà xuất bản trẻ, 2002, tiếp cận là gần kề, sát cạnh.
– Từ những năm 90 của thế kỉ trước, khi so sánh quốc tế về thiết kế chương trình giáo
dục, người ta thường nêu lên hai cách tiếp cận chính:
+ Thứ nhất là tiếp cận dựa vào nội dung hoặc chủ đề và thứ hai là tiếp cận dựa vào kết
quả đầu ra. Để ngắn gọn xin gọi cách 1 là tiếp cận nội dung và cách 2 là tiếp cận kết quả
đầu ra.

+ Tiếp cận nội dung là cách nêu ra một danh mục đề tài, chủ đề của một lĩnh vực/môn
học nào đó. Tức là tập trung xác định và trả lời câu hỏi: Chúng ta muốn học sinh cần biết
cái gì? Cách tiếp cận này chủ yếu dựa vào yêu cầu nội dung học vấn của một khoa học bộ
môn nên thường mang tính “hàn lâm”, nặng về lý thuyết và tính hệ thống, nhất là khi


người thiết kế ít chú đến tiềm năng, các giai đoạn phát triển, nhu cầu, hứng thú và điều
kiện của người học.
+ Thứ hai là tiếp cận kết quả đầu ra, là cách tiếp cận nêu rõ kết quả những khả năng hoặc
kĩ năng mà học sinh mong muốn đạt được vào cuối mỗi giai đoạn học tập trong nhà
trường ở một môn học cụ thể. Nói cách khác, cách tiếp cận này nhằm trả lời câu hỏi :
chúng ta muốn học sinh biết và có thể làm được những gì?
Như vậy, có thể hiểu hướng tiếp cận là phương pháp, cách thức, góc độ tìm hiểu làm rõ
một vấn đề, nội dung nào đó và hướng đến đạt được mục đích đề ra. Ở đây chúng ta có
thể hiểu đó là hướng tiếp cận bài học, hướng tìm hiểu nội dung nhằm tạo hứng thú, say
mê kích thích khả năng học tập của học sinh.
– Theo Đại từ điển Tiếng Việt – Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin năm 1998, hứng thú có
hai nghĩa, đó là “Biểu hiện của một nhu cầu, làm cho chủ thể tìm cách thỏa mãn, tạo ra
khoái cảm, thích thú và huy động sinh lực để cố gắng thực hiện” và “hứng thú là sự ham
thích”.
Qua khái niệm trên ta thấy rằng: hứng thú có nghĩa là tâm trạng vui vẻ, thích thú, hào
hứng của con người đối với một hoạt động nào đó. Ở đây là hứng thú, chủ động tích cực
học tập nói chung và với môn Ngữ văn nói riêng.
Khi có được sự say mê, thích thú con người sẽ làm việc có hiệu quả hơn, dễ thành công
và thành công nhanh hơn, bởi lẽ hứng thú còn chính là động lực thúc đẩy hoạt động của
con người đi sâu vào bản chất của đối tượng nhận thức mà không dừng lại ở bề ngoài của
hiện tượng, nó đòi hỏi con người phải hoạt động tích cực, chịu khó tìm tòi hoặc sáng tạo.
Hứng thú có nhiều tác dụng trong cuộc sống nói chung và trong dạy học nói riêng.
1.1.3. Các góc độ tác động của sự hứng thú
1.1.3.1. Tác động của hứng thú trong cuộc sống

– Hứng thú có tác dụng chống lại sự mệt nhọc và những cảm xúc tiêu cực, duy trì trạng
thái tỉnh táo ở con người.
– Hứng thú định hướng và duy trì tính tích cực của con người, làm con người chịu khó
tìm tòi và sáng tạo.


– Hứng thú đóng vai trò chủ đạo trong sự phát triển và hình thành nhân cách con người,
nó tạo nên khả năng cho hoạt động trí tuệ, thẩm mỹ và các dạng hoạt động khác.
– Hứng thú làm cho con người xích lại gần nhau hơn.
1.1.3.2. Tác động của hứng thú trong dạy học
Dạy học là một nghệ thuật, người dạy – giáo viên là những “kỹ sư tâm hồn”, sản phẩm
tạo ra của quá trình dạy học là sản phẩm đặc biệt – con người (nhân cách). Nó không hề
giống với bất kỳ một ngành nghề nào. Điều đó đặt ra những yêu cầu khắt khe đối với
giáo viên. Theo William A. Ward thì:
“ Người thầy trung bình chỉ biết nói,
Người thầy giỏi biết giải thích,
Người thầy xuất chúng biết minh họa,
Người thầy vĩ đại biết cách truyền cảm hứng”
Từ đó ta thấy việc truyền cảm hứng (gây hứng thú) học tập cho học sinh, người học là
điều cực kì quan trọng và cần thiết. Bởi lẽ: “Chúng ta không thể dạy ai làm bất cứ điều
gì, chúng ta chỉ có thể giúp họ khám phá điều đó” (Theo Galileo Galilei).
Cho nên, nếu khơi dậy được sự hứng thú, say mê cho học sinh thì sẽ tạo ra động cơ học
tập tích cực, giúp các em hăng say, nỗ lực vượt qua mọi khó khăn, trở ngại để đạt kết quả
học tập tốt nhất, và từ đó người học sẽ tiếp nhận tri thức một cách chủ động và tự giác,
không bị ép buộc,…
Khi hứng thú học tập, người học sẽ:
– Hăng hái trả lời các câu hỏi của giáo viên, bổ sung câu trả lời của bạn, thích phát biểu ý
kiến của mình trước những vấn đề nêu ra.
– Hay nêu thắc mắc, đòi hỏi giải thích cặn kẽ những vấn đề chưa hiểu rõ ràng.
– Chủ động vận dụng kiến thức kĩ năng đã học để nhận thức vấn đề mới, tập trung chú ý

vào vấn đề đang học.
– Kiên trì hoàn thành bài tập, không nản chí trước những tình huống khó khăn…


