Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Phát triển du lịch đồng bằng sông cửu long trong hội nhập quốc tế (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (850.5 KB, 24 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngành du lịch Việt Nam đang dần khẳng định vị trí của mình trong nền kinh tế
quốc dân, trong những năm qua ngành du lịch đã có những đóng góp quan trọng vào
quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong giai đoạn hội nhập quốc tế
khu vực và thế giới, du lịch Việt Nam đã và đang trở thành nghành kinh tế mũi nhọn,
góp phần vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng, thúc đẩy quá
trình công nghiệp hóa hiện đại hóa nền kinh tế sớm đưa Việt Nam trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại.
Nằm trong hệ thống du lịch của cả nước, với nhiều tiềm năng phát triển du lịch
Vùng ĐBSCL đã và đang tận dụng những lợi thế để phát triển du lịch trong hội nhập
quốc tế. Tầm quan trọng và chiến lược phát triển du lịch ĐBSCL đã được xác định
trong “Đề án phát triển du lịch vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đến năm
2020” đã được Bộ trưởng Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch (VHTT&DL) phê duyệt
tại Quyết định số 803/QĐ-BVHTTDL ngày 9/3/2010. Trong thời gian qua du lịch
Vùng đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận: trong giai đoạn 2006-2015 lượng
khách du lịch đến vùng ĐBSCL tăng trung bình 11%/năm, trong đó khách du lịch
quốc tế tăng gần 8,5%/năm, khách du lịch nội địa tăng gần 12%/năm. Tổng thu từ
khách du lịch tăng trung bình 23,6%/năm. Năm 2015 vùng ĐBSCL đã đón hơn 12
triệu lượt khách, trong đó có hơn 1,8 triệu lượt khách du lịch quốc tế chiếm 8,27%
lượng khách quốc tế đến Việt Nam, đứng thứ 4 sau vùng Đông Nam bộ, Đồng bằng
Sông Hồng, Duyên hải Nam Trung Bộ và 10,63 triệu lượt khách nội địa (Nguồn
Tổng cục Du lịch Việt Nam, năm 2015). Tuy nhiên, du lịch vùng ĐBSCL vẫn đang
còn nhiều bất cập nên chưa phát huy được hết tiềm năng vốn có của Vùng. Vì vậy, để
khai thác và phát huy tiềm năng và thế mạnh của du lịch vùng ĐBSCL trong bối cảnh
hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đòi hỏi phải có những nghiên cứu chuyên sâu,
có cơ sở lý luận và thực tiễn, có tính khoa học để trả lời các câu hỏi: đâu là tiềm năng
và thế mạnh du lịch của Vùng, của từng địa phương trong Vùng? Làm sao để tránh
được việc trùng lắp trong xây dựng, phát triển sản phẩm du lịch ở từng địa phương


trong Vùng? Các giải pháp để quảng bá du lịch, thu hút vốn đầu tư, đào tạo nguồn
nhân lực, bảo vệ môi trường, đảm bảo an ninh, quốc phòng, nâng cao hiệu quả quản
lý của nhà nước và đáp ứng yêu cầu của hội nhập quốc tế trong phát triển du lịch
vùng ĐBSCL.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
- Xây dựng khung phân tích cho phát triển du lịch ĐBSCL làm cơ sở cho việc
phân tích và đưa giải pháp phát triển du lịch ĐBSCL trong thời kỳ hội nhập.
- Phân tích thực trạng những nhân tố tác động đến sự phát triển của du lịch
ĐBSCL trong hội nhập quốc tế. Từ đó rút ra những kết quả đạt được, những hạn chế,
tồn tại và nguyên nhân trong phát triển du lịch vùng ĐBSCL, làm cơ sở cho việc đề
ra những chính sách và giải pháp nhằm phát triển du lịch của Vùng trong hội nhập
quốc tế.
- Đề xuất những chính sách và giải pháp có cơ sở khoa học, có tính khả thi,
phù hợp với thực tiễn và đem lại hiệu quả nhằm phát triển du lịch vùng ĐBSCL.


2

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: đánh giá nhu cầu du lịch của du khách trong và ngoài
nước và phân tích các đối tượng tác động đến việc cung cấp dịch vụ du lịch cho vùng
ĐBSCL.
- Phạm vi nghiên cứu : Nghiên cứu hoạt động của du lịch vùng ĐBSCL gồm 12
tỉnh và 01 thành phố trực thuộc Trung ương dựa vào hệ thống lý luận của chủ nghĩ
Mác – Lênin gắn với thực tiễn để phân tích và đánh giá thực trạng phát triển du lịch
vùng ĐBSCL.
4. Đóng góp mới của luận án
- Một là: Phân tích có hệ thống các vấn đề lý luận về du lịch, quan điểm về
phát triển du lịch của các nhà kinh tế, của chủ nghĩa Mác – Lênin và của Đảng Cộng
sản Việt Nam, từ đó xây dựng mô hình các nhân tố tác động đến phát triển du lịch

ĐBSCL trong thời kỳ hội nhập.
- Hai là: Luận án phân tích rõ thực trạng phát triển các sản phẩm du lịch vùng
ĐBSCL, hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch, thực trạng cơ sở hạ tầng cho phát triển
du lịch của Vùng, hoạt động đào tạo nguồn nhân lực cho du lịch của Vùng, việc thu
hút đầu tư để phát triển du lịch của Vùng, vai trò quản lý của nhà nước đối với phát
triển du lịch của Vùng. Từ đó đánh giá những kết quả đạt được, những hạn chế và
tiềm năng cho phát triển du lịch của vùng ĐBSCL trong hội nhập quốc tế.
- Ba là: Luận án phân tích rõ tác động của hội nhập quốc tế đối với phát triển
du lịch vùng ĐBSCL, mối quan hệ giữa tài nguyên du lịch với việc phát triển các sản
phẩm du lịch trên cơ sở lợi thế của Vùng để phát triển du lịch trong hội nhập quốc tế.
- Bốn là: Luận án đề xuất các chính sách và giải pháp có căn cứ khoa học, có
tính khả thi và có tính hiệu quả để phát triển du lịch vùng ĐBSCL trong quá trình hội
nhập quốc tế của Việt Nam.
5. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, luận án
gồm 5 chương:
Chương 1: Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến luận án
Chương 2: Cơ sở lý luận về du lịch và phát triển du lịch trong hội nhập
quốc tế
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu và khung phân tích của luận án
Chương 4: Thực trạng phát triển du lịch vùng Đồng bằng sông Cửu Long
trong hội nhập quốc tế
Chương 5: Định hướng, chính sách và giải pháp phát triển du lịch vùng
ĐBSCL trong hội nhập quốc tế


3

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN
CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Tổng quan các công trình nghiên cứu trong nước liên quan đến luận án
Du lịch là hoạt động kinh doanh không thể thiếu của một quốc gia, kinh tế phát
triển, mức sống và thu nhập của người dân được nâng cao thì du lịch trở thành nhu
cầu thiết yếu. Những năm gần đây tại Việt Nam ngành du lịch đã thu hút được nhiều
học giả, nhà nghiên cứu, nhà quản lý, nhà hoạt động thực tiễn trong nước nghiên cứu
tiêu biểu là:
Công trình nghiên cứu của Hà Văn Siêu và Hoàng Đạo Cầm (2010) về “Một số
định hướng và giải pháp chung phát triển du lịch ĐBSCL đến năm 2020”, Phú Văn
Hẳn (2011) nghiên cứu về: “Phát triển du lịch văn hóa dân tộc ở ĐBSCL”, Công trình
nghiên cứu của Nguyễn Quốc Nghi và Huỳnh Thị Thúy Loan, (2012) về “phát triển
du lịch lễ hội tại ĐBSCL”, Nguyễn Quốc Nghi và Phan Văn Phùng (2010) trong
nghiên cứu về “Giải pháp phát triển tuyến du lịch biển liên kết Việt Nam –
Campuchia – Thái Lan”, Nguyễn Phước Quý Quang (2013) nghiên cứu về “Du lịch
làng nghề ở ĐBSCL – một lợi thế văn hóa để phát triển du lịch”,….các bài viết đều
có những giá trị nhất định và đều là những tài liệu tham khảo hữu ích, cho nghiên cứu
phát triển du lịch vùng ĐBSCL trong hội nhập quốc tế.
Bên cạnh đó, còn có một số công trình nghiên cứu trong nước tiêu biểu khác mà
tác giả đã tiếp cận như: Kinh tế du lịch và du lịch học (Đồng Ngọc Minh và Vương
Minh Lôi, 2000); Nâng cao năng lực cạnh tranh của các khách sạn Việt Nam trong
bối cảnh hội nhập kinh tế thế giới (Hà Thanh Hải, 2010); Đề tài Phát triển du lịch gắn
với xóa đói giảm nghèo tại Lào Cai (Phan Ngọc Thắng, 2008); Phát triển kinh doanh
lưu trú du lịch tại vùng du lịch Bắc bộ của Việt Nam (Hoàng Thị Lam Hương, 2011);
Phát triển du lịch bền vững ở Phong Nha - Kẻ Bàng (Trần Tiến Dũng, 2007); Phát
triển du lịch tỉnh An Giang đến năm 2020 (Mai Thị Ánh Tuyết, 2007); Nâng cao
năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp du lịch thành phố Hồ Chí Minh đến năm
2020 (Nguyễn Cao Trí, 2011); Đề tài nghiên cứu Kinh tế du lịch ở các tỉnh Bắc
Trung Bộ trong hội nhập kinh tế quốc tế (Nguyễn Thị Hồng Lâm, 2013).
Ngoài các nghiên cứu trên, tác giả còn tham khảo những tài liệu từ các hội thảo
khoa học về du lịch được tổ chức ở Việt Nam như: “Hội nghị Quốc tế về du lịch bền
vững ở Việt Nam”; Hội thảo “Du lịch sinh thái với phát triển du lịch bền vững ở Việt

