Tải bản đầy đủ (.pdf) (43 trang)

bồi dưỡng học sinh giỏi địa lý chuyên đề một số kiến thức và câu hỏi thường gặp về sự phân hóa đa dạng của địa hình việt nam trong thi học sinh giỏi quốc gia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (861.8 KB, 43 trang )

MỘT SỐ KIẾN THỨC VÀ CÂU HỎI THƯỜNG GẶP VỀ
SỰ PHÂN HÓA ĐA DẠNG CỦA ĐỊA HÌNH VIỆT NAM
TRONG THI HỌC SINH GIỎI QUỐC GIA
Phần thứ nhất

MỞ ĐẦU
Địa lí tự nhiên Việt Nam là một bộ phận có vị trí quan trọng trong chương trình
đào tạo môn Địa lí ở các trường trung học phổ thông ở nước ta. Trên cơ sở những kiến
thức cơ bản về địa lí tự nhiên đại cương với đối tượng nghiên cứu là lớp vỏ địa lí của trái
đất, những kiến thức về các châu lục, các khu vực khác nhau trên trái đất, địa lí tự nhiên
Việt Nam tiếp tục nghiên cứu các đặc điểm địa lí tự nhiên trên lãnh thổ Việt Nam. Từ đó,
giúp các em có hiểu biết sâu sắc hơn về thiên nhiên, đất nước mình, đồng thời giúp ích
cho việc tìm hiểu, nghiên cứu, giải quyết các vấn đề có liên quan đang diễn ra trên đất
nước ta như phát triển kinh tế - xã hội, phòng chống thiên tai, duy trì, cải thiện môi trường
sinh thái…
Đặc điểm cơ bản của địa lí tự nhiên Việt Nam thể hiện những nét chung nhất của
các điều kiện và các quá trình tự nhiên. Các điều kiện tự nhiên bao gồm các thành phần
của tự nhiên và những mối quan hệ tác động qua lại, chi phối lẫn nhau giữa chúng. Các
điều kiện tự nhiên của nước ta lại có mối quan hệ chặt chẽ với điều kiện tự nhiên các
nước và các khu vực xung quanh, chịu sự tác động mạnh mẽ của các quy luật địa lí chung
của Trái Đất cả trong quá khứ và hiện tại. Chính vì vậy mà thiên nhiên nước ta có sự phân
hóa rất đa dạng.
Việt Nam là một nước mang sắc thái thiên nhiên nhiệt đới ẩm gió mùa, chịu ảnh
hưởng sâu sắc của biển với cảnh quan đồi núi chiếm ưu thế và đặc biệt cảnh quan phân
hóa rất đa dạng và chịu tác động sâu sắc của con người. Chính vì vậy mà nước ta có nhiều
nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, bốn mùa xanh tươi, giàu sức sống.
Sự phân hóa tự nhiên nước ta trong đó có thành phần địa hình Việt Nam cũng tuân
theo những quy luật địa lí chung của trái đất. Sự phân hóa này có ý nghĩa vô cùng quan
trọng đối với đời sống và sản xuất của nhân dân mỗi vùng trên cả nước, ảnh hưởng lớn
đến việc hoạch định chiến lược phát triển kinh tế mỗi vùng nói riêng và của đất nước nói
chung.



1


Do tầm quan trọng của sự phân hóa địa hình Việt Nam trong thực tiễn đời sống
cũng như ý nghĩa quan trọng trong chương trình địa lí tự nhiên Việt Nam ở trường trung
học phổ thông hiện nay và đặc biệt đây cũng là một trong những phần kiến thức trọng
tâm trong thi học sinh giỏi Quốc gia, chúng tôi đã lựa chọn chuyên đề “Một số kiến thức
và câu hỏi thường gặp về sự phân hóa đa dạng của địa hình Việt Nam trong thi học
sinh giỏi Quốc gia” để tìm hiểu và nghiên cứu. Hy vọng rằng chuyên đề này sẽ có nhiều
ý nghĩa trong việc giảng dạy môn địa lí ở trường phổ thông, đặc biệt là trong công tác bồi
dưỡng học sinh giỏi địa lí các cấp.
Đây là một vấn đề không mới nhưng trong quá trình tìm hiểu, do hạn chế về thời
gian, chuyên đề không tránh khỏi những thiếu sót và chắc chắn còn có những vấn đề cần
nghiên cứu và thảo luận thêm. Chúng tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các
thầy cô và các đồng nghiệp để tiếp tục bổ sung, hoàn thiện chuyên đề này.

Chuyên đề bao gồm những nội dung sau:
- Phần thứ nhất: Mở đầu
- Phần thứ hai: Nội dung chuyên đề
Chương I: Sự phân hóa đa dạng của địa hình Việt Nam
I.1. Khái quát các quy luật phân hóa của thiên nhiên Việt Nam
I.2. Sự phân hóa đa dạng của địa hình Việt Nam
Chương II: Những câu hỏi vận dụng và hướng dẫn trả lời.
II. 1. Những câu hỏi liên quan đến sự phân hóa đa dạng của địa hình Việt Nam.
II. 2. Những câu hỏi liên quan đến sự phân hóa đa dạng của địa hình trong miền địa
lí tự nhiên Việt Nam
II. 3. Những câu hỏi về mối quan hệ của địa hình Việt Nam (đặc điểm và sự phân
hóa đa dạng) với các thành phần tự nhiên khác
- Phần thứ ba: Kết luận


2


Phần thứ hai

NỘI DUNG CHUYÊN ĐỀ
Chương I:
SỰ PHÂN HÓA ĐA DẠNG CỦA ĐỊA HÌNH VIỆT NAM
I.1. Khái quát các quy luật phân hóa của tự nhiên Việt Nam
Lãnh thổ Việt Nam tuy diện tích không rộng nhưng thiên nhiên lại rất đa dạng và có
sự phân hóa phức tạp. Thiên nhiên thay đổi theo không gian theo nhiều hướng khác nhau:
từ Bắc vào Nam, từ Đông sang Tây và từ thấp lên cao nên đã hình thành nhiều khu vực tự
nhiên ở các cấp phân vị khác nhau. Những đơn vị địa lí tự nhiên khu vực này được hình
thành và phát triển do ảnh hưởng trước hết của các quy luật chung của tự nhiên. Sự phân
hóa phức tạp và đa dạng của cảnh quan tự nhiên Việt Nam là kết quả tổng hợp của hình
dạng lãnh thổ hẹp ngang, kéo dài theo chiều Bắc – Nam, lịch sử phát triển lâu dài của tự
nhiên Việt Nam, đặc điểm địa hình khác nhau giữa các bộ phận lãnh thổ. Lịch sử phát
triển không đồng đều ở các bộ phận khác nhau trên lãnh thổ, phụ thuộc vào sự tác động
tương quan của 2 nguồn năng lượng chủ yếu quyết định động lực của các quá trình địa lí.
Đó là năng lượng bức xạ mặt trời và năng lượng bên trong của trái đất. Hai nguồn năng
lượng này thay đổi theo thời gian và không gian nhưng quan trọng hơn, bản chất của
những thay đổi này rất khác nhau. Trong khi nguồn bức xạ mặt trời có sự phân bố và thay
đổi theo quy luật địa đới, thì nguồn năng lượng bên trong của trái đất lại bị chi phối bởi
quy luật phi địa đới.

I.1.1. Quy luật địa đới
Quy luật địa đới về bản chất là sự thay đổi có quy luật của tất cả các thành phần địa
lí và các cảnh quan tự nhiên theo vĩ độ từ xích đạo về hai cực. Đây là quy luật rất phổ
biến, tạo nên các vòng đai địa lí bao quanh trái đất.