– Hứng thú còn giúp học sinh tích cực học tập qua những cấp độ từ thấp đến cao:
+ Bắt chước: gắng sức làm theo các mẫu hành động của thầy, của bạn…
+ Tìm tòi: độc lập giải quyết vấn đề nêu ra, tìm kiếm những cách giải quyết khác nhau về
một vấn đề…
+ Sáng tạo: tìm ra cách giải quyết mới, độc đáo, hữu hiệu.
Tóm lại, khi học sinh hứng thú với bài học, với môn học sẽ tạo không khí thi đua học tập
sôi nổi, tích cực, say mê học hỏi, tìm tòi, nghiên cứu… đây chính là một trong những tiền
đề dẫn đến sáng tạo và tài năng. Và tôi tin rằng quá trình dạy học nhất định sẽ đạt được
kết quả cao.
“Hứng thú, ham mê học tập là một trong những nguồn gốc chủ yếu nhất của việc
học tập có kết quả cao, là con đường dẫn đến sáng tạo và tài năng.”(Viện KHGD –
“ Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”.)
1.2. Cơ sở thực tiễn đề tài
Việc đổi mới phương pháp dạy học là một nhiệm vụ, yêu cầu bắt buộc đối với giáo dục
nước ta hiện nay, đặc biệt đối với hệ thống giáo dục phổ thông, trong đó có việc dạy và
học môn Ngữ văn. Những năm gần đây, việc tích cực đổi mới, đổi mới căn bản, toàn diện
trong giáo dục của chúng ta đã đem lại nhiều kết quả khả quan. Tuy nhiên, vẫn còn đó
nhiều khó khăn, bất cập và cần tích cực đổi mới hơn nữa. Dạy và học môn Ngữ văn ở các
trường THPT chưa đạt được yêu cầu chất lượng và hiệu quả như mong muốn. Đặc biệt,
sự mến mộ yếu thích của người học đối với môn học không còn nhiều mặn mà.
1.2.1. Khảo sát số liệu
Bảng 1: Khảo sát số liệu học sinh yêu thích hứng thú với môn học đầu năm học
2015 – 2016 lớp 11 A4
Đối tượng khảo sát

Mức độ hứng thú

Thích

Không thích

Bình thường

Sĩ số

Số lượng

%

Số lượng

%

Số lượng

%

40

7

17.5

10

25


23

57.5


Bảng 2: Khảo sát chất lượng môn học đầu năm
Khảo sát
điểm
40

Giỏi
TS

%

0

0

4

Khá

Trung bình

Yếu

Kém

TS %


TS

%

TS

%

TS

%

10

16

40

17

42.5

3

7.5

Số liệu được khảo sát đầu năm học 2015 – 2016, trên tổng số 40 học sinh, lớp
11A4, với 26 nữ, 14 nam.
Nhận thấy, tỷ lệ học sinh yêu thích và hứng thú với môn học là không cao, chỉ chiếm

17.5%. Kết quả khảo sát qua bài kiểm tra đánh giá kiến thức môn học của học sinh cũng
cho thấy số lượng học sinh có điểm môn học yếu, kém cao chiếm 50%.
Theo tôi, Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó, cả nguyên nhân chủ quan lẫn
khách quan.
1.2.2. Về phía giáo viên
Theo tôi, có rất nhiều nguyên nhân làm ảnh hưởng đến chất lượng dạy học bộ môn Ngữ
văn hiện nay trong các trường THPT, từ việc thiết kế chương trình chưa hợp lý : nặng về
lý thuyết thiếu thực hành đã gây nhàm chán và lãng phí thời gian mà lại không phát huy
sự tìm tòi khám phá những điều mới mẻ của học sinh; việc thiếu thốn về trang thiết bị
dạy học như tranh ảnh minh họa, đồ dùng trực quan, dụng cụ nghe nhìn, tài liệu tham
khảo… cho giáo viên cũng như học sinh khiến cho việc áp dụng dạy học theo phương
pháp mới gặp nhiều khó khăn.
Một trong những nguyên nhân cơ bản nữa là việc vận dụng đổi mới phương pháp vào
giảng dạy ở môn Ngữ văn chưa đáp ứng yêu cầu. Chính vì thế, dẫn đến việc dạy – học
chay tràn lan, đơn điệu, nặng về thuyết giảng một chiều, để trò ghi chép rồi học thuộc ý
của thầy. Cách học theo lối thụ động đó sẽ không gây được sự hào hứng tìm tòi, khám
phá những điều mới mẻ trong mỗi giờ học. Do đó, những kiến thức học sinh thu nhận
được thiếu sâu sắc, không để lại những ấn tượng lâu dài.
1.2.3. Về phía người học:
Phải thừa nhận một thực tế là đa số học sinh hiện nay không thích học môn Ngữ văn,
không có hứng thú trong việc tiếp thu kiến thức văn chương.