Nam” diễn ra tại Hà Nội, tháng 4/1998; Hội thảo “Xây dựng chiến lược Quốc gia về
phát triển du lịch sinh thái tại Việt Nam” được tổ chức vào tháng 9/1999, tại Hà Nội,
do Tổng cục Du lịch phối hợp với Tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên Thế giới (IUCN) và
Ủy ban Kinh tế - Xã hội châu Á và Thái Bình Dương (ESCAP); Diễn đàn Du lịch Á
Âu (ASEM 2008) lần thứ 3 với chủ đề “Tăng cường quan hệ đối tác Á Âu vì sự phát
triển du lịch bền vững” đã được tổ chức tại Việt Nam trong tháng 9/2008; Hội thảo
“Hoàn thiện nội dung sổ tay hướng dẫn du lịch sinh thái ở Việt Nam” tháng 5/2012;
Hội thảo “Du lịch xanh nhằm hướng tới phát triển du lịch Việt Nam bền vững” được
tổ chức tháng 4/2013 với sự phối hợp giữa dự án MEET-BIS và Tổng cục Du lịch,…
Xuất phát từ việc tìm hiểu các công trình nghiên cứu đã có, tác giả đã xác định
những khoảng trống nghiên cứu liên quan đến đề tài để đưa ra hướng nghiên cứu
riêng. Ngoài ra, việc nghiên cứu phát triển du lịch vùng ĐBSCL không thể tách rời


4

mối liên kết với các địa phương trong Vùng, đồng thời cần được đặt trong trong xu
thế hội nhập quốc tế của Việt Nam.
1.2 Tổng quan các công trình nghiên cứu ở nước ngoài
Các công trình nghiên cứu tiêu biểu của nước ngoài liên quan đến luận án được
tác giả tiếp cận nghiên cứu như:
Commonweath of Autralia (1991) nói về du lịch là động lực to lớn trong phát
triển kinh tế nhưng cũng có những tác động không tốt đến môi trường, văn hóa,… vì
vậy cần được quản lí chặt chẽ; Nghiên cứu của Clemmer (1991) viết về nhân tố thu
hút khách du lịch là sự hiếu khách của người làm du lịch và người dân bản xứ;
Nghiên cứu của Smith (1994); Theo Diabo (2003) Du lịch có quan hệ chặt chẽ với
các “giá trị thương mại”; Nghiên cứu của Altman và Finlayson (2003) và nhiều
nghiên cứu liên quan đến phát triển du lịch văn hóa cội nguồn; Nghiên cứu của
Altman và Finlayson (2003) cho rằng sự phát triển của du lịch đòi hỏi kỹ năng, trình
độ của người dân bản xứ như: Trình độ ngoại ngữ, kỷ luật, kỹ năng giao tiếp với

khách,…
Đặc biệt có một số công trình nghiên cứu của nước ngoài liên quan trực tiếp đến
du lịch vùng ĐBSCL như: WorldFish Center (2003) với cuốn “Wetlands
Management in Vietnam Issues and Perspectives” đã có những nghiên cứu khá chi
tiết các vấn đề liên quan đến vùng đất ngập nước tại ĐBSCL và hệ sinh thái của
Vùng nhằm khai thác tiềm năng của Vùng cho phát triển du lịch; nghiên cứu của
Working paper số 10 Ecotourism and Community based Ecotourism in the Mekong
region đã phân tích về du lịch sinh thái và du lịch cộng đồng tại vùng Mekong, đánh
giá tiềm năng và thế mạnh về du lịch sinh thái của Vùng và đề xuất những giải pháp
phát triển du lịch sinh thái của Vùng; nghiên cứu của IUCN (2008) xuất bản cuốn
The Ecosystem Approach – Learning from experience trong đó đã nghiên cứu trực
tiếp đến hệ thống sinh thái tại Vườn quốc gia Tràm Chim vùng Đồng Tháp Mười, từ
đó đưa ra những chính sách bảo tồn và phát triển Tràm Chim Đồng Tháp Mười.
1.3. Đánh giá về các công trình nghiên cứu ở trong và ngoài nước liên quan đến
luận án
1.3.1 Những nghiên cứu liên quan được tác giả kế thừa và phát triển trong
luận án
Các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước được sử dụng để tham khảo đã
cung cấp những thông tin hữu ích cho tác giả. Các công trình nghiên cứu, kỷ yếu hội
thảo, sách, tài liệu… đã mang đến cái nhìn tổng quan đối với hoạt động du lịch của
vùng ĐBSCL. Các công trình nghiên cứu liên quan đến du lịch Vùng ĐBSCL đã chỉ
rõ những tiềm năng lớn về du lịch của vùng, đặc biệt là về tự nhiên, điều này thuận
lợi cho việc phát triển sản phẩm du lịch sinh thái cũng như đa dạng hóa các sản phẩm
du lịch và để đưa du lịch vùng phát triển cần có quy hoạch đầu tư về cơ sở hạ tầng,
đẩy mạnh các hoạt động quảng bá, đào tạo nguồn nhân lực…Bên cạnh đó việc phát
triển du lịch cũng cần bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa cội nguồn, xây dựng
văn hóa du lịch, đây là những nghiên cứu có giá trị về khoa học và thực tiễn được tác
giả kế thừa trong quá trình nghiên cứu thực hiện luận án.



5

1.3.2. Những khoảng trống trong các công trình nghiên cứu về du lịch liên
quan đến luận án.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả không chỉ kế thừa những giá trị mà còn tìm
ra những khoảng trống trong các công trình nghiên cứu trước để bổ sung thêm từ đó
tạo nên những điểm mới trong bài nghiên cứu của mình, cụ thể: với các công trình
nghiên cứu hiện có vẫn chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu về phát triển du
lịch vùng ĐBSCL trong hội nhập quốc tế, các công trình nghiên cứu dừng lại ở mức
độ tổng quát, hàn lâm chưa có nhiều khảo sát chi tiết nhằm phục vụ cho phát triển du
lịch vùng ĐBSCL, số lượng các công trình nghiên cứu còn ít. Việc nghiên cứu phát
triển du lịch Vùng chỉ tập trung ở các địa phương riêng lẻ, chưa nhấn mạnh được tầm
quan trọng của vấn đề liên kết giữa các địa phương trong vùng với các vùng khác và
vấn đề hội nhập quốc tế trong phát triển du lịch. Ngoài ra, các công trình nghiên cứu
liên quan chưa chỉ ra phải làm sao liên kết phát triển du lịch vùng ĐBSCL với các
tỉnh, thành phố phía Nam, với vùng duyên hải miền Trung, Tây Nguyên, các vùng
phía Bắc, trong khu vực và thế giới, phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội
từng địa phương, từng vùng, nhưng vẫn đảm bảo được sự thống nhất với chiến lược,
quy hoạch phát triển du lịch của Việt Nam. Từ những vấn đề đang bị bỏ ngỏ, tác giả
đã tiến hành nghiên cứu nhằm đóng góp thêm về mặt lý luận và thực tiễn trong hệ
thống các công trình nghiên cứu về phát triển du lịch ĐBSCL trong hội nhập quốc tế.
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DU LỊCH VÀ PHÁT TRIỂN DU
LỊCH TRONG HỘI NHẬP QUỐC TẾ
2.1 Dịch vụ du lịch và thị trường du lịch
2.1.1 Dịch vụ du lịch
Du lịch là một trong những lĩnh vực của ngành dịch vụ, nó mang những đặc
trưng chung của ngành dịch vụ, nhưng đồng thời cũng có những đặc điểm riêng mang
tính đặc thù. Du lịch bao gồm tất cả mọi hoạt động của những người khách đi du
hành, lưu trú, tạm trú với mục đích thăm quan, khám phá và tìm hiểu, trải nghiệm
hoặc với mục đích nghỉ ngơi, giải trí, thư giãn cũng như mục đích hành nghề và

những mục đích khác nữa, những hoạt động này được diễn ra trong thời gian liên tục
nhưng không quá một năm ở bên ngoài môi trường sống định cư.
Tiếp cận từ góc độ kinh tế du lịch có khái niệm: Du lịch là ngành kinh doanh
tổng hợp, có sự phối hợp giữa các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp nhằm thỏa mãn
các nhu cầu về ăn uống, lưu trú, tham quan,…của du khách từ đó tạo ra lợi nhuận
cho doanh nghiệp, giá trị tinh thần cho khách du lịch và đảm bảo sự phát triển bền
vững. (WTO, 1992). Bên cạnh khái niệm về du lịch, thì chức năng của du lịch, sản
phẩm du lịch, khách du lịch và loại hình du lịch cũng được nghiên cứu một cách chi
tiết trong luận án.
2.1.2 Thị trường du lịch
Thị trường du lịch, theo cách hiểu đơn giản nhất là nơi diễn ra các hoạt động
mua bán sản phẩm du lịch. Thị trường du lịch là phạm trù của nền kinh tế hàng hóa,
nó là tổng thể các hành vi và quan hệ kinh tế của con người phát sinh trong quá trình
sản xuất và trao đổi hàng hoá. Sự hình thành thị trường du lịch gắn liền với sự phát