3


Quy luật địa đới là một trong những quy luật cơ bản của khoa học địa lí. Vì vậy, khi
tiến hành nghiên cứu và phân vùng địa lí tự nhiên mỗi khu vực cần phải tính toán tới số
lượng và chất lượng của năng lượng mặt trời mà nơi đó nhận được. Chính sự phân bố
không đồng đều của năng lượng mặt trời là nguyên nhân đầu tiên của tính địa đới. Sự thay
đổi có quy luật của bức xạ mặt trời từ xích đạo về phía 2 cực cũng chính là sự thay đổi có
quy luật của góc nhập xạ theo hướng đó. Ngoài ra, nguyên nhân hình thành quy luật địa
đới còn có sự tham gia của hoàn lưu khí quyển trên quy mô toàn cầu, khiến cho sự phân
bố thực tế của bức xạ mặt trời trên bề mặt trái đất sẽ khác nhiều so với sự phân bố lí
thuyết. Hoàn lưu khí quyển dựa trên 4 khối khí cơ bản là khối khí cực, ôn đới, nhiệt đới
và khối khí xích đạo là cơ sở để xác định các vòng đai khí hậu. Thêm vào đó, những dao
động theo mùa của hoàn lưu khí quyển còn hình thành nên 3 vòng khí hậu đai trung gian,
ở đó các khối khí của 2 kiểu khác nhau sẽ thay đổi kế tiếp nhau theo mùa để hình thành
nên 7 đới khí hậu chính của mỗi nửa cầu ( Bắc và Nam) là: đới cực, cận cực, ôn đới, á
nhiệt đới, nhiệt đới, á xích đạo và xích đạo.
Như vậy, sự thay đổi theo đới của các đơn vị lãnh thổ là do năng lượng mặt trời và
lượng ẩm được phân bố theo đới. Chính sự phân bố theo đới của nhiệt và ẩm đã dẫn tới
tính địa đới của các thành phần và các yếu tố khác nhau của cảnh quan tự nhiên như: thủy
văn, thổ nhưỡng, thực bì, địa hình ngoại sinh…
Trên thực tế, các đới cảnh quan tạo thành một mạng rất phức tạp. Các đới này
thường có sự phân bố đứt quãng và không phải bao giờ cũng hướng dọc theo các vĩ tuyến
một cách đều đặn. Sự chuyển tiếp từ đới này sang đới khác cũng diễn ra phức tạp, có lúc
đột ngột, có lúc diễn ra chậm chạp, từ từ.
Sự phân hóa địa đới theo vĩ độ quan trọng nhất và rõ ràng nhất là sự phân hóa ra 2
vòng đai địa lí tương ứng với 2 khu vực:
- Khu vực nội chí tuyến: giữa chí tuyến 23 027’B và chí tuyến Nam 23 027’ N.


- Khu vực ngoại chí tuyến: từ 2 chí tuyến về phía 2 cực Bắc và Nam.
I.1.2. Các quy luật phân hóa phi địa đới
Quy luật phi địa đới là quy luật quan trọng thứ 2 của sự phân hóa và phát triển của
các thể tổng hợp địa lí tự nhiên.
Quy luật phi địa đới gắn liền với cấu tạo phức tạp của bề mặt trái đất. Tính không
đồng nhất của cấu trúc địa chất, sự khác nhau về vị trí, độ cao và các yếu tố địa mạo đều
do các lực bên trong của Trái Đất quyết định. Ngoài ra cũng còn phải tính đến vị trí của

4


các bộ phận lục địa so với biển và đại dương. Vị trí này cũng ảnh hưởng đến sự thay đổi
không chỉ của khí hậu mà còn tới cả thiên nhiên theo hướng kinh tuyến.
Các quy luật phi địa đới ở Việt Nam bao gồm: Quy luật phân hóa theo kinh độ (hay
quy luật địa ô) và quy luật phân hóa đai cao.

I.1.2.1. Quy luật phân hóa theo kinh độ (hay quy luật địa ô)
Trên Trái Đất có sự phân bố kế tiếp của các múi lục địa và đại dương theo hướng
kinh tuyến chạy dài từ Bắc cực tới Nam cực.
Bản chất của quy luật theo kinh độ là sự thay đổi tuần tự các hiện tượng địa lí, trên
các lục địa tùy thuộc vào mức độ xa bờ đại dương đến trung tâm lục địa. Quy luật phân
hóa theo kinh tuyến của các thể tổng hợp địa lí tự nhiên cũng như các thành phần của
cảnh quan tự nhiên còn được nhiều nhà địa lí trên thế giới gọi là tính địa đới theo kinh
tuyến. Bản chất của quy luật phân hóa theo kinh tuyến là sự khác nhau giữa bề mặt lục địa
và bề mặt đại dương trong quá trình tiếp nhận năng lượng mặt trời. Thông thường năng
lượng bức xạ mặt trời tiếp nhận được trên một đơn vị diện tích ở đại dương lớn hơn trên
lục địa 10 – 20%. Nói chung không khí trên các đại dương ấm hơn trên các lục địa, chỉ trừ
ở vòng đai gió mậu dịch là nơi lục địa được sưởi nóng mạnh hơn đại dương (do sự mất
nhiệt cho bốc hơi giảm và do tính chất vật lí khác nhau giữa bề mặt lục địa và bề mặt
nước trên các đại dương)

Một số nhà địa lí gọi sự phân hóa theo kinh tuyến tương tự như tính địa đới theo vĩ
độ của các cảnh quan tự nhiên là tính địa ô. Tuy nhiên, sự phân hóa địa lí theo kinh tuyến
biểu hiện không phải đồng đều ở mọi nơi trên bề mặt Trái Đất. Phụ thuộc vào đặc điểm
hoàn lưu khí quyển, kích thước, hình dáng và vị trí địa lí của lục địa khiến số lượng địa ô
ở các vĩ độ có sự khác nhau. Đầy đủ nhất là 3 địa ô, quan sát thấy ở các vĩ độ ôn đới của
lục địa Âu – Á do sự tồn tại của khối lục địa rộng lớn trải trên 200 0 kinh tuyến và do sự
chuyển động của các khối khí theo hướng đông – tây. Hai địa ô đối với vòng đai gió Mậu
Dịch: địa ô hoang mạc bờ Tây do không có các điều kiện cho các khối khí đại dương xâm
nhập tới, và địa ô ẩm ướt ở phía đông của các lục địa nhờ có gió mùa tạo nên sự dư thừa
ẩm, đặc biệt là vào mùa hè. Ở các vĩ độ thuộc xích đạo hoặc miền cận cực, sự phân hóa
địa lí theo kinh tuyến biểu hiện không rõ rệt (sự vận chuyển theo chiều ngang của các
khối khí ở xích đạo yếu và gần như đồng nhất ở cận cực).

I.1.2.2. Quy luật phân hóa theo đai cao.
Tính vành đai theo độ cao (còn được gọi là tính địa đới theo chiều thẳng đứng) là
một trong những biểu hiện rõ rệt nhất của quy luật phi địa đới. Sự thay đổi các thành phần

5


và cảnh quan tự nhiên diễn ra theo độ cao dưới dạng các dải và các vành đai ở vùng núi,
đặc biệt ở các vùng núi cao. Nguyên nhân chính của sự hình thành các vành đai theo độ
cao là sự thay đổi các điều kiện nhiệt khi lên cao. Tuy nhiên, sự thay đổi này không giống
như sự thay đổi nhiệt theo vĩ độ. Ở miền núi, cán cân nhiệt được hình thành như sau:
cường độ bức xạ Mặt Trời tăng theo độ cao khoảng 10% đối với 1000 m, trong khi đó bức
xạ sóng dài của bề mặt Trái Đất đồng thời cũng tăng và còn tăng nhanh hơn so với bức xạ
sóng ngắn của mặt trời, dẫn tới có sự hạ thấp nhiệt độ nhanh chóng (gradient nhiệt độ
theo chiều thẳng đứng vượt gradient nhiệt độ theo chiều ngang hàng trăm lần). Điều đó có
nghĩa là nhiệt độ hạ xuống theo độ cao ở các miền núi nhanh hơn gấp hàng trăm lần so
với sự thay đổi theo vĩ độ (theo chiều ngang) ở các đồng bằng.

Điều kiện ẩm ướt cũng thay đổi theo độ cao. Thông thường, ở độ cao lớn, lượng ẩm
của không khí và lượng mưa giảm, song do vai trò bức chắn của các dãy núi không khí
chứa nhiều hơi nước ở dưới thấp được bốc lên cao, nhiệt độ giảm có điều kiện thuận lợi
cho sự ngưng kết thành mây và gây mưa với lượng mưa tăng lên tới một giới hạn độ cao
nào đó (giới hạn này không đồng nhất ở các vùng núi khác nhau), sau đó lại giảm xuống.
Vì vậy, sự phân bố điều kiện ẩm ở các vùng núi khá đa dạng và phức tạp (trong đó, yếu tố
độ cao tuyệt đối chỉ có vai trò gián tiếp).
Sự biến đổi theo độ cao còn được thể hiện ở các thành phần tự nhiên khác như các
quá trình địa mạo đặc thù của miền núi (núi lở, lở tuyết, trượt đất…), không hề thấy ở các
cảnh quan đồng bằng. Miền núi có mạng lưới thủy văn rất đặc biệt, với các dòng sông
suối nước chảy xiết, lắm thác ghềnh khác hẳn với các dòng sông ở đồng bằng. Hiện tượng
băng tuyết trên núi cũng không giống như các lớp phủ băng tuyết ở vùng cực. Thổ
nhưỡng miền núi khác thổ nhưỡng đồng bằng ở chỗ phẫu diện mỏng và chứa nhiều vật
liệu thô vụn, với thành phần các khoáng nguyên sinh và cuối cùng thể hiện rõ rệt nhất là
sự phân bố các kiểu quần xã sinh vật theo độ cao.
Sự sắp xếp các vành đai theo độ cao từ thấp lên cao có nhiều nét tương tự như sự
sắp xếp các đới tự nhiên theo vĩ độ từ xích đạo về phía 2 cực. Song sự sắp xếp này có
phần phong phú và đa dạng hơn. Đặc tính và số lượng các kiểu vành đai theo độ cao phụ
thuộc vào vị trí địa lí của khối núi và đặc điểm sơn văn của nó. Từ 2 cực về phía xích đạo
số lượng các vành đai theo độ cao tăng lên.
Bản chất của sự phân hóa theo độ cao là sự phân hóa phi địa đới mà nguyên nhân
sâu xa của nó là do các lực bên trong của trái đất gây ra.