Do tính đặc thù môn học, là một môn học mang tính cảm xúc, tư duy trừu tượng, chịu
chi phối rất nhiều bởi yếu tố văn hóa, tâm lí, cảm xúc, đòi hỏi người học phải có trí tưởng
tượng phong phú. Đây cũng là môn học mà nội dung không chỉ hiện ra trên dạng câu từ
mà nó còn bao hàm, ẩn chứa nhiều tầng nghĩa sâu xa (đặc biệt phần văn học), vì thế việc
tiếp nhận môn học này đối với học sinh là rất khó khăn. Mà học sinh nhiều em rất thiếu
lòng quyết tâm học tập, cứ khó khăn là nản, bỏ…không học, dẫn đến yếu kém rồi chán
môn học đó.

1.3. Tiểu kết chương 1
Như vậy, dạy học theo hướng tiếp cận bài học nhằm tạo hứng thú cho học sinh khi học
môn Ngữ văn bậc THPT có tác dụng bồi dưỡng, nâng cao kiến thức và tạo hứng thú cho
học sinh trong quá trình học môn Ngữ văn ở bậc THPT.
Điều quan trọng là dạy học nhằm tạo hứng thú cho học sinh đòi hỏi phải tổ chức hoạt
động học tích cực,và sáng tạo làm cho học sinh say mê học tập. Dạy học theo hướng tiếp
cận bài học nhằm tạo hứng thú cho học sinh khi học môn Ngữ văn bậc THPT, có ưu thế
trong việc tạo ra động cơ, hứng thú học tập cho học sinh. tăng cường khả năng vận dụng
kiến thức tổng hợp vào giải quyết các tình huống thực tiễn, ít phải ghi nhớ kiến thức bài
học một cách máy móc. Qua nghiên cứu cơ sở thực tiễn, nghiên cứu đội ngũ GV, HS và
cơ sở thiết bị dạy học Ngữ văn, cùng với yêu cầu đổi mới nội dung và phương pháp dạy
học Ngữ văn tôi nhận thấy đề tài hoàn toàn có khả năng thực thi ở trường THPT.

Chương 2
PHƯƠNG PHÁP TI ẾP CẬN BÀI HỌC NHẰM T ẠO H ỨNG THÚ
CHO HỌC SINH KHI HỌC MÔN NG Ữ VĂN Ở BẬC THPT

Trước đây, phương pháp dạy học thường thiên về truyền thụ, học ghi nhớ nhiều, gây áp
lực đối với người học. Từ đó tạo ra tâm lí sợ học, sợ học thuộc.
Với phương pháp dạy học thường áp dụng trước đây, học sinh luôn thụ động, quen nghe,
quen chép, ghi nhớ rồi sẽ tái hiện một cách máy móc những gì giáo viên truyền đạt. Điều


này phần nào đã thủ tiêu khả năng sáng tạo, tư duy của người học, biến người học thành
những người quen suy nghĩ và diễn đạt bằng những ý thuộc lòng, bằng những lời có sẵn
của thầy cô, sách vở. Do đó, học sinh luôn lệ thuộc vào sách vở, học sinh không hào
hứng chủ động, thiếu sáng tạo và thiếu tự tin.
Những trăn trở làm sao học sinh của mình luôn yêu thích môn Ngữ văn; làm thế nào để
chất lượng học tập môn Ngữ văn được nâng cao và điều quan trọng là làm sao để người
học luôn chủ động tích cực, say mê, tự tin trong học tập; biết vận dụng kiến thức vào thực

tế; chủ động khám phá, phát hiện những cái hay, cái đẹp, các giá trị tác phẩm văn
chương; bồi dưỡng tình yêu đối với văn học, bồi dưỡng tâm hồn, giá trị nhân văn… luôn
là điều trăn trở mà tôi tin rằng không chỉ bản thân tôi mà có lẽ là của tất cả những thầy
cô, đồng nghiệp của tôi luôn đau đáu.
Xuất phát từ thực trạng ấy, từ thực tế giảng dạy của bản thân, qua trao đổi học hỏi kinh
nghiệm của đồng nghiệp tôi mạnh dạn đề xuất một số giải pháp, mong góp phần nào sẽ
cải thiện được thực trạng dạy và học Ngữ văn hiện nay, cải thiện được quan điểm tình
cảm, ý thức học tâp của học sinh đối với môn Ngữ văn, đặc biệt đối với học sinh ở bậc
THPT.
2.1. Tạo tâm thế học tập
2.1.1. Tác động bằng tình cảm
Đồng chí Lê Duẩn từng nói: “Thầy giáo không chỉ dạy cho học trò bằng những
công thức, bằng những câu, những từ có sẵn mà phải dạy bằng tất cả tâm hồn mình”.
Để học sinh luôn chủ động, tích cực, tự giác đặc biệt có hứng thú với môn học, trước hết,
giáo viên phải truyền dạy tri thức bằng tất cả trái tim và lòng tâm huyết của mình, phải để
người học cảm nhận được tâm hồn mình trong mỗi bài giảng.
Thực sự quan tâm đến học trò, biết lắng nghe, chia sẻ với những suy nghĩ, tâm tư của học
trò. Sẵn sàng là người bạn chia sẻ. Từ đó tạo được niềm tin, xóa bớt được khoảng cách
giữa giáo viên với học sinh (tâm lí, tuổi tác…), tạo ra không khí học tập thân thiết, gần
gũi… Theo quy luật lây lan tình cảm, từ chỗ yêu quí, trân trọng thầy cô đến thích học
môn học đó là một khoảng cách rất ngắn. Từ đó học sinh yêu thích, say mê học môn học
mà mình dạy.