6

triển của sản xuất hàng hoá và phân công lao động xã hội, hoạt động du lịch được xã
hội hóa khi kinh tế - xã hội phát triển đến trình độ nhất định. Thị trường du lịch được
phân loại theo địa lý, theo thị trường du lịch thực tế và tiềm năng, phân loại theo dịch
vụ du lịch và theo đặc điểm kinh doanh lữ hành.
2.2 Cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và quan điểm của Đảng và Nhà
nước về phát triển du lịch trong hội nhập quốc tế
2.2.1 Cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về sự ra đời của ngành dịch
vụ du lịch
Kinh tế học Mác - xít không nghiên cứu trực tiếp về du lịch, nhưng nghiên cứu
sự phát triển của phân công lao động xã hội là điều kiện, tiền đề cho sản xuất hàng
hoá ra đời và phát triển, đồng thời làm cơ sở cho việc phân chia và hình thành các
ngành kinh tế nói chung và ngành du lịch nói riêng. Trong giai đoạn đầu của lịch sử

phân công lao động xã hội còn mang tính chất tự nhiên, cùng với sự phát triển của
kinh tế thị trường, phân công lao động xã hội ngày càng phát triển, dẫn đến hình
thành các ngành chuyên môn hoá, từ đó hình thành các ngành - nông nghiệp, dịch vụ
và sự phân công lao động trong từng ngành cũng được phát triển, du lịch được ra đời
và phát triển cùng với sự phát triển của phân công lao động trong ngành dịch vụ. Như
vậy, kinh tế học Mácxít cho rằng chính sự phát triển của phân công lao động xã hội
dẫn đến sự ra đời và phát triển của ngành du lịch. Cũng giống như hàng hóa hữu
hình, hàng hóa dịch vụ du lịch trên thị trường cũng có hai thuộc tính cơ bản là giá trị
và giá trị sử dụng. Giá cả của các sản phẩm du lịch được biểu hiện thông qua trao đổi,
mua bán trên thị trường và cũng tuân theo yêu cầu của qui luật giá trị, qui luật cung
cầu, qui luật cạnh tranh và các quy luật kinh tế khác của nền kinh tế thị trường.
2.2.2 Quan điểm của Đảng và Nhà nước về phát triển du lịch trong hội nhập
quốc tế
Từ năm 1994, khi Việt Nam bắt đầu quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Ban Bí
thư đã ban hành Chỉ thị số 46-CT/TW về “Phát triển du lịch trong tình hình mới”
nhằm đưa ra các quan điểm chỉ đạo cho phát triển du lịch trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế. Năm 1998, khi hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam diễn ra mạnh
mẽ, Bộ Chính trị đã họp bàn chuyên đề về phát triển du lịch và ban hành “Thông báo
Kết luận số 179-TB/BCT” trong đó nêu rõ ý kiến chỉ đạo: cần tập trung, đẩy mạnh
phát triển du lịch tương xứng với tiềm năng của đất nước. Trong những năm gần đây
nhà nước đã ban hành nhiều văn bản thể hiện chủ trương, chính sách của nhà nước
trong phát triển du lịch: Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09/6/2014 về “xây dựng và
phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất
nước”; Nghị quyết số 92/NQ-CP ngày 8/12/2014 “Về một số giải pháp đẩy mạnh
phát triển du lịch Việt Nam trong thời kỳ mới”; Pháp lệnh Du lịch, 2/1999 cũng đã
xác định: Du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp quan trọng mang nội dung văn hóa
sâu sắc, có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa cao; phát triển du lịch nhằm đáp
ứng nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ dưỡng của nhân dân và khách du lịch quốc tế,
góp phần nâng cao dân trí, tạo việc làm và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước;
“Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030” được Thủ

tướng Chính phủ phê duyệt tại quyết định số 2743/QĐ-TTg ngày 29-12-2011; “Quy
hoạch tổng thể phát triển du lịch ĐBSCL đến năm 2020, tầm nhìn 2030” được Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 201/QĐ-TTg ngày 22-01-2013; Đề án


7

“Xây dựng sản phẩm du lịch đặc thù vùng ĐBSCL” được Bộ trưởng Bộ Văn hóa,
Thể thao và Du lịch phê duyệt tại Quyết định số 194/QĐ-BVHTTDL ngày 23-012015.
2.3 Vai trò của ngành du lịch trong phát triển kinh tế - xã hội
2.3.1 Vai trò của ngành du lịch đối với phát triển kinh tế
Du lịch là một ngành kinh tế có tốc độ phát triển ngày càng cao đối với các quốc
gia phát triển và đang phát triển, đặc biệt là đối với những quốc gia có tiềm năng về
du lịch. Du lịch đã và đang đóng góp một phần đáng kể trong tăng trưởng kinh tế và
trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Du lịch là một ngành tổng hợp nó chịu tác
động của các yếu tố chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Sự phát triển của ngành du lịch
gắn liền với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của mỗi nước. Qua thực tiễn phát
triển ngành du lịch của các quốc gia cho thấy, du lịch là một ngành kinh doanh
thường đạt hiệu quả cao, vốn đầu tư ít và khả năng thu hồi vốn nhanh, đồng thời góp
phần giữ gìn, tôn tạo, phát triển những nét văn hoá truyền thống đặc sắc của mỗi quốc
gia. Trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại, ngành du lịch thực hiện việc “xuất khẩu tại
chỗ” đạt nguồn thu ngoại tệ lớn với hiệu quả cao. Phát triển ngành du lịch còn góp
phần tích cực tạo việc làm cho một lực lượng lao động xã hội và cải thiện đời sống
cho nhân dân nói chung. Du lịch luôn có vai trò nhất định đối với sản xuất và xuất
khẩu, đầu tư sử dụng nhân công, trong giao thông vận tải, viễn thông tin học và vấn
đề đô thị hóa.
2.3.2 Vai trò của ngành du lịch trong lĩnh vực văn hóa – xã hội
Du lịch ngày càng trở thành một nguồn lực cho tăng trưởng, tạo việc làm và tăng
thu nhập của nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam, sự phát triển của du lịch góp phần
vào công cuộc xóa đói giảm nghèo. Du lịch phát triển tạo môi trường, thúc đẩy giao

lưu văn hóa giữa các cộng đồng dân cư trong và ngoài nước, du lịch phát triển góp
phần xây dựng ý thức bảo vệ môi trường và phát triển các kĩ năng mềm, việc phát
triển du lịch còn góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân.
2.4 Phát triển du lịch trong hội nhập quốc tế
2.4.1 Thuận lợi
Hội nhập quốc tế là việc gắn kết giữa thị trường trong nước với thị trường khu
vực và thế giới thông qua việc thực hiện mở cửa và thúc đẩy tự do hóa nền kinh tế,
cùng với việc gia nhập và góp phần xây dựng các thể chế kinh tế khu vực và toàn
cầu. Trong hội nhập quốc tế sâu rộng sẽ góp phần phát triển du lịch đây là vấn đề tất
yếu và mang tính khách quan. Du lịch là cầu nối giao lưu văn hóa giữa các nước, tạo
sự thân thiện, hợp tác giữa các nước, củng cố, mở rộng các mối quan hệ kinh tế quốc
tế. Du lịch là “hộ chiếu đi đến hòa bình”, làm tăng uy tín và vị thế của quốc gia trên
thị trường thế giới, đồng thời tham gia sâu rộng vào thị trường quốc tế (Tuyên bố
Manila về Du lịch). Hội nhập quốc tế đòi hỏi du lịch phải từng bước hiện đại hóa, hệ
thống hóa và nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch. Đến lượt nó, du lịch phát triển làm
cho hội nhập quốc tế của các quốc gia càng đi vào chiều sâu, hiệu quả và thu hẹp
khoảng cách phát triển giữa các nước.
2.4.2 Khó khăn và thách thức
Tuy nhiên việc hội nhập bên cạnh những mặt thuận lợi còn có nhiều khó khăn,
thách thức. Trước hết là thách thức trong năng lực cạnh tranh đặc biệt ở các nước
đang phát triển. Vấn đề lớn nhất trong hội nhập chính là việc giữ gìn và phát huy bản