I.1.3. Quan hệ giữa các quy luật phân hóa
6


Các quy luật phân hóa trên thực tế không tác động riêng rẽ, độc lập mà chúng tác
động đồng thời, tương hỗ. Tùy theo từng lúc, từng nơi mà quy luật này hay quy luật khác
giữ vai trò chủ yếu, trội, chi phối sự hình thành và chiều hướng phát triển của các quá

trình tự nhiên trong các địa tổng thể.
Trước hết mối quan hệ giữa 2 dạng cơ bản của quy luật phi địa đới là quy luật địa ô
và quy luật kiến tạo – địa mạo có liên hệ chặt chẽ với nhau. Các ranh giới khí hậu theo
kinh tuyến thường phù hợp với các bức chắn sơn văn. Những sự phân chia bề mặt lãnh
thổ theo hình thái kiến tạo lớn (như xứ Hoa Nam, xứ Đông Dương) lại là những khu vực
được phân biệt theo vị trí của nó đối với ảnh hưởng của biển và đại dương của quy luật
địa ô. Những khu vực chịu ảnh hưởng của những điều kiện hình thành, di chuyển, biến
tính của các khối khí, theo mức độ lục địa của khí hậu và của cả vai trò của vị trí trên cao.
Thêm vào đó, các khối núi không chỉ tạo nên quy luật phân hóa theo vành đai độ cao
riêng biệt của nó mà còn ảnh hưởng quan trọng đến các cảnh quan tự nhiên của các khu
vực đồng bằng và các khu vực núi khác lân cận. Mặt khác, số lượng và cấu trúc của vành
đai trong phạm vi một đới cảnh quan cũng không đồng nhất và thường bị phụ thuộc vào
các nhân tố khí hậu phân hóa theo hướng kinh tuyến (mức độ ẩm ướt) và mức độ lục địa
(độ lục địa).

I.2. Sự phân hóa đa dạng của địa hình Việt Nam
I.2.1. Các kiểu địa hình chính ở Việt Nam
I.2.1.1. Địa hình núi
Kiểu địa hình núi ở Việt Nam bao gồm các núi thấp có độ cao trung bình dưới
1000m, núi trung bình có độ cao trung bình từ 1000m đến 2000m và núi cao có độ cao
trên 2000m.
Kiểu địa hình núi khá phổ biến và tiêu biểu cho địa hình Việt Nam. Kiểu địa hình
núi có đặc điểm chung là có độ cao tuyệt đối và độ cao tương đối khá lớn, về ngoại hình
thường là các khối núi hoặc các dãy núi, có độ chia cắt sâu và sườn dốc lớn.
a. Địa hình núi cao
Các khu vực núi cao ở Việt Nam với các đỉnh núi cao trên 2000m phần lớn nằm
sâu trong đất liền và ở vùng biên giới, đặc biệt là ở biên giới phía Bắc từ Hà Giang đến
Lai Châu và biên giới phía Tây thuộc hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh.
Tiêu biểu cho địa hình núi cao ở Việt Nam là dãy núi Hoàng Liên Sơn. Dãy Hoàng
Liên Sơn chạy dài 180km theo hướng tây bắc - đông nam từ biên giới phía bắc thuộc hai


7


tỉnh Lào Cai và Lai Châu cho đến Yên Bái. ở đây có đỉnh Phanxipăng (3143m) cao nhất
Việt Nam và cả bán đảo Đông Dương, đỉnh Tả Yang Phình (3096m) và các đỉnh núi cao
khác như Phu Luông (2985m), Sà Phình (2874m). Ngoài ra còn có hàng chục đỉnh cao
trên 2000m.
Ở khu vực phía nam của dãy Trường Sơn cũng có một số đỉnh núi cao trên 2000m
như Ngọc Linh (2598m), đỉnh Ngọc Krinh (2025m) ở Kon Tum, đỉnh Vọng Phu (2051m)
ở Khánh Hòa, đỉnh Chư Yang Sin (2405m) ở Đắk Lắk.
Địa hình núi cao được cấu tạo bởi các loại đá macma và đá biến chất có thành phần
khá đồng nhất như granit, riôlit rất cứng rắn, khó bị phong hóa, tạo nên các đỉnh sắc nhọn,
lởm chởm hình răng cưa. Địa hình của vùng núi cao rất hiểm trở vì có độ cao lớn, sườn
dốc, với nhiều vách đứng bị xâm thực mạnh, tạo nên độ chia cắt tới hàng nghìn mét. Do
lớp vỏ phong hóa mỏng nên lớp phủ thổ nhưỡng và thực vật cũng rất nghèo nàn, cằn cỗi.
Các vùng núi cao ở Việt Nam đều có lượng mưa lớn trên dưới 3000mm, có lượng ẩm cao
nhưng rất lạnh. ở vùng núi Phanxipăng, mùa đông rất rét và thậm chí còn có tuyết rơi.
b. Địa hình núi trung bình
Địa hình núi trung bình ở Việt Nam có diện tích không lớn, chiếm khoảng 14%
diện tích cả nước, nhưng cũng phân bố khá rộng khắp, từ biên giới phía Bắc cho đến phía
Nam của dãy Trường Sơn.
Địa hình núi trung bình có các dạng đỉnh núi, khối núi và dãy núi đơn độc, tách
biệt hoặc gắn liền với các vùng núi cao.
Địa hình núi trung bình gồm các núi được cấu tạo bởi các loại nham thạch cứng,
chủ yếu là các loại đá macma và đá biến chất, tuy nhiên có độ cao thấp hơn và mức độ
xâm thực, chia cắt địa hình yếu hơn so với các vùng núi cao. Đặc biệt ở vùng núi Tây
Bắc, tính chất phân bậc của địa hình biểu hiện rõ ràng hơn. ở những nơi có địa hình hiểm
trở, giao thông đi lại khó khăn còn giữ lại được lớp phủ rừng tự nhiên.
c. Địa hình núi thấp

Địa hình núi thấp thường gặp ở vùng liền kề với vùng núi trung bình và vùng đồi
thành một dải liên tục với các bậc địa hình cao thấp khác nhau. Cũng có khi địa hình núi
thấp còn được gặp ở ngay vùng đồng bằng và vùng ven biển dưới dạng núi sót.
Điển hình của địa hình núi thấp ở Việt Nam là vùng Đông Bắc và khu vực núi Hòa
Bình - Thanh Hóa - Nghệ An. Phần lớn các núi thấp được cấu tạo bởi các đá trầm tích, có
dáng hình mềm mại, có lớp vỏ phong hóa khá dày.