2.1.2. Xây dựng không khí lớp học
Học tập căng thẳng thường làm chúng ta mệt mỏi về tinh thần. Chỉ có sự tận tình, tổ chức
giờ học một cách khoa học, sinh động mới kích thích sự hứng thú học tập trong học sinh.
Tạo ra bầu không khí học thoải mái, tích cực, có tính thi đua giữa các học sinh là rất cần
thiết.
Như vậy, không khí lớp học có ý nghĩa quyết định đối với việc nâng cao chất lượng dạy

học, cảm xúc tích cực sẽ làm tăng hiệu suất của hoạt động nhận thức trong học sinh. Có
nhà giáo dục đã từng nói “Một ông thầy mà không dạy được cho học trò ham muốn học
tập thì chỉ là đập búa trên sắt nguội mà thôi.” Cho nên, giáo viên phải biết cách tạo
không khí thoải mái khi vào lớp học. Giáo viên có thể tạo không khí lớp học bằng dẫn
các chuyện vui, các câu thơ, câu văn hay, bằng cách đặt vấn đề bất ngờ, gợi được sự chú
ý, bằng các tranh ảnh, sơ đồ… để gợi hứng thú, kích thích trí tò mò muốn khám phá bài
học cho học sinh.
Trong tiết dạy, chỉ cần một ví dụ thực tế gắn với bài giảng, một mẩu truyện về nhà văn…
sẽ làm cho bầu không khí học tập thay đổi tích cực; học sinh sẽ bị cuốn hút vào những
giai thoại, hay những liên hệ mà giáo viên kể. Từ đó học sinh sẽ hứng thú và tiếp thu bài
tốt hơn.
Chính sự chú ý, hứng thú do không khí lớp mang lại sẽ kích thích các học sinh tích cực
làm việc hơn, tư duy sẽ được thúc đẩy. Học sinh sẽ chủ động đi sâu tìm hiểu bản chất, ý
nghĩa của vự việc, hiện tượng; kết quả là học sinh nhanh hiểu bài và nhớ bài lâu hơn.
2.2. Linh hoạt, đa dạng trong phương pháp
2.2.1. Linh hoạt trong phương pháp
Giáo viên luôn vận dụng nhiều phương pháp và các hình thức tổ chức dạy học, tạo nên sự
phong phú đa dạng trong các hoạt động của quá trình dạy học sẽ làm cho học sinh cảm
thấy thoải mái, không bị ức chế về mặt tâm lí bởi sự nhàm chán, mệt mỏi vì sự đơn điệu
tẻ nhạt.
Ví dụ: Khi dạy phần Tiểu dẫn giáo viên cho học sinh điền thông tin vào phiếu, hoặc ghi
sẵn trên bảng và để trống phần thông tin cần điền:


1. Tác giả:
a. Cuộc đời:
– Năm sinh: ……………., năm mất……..
– Tên khai sinh:………………………….
– Quê quán:………………………….
– Xuất thân trong gia đình:……….

– Sự kiện tiêu biểu trong cuộc đời:……
b. Sự nghiệp sáng tác:
– Các tác phẩm chính:…………….
– Phong cách nghệ thuật:……
2. Tác phẩm:
– Xuất xứ:…
– Thể loại : ….
Giáo viên yêu cầu học sinh điền vào chỗ còn trống. Học sinh thay nhau làm, có thể phân
theo nhóm thực hiện theo yêu cầu của giáo viên. Lớp học sẽ sinh động và học viên hứng
thú học tập hơn. Từ đó, ta thấy rằng các học sinh sẽ tiếp thu kiến thức tốt hơn nếu trong
giờ học có sự xen kẽ nhau giữa các hoạt động dạy học.
2.2.2. Đưa ra các tình huống có vấn đề.
Dạy học theo tình huống là giáo viên không trình bày đơn thuần nội dung bài học mà sắp
xếp lại tài liệu sao cho toàn bộ bài giảng là vấn đề lớn được chia thành một số vấn đề nhỏ
có liên quan chặt chẽ với nhau, rồi kích thích hứng thú cho học sinh và khéo léo đưa các
học sinh vào những tình huống có vấn đề. Từ đó mà bắt đầu những phần của bài giảng.
Và như thế, hứng thú sẽ được duy trì đến khi nào chưa tìm ra được câu trả lời.
Ví dụ 1: Khi dạy tác phẩm “Chí Phèo” – sách Ngữ văn 11, tập I, giáo viên đặt ra những
tình huống có vấn đề:


– Tại sao đến lúc cuối cùng Chí Phèo lại xách dao đến thẳng nhà Bá Kiến?
– Tại sao Chí Phèo lại hay chửi và chửi nhiều đến thế mà hóa chẳng chửi đích danh ai?
– Tại sao Nam Cao lại để cho 3 con chó “lên tiếng” đáp lại tiếng chửi của Chí Phèo?
– Tại sao Nam Cao lại xây dựng nhân vật thị Nở xấu ma chê, quỷ hờn như vậy ?
Ví dụ 2: Khi dạy bài Vội vàng của Xuân Diệu, giáo viên cũng đặt học sinh vào tình
huống có vấn đề:
– Thường khi nhắc đến sự vội vàng trong cuộc sống là muốn chỉ sự thiếu cẩn thận, hấp
tấp, khó thành. Nhưng tại sao Xuân Diệu lại muốn sống vội vàng, sự vội vàng ấy có gì
đặc biệt ?