8

sắc văn hóa dân tộc, bởi lẽ hội nhập là nơi giao thoa của các nền văn hóa khác nhau,
tạo điều kiện thuận lợi để các nước trao đổi và làm giàu thêm các giá trị văn hóa quốc
gia, tuy nhiên nếu không có nền tảng vững chắc sẽ làm phai nhạt bản sắc văn hóa của
dân tộc.
Trong thời gian qua, Việt Nam đã và đang trên con đường hội nhập quốc tế

thông qua việc nỗ lực chủ động gắn kết nền kinh tế thị trường với nền kinh tế của khu
vực và thế giới bằng các hiệp định song phương và đa phương trên tất cả các lĩnh vực
từ kinh tế, văn hóa xã hội, an ninh quốc phòng,…Việc hội nhập được thực hiện cả
bên trong và bên ngoài thông qua ký kết và tuân thủ các định chế, để đảm bảo các
luật chơi chung với các thành viên trong các tổ chức kinh tế quốc tế, đồng thời từng
bước thay đổi để phù hợp với các yêu cầu hội nhập quốc tế thông qua việc cải cách,
điều chỉnh các chính sách, qui định về kinh tế, các thể chế kinh tế - xã hội. Sự phát
triển của du lịch trong tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam sẽ góp phần thúc đẩy
sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội trong nước.
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ KHUNG PHÂN TÍCH CỦA
LUẬN ÁN
3.1 Phương pháp tiếp cận nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án thuộc chuyên ngành Kinh tế chính trị, vì vậy
tác giả đã sử dụng các phương pháp tiếp cận nghiên cứu như: phương pháp luận duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử, phép trừu tượng hóa khoa học, phương pháp
nghiên cứu liên ngành.
3.2 Các phương pháp nghiên cứu cụ thể
Bên cạnh các phương pháp tiếp cận nghiên cứu, tác giả đã sử dụng một số
phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp nghiên cứu tại bàn: thông qua việc
tập hợp tất cả các thông tin dữ liệu, số liệu… liên quan đến đề tài luận án, từ đó phân
tích, đánh giá, chọn lọc các dữ liệu liên quan đến phát triển du lịch ĐBSCL trong hội
nhập quốc tế; Phương pháp nghiên cứu thống kê, mô tả: dùng để thu thập thông tin về
các công trình nghiên cứu liên quan đến luận án, thu thập số liệu thứ cấp đáng tin cậy
từ đó lựa chọn những thông tin và tài liệu phù hợp làm cơ sở cho việc nghiên cứu
luận án; Phương pháp phân tích – tổng hợp; So sánh và đối chiếu; Phương pháp mô
hình hóa; Đặc biệt là phương pháp khảo sát, điều tra hiện trường: để thực hiện
phương pháp này, tác giả đã tiến hành điều tra bảng câu hỏi, thu thập thông tin của
một bộ phận khách du lịch đến ĐBSCL nhằm tăng tính khách quan của đề tài nghiên
cứu. Sau khi thu thập số liệu, tiến hành các phân tích tác giả đã xác định được mô
hình nghiên cứu về sự hài lòng của du khách khi đến ĐBSCL.

3.3 Khung phân tích sự phát triển của du lịch ĐBSCL trong hội nhập quốc tế
Từ việc phân tích tổng quan nghiên cứu, cơ sở lý luận và phương pháp nghiên
cứu, tác giả đã xác định các căn cứ để xây dựng mô hình nghiên cứu về các nhân tố
tác động đến phát triển du lịch ĐBSCL trong hội nhập quốc tế, bao gồm các yếu tố:
Phát triển sản phẩm du lịch; Phát triển thị trường, xúc tiến quảng bá và thương hiệu
du lịch; Đầu tư cho phát triển du lịch, Phát triển nguồn nhân lực du lịch; Hợp tác


9

quốc tế về du lịch; Đảm bảo môi trường sinh thái; Đảm bảo an ninh, an toàn trong
phát triển du lịch; Quản lí nhà nước về du lịch.
Mô hình các nhân tố tác động đến phát triển của du lịch Đồng bằng sông Cửu
Long trong hội nhập quốc tế
Phát triển sản phẩm du lịch
Phát triển thị trường, xúc tiến và
quảng bá thương hiệu du lịch
Đầu tư cho phát triển du lịch
Phát triển nguồn nhân lực du lịch
Hợp tác quốc tế về du lịch

Phát triển du
lịch ĐBSCL
trong hội
nhập quốc tế

Đảm bảo môi trường sinh thái
Đảm bảo an ninh, an toàn trong phát
triển du lịch
Quản lý nhà nước về du lịch


CHƯƠNG 4: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH VÙNG ĐỒNG BẰNG
SÔNG CỬU LONG TRONG HỘI NHẬP QUỐC TẾ
4.1. Tổng quan du lịch vùng ĐBSCL trong hội nhập quốc tế
4.1.1 Điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hoá - xã hội ảnh hưởng đến phát triển
du lịch vùng Đồng bằng sông Cửu Long
ĐBSCL được xác định là một trong bảy vùng kinh tế quan trọng nằm ở cực
Nam của lãnh thổ Việt Nam với vị trí địa lí thuận lợi, ĐBSCL là cầu nối giao thương
giữa các nước trong khu vực. ĐBSCL là nơi được thiên nhiên ưu đãi với khí hậu ôn
hòa, hệ thống sông ngòi chằng chịt, hệ sinh thái đa dạng,… Sự phát triển không
ngừng của ĐBSCL trong những năm qua luôn hàm chứa những giá trị văn hóa tinh
thần lớn lao, đó là sự kết tinh từ bao công sức của những người đi khai hoang, mở
mang vùng đất mới và của biết bao thế hệ đã góp sức dựng nên. Theo thời gian các
giá trị văn hóa của mảnh đất này ngày càng được khẳng định và phát triển một cách
mạnh mẽ, bền vững. Những ưu thế này giúp ĐBSCL có khả năng đa dạng hóa các
loại hình du lịch, từ tham quan, nghỉ mát điều dưỡng, tắm biển, thể thao, leo núi đến
nghiên cứu khoa học,…có thể trở thành điểm đến lí tưởng cho du khách trong và


10

ngoài nước khi muốn khám phá đời sống vùng sông nước. Trong thời gian qua hệ
thống cơ sở vật chất của vùng ĐBSCL không ngừng được nâng cấp và hoàn thiện,
góp phần thúc đẩy sự phát triển du lịch của Vùng.
4.1.2 Các chỉ tiêu chủ yếu về phát triển du lịch của vùng ĐBSCL giai đoạn
2000-2015
Lượng khách du lịch quốc nội và quốc tế đến Vùng tăng đều qua các năm, vì
vậy thu nhập từ du lịch cũng có sự tăng trưởng góp phần cải thiện cuộc sống của
người dân trong Vùng.
Bảng 4.1: Thu nhập từ hoạt động du lịch các tỉnh vùng ĐBSCL

Giai đoạn 2000 – 2015
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Địa
phương
Kiên Giang
Tiền Giang
Vĩnh Long
Trà Vinh
Long An
Cần Thơ
Bến Tre
Sóc Trăng
Bạc Liêu
Cà Mau
Đồng Tháp
An Giang
Hậu Giang
Tổng
% so với
cả nước
Cả nước

2000
42,900
49,790
26,870
6,700
4,410
79,740
32,030

14,010
33,900
42,000
15,560
30,550
000
378,460

2005

2010

2011

2012

2013

2014

2015

168,700
78,680
40,000
25,720
24,100
231,260
83,270
37,120

83,850
73,500
28,930
84,650
9,780

248,245
64,922
66,629
45,748
53,494
304,929
134,400
60,746
109,070
192,000
170,330
163,213
47,410

334,908
93,989
80,368
48,301
73,530
435,970
151,600
114,574
132,765
203,500

147,721
188,594
67,860

410,832
109,390
101,947
68,024
105,035
467,428
172,700
155,492
159,98
215,000
169,582
310,666
56,250

490,427
108,765
116,550
64,833
111,083
539,685
202,000
262,953
192,776
230,000
154,443
255,101

67,790

491,346
108,897
117,658
65,125
112,231
537,579
201,879
263,869
232,295
243,342
115,356
308,776
64,080

515,913
114,342
123,541
68,381
117,823
564,458
211,973
277,062
243,910
255,510
121,124
324,215
67,284


1.661,136

2,073,680

2,342,603

2,796,406

2,862,433

3,005,536

969,560

3.30

3.23

1,73

1.60

1,46

1.39

1,24

0.89


11.479,3

30.000

96.000

130.000

160.000

200.000

230.000

337.830

Nguồn: Tổng cục thống kê, Tổng cục du lịch, Hiệp hội du lịch ĐBSCL, 2016
Hệ thống cơ sở vật chất đã và đang được chú trọng đầu tư tại các địa phương, cơ
sở lưu trú ngày càng tăng cả về số lượng và chất lượng. Kèm theo đó các điểm vui
chơi giải trí, cơ sở ăn uống cũng phát triển đáp ứng được nhu cầu của du khách. Hệ
thống giao thông đường bộ, đường thủy, đường hàng không đã và đang được nâng
cấp để đáp ứng sự phát triển du lịch của Vùng. Vì vậy, số lượng khách du lịch đến
Đồng bằng sông Cửu Long nhờ vậy cũng đã tăng trưởng và hiện (2015) đạt gần 20
triệu lượt khách/ năm, trong đó có gần 1,5 triệu khách quốc tế, điều này đã tạo tiền đề
để du lịch Đồng bằng sông Cửu Long phát triển mạnh hơn trong tương lai khi hội
nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.