I.2.1.2. Địa hình cao nguyên
8


a. Địa hình cao nguyên đá vôi
Địa hình cao nguyên đá vôi rất điển hình ở vùng núi phía Bắc và Tây Bắc Việt
Nam. Địa hình này có đặc điểm chung là có độ cao khá lớn nhưng bề mặt khá bằng
phẳng, mạng lưới sông suối thưa thớt và rất hiếm nước, nhất là vào thời kỳ mùa khô.
Điển hình cho địa hình cao nguyên đá vôi ở vùng núi tương đối cao mang tính chất
sơn nguyên là các cao nguyên Đồng Văn (Hà Giang), cao nguyên Bắc Hà (Lào Cai) và
dải các cao nguyên ở Tây Bắc chạy dài theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, có độ cao
tương đối thấp, dưới 1000m. Đó là các cao nguyên Tà Phình - Sin Chải, cao nguyên Sơn
La và cao nguyên Mộc Châu. Đặc biệt mới đây cao nguyên đá Hà Giang (bao gồm 4
huyện Đồng Văn, Mèo Vạc, Yên Minh, Bảo Lạc) đã được công nhận là thành viên chính
thức của Mạng lưới các Công viên địa chất toàn cầu (ngày 3/10/2010).
b. Địa hình cao nguyên badan
Khác với địa hình cao nguyên đá vôi còn có nét hiểm trở, các cao nguyên badan có
dáng hình mềm mại, bằng phẳng hơn và trên bề mặt cao nguyên còn có nhiều di tích của
các hoạt động núi lửa như các nón miệng núi lửa, các hồ tròn. Các cao nguyên badan
được bao phủ chủ yếu bới các lớp đá badan phun trào tuổi Tân sinh đã được phong hóa và
trở thành loại đất đỏ badan rất phì nhiêu, thuận lợi cho sự phát triển của các cánh rừng tự
nhiên cũng như cho sản xuất nông, lâm nghiệp.
Các cao nguyên badan ở nước ta tập trung chủ yếu ở Tây Nguyên và rìa của miền

Đông Nam Bộ.
c. Địa hình cao nguyên hỗn hợp các loại đá trầm tích, macma và biến chất
Thuộc địa hình này là các cao nguyên bóc mòn có độ cao khá lớn, tới 1500m ở
phía Bắc tỉnh Lâm Đồng. Trên bề mặt cao nguyên còn lộ ra các loại đá trầm tích tuổi Cổ
sinh và các loại đá macma, biến chất có tuổi trẻ hơn. ở đây có địa hình bằng phẳng xen kẽ
với các dãy đồi và ngọn đồi thoải, tạo nên cảnh quan thiên nhiên rộng mở, có nhiều phong
cảnh đẹp mà tiêu biểu là cao nguyên Lâm Viên với thành phố Đà Lạt, đô thị du lịch nổi
tiếng của Việt Nam.

I.2.1.3. Địa hình đồi
Địa hình đồi ở Việt Nam thường gặp ở vùng giáp ranh có tính chất chuyển tiếp từ
địa hình miền núi xuống đồng bằng. Kiểu địa hình đồi thường có độ cao trung bình từ
70m đến 150m và độ chia cắt sâu trung bình từ 50m đến 85m. Địa hình đồi thuộc kiểu địa
hình bóc mòn do tác động của quá trình ngoại lực đã phá hủy, xâm thực đá gốc hoặc thềm
sông, thềm biển.

9


Địa hình đồi ở Việt Nam phổ biến có hai dạng là đồi bát úp và dãy đồi, rất phổ
biến ở Bắc Ninh, Bắc Giang, Vĩnh Phúc, Phú Thọ thuộc vùng trung du Bắc Bộ cũng như
ở Tây Ninh, Bình Phước, Bình Dương, Đồng Nai ở vùng Đông Nam Bộ.

I.2.1.4. Địa hình đồng bằng
Địa hình đồng bằng ở Việt Nam thuộc bậc địa hình thấp nhất, phần lớn nằm ở phía
đông lãnh thổ, tiếp giáp với Biển Đông.
Địa hình đồng bằng có đặc điểm chung là rất bằng phẳng, tuyệt đại bộ phận có độ
cao thấp, thường không vượt quá 15m, được bồi đắp bằng các trầm tích biển, trầm tích lục
địa và phù sa của các con sông lớn trên các vùng trũng, sụt lún mạnh.
Địa hình đồng bằng điển hình nhất ở Việt Nam là ở hai vùng đồng bằng lớn, đồng

bằng Bắc Bộ và đồng bằng Nam Bộ, ngoài ra cũng còn một số nét riêng ở dải đồng bằng
duyên hải miền Trung.
a. Đồng bằng Bắc Bộ với diện tích khoảng 15 nghìn km2 có địa hình bằng phẳng,
hơi nghiêng ra biển theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, được che phủ bởi lớp trầm tích Đệ
Tứ có độ dày từ một vài mét đến trên 100m. Trên bề mặt đồng bằng là lớp đất phù sa màu
mỡ do hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình bồi đắp và đã được khai thác để sản xuất
nông nghiệp từ lâu đời.
Ở khu vực phía Bắc của đồng bằng Bắc Bộ còn có nhiều đồi núi sót và ở phía Nam
còn có nhiều ô trũng. Các ô trũng này càng khó thoát nước hơn từ khi có hệ thống đê
điều. Một số nơi ở vùng ven biển của đồng bằng Bắc Bộ còn có các dải cồn cát cổ, có
nguồn gốc biển.
Đồng bằng Bắc Bộ hiện nay vẫn đang có xu hướng tiếp tục lấn ra phía biển. Khu vực
tam giác châu cửa sông Hồng hằng năm tiến ra biển tới gần 100m. Hệ thống đê biển trở nên
đặc biệt quan trọng trong việc quai đê, lấn biển và ngăn chặn ảnh hưởng của nước biển xâm
nhập vào đất liền.
b. Đồng bằng Nam Bộ với diện tích hơn 60 nghìn km2 bao gồm hai bộ phận có các
đặc điểm khác hẳn nhau. Đó là đồng bằng cao bao gồm các thềm phù sa cổ, bán bình nguyên
đất đỏ badan ở miền Đông Nam Bộ và đồng bằng châu thổ sông Cửu Long, còn gọi là miền
Tây Nam Bộ.
Đồng bằng cao Đông Nam Bộ có hai bậc địa hình khá bằng phẳng ở độ cao 200m và
100m, chạy song song theo hướng Tây Bắc - Đông Nam và dốc nghiêng về phía hạ lưu sông
Sài Gòn.

10


Đồng bằng sông Cửu Long là một bộ phận của khu vực hạ lưu sông Mê Công, có
địa hình rất bằng phẳng và độ cao thấp, trung bình chỉ khoảng 2m. Do không có hệ thống
đê điều ven sông như ở đồng bằng Bắc Bộ nên khi mùa lũ đến, nước sông Mê Công tràn
ngập một vùng rất rộng lớn hàng chục nghìn km2, chủ yếu ở Đồng Tháp Mười và tứ giác

Long Xuyên. Đồng bằng sông Cửu Long có hệ thống kênh rạch chằng chịt và chịu ảnh
hưởng sâu sắc của chế độ thủy triều. Do các sông mang tải một lượng nước rất lớn và
giàu phù sa, nên đồng bằng sông Cửu Long hằng năm lấn ra biển ở khu vực bán đảo Cà
Mau tới hàng trăm mét. Trên các bãi triều ven biển và cửa sông, đã hình thành nên vùng
rừng ngập mặn rất phát triển có diện tích tới vài ba nghìn km 2, chẳng những lớn nhất Việt
Nam mà còn nổi tiếng trên thế giới vì diện tích chỉ đứng sau vùng rừng ngập mặn ở khu
vực cửa sông Amadôn (Nam Mỹ).
c. Dải đồng bằng duyên hải miền Trung có đặc điểm chung là nhỏ hẹp và dốc
hơn nhiều so với đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long. Các đồng bằng này
thường được các dòng sông nhỏ, ngắn và dốc bồi đắp nên rất dễ xảy ra tình trạng thiếu
nước trong mùa cạn và ngập lụt trong mùa mưa lũ. ở một số nơi ven biển miền Trung còn
xuất hiện các cồn cát có nguồn gốc biển, có địa thế cao, được tạo thành và thường di
chuyển do gió.

I.2.1.5. Các kiểu địa hình đặc biệt
a. Địa hình karst
Địa hình karst ở Việt Nam có diện tích rất lớn, tới 50.000km 2 và tập trung chủ yếu
ở miền Bắc (từ biên giới phía Bắc tới Quảng Bình), còn ở miền Nam chỉ có một ít ở Đà
Nẵng và Hà Tiên (Kiên Giang).
Địa hình karst ở Việt Nam có thể phân chia ra các kiểu địa hình karst ngập nước,
địa hình karst nằm xen kẽ ở vùng đồng bằng và địa hình karst tập trung.
Địa hình karst ngập nước tập trung ở vùng biển Đông Bắc trên vịnh Hạ Long và
vịnh Bái Tử Long với hàng nghìn hòn đảo đá vôi tạo nên một kỳ quan, đã được xếp hạng
Di sản thiên nhiên thế giới.
Địa hình karst nằm xen kẽ ở vùng đồng bằng bao gồm các núi đá vôi còn sót lại,
nằm rải rác và xen kẽ giữa các cánh đồng như ở Hà Nội, Ninh Bình, có dáng dấp như một
vịnh Hạ Long trên cạn.
Địa hình karst tập trung thành các khối núi, dãy núi và cao nguyên rất phổ biến ở
các vùng núi đá vôi Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Lai Châu, Sơn La, Hòa Bình, Thanh
Hóa, Quảng Bình.