Giáo viên, từng bước hướng dẫn học sinh giải quyết các vấn đề, từ đơn giản đến phức
tạp, từ dễ đến khó. Từng bước chiếm lĩnh kiến thức, không những tạo nên sự hưng phấn
mà động lực thúc đẩy khả năng tự học, hiểu và sáng tạo, giải quyết các vấn đề trong thực
tế cuộc sống.
2.2.3. Liên hệ với thực tế
Việc gắn nội dung bài giảng với thực tế cuộc sống là một trong những biện pháp gây
hứng thú học tập môn Ngữ văn. Bởi lẽ, nếu chỉ sa đà với những lí thuyết khô khan mà xa
rời thực tế thì bài học sẽ thiếu tính thực tiễn, mất đi tính thuyết phục và sự lôi cuốn,
không kích thích được hứng thú học tập của học sinh. Ngữ văn là môn học đặc thù, phản
ánh thực tế cuộc sống qua những hoàn cảnh, tính cách, số phận xuất phát từ ngoài đời
sống. Nhiều kỹ năng, kiến thức các em học được sẽ được vận dụng vào rất nhiều tình
huống của cuộc sống. Vì vậy, gắn dạy học với thực tế cuộc sống không những có tính
chất bắt buộc trong dạy học Ngữ văn mà còn rất cần thiết để gây hứng thú học tập cho
học sinh.
Ví dụ:
– Khi dạy bài Bản tin – Ngữ văn 11 – tập 2; cần lưu ý cho học sinh đặc điểm, yêu cầu của
bản tin, viết được bản tin về vấn đề đời sống, xã hội quan tâm. Viết các bản tin về hoạt


động thi đua chào mừng ngày Hiến chương nhà giáo Việt Nam; văn hóa Tết của gia
đình…
– Khi dạy bài “Phỏng vấn và trả lời phỏng vấn” – sách Ngữ văn 11 – tập I, cho học sinh
chuẩn bị và viết một số bài phỏng vấn về vấn đề thường gặp trong đời sống : phỏng vấn
và trả lời phỏng vấn khi xin việc, phỏng vấn về kinh nghiệm học tốt của bạn bè, phỏng
vấn về các vấn đề xã hội đang quan tâm : giao thông, môi trường, bạo lực học đường,
tình yêu tuổi học trò… sẽ tạo cho học sinh sự tự tin, yêu thích môn học.
2.3. Ứng dụng công nghệ thông tin
Tích cực ứng dụng công nghệ thông tin, phát huy khả năng hỗ trợ của phương tiện,
công nghệ vào các bài giảng: lồng ghép những đoạn phim, những tranh ảnh, những khúc
ngâm, bài thơ được phổ nhạc… vào quá trình giảng dạy, không những tạo không khí

hứng thú học tập, mà đó là một kênh thông tin hữu hình, trực quan để học sinh nhận biết,
hiểu bài sâu sắc.
Với việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học đòi hỏi mỗi giáo viên cần nắm
vững các quy trình về soạn bài giáo án điện tử. Qua quá trình soạn giảng và giảng dạy,
bản thân tôi rút ra một số kinh nghiệm khi thiết kế bài giảng điện tử, giáo viên cần đạt
được những yêu cầu cơ bản sau:
*Yêu cầu về nội dung: Bài giảng điện tử khi trình bày nội dung lí thuyết cần cô đọng và
được minh hoạ sinh động có tính tương tác cao mà các phương pháp giảng bằng lời khó
diễn tả.
*Yêu cầu về phần câu hỏi giải đáp: Câu hỏi nêu ra nhằm để cho học sinh có thể vừa nghe,
(hoặc nhìn); giáo viên có thể đưa hệ thống câu hỏi trên màn trình chiếu. Các câu hỏi nêu
ra theo nhiều cấp độ (câu hỏi từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp có tác dụng gợi
mở, dẫn dắt học sinh nhằm hình thành kiến thức mới. Có thể dùng nhiều câu hỏi: tái hiện,
gợi mở, nêu vấn đề, thảo luận nhóm, dùng phiếu học tập …) nhằm phân loại được đối
tượng. Có như vậy mới kích thích sự học tập của học sinh. (Lưu ý tránh những câu hỏi
quá dễ hay quá khó). Hệ thống câu hỏi thể hiện rõ tính chất đổi mới phương pháp dạy học
nêu vấn đề. Với câu trả lời trắc nghiệm khách quan: Trong thiết kế, giáo viên cần kết hợp
hiệu ứng của màu chữ, âm thanh, hình ảnh để thể hiện sự tán thưởng, cổ vũ nồng nhiệt
đối với học sinh cho câu trả lời đúng. Với những câu trả lời chưa chính xác thì thông báo


lỗi và gợi ý tìm chỗ sai bằng cách nhắc nhở, đưa ra một gợi ý hoặc chỉ ra chỗ sai để học
sinh suy nghĩ tìm câu trả lời.
*Yêu cầu về phần trình bày khi thiết kế bài giảng điện tử: Mỗi bài giảng điện tử phần
thiết kế phải đảm bảo các yêu cầu sau:
– Đầy đủ: Giáo viên phải chuyển tải đủ yêu cầu về nội dung của bài học. (Đối với một bài
đọc hiểu, tiếng Việt hay Làm văn thì phần trình chiếu có thể chỉ giới thiệu hình ảnh, xem
như đó là bảng phụ còn phần trình bày nội dung chính ở bảng đen)
– Chính xác: Khi giáo viên chuyển tải hình ảnh, âm thanh, video hay một số ví dụ và các
phần nội dung của bài học phải đảm bảo không có thông tin sai sót.