11


Bảng 4.2: Lượng khách du lịch quốc tế đến các địa phương vùng ĐBSCL
Giai đoạn 2000-2015
Đơn vị tính: nghìn lượt người
Tỉnh
thành

2000

2005

2010

2011

2012

2013

2014

2015

Kiên Giang

20,000

60,000

83,000


151,000

163,000

153,000

153,000

161,000

Tiền Giang

144,000

319,000

402,000

414,000

479,000

458,000

459,000

482,000

Vĩnh Long


34,000

85,000

66,000

62,000

61,000

57,000

81,000

86,000

Trà Vinh

0,950

2,480

5,276

3,314

5,970

6,077


6,260

6,573

Long An

0,740

1,120

4,592

5,010

5,556

6,705

7,020

7,371

Cần Thơ

60,580

104,840

163,835


189,150

190,116

210,000

220,021

231,022

Bến Tre

57,060

126,050

86,070

103,602

116,034

130,130

131,500

138,075

Sóc Trăng


2,470

4,380

5,945

7,015

10,890

17,559

17,470

18,344

Bạc Liêu

3,370

6,000

10,714

12,093

15,290

16,231


17,340

18,207

Cà Mau

4,000

9,360

14,600

16,000

17,060

18,150

18,910

19,907

Đồng Tháp

21,730

10,360

3,129


5,814

6,908

6,675

14,729

15,465

An Giang

14,000

30,000

47,400

44,500

51,534

56,885

60,195

63,205

Hậu Giang


0

0

0

0,352

0,530

0,700

0,960

1,320

Tổng
% so với
cả nước
Cả nước

362,900

758,590

892,561

1.013,850

1.122,888


1.137,112

1.187,405

1.248,489

16.95

21.81

17.67

16.86

16.40

15.01

15.08

15.72

2.140,100

3.477,500

5.049,855

6.014,032


6.847,678

7.572,352

7.874,312

7.943,651

Nguồn: Tổng cục thống kê, Tổng cục du lịch, Hiệp hội du lịch ĐBSCL 2016
4.2. Đánh giá thực trạng các nhân tố tác động đến phát triển du lịch ĐBSCL
trong hội nhập quốc tế
4.2.1 Thực trạng khai thác sản phẩm du lịch của Vùng
Nghiên cứu cho thấy ĐBSCL có thể phát triển các sản phẩm du lịch đặc trưng
như: Du lịch sinh thái; Du lịch khai thác các giá trị văn hóa sông nước miệt vườn; Du
lịch khám phá; Du lịch nghỉ dưỡng; Du lịch sinh thái biển đảo; Du lịch MICE. Trong
thời gian qua, các tuyến điểm du lịch đã được các doanh nghiệp du lịch vùng ĐBSCL
tổ chức khai thác tương đối có hiệu quả, phù hợp với tiềm năng du lịch của các tỉnh
trong Vùng, từ đó đã tạo nên một số sản phẩm du lịch độc đáo.


12

Bảng 4.3: Một số điểm du lịch thu hút du khách tại vùng ĐBSCL
TT
1
2
3
4
5

6
7

8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32

Điểm du lịch

LONG AN
Bảo tàng Long An
Trại rắn Mộc Hoá
Khu BTTN Láng Sen
TIỀN GIANG
Chùa Vĩnh Tràng
Cù lao Thới Sơn
Trại rắn Đồng Tâm
Chợ nổi Cái Bè, cù lao Tân
Phong
VĨNH LONG
Cù lao Bình Hoà Phước
Khu du lịch Trường An
BẾN TRE
Di tích Đồng Khởi
Sân chim Ba Tri
Làng cây cảnh Cái Mơn
Cồn Phụng, Cồn Quy, Cồn Ốc
ĐỒNG THÁP
Mộ cụ Nguyễn Sinh Sắc
Vườn cò Tháp Mười
Vườn sếu Tam Nông
Vườn cây cảnh Sa Đéc
CẦN THƠ
Bến Ninh Kiều
Chợ nổi Cái Răng, Phong Điền
Viện lúa ĐBSCL
Đại học Cần Thơ
AN GIANG
Khu di tích đồi Tức Dục

Nhà lưu niệm Bác Tôn
Đình Châu Phú
Làng Chăm
KIÊN GIANG
Hòn phụ tử - Chùa Hang
Đình Nguyễn Trung Trực
Chùa Sắc Tứ Tam Bảo
Thạch Động
Mũi Nai
Hòn Đất
Phú Quốc

Địa chỉ

Nội dung

Tân An
Huyện Mộc Hoá
Huyện Tân Hưng

Thăm quan, nghiên cứu lịch sử
Thăm quan, nghiên cứu
Thăm quan, thắng cảnh

TP Mỹ Tho
Huyện Gò Công
H. Đồng Tâm
Huyện Cái Bè

Thăm quan, tâm linh

Thăm quan sinh thái, miệt vườn
Thăm quan, nghiên cứu
Thăm quan sinh thái, miệt vườn

TP Vĩnh Long

Thăm quan miệt vườn
Thăm quan, vui chơi giải trí

Huyện Mỏ Cày
Huyện Ba Tri
Huyện Chợ Lách

Thăm quan, nghiên cứu
Thăm quan, khám phá
Thăm quan miệt
Thăm quan sinh thái, miệt vườn

Thị xã Sa Đéc
H. Tháp Mười
Tam Nông
Thị xã Sa Đéc

Thăm quan, nghiên cứu
Tham quan, nghiên cứu, khám phá
Thăm quan, nghiên cứu, khám phá
Thăm quan miệt vườn

Tp. Cần Thơ
Tp. Cần Thơ

Tp. Cần Thơ

Thăm quan lịch sử
Thăm quan sinh thái, miệt vườn
Thăm quan, nghiên cứu
Thăm quan

Huyện Tri Tôn
TP Long Xuyên
Thị xã Châu Đốc
Thị xã Châu Đốc

Thăm quan lịch sử
Thăm quan di tích lịch sử
Thăm quan di tích
Thăm quan, nghiên cứu

Huyện Hà Tiên
Rạch Giá
Rạch Giá
Thị xã Hà Tiên
Thị xã Hà Tiên
Huyện Hòn Đất
Huyện Phú quốc

Thăm quan, lễ hội
Thăm quan lịch sử
Thăm quan, tâm linh
Thăm quan, nghiên cứu
Nghỉ dưỡng tắm biển

Thăm quan, khám phá
Nghỉ dưỡng, khám phá, giải trí

Nguồn: Hiệp hội Du lịch vùng ĐBSCL và nghiên cứu, khảo sát của tác giả 2015


13

Những năm vừa qua du lịch vùng ĐBSCL đã thu hút một lượng lớn khách du
lịch trong và ngoài nước, lượng khách du lịch trong Vùng đều đạt mức tăng ổn định,
đây chính là một tín hiệu lạc quan đối với du lịch Vùng Đồng bằng sông Cửu Long
và của cả ngành du lịch Việt Nam nói chung. Tuy nhiên, do điều kiện tự nhiên và lịch
sử tương đối đồng nhất, nên các tài nguyên và sản phẩm du lịch vùng ĐBSCL có
nhiều đặc tính chung, từ đó sản phẩm du lịch của Vùng dễ bị trùng lắp, gây khó khăn
trong việc thu hút khách và giữ khách, đồng thời dễ nảy sinh những hiện tượng cạnh
tranh trong nội bộ Vùng, làm giảm hiệu quả kinh doanh du lịch và ảnh hướng tới hình
ảnh, cũng như chất lượng sản phẩm du lịch của toàn vùng ĐBSCL.
4.2.2. Công tác xúc tiến, quảng bá du lịch
Công tác xúc tiến, quảng bá du lịch của Vùng luôn nhận được sự quan tâm đặc
biệt của Hiệp hội du lịch vùng ĐBSCL, của các sở, ban ngành trong Vùng. Thông
qua các chương trình tham quan du lịch, các tour du lịch với các địa phương trong
nước, các chương trình du lịch outbound đến Campuchia, Hồng Kông, Trung
Quốc,…công tác tuyên truyền, quảng bá, xúc tiến du lịch của Vùng đã đạt được
những kết quả nhất định. Nhìn chung hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch vùng
ĐBSCL đã có hiệu quả nhất định, nhưng chưa tạo sức lan tỏa và hiệu ứng lớn đến
phát triển du lịch của Vùng, nguyên nhân chính là do cách thức xúc tiến, quảng bá du
lịch còn lạc hậu, chưa có sự đột phá – đổi mới từ đó chưa gây được ấn tượng mạnh
đối với du khách, chưa có sự liên kết với các tổ chức du lịch nước ngoài để mở rộng
hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch.
4.2.3. Hoạt động đầu tư phát triển du lịch của Vùng ĐBSCL