11


Nói chung, kiểu địa hình karst ở Việt Nam rất hiểm trở, bề mặt lởm chởm sắc
nhọn, thành vách núi dựng đứng, có nhiều khe nứt, phễu, giếng sâu, hang động. ở những
vùng địa hình karst đã trải qua quá trình phát triển lâu dài có các dạng thung lũng và cánh
đồng karst; đá vôi đã bị phong hóa thành loại đất đá vôi tơi xốp, màu hồng và nâu sẫm, rất
thích hợp với một số loài thực vật ưa đất kiềm và trung tính.
Địa hình karst tạo nên nhiều phong cảnh đẹp vì núi non hùng vĩ và nhiều dáng
hình, đặc biệt là các hang động và sông suối ngầm kỳ ảo, là đối tượng rất hấp dẫn của du
lịch. Nhiều hang động còn là nơi cư trú của người cổ xưa, vì thế còn để lại nhiều di chỉ
khảo cổ rất có giá trị. Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng (Quảng Bình) có hệ thống
hang động Phong Nha đặc sắc cũng đã được công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới.
b. Địa hình bờ biển
Việt Nam có đường bờ biển dài và có các kiểu địa hình biển rất đa dạng.
+ Địa hình bờ biển bồi tụ
Địa hình bờ biển bồi tụ được quyết định bởi quá trình bồi tụ ở vùng cửa sông và
ven biển. Khu vực cửa sông Hồng và khu vực bờ biển từ cửa sông Sài Gòn đến Hà Tiên là
điển hình cho kiểu địa hình bồi tụ tam giác châu. ở đây, hàng năm có lượng nước rất lớn
của các sông đổ ra biển, mang theo rất nhiều phù sa. Lượng phù sa này được bồi đắp ở
ngay khu vực cửa sông và di chuyển, tích tụ ở các khu vực lân cận do tác động của các
dòng biển.
Trong địa hình bờ biển bồi tụ, bên cạnh các đoạn bờ biển có địa hình tam giác châu
còn có kiểu địa hình cửa sông dạng etchuye hình phễu. Kiểu địa hình này được hình thành
ở những nơi sông chảy ra biển với lượng nước không lớn, nghèo phù sa lại chịu nhiều ảnh
hưởng của thủy triều nên hạn chế sự bồi đắp phù sa và làm cho khu vực cửa sông có độ
sâu khá lớn. Điều này rất thuận lợi cho việc xây dựng và khai thác các cảng ở tương đối
sâu trong đất liền, điển hình là cảng Hải Phòng, cảng Sài Gòn.
+ Địa hình bờ biển mài mòn

Địa hình bờ biển mài mòn ở Việt Nam xuất hiện ở các khu vực đồi núi trực tiếp
tiếp xúc với biển, điển hình nhất ở đoạn bờ biển từ mũi Đại Lãnh (Phú Yên) đến Mũi
Dinh (Ninh Thuận).
Đặc điểm của địa hình bờ biển mài mòn là bờ biển khúc khuỷu với các mũi đá, bán
đảo, vũng, vịnh sâu và các đảo sát bờ. ở nhiều nơi thuộc địa hình này có những điều kiện
thuận lợi để xây dựng các cảng biển nước sâu, kín đáo như cảng Cam Ranh, hoặc có
nhiều bãi biển bằng phẳng rộng lớn, cát trắng trong khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ, rất có

12


giá trị để phát triển du lịch như bãi biển Nha Trang (đã được bình chọn là một trong 29
bãi biển đẹp nhất thế giới).
+ Địa hình bờ biển bồi tụ - mài mòn
Địa hình bờ biển bồi tụ - mài mòn có dạng tương đối bằng phẳng, ở những nơi có
đồi núi nằm sát biển thì bờ biển khúc khuỷu hơn với các mũi đất và vũng biển. ở khu vực
ven biển Trung Bộ còn xuất hiện kiểu địa hình cồn cát ven biển như ở Quảng Bình,
Quảng Trị, Ninh Thuận, Bình Thuận hoặc các đầm phá và vũng biển như ở Thừa Thiên Huế.
Điển hình cho kiểu địa hình bờ biển này là các khu vực ven biển Quảng Ninh, khu
vực bờ biển miền Trung từ Thanh Hóa đến Mũi Dinh và đoạn ven biển từ Ninh Thuận
đến Vũng Tàu. Kiểu địa hình này có rất nhiều phong cảnh đẹp và bãi biển nổi tiếng như
vịnh Hạ Long, Sầm Sơn, Cửa Lò, Cửa Tùng, Thuận An, Sa Huỳnh, Quy Nhơn, Cà Ná,
Vũng Tàu…

I.2.2. Sự phân hóa địa hình theo các miền địa lí tự nhiên
Hình I.3: Ranh giới các miền tự nhiên

13



I.2.2.1. Miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ
a. Giới hạn
Trong sự phân hóa tự nhiên trên lãnh thổ nước ta, miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ là
kết quả đan xen của một bộ phận đới rừng gió mùa chí tuyến và xứ nền Hoa Nam – Bắc
Việt Nam. Ranh giới phía Bắc là đường biên giới Việt – Trung thuộc địa phận các tỉnh
Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang và Lào Cai, phía tây dọc theo bờ phải thung
lũng sông Hồng và sông Đáy, tính đến độ cao khoảng 100m từ biên giới Việt – Trung qua
rìa phía Tây của dãy Ba Vì – Viên Nam và dãy Tam Điệp ngăn cách giữa đồng bằng sông

14


Hồng và đồng bằng sông Mã, về phía đông và nam là bờ biển từ Quảng Ninh đến Ninh
Bình (ở khoảng 20 0B).
b. Địa hình
Địa hình của miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ có thể khái quát chung là địa hình của
miền đồi núi thấp, với độ cao trung bình khoảng 600m. Diện tích đồng bằng và đồi núi
thấp chiếm đa số, tới hơn 90 % diện tích của miền.
Địa hình của miền có xu hướng thấp dần theo hướng Tây Bắc – Đông Nam.
Nét đặc sắc nhất của cấu trúc địa hình miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ là có dạng rẻ
quạt mở rộng về phía đông bắc, quy tụ về phía Nam ở dãy núi Tam Đảo. Đó là các dãy
núi cánh cung sắp đặt như ôm lấy khối núi thượng nguồn sông Chảy quay lưng về phía
đông và đông nam, theo thứ tự từ tây sang đông là các dãy núi cánh cung sông Gâm, cánh
cung Ngân Sơn, cánh cung Bắc Sơn và cánh cung Đông Triều.
Các vùng núi trung bình và các đỉnh núi cao trên 2000m tạo địa hình chắn thuận lợi
đã trở thành các trung tâm mưa lớn.
Đối lập với các vùng núi là vùng đồng bằng sông Hồng và sông Thái Bình với địa
thế thấp, rất bằng phẳng.

I.2.2.2. Miền Tây Bắc và Bắc Trung Bộ

a. Giới hạn
Miền Tây Bắc và Bắc Trung Bộ được xác định bởi sự kết hợp của đới rừng gió mùa
chí tuyến và xứ địa máng Đông Dương. Ranh giới của miền về phía đông giáp miền Bắc
và Đông Bắc Bắc Bộ là hữu ngạn sông Hồng và ranh giới phía Nam ngăn cách với miền
Nam Trung Bộ và Nam Bộ tại dãy núi Động Ngài – Bạch Mã, ngang đèo Hải Vân ở vĩ
tuyến 16 0 B.
b. Địa hình
Cấu trúc địa chất và lịch sử phát triển đã tạo cho địa hình miền Tây Bắc và Bắc
Trung Bộ có cấu trúc sơn văn khác hẳn với miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ. Trước hết,
đây là miền có địa hình cao nhất Việt Nam, cảnh quan núi chiếm chủ yếu, diện tích đồng
bằng thu hẹp và không còn các đồng bằng châu thổ rộng lớn như Bắc Bộ và Nam Bộ.
Toàn bộ miền Tây Bắc và Bắc Trung Bộ là một hệ thống sơn văn gồm các dãy núi
lớn xếp song song, kéo dài theo hướng tây bắc – đông nam. Phía đông, chạy dọc thung
lũng sông Hồng là dãy Hoàng Liên Sơn đồ sộ với nhiều đỉnh cao trên 3000m. Giáp biên

15


giới Việt – Lào là dãy núi sông Mã với những đỉnh cao sàn 1800m. Nằm giữa hai dãy núi
đồ sộ trên là các dãy núi xen các cao nguyên và sơn nguyên đá vôi chạy từ Phong Thổ đến
Thanh Hóa. Cấu trúc sơn văn hướng tây bắc- đông nam của khu vực Tây Bắc còn được
tiếp tục ở Bắc Trường Sơn.
Dải đồng bằng ven biển từ Thanh – Nghệ - Tĩnh tới Bình – Trị- Thiên thu hẹp do
nhiều mạch núi đâm ra biển, để lại nhiều dãy đồi, ngọn núi nhô lên trên bề mặt đồng bằng
và giáp biển ngổn ngang các cồn cát, đụn cát.
Tính chất của một miền núi cổ trẻ lại được thể hiện rõ rệt nhất ở địa hình miền Tây
Bắc và Bắc Trung Bộ, đặc biệt ở phần phía Bắc của miền. Các khối núi bị cắt xẻ bởi
những thung lũng trẻ hẹp ngang tạp nên các hẻm vực, khe sâu, lòng sông dốc, lắm thác
ghềnh, xâm thực giật lùi mạnh, hiện tượng cướp dòng khá phổ biến.