– Trực quan: Màu chữ, cỡ chữ, hình ảnh, âm thanh, bảng biểu, video clip phải sinh động
hấp dẫn, phù hợp với nội dung bài học.
Khi ứng dụng công nghệ thông tin trong bài học thì việc sử dụng phương tiện băng đĩa
hình trong việc dạy và học môn Ngữ văn hiện nay rất cần thiết. Đây cũng là một nguồn
tri thức rất sinh động, vì vậy băng đĩa hình cũng có nhiều điều kiện thuận lợi cho HS khai
thác kiến thức trong từng bài học. Ngoài ra băng hình còn mang tính chất minh họa và hỗ
trợ cho bài giảng để tạo hứng thú cho HS. Việc sử dụng băng đĩa hình cần phải tuân thủ
một số quy tắc sau:
– Phải căn cứ vào nội dung và mục đích của bài học để chọn ra những hình ảnh thật đắt
sao cho sát với nội dung bài học.


GV phải xem băng thử ở nhà cho thành thạo các thao tác để tránh mất thời
gian nhiều ở lớp.



Phải đảm bảo cho tất cả các HS đều được quan sát băng.



Không nên lạm dụng băng hình quá tải làm giảm đặc trưng bộ môn.



Phải có phòng bộ môn.

Từ những thực tế trên trong quá trình dạy và học nếu như GV mà đưa thêm băng đĩa hình
vào bài giảng thì kết quả đạt được là rất tốt và còn gây hứng thú cho HS tốt hơn. Mặt
khác còn phát huy khả năng sáng tạo độc lập suy nghĩ của từng HS. HS tự giác chủ động



tìm tòi những kiến thức mới và giải quyết vấn đề trong mỗi bài học, có ý thức vận dụng
những kiến thức đó vào cuộc sống hàng ngày
2.4. Lồng ghép các trò chơi trong dạy học Ngữ văn
Trò chơi vừa là một hoạt động giải trí vừa là một phương pháp giáo dục: giáo dục bằng
trò chơi – một phương pháp đã được nhiều nền giáo dục tiên tiến trên thế giới vận dụng.
Lồng ghép trò chơi trong dạy và học môn Ngữ văn, kết hợp với phương pháp dạy học
khác sẽ có ý nghĩa tích cực đối với yêu cầu đổi mới hiện nay. Giải pháp này sẽ thay đổi
không khí căng thẳng trong các giờ học, tăng thêm hứng thú cho người học, học sinh sẽ
chú ý hơn, chủ động hơn trong chuẩn bị, mạnh dạn hơn trong đề xuất của mình, phát huy
tư duy sáng tạo..
Hứng thú và chủ động trong học tập là sự khởi đầu tốt cho việc nắm bắt kiến thức, hình
thành kĩ năng và phát triển nhân cách ở học sinh qua bộ môn Ngữ văn.
2.4.1. Một số hình thức lồng ghép trò chơi trong dạy học Ngữ văn.
2.4.1.1. Nguyên tắc:
Giáo viên cần chú ý đến đặc thù của từng phân môn; lưu ý mối quan hệ giữa trò chơi và
hệ thống câu hỏi; vận dụng linh hoạt, hợp lý, đúng mức và đúng lúc để không xáo trộn
nhiều không gian lớp học, nhanh chóng ổn định lớp học khi trò chơi kết thúc; trò chơi
phải phù hợp với nội dung, mục tiêu cần đạt, không vận dụng cho tất cả các tiết học; trò
chơi bao giờ cũng kết thúc bằng thưởng cho người (đội) thắng hoặc xử phạt nhẹ nhàng
cho vui đối với người (đội) thua cuộc từ đó tạo nên sự dí dỏm, hứng thú.
2.4.1.2. Một số hình thức lồng ghép trò chơi:
+ Xem trò chơi là một hình thức tổ chức cho một đơn vị kiến thức nhỏ trong giờ học, để
triển khai ở các bước khác nhau của bài giảng (phần tìm hiểu chung, tìm hiểu ngữ liệu,
phần đọc – hiểu văn bản, phần luyện tập, củng cố bài…).
+ Tổ chức tiết học thành một trò chơi lớn đối với một số tiết ôn tập hoặc khái quát.
2.4.1.3. Một số trò chơi có thể vận dụng lồng ghép trong dạy học Ngữ văn:



Giáo viên có thể tự sáng tác ra những trò chơi phù hợp với tiết học theo nguyên tắc vừa
phù hợp, vừa kích thích sự tò mò của các em. Ví dụ: Ô chữ, Hùng biện, Tiếp sức, Điền
bảng, Rung chuông vàng…
Do đặc thù của mỗi phân môn, việc vận dụng lồng ghép trò chơi có những điểm khác
nhau.
* Văn học: Tùy thuộc dạng bài ( bài khái quát, ôn tập, đọc – hiểu văn bản…), lượng kiến
thức, mục tiêu bài học, thời lượng để áp dụng hình thức trò chơi: trò chơi nhỏ dành cho
một hoạt động dạy học hay trò chơi lớn cho cả tiết học. Do đặc thù của phân môn với
mục đích cảm thụ cái hay, cái đẹp của tác phẩm văn chương, đòi hỏi những cảm xúc tinh
tế, nên mức độ vận dụng trò chơi chỉ vừa phải.
* Tiếng Việt: Lồng ghép trò chơi đối với phân môn này là khá phù hợp, đặc biệt là đối
với những tiết thực hành, luyện tập. Trò chơi cần phải gắn với các bài tập hoặc các hình
thức thực hành, luyện tập khác mà giáo viên nghĩ ra. Vận dụng tốt giải pháp này, giờ học
Tiếng Việt sẽ không còn khô cứng, học sinh cảm thấy thoải mái, hứng thú, kích thích
hoạt động tư duy của các em, quan trọng hơn là góp phần phát triển năng lực sử dụng
ngôn ngữ ở học sinh. Qua trò chơi, tư duy và khả năng ngôn ngữ của học sinh sẽ được
bộc lộ tự nhiên, giáo viên có thể phát hiện và uốn nắn kịp thời những mặt còn hạn chế.
* Làm văn: Chính là phần thực hành Văn học và Tiếng Việt. Có thể vận dụng trò chơi
trong một số tiết học và không nên thực hiện hình thức này trong cả tiết. Với phân môn
này, việc lồng ghép hình thức trò chơi không thể thay thế được các phương pháp cũng
như hình thức tổ chức lớp học đặc thù như thực hành, luyện tập,…hoạt động theo nhóm
hay cá nhân tự luyện tập các kĩ năng…Do đó không nên gượng ép để cố tình đưa trò chơi
vào tất cả các giờ học làm văn.
2.4.2. Quy trình thực hiện:
* Chuẩn bị: Tùy theo mỗi trò chơi cụ thể sẽ có những phần chuẩn bị khác nhau.
* Bước 1: Giáo viên dự kiến chọn trò chơi cho phù hợp với nội dung của từng bài học.
* Bước 2: Giáo viên nêu thể lệ trò chơi
* Bước 3: Học sinh tiến hành chơi trò chơi (với tư cách một cá nhân hoặc một nhóm),
dưới sự kiểm soát của giáo viên.