Để tạo điều kiện cho du lịch phát triển vùng ĐBSCL, các dự án quan trọng trong
lĩnh vực kết cấu hạ tầng, nhiều hạng mục cho phát triển du lịch vùng ĐBSCL đã được
đầu tư phát triển, nguồn vốn đầu tư này đã góp phần quan trọng vào phát triển du lịch
vùng ĐBSCL. Kinh phí đầu tư cho phát triển du lịch vùng ĐBSCL được huy động cả
trong và ngoài nước. Tuy nhiên, so với cả nước và một số vùng khác thì nguồn vốn
đầu tư cho phát triển du lịch vùng ĐBSCL còn chiếm tỷ lệ thấp.
4.2.4. Thực trạng nguồn nhân lực cho phát triển lịch vùng ĐBSCL
Con người luôn đóng một vai trò quan trọng trong các hoạt động kinh tế, cũng
như du lịch nói riêng. Hiểu được điều này nên trong thời gian qua ĐBSCL luôn chú
trọng đến việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội và
du lịch. Chính vì vậy, nguồn nhân lực của Vùng cũng như nguồn nhân lực cho ngành
du lịch đã được cải thiện đáng kể về số lượng, chất lượng và cơ cấu, góp phần cho sự
phát triển kinh tế - xã hội và du lịch của vùng ĐBSCL.
Trong những năm gần đây, mặc dù nguồn nhân lực cho phát triển du lịch của
Vùng đã có những bước phát triển nhất định nhưng còn nhiều bất cập thiếu về số
lượng, cơ cấu ngành nghề chưa hợp lí, chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu
cầu phát triển ngành du lịch trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
Nguồn nhân lực cho phát triển du lịch vùng ĐBSCL chưa được đào tạo chuyên môn
nghiệp vụ một cách có hệ thống, trình độ chuyên môn nghiệp vụ và ngoại ngữ chưa
đáp ứng được nhu cầu cho phát triển du lịch của Vùng trong hội nhập quốc tế.
4.2.5 Tác động của hội nhập quốc tế với sự phát triển du lịch vùng ĐBSCL
Sự phát triển của du lịch không nằm ngoài quy luật khách quan của quá trình
toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, hơn thế nữa, với đặc điểm là ngành kinh tế “liên


14

ngành, liên vùng và xã hội hóa cao”, sự phát triển du lịch không thể bó hẹp trong một
lãnh thổ “khép kín” mà luôn vươn ra khỏi phạm vi hành chính một địa phương, một
quốc gia, một khu vực. Quá trình hội nhập quốc tế đã tạo ra sự liên kết giữa các điểm

du lịch, các nhà cung cấp, tạo cơ hội học hỏi, trao đổi kinh nghiệm giữa các quốc gia,
chuyển giao công nghệ quản lí, quảng bá thương hiệu và mở rộng thị trường du lịch
của mỗi nước. Hội nhập quốc tế còn là cơ hội để thu hút đầu tư từ nước ngoài, thúc
đẩy quảng bá du lịch vùng ĐBSCL ra nước ngoài, góp phần gia tăng thị phần du lịch
của vùng ĐBSCL, mở rộng thị trường, khai thác những lợi thế về du lịch của Vùng
và phát triển những loại hình du lịch mới. Bên cạnh những lợi ích trên, trong quá
trình hội nhập cũng có nhiều thách thức cho các doanh nghiệp cũng như cho chính
quốc gia và các tổ chức du lịch, đặc biệt là năng lực cạnh tranh được đặt lên hàng đầu
vì nó quyết định cho việc tồn tại và phát triển du lịch, nếu bỏ qua yếu tố này sẽ khó
tồn tại trong hệ thống du lịch toàn cầu mặc dù điểm đến có nhiều tiềm năng.
4.2.6 Thực trạng đảm bảo môi trường cho du lịch vùng ĐBSCL
Hiện nay, ĐBSCL đang phải đối mặt với vấn đề môi trường đất, nước đang dần
suy thoái mà nguyên nhân là do hoạt động sản xuất của con người, các chất thải sinh
hoạt, nước thải từ các khu công nghiệp, các làng nghề, từ hoạt động trồng trọt, chế
biến thủy hải sản,… Một trong những vấn đề có tác động lớn, không chỉ vùng
ĐBSCL mà cả nước và thế giới đang phải đối mặt đó là hiện tượng hiệu ứng nhà kính
và mực nước biển dâng. Môi trường ô nhiễm ảnh hưởng rất lớn đến hệ sinh thái từ đó
trực tiếp ảnh hưởng đến hoạt động du lịch của Vùng. Chính vì vậy, để phát triển du
lịch ĐBSCL một cách bền vững và hiệu quả cần hướng tới việc bảo vệ môi trường
bền vững, phát triển du lịch phải gắn với bảo vệ môi trường, đây là vấn đề quan trọng
và cấp bách được đặt ra cho toàn Vùng.
4.2.7 Thực trạng an ninh, an toàn trong phát triển du lịch vùng ĐBSCL
ĐBSCL có vị trí hết sức quan trọng về an ninh, quốc phòng (QP – AN) đối với
vùng Tây Nam bộ và cả nước. Trong những năm qua, các địa phương ở ĐBSCL đã
nhận thức đúng đắn về quan điểm phát triển bền vững kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo
QP - AN của Đảng và Nhà nước nói chung và trong lĩnh vực phát triển du lịch nói
riêng. Tuy nhiên, quá trình phát triển du lịch gắn với bảo đảm QP - AN ở ĐBSCL
thời gian qua cũng còn nhiều vấn đề bất cập cần được tiếp tục giải quyết, như: việc
đầu tư cho phát triển du lịch gắn với bảo đảm QP - AN chưa thật sự bền vững, chưa
xứng với tiềm năng và nguồn lực của Vùng, một số đối tượng nước ngoài lợi dụng

danh nghĩa du lịch để thực hiện các hoạt động thu thập tình báo, móc nối gây cơ sở,
hoạt động tôn giáo trái pháp luật; tình trạng người nước ngoài du lịch tại đây hoạt
động sai mục đích nhập cảnh, vi phạm quy chế quản lý tạm trú và các vi phạm pháp
luật khác diễn ra khá phổ biến… một số hiện tượng tiêu cực khác như: ăn xin, bán
hàng rong không đảm bảo vệ sinh, an toàn thực phẩm, nạn trộm cắp, hoạt động của
một số băng, nhóm tội phạm trong Vùng, cũng làm ảnh hưởng đến sự an toàn, an
ninh trong phát triển du lịch của Vùng ĐBSCL.
4.2.8 Thực trạng quản lý nhà nước cho phát triển lịch vùng ĐBSCL
Công tác quản lý nhà nước đối với phát triển du lịch của Vùng chậm được đổi
mới. Luật Du lịch và các luật liên quan, hệ thống văn bản pháp quy hướng dẫn thi
hành luật còn thiếu đồng bộ, chưa huy động được các nguồn lực cho phát triển du lịch
của Vùng. Nhiều chính sách còn chồng chéo trói chân lẫn nhau. Việc quản lý nhà


15

nước về du lịch vẫn còn những hạn chế, bất cập cụ thể như trong các lĩnh vực: vệ sinh
môi trường, đảm bảo chất lượng sản phẩm, ứng dụng những công nghệ mới trong
hoạt động du lịch, đảm bảo vệ sinh thực phẩm và trong tuyên truyền quảng bá sản
phẩm du lịch... Bộ máy quản lý nhà nước về du lịch còn cồng kềnh chưa được hiện
đại hóa so với tốc độ phát triển ngày càng nhanh của ngành du lịch vùng ĐBSCL.
Phương thức tổ chức và quản lý ngành du lịch vùng ĐBSCL còn nhiều bất hợp lý, cơ
chế phối hợp giữa các ban ngành liên quan đến du lịch chưa rõ ràng, còn có sự chồng
chéo. Hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật chuyên ngành chưa được hình thành,
hợp chuẩn khu vực và quốc tế. Bộ máy của ngành du lịch vùng ĐBSCL đã có đổi
mới nhưng chưa thực sự phát huy hiệu lực, hiệu quả. Một trong những hạn chế quan
trọng trong quản lí có ảnh hưởng lớn đến phát triển du lịch ĐBSCL là việc chưa tạo
được sự liên kết du lịch giữa các địa phương trong Vùng, sản phẩm du lịch đặc thù ở
mỗi địa phương chưa được xác định rõ nên xảy ra hiện tượng trùng lắp tạo nên sự
cạnh tranh trong nội bộ Vùng.