I.2.2.3. Miền Nam Trung Bộ và Nam Bộ
a. Giới hạn
Miền Nam Trung Bộ và Nam Bộ có giới hạn từ daỹ núi Bạch Mã (khoảng 16 0B trở
vào Nam). Đây là miền có nhiều nét độc đáo, đặc sắc. Tây Nguyên, Nam Bộ, Duyên Hải
Nam Trung Bộ cùng với vùng biển – đảo nam biển Đông rộng lớn là những khu vực tự
nhiên có cảnh quan hết sức hấp dẫn, có tài nguyên phong phú, có tiềm năng kinh tế- xã
hội to lớn. Chiếm tới 49 % diện tích, miền Nam Trung Bộ và Nam Bộ là miền tự nhiên
rộng lớn nhất và cũng có tiềm năng kinh tế lớn nhất trong ba miền của đất nước.
b. Địa hình
Trong miền phân rõ thành 3 khu vực địa hình cơ bản là khu vực núi và các cao
nguyên Nam Trường Sơn, khu vực Đồng bằng Nam Bộ và khu vực đồng bằng ven biển
Nam Trung Bộ.
Nam Trường Sơn là khu vực có cả núi, cao nguyên, đồi và thung lũng xen kẽ nhau
rất phức tạp. Chúng tạo thành những khối núi đồ sộ và khá cao ở phía bắc Kontum và tây
Quảng Ngãi. Về phía nam các núi trên là một vùng địa hình tương đối thấp, độ cao 500 800m. Quần thể các cao nguyên xếp tầng ở cực Nam Trung Bộ bao gồm các cao nguyên
Lâm Viên, Bảo Lộc, Di Linh và M’Nong với nhiều bậc từ 1500m, 1000m và 500m.
Dải đất phù sa cổ kéo dài từ Tây Ninh đến tận Bà rịa – Vũng Tàu thường được gọi là
vùng Đông Nam Bộ. Dải này có thể được coi là thềm tích tụ - xâm thực của sông
Mekong. Đây là nơi chuyển tiếp từ dạng địa hình cao nguyên của Tây Nguyên xuống địa
hình đồng bằng sông Cửu Long. Địa hình có dạng gò đồi lượn sóng, thấp dần về phía
Nam và Tây Nam. Bề mặt phù sa cổ đã bị laterit hóa, bị biến dạng vào lúc có các đợt

16


phun trào badan Pleistoxen sớm, bề mặt có độ cao từ 10 – 100m. Có 3 bậc độ cao khác
nhau là các bậc 40 – 50m, 70 – 80 m và 90 – 100m.
Đồng bằng châu thổ sông Cửu Long là địa hình bồi tụ trên một vịnh biển lớn. Bề mặt
đồng bằng thấp có độ cao từ 1 – 5 m, nổi lên một số núi sót ở phía tây. Diện tích đồng
bằng gần 40000 km2.


Chương II
NHỮNG CÂU HỎI VẬN DỤNG VÀ HƯỚNG DẪN TRẢ LỜI
II. 1. Những câu hỏi liên quan đến sự phân hóa đa dạng của địa hình
Việt Nam.

17


Câu 1: Dựa vào Atlat địa lí Việt Nam và kiến thức đã học, hãy trình bày các kiểu địa
hình thuộc khu vực đồi núi nước ta.
HƯỚNG DẪN
1. Các kiểu địa hình của khu vực đồi núi nước ta
Căn cứ vào các dấu hiệu bên ngoài, khu vực đồi núi nước ta có những kiểu địa hình
như sau:
- Kiểu địa hình núi với đặc điểm chung là độ cao tuyệt đối và tương đối khá lớn. Về
ngoại hình, thường là các khối núi hay dãy núi, có độ chia cắt sâu và có sườn dốc lớn.
+ Miền núi cao có độ cao trên 2000m chiếm tỉ lệ diện tích không lớn lắm, tập trung
ở biên giới phía Bắc từ Hà Giang đến Lai Châu và biên giới phía tây thuộc hai tỉnh Nghệ
An, Hà Tĩnh (đọc Atlat). Tiêu biểu là dãy Hoàng Liên Sơn với đỉnh Phan xi păng
(3143m).
+ Miền núi trung bình có độ cao tuyệt đối từ 1000 – 2000m chiếm diện tích không
lớn lắm, nhưng cũng được phân bố khá rộng khắp từ biên giới phía bắc đến phía nam của
dãy Trường Sơn (đọc Atlat), thung lũng hẹp, sườn dốc 25 – 300.
+ Miền núi thấp có độ cao trung bình từ 500 – 1000m thường liền kề với vùng núi
trung bình và cùng đồi thành một dải liên tục với các bậc địa hình cao thấp khác nhau,
thậm chí kiểu địa hình này còn gặp ở ngay vùng đồng bằng và ven biển (đọc Atlat). Tập
trung thành khu vực rộng lớn ở Nam Trung Bộ; thành khối núi rời rạc ở Việt Bắc, Đông
Bắc và dải hẹp ở biên giới Việt – Lào thuộc Bắc Trung Bộ.
- Kiểu địa hình cao nguyên.

+ Cao nguyên đá vôi điển hình ở phía bắc và tây bắc nước ta (đọc Atlat) như cao
nguyên Đồng Văn, Tà Phìn – Sìn Chải, Sơn La, Mộc Châu.
+ Cao nguyên badan tập trung ở Tây Nguyên và rìa của vùng Đông Nam Bộ (đọc
Atlat), địa hình tương đối bằng phẳng.
+ Cao nguyên hỗn hợp các loại đá trầm tích, mắc ma, biến chất: cao nguyên Lâm
Viên – Đà Lạt…
- Kiểu địa hình sơn nguyên có độ cao tuyệt đối như độ cao của núi, nhưng vùng đ ỉnh
vẫn giữ dạng đồi thấp, lượn sóng với độ cao tương đối 25 – 100m.
- Đối với độ cao tuyệt đối dưới 500m, độ cao tương đối 25 -200m. Địa hình đồi
thường gặp ở vùng giáp ranh có tính chất chuyển tiếp từ địa hình miền núi xuống đồng
bằng (vùng đồi Đông Bắc).

18


- Địa hình bán bình nguyên hình thành tại vùng Tân kiến tạo ổn định, ở ranh giới
giữa vùng nâng và vùng sụt, độ cao tuyệt đối 100- 200m, độ dốc dưới 80. Phân bố ở rìa
đồng bằng lớn (vùng trung du Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Thái Nguyên, Bắc Giang, Đông Nam
Bộ) hoặc bên trong các đồng bằng duyên hải (Móng Cái, Thừa Thiên Huế, Bình Thuận).
- Địa hình Caxtơ: thung – động Caxtơ (rìa núi Bắc Sơn), núi Caxtơ (Puthaca – Hà
Giang), sơn nguyên Caxtơ (Quản Bạ - Đồng Văn), hang động Caxtơ (Phong Nha). Thung
lũng và lòng chảo miền núi: Điện Biên, Nghĩa Lộ, An Khê.
Câu 2: Dựa vào Atlat địa lí Việt Nam và kiến thức đã học, hãy chứng minh rằng địa
hình miền núi nước ta có sự phân hóa đa dạng thành các vùng khác nhau? Giải
thích các nguyên nhân dẫn đến sự phân hóa địa hình?

HƯỚNG DẪN
1. Chứng minh.
Địa hình núi phân hóa thành 4 vùng là: Đông Bắc, Tây Bắc, Trường Sơn Bắc và
Trường Sơn Nam.