* Bước 4: Giáo viên đánh giá, cho điểm hoặc phát thưởng tùy theo sự đóng góp của mỗi
cá nhân hoặc mỗi nhóm.
2.4.3. Cách thức tổ chức:
Có rất nhiều trò chơi có thể gây hứng thú cho học sinh trong việc dạy và học môn Ngữ
văn. Tuy nhiên trong phạm vi của một sáng kiến kinh nghiệm, tôi chỉ xin nêu một số trò
chơi sau:
2.4.3.1. Trò chơi điền bảng (kết hợp với thảo luận nhóm):
* Đặc điểm:
Trò chơi này dùng trong những giờ ôn tập, thay vì cho học sinh lập bảng thống kê kiến
thức bình thường, ta có thể chia lớp thành các nhóm khác nhau và cho đại diện các nhóm
lên bốc thăm để tìm công việc cho nhóm mình. Sau đó, các nhóm sẽ thay phiên nhau giải
quyết công việc của nhóm mình.
* Chuẩn bị:
– Về phía giáo viên:
+ Kẻ sẵn một bảng tổng kết bao gồm các đơn vị kiến thức, trong đó chỉ có đề mục và các
tiêu chí thống kê.
+ Các phiếu bốc thăm ứng với các nhóm.
+ Các thẻ kiến thức trắng đều nhau được cắt ra từ giấy Ao.
+ Keo dán, bút viết bảng (4 màu ứng với 4 nhóm).
– Về phía học sinh: dựa vào SGK và soạn kĩ bài theo yêu cầu của giáo viên.
2.4.3.2.Trò chơi ô chữ (nhóm hoặc cá nhân)
* Đặc điểm:
Đây là cách thức mô phỏng theo các sân chơi phổ biến hiện nay như: Đường lên đỉnh
Ôlympia, Chiếc nón kỳ diệu… Nó có thể sử dụng linh hoạt trong các tiết dạy hay trong


các tiết ôn tập, thực hành. Trò chơi này khá quen thuộc và đã được áp dụng nhiều nhưng
nó lại được sự đón nhận rất nhiệt tình của các em học sinh. Chính vì thế nó mang lại hiệu
quả rất cao.

* Chuẩn bị:
– Giáo viên soạn ra một bảng ô chữ cùng các câu hỏi đi kèm tương ứng với kiến thức của
các ô hàng ngang cần thực hiện. Từ gợi ý của các ô hàng ngang, học sinh dần dần tìm ra
nội dung của ô hàng dọc. Đây là ô chính mà nội dung của nó có tầm quan trọng đối với
bài học mà học sinh cần nắm chắc và ghi nhớ.
– Bảng ô chữ này có thể chuẩn bị sẵn ở bảng phụ hoặc giáo viên có thể áp dụng công
nghệ thông tin để trò chơi này hấp dẫn và mới lạ hơn.

Chương 3
THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM
3.1. Mục đích, nhiệm vụ thực nghiệm
3.1.1. Mục đích thực nghiệm
– Thông qua các bài thực nghiệm nhằm kiểm tra tính khả thi của đề tài:
“Hướng tiếp cận bài học nhằm tạo hứng thú cho học sinh khi học môn Ngữ văn bậc
THPT”
– Căn cứ vào kết quả thực nghiệm, phân tích xử lý các số liệu thu được để đánh giá khả
năng áp dụng của đề tài.
3.1.2. Nhiệm vụ thực nghiệm
– Chọn lớp và chọn GV thực nghiệm, chọn lớp và GV đối chứng để thực nghiệm
– Chọn các bài thực nghiệm đáp ứng được yêu cầu của đề tài.