4.3 Đánh giá về thực trạng phát triển du lịch vùng ĐBSCL trong hội nhập quốc tế
4.3.1 Những thành tựu đạt được và nguyên nhân
Sự phát triển du lịch vùng ĐBSCL trong những năm vừa qua đã đạt được nhiều
thành tựu nhất định: góp phần cho sự phát triển kinh tế, sự ổn định về chính trị, xã
hội, an ninh quốc phòng được đảm bảo, góp phần vào việc xóa đói giảm nghèo và tạo
việc làm cho người lao động trong Vùng; công tác tuyên truyền, quảng bá cho du lịch
vùng ĐBSCL đã mang lại hiệu quả nhất định; cơ sở vật chất kĩ thuật vùng ĐBSCL
ngày càng phát triển, từng bước đáp ứng và tạo điều kiện cho phát triển du lịch trong
Vùng; công tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực cho phát triển du lịch trong Vùng
cũng đã được chú trọng đầu tư phát triển; các chương trình hành động quốc gia về du
lịch cùng với các sự kiện quảng bá, xúc tiến du lịch được thực hiện tương đối tốt, đã
mang lại hiệu quả nhất định; tình hình an ninh, chính trị, trật tự xã hội của vùng
tương đối ổn định, tạo sự an toàn và thân thiện đối với du khách; công tác quản lí nhà
nước về phát triển du lịch trên địa bàn từng bước được nâng cao.
4.3.2 Những hạn chế, yếu kém của du lịch ĐBSCL và nguyên nhân
Bên cạnh những thành tựu đạt được du lịch Vùng vẫn còn tồn tại những hạn chế
nhất định như: Việc liên kết, hợp tác cùng phát triển giữa các địa phương trong vùng
còn yếu; công tác xúc tiến, quảng bá du lịch của Vùng vẫn chưa được thực hiện bài
bản, chuyên nghiệp; hệ thống cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kĩ thuật yếu kém; số
lượng, chất lượng và cơ cấu nguồn nhân lực phục vụ cho phát triển du lịch vùng
ĐBSCL tuy đã được cải thiện trong những năm gần đây nhưng vẫn chưa đáp ứng
được yêu cầu thực tế cho phát triển du lịch; thu nhập, mức sống của người dân vẫn
chưa được nâng cao; vai trò quản lý nhà nước về phát triển du lịch vùng ĐBSCL còn
hạn chế.


16

CHƯƠNG 5: ĐỊNH HƯỚNG CHÍNH SÁCH VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN
DU LỊCH ĐBSCL TRONG HỘI NHẬP QUỐC TẾ

5.1 Xu hướng phát triển du lịch thế giới, khu vực và Việt Nam tác động đến phát
triển du lịch vùng ĐBSCL trong hội nhập quốc tế
5.1.1 Xu hướng phát triển của du lịch thế giới và khu vực
Ngành du lịch thế giới thật sự bắt đầu phát triển mạnh từ giữa thế kỷ thứ XX.
Mặc dù ra đời muộn hơn các ngành khác nhưng du lịch lại phát triển với tốc độ nhanh
hơn và được coi là ngành kinh tế mũi nhọn của nhiều nước, không chỉ tạo ra GDP
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, mà còn tạo điều kiện cho các ngành kinh tế khác phát
triển. Theo dự báo của Tổ chức Du lịch thế giới đến năm 2020, ngành du lịch toàn
cầu sẽ phát triển mạnh mẽ, số lượng khách du lịch quốc tế sẽ tăng nhanh đạt khoảng
1,602 tỷ lượt người vào năm 2020. Doanh thu từ hoạt động du lịch toàn cầu sẽ đạt
khoảng 2.000 tỷ USD. Thế kỷ XXI sẽ hình thành các trào lưu du lịch mới như: du
lịch tìm hiểu các nền văn hóa trên thế giới, du lịch khám phá, mạo hiểm và du lịch
xanh đang là xu thế được nhiều du khách lựa chọn.
5.1.2 Xu hướng phát triển du lịch của Việt Nam trong hội nhập quốc tế
Du lịch Việt Nam hiện nay cũng đang hòa mình vào dòng chảy của du lịch thế
giới, là quốc gia nằm ở khu vực Đông Nam Á, Việt Nam có lợi thế về vị trí địa lí,
kinh tế, chính trị và tài nguyên du lịch. Trong giai đoạn 2008-2009 mặc dù thế giới
chịu tác động của khủng hoảng kinh tế nhưng ngành du lịch Việt Nam vẫn thu hút
mạnh mẽ du khách quốc tế. Xu hướng phát triển của du lịch của Việt Nam trong thế
kỷ XXI sẽ là: Du lịch sinh thái, du lịch nghỉ dưỡng, du lịch kết hợp du lịch hội nghị
(MICE), du lịch khám phá, du lịch lễ hội; du lịch kết hợp nghỉ ngơi với tham quan,
thăm thân nhân, bạn bè hoặc kết hợp với đi hành hương sẽ có chiều hướng tăng; hình
thức du lịch nghỉ ngơi giải trí cuối tuần cũng sẽ tăng; du lịch tham quan kết hợp với
giáo dục sẽ phổ biến, hình thức du lịch tham quan kết hợp với cổ động trong các cuộc
thể thao tranh cúp quốc tế hoặc du lịch kết hợp với công tác ở nước ngoài cũng tăng;
du lịch kết hợp mua sắm, chữa bệnh, du lịch xanh, về các miền sông nước. Là một
trong những thành viên của khối ASEAN, Việt Nam cũng đang hội nhập vào xu thế
phát triển du lịch của khu vực.
5.2 Định hướng và mục tiêu phát triển du lịch ĐBSCL trong hội nhập quốc tế
5.2.1 Định hướng phát triển du lịch ĐBSCL trong hội nhập quốc tế

Tình hình kinh tế - xã hội của Vùng ĐBSCL trong thời gian qua đã có những
chuyển biến tích cực, cơ cấu kinh tế vùng đang chuyển dịch theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Dự báo đến năm 2020, tốc độ tăng trưởng kinh tế vùng ĐBSCL đạt
trung bình trên 8%/năm. ĐBSCL đang hình thành những trung tâm kinh tế, giao
thương lớn của vùng và cả nước gắn với phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ.
Trong thời gian tới du lịch ĐBSCL sẽ tập trung phát triển theo những hướng cơ bản
sau: Đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của vùng ĐBSCL, có đóng góp to
lớn trong phát triển kinh tế của Vùng, cũng như đáp ứng được yêu cầu của hội nhập
quốc tế; Phát triển du lịch đảm bảo chất lượng, hiệu quả và bền vững; Phát triển đồng
thời cả du lịch nội địa và du lịch quốc tế đến vùng ĐBSCL trong đó đặc biệt chú
trọng đến khách du lịch quốc tế, đồng thời tăng cường quản lý du lịch của Vùng ra
nước ngoài; phát triển du lịch ĐBSCL theo hướng bền vững, gắn chặt với việc bảo


17

tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của vùng ĐBSCL; huy động tối đa
mọi nguồn lực trong và ngoài nước đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa để phát triển du
lịch; tập trung thu hút khách du lịch của thị trường Đông Nam Á và các thị trường
khác; quy hoạch và đầu tư phát triển sản phẩm du lịch đặc thù của Vùng; định hướng
tổ chức không gian du lịch vùng một cách hợp lí và đúng đắn.
5.2.2 Mục tiêu phát triển du lịch ĐBSCL trong hội nhập kinh tế quốc tế
Mục tiêu cụ thể của du lịch vùng ĐBSCL trong hội nhập quốc tế đến năm 2020
và tầm nhìn 2030:
- Về khách du lịch: đạt trên 4 triệu (năm 2020) và 7 triệu (năm 2030) lượt khách
quốc tế; 17 triệu (năm 2020) và 27 triệu (năm 2030) lượt khách nội địa.
- Về cơ sở lưu trú du lịch: Năm 2020 có khoảng 52.000 buồng khách sạn. Năm
2030 có khoảng 102.000 buồng khách sạn.
- Về nguồn nhân lực cho du lịch: Năm 2020 cần có 240.000 lao động trong lĩnh
vực du lịch, trong đó có 85.000 lao động trực tiếp. Năm 2030 có khoảng 500.000 lao

động trong lĩnh vực du lịch, trong đó có khoảng 200.000 lao động trực tiếp.
- Về thu nhập du lịch, giá trị GDP du lịch và nhu cầu đầu tư: Năm 2020 thu
nhập xã hội từ hoạt động du lịch đạt khoảng 1.400 triệu USD, giá trị GRDP du lịch
của Vùng đạt khoảng 860 triệu USD. Năm 2030 thu nhập xã hội từ hoạt động du lịch
đạt khoảng 3.000 triệu USD, giá trị GRDP du lịch của vùng đạt khoảng 1.200 triệu
USD.
- Đầu tư cho du lịch giai đoạn 2016-2020 khoảng 970 triệu USD. Giai đoạn
2021 – 2030 khoảng 2.300 triệu USD.
Du lịch của Vùng được phân chia thành các cụm chính sau:
- Cụm thứ nhất bao gồm: Thành phố Cần Thơ, tỉnh An Giang, Kiên Giang và
Hậu Giang, chủ yếu khai thác sản phẩm du lịch với mục đích thương mại, du lịch lễ
hội và đặc biệt là sản phẩm du lịch tham quan sông nước.
- Cụm thứ hai là bán đảo Cà Mau gồm: Tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu và Sóc Trăng,
với các sản phẩm du lịch quan trọng là du lịch sinh thái tại các khu rừng ngập mặn và
du lịch văn hóa, du lịch lễ hội gắn với lễ hội văn hóa của dân tộc Khmer tại Sóc
Trăng.
- Cụm thứ ba là duyên hải phía Đông gồm: Tỉnh Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh
Long và Trà Vinh, khai thác du lịch khám phá di tích lịch sử cách mạng, du lịch sông
nước, du lịch miệt vườn và du lịch thăm quan làng nghề.
- Cụm thứ tư là Đồng Tháp Mười gồm: tỉnh Long An và Đồng Tháp với sản
phẩm chủ đạo là du lịch sinh thái khám phá Tràm Chim và sản phẩm tham quan các
khu rừng đặc dụng ngập nước.
- Đặc biệt Phú Quốc sẽ phát triển thành đặc khu kinh tế mở của cả nước kết hợp
với du lịch nghỉ dưỡng biển cao cấp, kết hợp với các hoạt động giải trí như casino,
các loại hình văn hoá nghệ thuật đặc trưng của Vùng.
Về các tuyến du lịch của Vùng được chia thành: tuyến du lịch đường bộ (thành
phố Hồ Chí Minh - Cần Thơ – Cà Mau), tuyến du lịch đường hàng không (với 4 sân
bay Cần Thơ, Phú Quốc, Rạch Giá và Cà Mau), tuyến du lịch đường sông (Các tuyến
dọc sông Hậu và sông Tiền cùng với các tuyến đường sông nối với thành phố Hồ Chí
Minh) và tuyến du lịch đường biển (Cảng An Thới ở Phú Quốc).