1.1. Vùng núi Đông Bắc:
- Nằm ở phía đông thung lũng sông Hồng với 4 cánh cung núi lớn chụm đầu ở Tam
Đảo, mở ra về phía bắc và phía đông. Đó là các cánh cung: Sông Gâm, Ngân Sơn, Bắc
Sơn, Đông Triều. Địa hình núi thấp chiếm phần lớn diện tích vùng. Theo hướng các dãy
núi là hướng vòng cung của các thung lũng song Cầu, sông Thương, sông Lục Nam.
- Địa hình Đông Bắc thấp dần từ tây bắc xuống đông nam. Những đỉnh cao trên
2000 m nằm trên vùng thượng nguồn sông Chảy. Giáp biên giới Việt – Trung là khối núi
đá vôi đồ sộ Hà Giang, Cao Bằng cao trên 1000 m. Còn ở vùng trung tâm là vùng đồi núi
thấp có độ cao trung bình 500 – 600 m.
1.2. Vùng núi Tây Bắc
- Nằm giữa sông Hồng và sông Cả, có địa hình cao nhất nước ta.
- Núi cao và trung bình chiếm ưu thế với 3 dải địa hình cùng hướng tây bắc – đông
nam. Phía đông là dãy Hoàng Liên Sơn cao và đồ sộ có đỉnh Phanxipang (3143 m), phía
tây là địa hình núi trung bình của các dãy dọc biên giới Việt – Lào; Ở giữa thấp hơn là các
dãy núi, sơn nguyên, cao nguyên đá vôi từ Phong Thổ đến Mộc Châu, tiếp nối là những
đồi núi đá vôi Ning Bình – Thanh Hóa. Xen giữa các dãy núi là các thung lũng sông cùng
hướng: Sông Đà, sông Mã, sông Chu.
1.3. Vùng núi Trường Sơn Bắc (thuộc Bắc Trung Bộ)

19


- Giới hạn từ phía Nam sông Cả tới dãy Bạch Mã, gồm các dãy núi song song và so
le nhau theo hướng tây bắc – đông nam.
- Chủ yếu là núi thấp. Trường Sơn Bắc thấp và hẹp ngang, được nâng cao ở 2 đầu và
thấp ở vùng giữa. Cuối cùng là dãy Bạch Mã đâm ngang ra biển, đây cũng là ranh giới với
Trường Sơn Nam và là ranh giới khí hậu giữa 2 miền Bắc – Nam.
1.4. Vùng núi Trường Sơn Nam
Từ Nam Bạch Mã xuống phía Nam, gồm các khối núi và cao nguyên. Khối núi
Kontum và khối Cực Nam Trung Bộ được nâng cao đồ sộ. Hướng kinh tuyến lệch tây ở

khối núi Kontum và hướng vòng cung ở khối núi Cực Nam Trung Bộ.
Địa hình núi có độ cao trung bình với những đỉnh cao trên 2000 m nghiêng dần về
phía đông, sườn dốc chênh vênh bên dải đồng bằng ven biển. Tương phản với địa hình
núi phía đông là các bề mặt cao nguyên badan như Playcu, Đăclăc, Mơ nông, Di linh
tương đối bằng phẳng, có các độ cao 500 – 800 – 1000 m và các bán bình nguyên xen đồi
ở phía tây tạo nên sự bất đối xứng rõ rệt giữa 2 sườn Đông – Tây của vùng Trường Sơn
Nam.
2. Giải thích.
Sự phân hóa đa dạng của địa hình nước ta là kết quả tác động qua lại giữa nội lực và
ngoại lực trong điều kiện thiên nhiên nhiệt đới ẩm gió mùa.
- Nội lực tác động làm nâng cao địa hình nước ta chủ yếu thong qua các vận động
kiến tạo. Trải qua nhiều vận động tạo núi trong giai đoạn Cổ kiến tạo dưới tác động định
hướng của các mảng nền cổ thì địa hình miền núi nước ta đã phân hóa thành nhiều khu
vực. Khu vực nào phát triển trên khối nền cổ hướng vòng cung thì địa hình có hướng
vòng cung (Đông Bắc- khối Vòm sông Chảy, Trường Sơn Nam – khối núi cực Nam
Trung Bộ). Khu vực phát triển trên khối nền cổ có hướng tây bắc – đông nam thì địa hình
có hướng tây bắc – đông nam (Tây Bắc – khối Hoàng Liên Sơn, Trường Sơn Bắc – khối
sông Mã). Đến tân kiến tạo do chịu tác động của vận động tạo núi Anpo – Himalaya, địa
hình nước ta được nâng lên nhưng có cường độ khác nhau. Khu vực nâng lên mạnh hình
thành núi cao (Tây Bắc), khu vực nâng yếu hình thành núi có độ cao trung bình (Đông
Bắc). Đồng thời tại những vùng sụt lún diễn ra quá trình bồi lấp trầm tích lục địa, hình
thành đồng bằng.
- Ngoại lực tác động làm phá vỡ, san bằng địa hình do nội lực tạo nên, đồng thời tạo
nên nhiều dạng địa hình mới. Trong điều kiện khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa với một mùa
mưa và một mùa khô sâu sắc đã thúc đẩy quá trình xâm thực cơ giới ở miền đồi núi làm

20


địa hình miền núi bị cắt xẻ, bào mòn nhiều nơi trơ sỏi, đá. Tại những miền núi mất lớp

phủ thực vật, mưa lớn còn gây ra hiện tượng đất trượt, đá lở. Vùng đá vôi hình thành dạng
địa hình caxto, các bề mặt phù sa cổ đất bị bạc màu. Dưới tác động của dòng chảy sông
ngòi, lớp cát bùn được vận chuyển từ vùng núi về bồi lấp chỗ trũng tạo nên địa hình đồng
bằng.
Câu 3: Dựa vào Atlat địa lí Việt Nam và kiến thức đã học , trình bày sự khác biệt
giữa địa hình vùng núi Đông Bắc với địa hình vùng núi Tây Bắc. Giải thích tại sao có
sự khác biệt đó.
HƯỚNG DẪN
1. Sự khác biệt giữa địa hình vùng núi Đông Bắc với địa hình vùng núi Tây
Bắc.
- Giới thiệu khái quát:
+ Vùng Đông Bắc nằm ở phía đông thung lũng sông Hồng.
+ Vùng núi Tây Bắc nằm giữa sông Hồng và sông Cả.
- So sánh sự khác biệt.
Tiêu chí

Vùng núi Đông Bắc

Vùng núi Tây Bắc

Hướng núi

Vòng cung. Cao ở phía tây bắc, thấp Hướng nghiêng và hướng núi là
dần đông nam. Ngoài ra còn có hướng tây bắc – đông nam.
tây bắc- đông nam (dãy Con Voi)

Độ cao

Thấp hơn Tây Bắc, độ cao phổ biến Cao và đồ sộ nhất Việt Nam, với
500- 1000m, chỉ có một số đỉnh cao nhiều đỉnh cao trên 2000m (dc),

trên 2000m phân bố ở thượng nguồn núi cao và trung bình chiếm ưu
s.Chảy (dẫn chứng)

Đặc

thế.

điểm Mang hình thái của núi già được trẻ Mang đặc điểm hình thái của núi

hình thái

hóa: đỉnh tròn, sườn thoải, độ dốc và trẻ: sống núi rõ, sắc sảo, sườn
độ chia cắt yếu.

dốc, khe sâu, độ chia cắt ngang
và chia cắt sâu lớn.

Cấu
địa hình

trúc - Địa hình của 4 cánh cung lớn(….)

- Có 3 mạch núi chính:

- Địa hình núi cao nằm ở thượng + Phía đông là dãy Hoàng Liên
nguồn sông Chảy.

Sơn.

- Giáp biên giới Việt - Trung là địa + Phía tây là địa hình núi cao


21


hình cao của các khối núi đá vôi Hà trung bình của các dãy núi chạy
Giang, Cao Bằng.

dọc biên giới Việt- Lào.

- Trung tâm là vùng đồi thấp 500- + Ở giữa thấp hơn là các dãy núi,
sơn nguyên, cao nguyên đá vôi…

600m.

- Giữa vùng đồi núi và đồng bằng là + Nối tiếp là vùng đồi núi Ninh
vùng đồi trung du thấp dưới 100m.

Bình, Thanh Hóa.
- Các bồn trũng mở rộng thành
các cánh đồng…
- Nằm giữa các dãy núi là các
thung lũng sông: Đà, Mã, Chu.

2. Giải thích sự khác biệt.
Sự khác biệt về địa hình giữa vùng núi Đông Bắc và Tây Bắc có liên quan mật
thiết với cấu trúc địa chất – kiến tạo của mỗi vùng.
- Vùng núi Đông Bắc: Trong lịch sử hình thành lãnh thổ, vùng này chịu sự qui
định hướng của khối nền cổ Vòm sông Chảy nên có hướng vòng cung. Địa hình chủ yếu
là núi thấp của vùng có liên quan đến nền Hoa Nam (Trung Quốc). Đây là bộ phận rìa của
khối nền Hoa Nam đã vững chắc nên các vận động nâng lên ở đây yếu hơn so với vùng

núi Tây Bắc.
- Vùng núi Tây Bắc: Trọng vận động địa chất của vỏ Trái Đất, vùng này là một bộ phận
của địa máng Việt Lào nên chịu tác động mạnh của vận động nâng lên, nhất là vận động
An pơ – Himalaya (giai đoạn tân kiến tạo). Hướng tây bắc – đông nam của vùng là do sự
qui định hướng của khối nền cổ Hoàng Liên Sơn.