– Chuẩn bị các điều kiện cần thiết về các mặt trong công tác thực nghiệm sư phạm:
các giáo án và các phương tiện thiết bị dạy bài thực nghiệm.
– Thống nhất với GV dạy thực nghiệm về nội dung, phương pháp dạy từng bài thực
nghiệm.
– Tổ chức triển khai các bài thực nghiệm đã được chuẩn bị.
– Đánh giá kết quả và rút ra kết luận.
3.2. Nguyên tắc tiến hành thực nghiệm.
– Phải đảm bảo tính khoa học, khách quan về khối lượng kiến thức trong SGK

Ngữ văn do Nhà xuất bản Giáo Dục phát hành.
– Tuân thủ theo chương trình giảng dạy do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định. Đảm bảo
kiến thức cơ bản của bài giảng trong SGK.
– Việc dạy thực nghiệm phải tôn trọng thời khoá biểu của nhà trường không làm
ảnh hưởng tới hoạt động dạy và học của lớp được chọn làm thực nghiệm.
Quá trình thực nghiệm và kết quả thực nghiệm được xử lý theo phương pháp thống kê
toán học.
3.3 Phương pháp thực nghiệm.
– Thực nghiệm được tiến hành song song trên 2 lớp (lớp thực nghiệm và đối
chứng) tại trường. Các lớp đối chứng được tiến hành trước, giáo viên giảng dạy theo nội
dung và phương pháp truyền thống. Với các lớp thực nghiệm, GV nghiên cứu kĩ cách
thiết kế bài giảng theo phương pháp mới trong đó đã xác lập các kiến thức liên
môn phù hợp với từng bài. Cả hai lớp đều do một giáo viên tiến hành giảng dạy, kiểm tra
(cùng bài, cùng đề kiểm tra). Sau khi nghiên cứu các thiết kế bài giảng và dạy thực
nghiệm, giáo viên rút ra những kết luận và nhận xét cần thiết.
3.4. Nội dung thực nghiệm
3.4.1. Chọn trường, lớp thực nghiệm.


Để tổ chức thực nghiệm có hiệu quả, tôi đã chọn trường tôi đang công tác và các lớp
tham gia thực nghiệm là lớp thực nghiệm: 11A4, 11A5, 11A11, lớp đối chứng: 11A6,
11A10, 11A14.
3.4.2. Giáo viên tham gia thực nghiệm
– Các GV tôi chọn giảng dạy là các GV đang trực tiếp giảng dạy môn Ngữ văn lớp 11 tại
trường. Các GV dạy thực nghiệm đều là những người công tác lâu năm và trình độ
chuyên môn khá đồng đều, đó là điều kiện cho việc dạy thực nghiệm sư phạm, thể hiện
được tính khách quan đúng đắn và yêu cầu của quá trình thực nghiệm và kết quả thực
nghiệm.
3.4.3. Chuẩn bị bài thực nghiệm
– Các bài soạn dạy thực nghiệm đều được chuẩn bị kỹ và sự tham khảo ý kiến của đồng

nghiệp. Trên cơ sở đó, tác giả của đề tài và GV dạy thực nghiệm trao đổi nhằm hoàn
thiện bài soạn đáp ứng mục đích và yêu cầu của đề tài.
– Trước giờ dạy, các bài soạn đều được chuẩn bị đồ dùng, phương tiện thiết bị dạy học
đầy đủ.
– Tôi đã chọn các bài trong SGK Ngữ văn lớp 11 để thực nghiệm. Dưới đây là các phần
trong từng bài tôi đã áp dụng thực nghiệm.

CHÍ PHÈO
Khi dạy bài “ Chí Phèo”- Sách Ngữ văn 11, tập I, giáo viên lồng ghép cho học sinh xem
một vài đoạn phim nhỏ nói về hình ảnh Chí Phèo cùng với tiếng chửi, hình ảnh của thị
Nở cùng với bát cháo hành, hình ảnh chí Phèo hiền lành sau khi ăn cháo hành… Nó tác
động trực tiếp đến nhiều giác quan của các em, tạo ấn tượng, kích thích sự tò mò, hấp dẫn
và lôi cuốn, từ đó sẽ gây hứng thú hơn trong việc tìm hiểu tác phẩm, tìm hiểu về số phận
của nhân vật.


Khi dạy xong bài này, giáo viên có thể áp dụng trò chơi ô chữ để củng cố nhằm khắc sâu
kiến thức đã học.
– Giáo viên cho học sinh tham gia trò chơi theo nhóm hoặc cá nhân.
– Yêu cầu của trò chơi: Học sinh nắm được những nội dung cơ bản về tác giả Nam Cao
và tác phẩm Chí Phèo. Đặc biệt khi kết thúc trò chơi, học sinh phải nắm được một trong
hai giá trị lớn của tác phẩm, đó là “giá trị hiện thực”.
– Giáo viên lần lượt nêu ra các câu hỏi cho các nhóm thực hiện, bắt đầu từ nhóm 1. Các
nhóm có quyền lựa chọn ô hàng ngang. Nếu nhóm nào không trả lời được theo thời gian
qui định thì phải nhường lượt cho nhóm khác tiếp tục trò chơi.
– Nhóm nào tìm được kiến thức ở ô hàng ngang thì được cộng điểm, tìm được ô hàng dọc
khi chưa giải hết ô hàng ngang sẽ là đội thắng cuộc.
– Cụ thể về bảng ô chữ: (8 hàng)

1


T

2
3

B

4
5

N

6
7
8

Đ

O

R

A

N

H

U


U

T

T

R

O

I

A

K

I

E

N

T

H

I

N


O

O

N

G

T

H

O

N

T

H

A

H

O

A

I


T

H

U

A

B

A

C

Ô

Câu hỏi:
– Hàng 1: Tên thật của tác giả Nam Cao ? (10 chữ cái)
– Hàng 2: Khi say, Chí chửi, đầu tiên là hắn chửi gì ? (4 chữ cái)
– Hàng 3: Ai là người trực tiếp đẩy Chí Phèo vào tù ? (6 chữ cái)

R

I


×