Câu 4: Dựa vào Atlat địa lí Việt Nam và kiến thức đã học , trình bày sự khác biệt
giữa địa hình vùng núi Trường Sơn Bắc với địa hình vùng núi Trường Sơn Nam.
Giải thích tại sao có sự khác biệt đó.
HƯỚNG DẪN
1. Giới thiệu khái quát:
+ Vùng Trường Sơn Bắc: từ nam sông Cả đến dãy Bạch Mã.
+ Vùng núi Trường Sơn Nam: từ Bạch Mã đến khối núi cực Nam Trung Bộ
(11 0B).

22


2. Nhận xét và giải thích về sự khác biệt
+ Về hướng: Trường Sơn Bắc có hướng tây bắc – đông nam. Trường Sơn Nam có
hướng vòng cung, quay lưng về phía đông.
+ Về cấu trúc: Trường Sơn Bắc gồm các dãy núi song song và so le. Trường Sơn
Nam gồm các khối núi và cao nguyên (dẫn chứng).
+ Về độ cao:
 Trường Sơn Bắc thấp hơn TSN : độ cao phổ biến<1000m.
 Trường Sơn Nam có độ cao phổ biến >1000m với nhiều đỉnh núi cao trên
2000m (dẫn chứng), đặc biệt là khối núi Kon Tum và khối núi cực Nam
Trung Bộ được nâng cao, đồ sộ.
+ Về đặc điểm hình thái:
 Trường Sơn Bắc: hẹp ngang, được nâng cao ở hai đầu (dẫn chứng), thấp

trũng ở giữa (vùng núi đá vôi Quảng Bình và vùng đồi thấp Quảng Trị).
 Trường Sơn Nam: Có sự bất đối xứng rõ rệt giữa 2 sườn Đông – Tây: sườn
đông dốc; phía tây là bề mặt các cao nguyên ba dan Playku, Đăk Lăk, Mơ
Nông, Di Linh tương đối bằng phẳng, có các độ cao 500- 800 – 1000m và
các bán bình nguyên xen đồi.
3. Giải thích:
+ Vùng núi Trường Sơn Bắc : Hướng núi chịu sự chi phối của địa máng Đông
Dương; được nâng yếu trong vận động Tân kiến tạo, nên chủ yếu là núi thấp.
+ Vùng núi Trường Sơn Nam: chịu sự qui định hướng của khối nền cổ Đông
Dương, bao gồm cả khối Kon Tum. Trong vận động Tân kiến tạo được nâng lên
khá mạnh, nên khối núi Kon Tum và khối núi Cực Nam Trung bộ thuộc núi cao
trung bình. Về phía tây và tây nam, hoạt động phun trào badan tạo nên các cao
nguyên xếp tầng có độ cao thấp hơn.
Câu 5: Dựa vào Atlat địa lí Việt Nam và kiến thức đã học , trình bày sự khác biệt
giữa địa hình đồng bằng sông Hồng với đồng bằng sông Cửu Long. Giải thích tại sao
có sự khác biệt đó.
HƯỚNG DẪN
1. So sánh
a) Giống nhau

23


- Đều được hình thành tại các vùng sụt võng theo các đứt gãy sâu vào cuối kỉ Đệ
tam đầu kỉ Đệ tứ (giới Kainozoi).
- Cả 2 đồng bằng đều được thành tạo và phát triển do phù sa sông bồi tụ dần trên
vịnh biển nông, thềm lục địa mở rộng.
- Địa hình bằng phẳng, diện tích đất đai rộng, màu mỡ, thuận lợi cho phát triển
nông nghiệp.
- Hướng nghiêng chung: tây bắc – đông nam

- Hiện nay 2 đồng bằng vẫn tiếp tục được mở rộng ra biển hàng chục mét/năm.
b) Khác nhau
- Nguyên nhân hình thành:
+ Đồng bằng sông Hồng do phù sa sông Hồng và sông Thái Bình bồi đắp.
+ Đồng bằng sông Cửu Long do phù sa sông Tiền và sông Hậu bồi đắp.
- Hình dạng đồng bằng
+ Đồng bằng sông Hồng có dạng tam giác cân, đỉnh là Việt Trì, đáy là đoạn bờ
biển từ Quảng Ninh đến Ninh Bình.
+ Đồng bằng sông Cửu Long có dạng hình thang cân, đáy nhỏ là đoạn từ Hà Tiên
đến Gò Dầu, đáy lớn là đoạn từ Cà Mau đến Gò Công.
- Diện tích: Đồng bằng sông Cửu Long có diện tích lớn hơn (40.000 km2 so với
15.000 km2 ), còn nhiều tiềm năng nhưng chưa khai thác hết. Đồng bằng sông Hồng hầu
như không có khả năng mở rộng diện tích.
- Độ cao: Đồng bằng sông Hồng cao hơn, đồng bằng sông Cửu Long thấp và bằng
phẳng.
- Các dạng địa hình tự nhiên:
+ Đồng bằng sông Hồng:có nhiều ô trũng ngập nước, ruộng bậc cao bạc màu, đồi
núi sót (Hà Nội, Ninh Bình), cồn cát ven biển, bãi bồi ven sông.
+ Đồng bằng Đồng bằng sông Cửu Long: vùng trũng lớn (Đồng Tháp Mười, Tứ
Giác Long Xuyên), gờ đất cao ven sông, cồn cát ven biển, đồi núi sót ít (Hà Tiên).
- Địa hình nhân tạo:
+ Đồng bằng sông Hồng có hệ thống đê ngăn lũ.
+ Đồng bằng sông Cửu Long: mạng lưới kênh rạch chằng chịt (kênh Vĩnh Tế,
Rạch Sỏi, Phụng Hiệp, Kì Hương…).
- Chế độ ngập lũ:

24


+ Đồng bằng sông Hồng do có đê ven sông ngăn lũ nên vùng đất trong đê không

được bồi đắp phù sa thường xuyên, vùng ngoài đê hằng năm được bồi đắp phù sa.
+ Đồng bằng sông Cửu Long: về mùa lũ nước ngập trên diện rộng, còn về mùa cạn
nước triều lấn mạnh làm 2/3 diện tích đồng bằng là đất phèn, đất mặn.
2. Giải thích
Sự khác biệt về địa hình giữa đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long là do:
- Biên độ sụt võng của 2 đồng bằng khác nhau. Mặc dù cả 2 đồng bằng đều được
hình thành tại vùng sụt võng trong đại Tân sinh, nhưng do cường độ sụt võng của đồng
bằng sông Hồng yếu hơn nên địa hình có độ cao cao hơn, trên bề mặt xuất hiện nhiều núi
sót hơn.
- Khả năng bồi tụ của các dòng sông khác nhau. Diện tích lưu vực sông Mê Công
lớn gấp 5 lần so với diện tích lưu vực sông Hồng nên khả năng bồi đắp phù sa của sông
Mê Kông lớn hơn.
- Do tác động của con người. Đồng bằng sông Hồng có lịch sử khai thác lãnh thổ lâu đời,
trong quá trình khai thác nhân dân đã đắp đê ngăn lũ làm đồng bằng bị chia cắt thành
nhiều ô trũng

II. 2. Những câu hỏi liên quan đến sự phân hóa đa dạng của địa hình
trong miền địa lí tự nhiên Việt Nam
II.2.1. Hướng dẫn chung
HƯỚNG DẪN TRÌNH BÀY VÀ GIẢI THÍCH ĐẶC ĐIỂM ĐỊA HÌNH CỦA
MỘT MIỀN ĐỊA LÍ TỰ NHIÊN
1. Khái quát vị trí địa lí.
- Tiếp giáp với các miền địa lí tự nhiên nào hay với quốc gia nào?
2. Đặc điểm chung của địa hình
- Gồm mấy bộ phận (dạng) địa hình chính, là những dạng nào?
+ Bộ phận đồi núi: chiếm diện tích?, phân bố?
+ Bộ phận đồng bằng: Chiếm diện tích?, phân bố?
25
- Hướng nghiêng chung của địa hình? (sử dụng kiến thức địa chất hình thành lãnh thổ
để giải thích khái quát sự khác biệt về hướng nghiêng chung của địa hình).

3. Đặc điểm từng dạng địa hình


×