18

Tập trung đầu tư cơ sở vật chất kĩ thuật, đặc biệt là đối với các cơ sở lưu trú,
phát triển các khu du lịch tổng hợp, các cơ sở vui chơi giải trí chất lượng cao để thu
hút du khách.
Hình thành các điểm du lịch với các sản phẩm đặc thù căn cứ vào tiềm năng và
thế mạnh của các địa phương trong vùng ĐBSCL, để thu hút khách du lịch trong và
ngoài nước.
5.3 Chính sách và giải pháp phát triển du lịch vùng ĐBSCL trong hội nhập quốc tế
5.3.1 Chính sách và giải pháp phát triển sản phẩm du lịch của Vùng
- Chính sách phát triển sản phẩm du lịch của vùng: Phát huy thế mạnh về điều
kiện tự nhiên, văn hóa đặc trưng của từng địa phương trong vùng, đa dạng hóa các
sản phẩm du lịch phù hợp với thế mạnh của từng địa phương trong Vùng, chú trọng
phát triển các sản phẩm du lịch “xanh”; đa dạng hoá và nâng cao chất lượng các sản
phẩm du lịch của vùng ĐBSCL, đáp ứng nhu cầu của du khách trong và ngoài nước;
phát triển một số sản phẩm du lịch đặc trưng của Vùng như: du lịch sinh thái miệt
vườn, du lịch văn hóa cội nguồn, du lịch tham quan miệt vườn, sông nước, du lịch
tham quan di tích, du lịch lễ hội, tín ngưỡng, du lịch nghỉ dưỡng biển đảo.
- Giải pháp phát triển sản phẩm du lịch của vùng: Du lịch vùng ĐBSCL cần
phát triển các sản phẩm du lịch đặc thù, có sức thu hút cao, ấn tượng, đa dạng, phong
phú ở từng địa phương trong Vùng, không trùng lắp. Không ngừng cải tiến, nâng cao
chất lượng sản phẩm du lịch của Vùng. Các địa phương trong Vùng tổ chức triển khai
điều tra, khảo sát, thống kê, đánh giá, phân tích, tổng hợp tiềm năng du lịch của từng
tỉnh, từng khu vực gắn với những nét đặc trưng về văn hóa, lịch sử, con người, để
phát triển các sản phẩm du lịch đặc thù; tập trung phát triển những dòng sản phẩm du
lịch chính như: du lịch sinh thái, du lịch văn hóa cội nguồn, du lịch tham quan miệt
vườn, sông nước, du lịch tham quan di tích, sản phẩm du lịch lễ hội, tín ngưỡng, du
lịch thương mại, công vụ (MICE) và du lịch nghỉ dưỡng biển đảo.

5.3.2 Chính sách và giải pháp phát triển thị trường, xúc tiến quảng bá
thương hiệu cho phát triển du lịch ĐBSCL
- Chính sách: Mở rộng thị trường khách quốc tế trong đó tập trung vào khu vực
Đông Nam á, Đông Bắc Á, thị trường Tây Âu; Phối hợp với các quốc gia trong vùng
quảng bá “Du lịch Mekong” trong đó có ĐBSCL như một điểm đến hấp dẫn trên bản
đồ du lịch khu vực và thế giới; Đa dạng hóa các loại sách, báo, ấn phẩm tuyên truyền
về du lịch của Vùng với nhiều hình thức và nội dung phong phú; Tận dụng những lợi
thế của công nghệ thông tin để đẩy mạnh e-marketing cho du lịch ĐBSCL; Xây dựng
một số tour du lịch đặc sắc của vùng ĐBSCL.
- Giải pháp thực hiện: Trước hết cần xác định thị trường mục tiêu trong phát triển
du lịch của Vùng, xác định đúng đối tượng khách du lịch và lên kế hoạch tiến hành
xúc tiến cách cụ thể, rõ ràng qua từng giai đoạn và từng thị trường nhất định; Chuyên
nghiệp hóa các hình thức xúc tiến, quảng bá du lịch, trọng tâm của chiến lược quảng
bá tập trung vào các thị trường mục tiêu và các sản phẩm du lịch tiêu biểu gắn liền
với thương hiệu du lịch của vùng kết hợp với quảng bá hình ảnh du lịch quốc gia;
Đẩy mạnh quảng bá “Du lịch Mekong” trong đó có ĐBSCL như một điểm đến hấp
dẫn trên bản đồ du lịch khu vực và thế giới; xây dựng hình ảnh du lịch ĐBSCL thống
nhất, hấp dẫn để giới thiệu đến du khách trong và ngoài nước; Các địa phương trong
Vùng cần tăng cường phối hợp để xây dựng và phát triển thương hiệu du lịch du lịch


19

của Vùng; Tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về du lịch cho
người dân trong Vùng; đa dạng hóa các loại sách, báo, ấn phẩm tuyên truyền về du
lịch của Vùng với nhiều hình thức và nội dung phong phú.
5.3.3 Chính sách và giải pháp đầu tư và thu hút vốn đầu tư cho phát triển
du lịch vùng ĐBSCL.
- Chính sách: Quy hoạch phát triển đồng bộ cơ sở hạ tầng cho phát triển du lịch
giữa các địa phương trong Vùng, phát triển hệ thống giao thông kết nối với TP. HCM

và các Vùng khác của cả nước; Phát triển đồng bộ cả hệ thống giao thông đường bộ,
đường thuỷ và đường hàng không phục vụ cho phát triển du lịch vùng ĐBSCL; Có cơ
chế ưu đãi cho nhà đầu tư vào du lịch vùng ĐBSCL để thu hút các nguồn vốn đầu tư
trong nước; Thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn của Nhà nước, vốn FDI, vốn ODA
đầu tư vào du lịch vùng ĐBSCL, chống lãng phí và thất thoát vốn.
- Giải pháp thực hiện: Các địa phương cần có kế hoạch cụ thể trong đầu tư phát
triển cơ sở hạ tầng du lịch trên địa bàn mình; Đẩy nhanh đầu tư mạng lưới giao thông
đường bộ; Nâng cao chất lượng hệ thống bưu chính viễn thông, toàn Vùng; Đầu tư
vào hệ thống hạ tầng y tế, văn hóa, giáo dục; Đầu tư phát triển các khu du lịch quốc
gia, đô thị du lịch tại ĐBSCL; Ưu tiên đầu tư phát triển loại hình du lịch sinh thái, các
loại hình du lịch gắn với thiên nhiên và có lợi cho môi trường; Không đầu tư dàn trải
mà tập trung đầu tư vào những tuyến điểm quan trọng trong vùng; Lập chương trình
cụ thể về vận động xã hội hóa đầu tư từ nguồn vốn trong nước, vốn ODA và FDI đầu
tư vào các dự án phát triển cơ sở hạ tầng du lịch cho vùng ĐBSCL; Hoàn thiện công
tác quản lý đầu tư cơ sở hạ tầng du lịch; Có cơ chế, chính sách ưu đãi đối với đầu tư
phát triển các khu du lịch; Đầu tư vào hoạt động du lịch gắn với sinh thái và bảo vệ
môi trường; Tập trung thực hiện các dự án đầu tư xây dựng, nâng cấp cơ sở hạ tầng.
5.3.4 Chính sách và giải pháp đào tạo, phát triển nguồn nhân lực cho du
lịch vùng ĐBSCL
- Chính sách: Đào tạo nguồn nhân lực ngành du lịch của Vùng phải đảm bảo về
số lượng, chất lượng và cơ cấu; Phối hợp, đặt hàng với các cơ sở đào tạo về du lịch
trong Vùng và cơ sở tại TP. HCM để đào tạo nguồn nhân lực cho du lịch của Vùng
ĐBSCL; Thường xuyên mở các lớp tập huấn, mời chuyên gia trong và ngoài nước
tập huấn chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ nguồn nhân lực phục vụ du lịch của
Vùng.
- Giải pháp thực hiện: Trước hết, cần phát triển mạnh các cơ sở đào tạo về du
lịch trong vùng từ cơ sở vật chất kỹ thuật, thiết bị giảng dạy đến chất lượng giảng
viên, giáo trình khung đào tạo du lịch gắn liền với điều kiện cụ thể của vùng ĐBSCL.
Chú trọng phát triển nhân lực du lịch phù hợp với nhu cầu phát triển du lịch từng thời
kỳ, từng địa phương vùng ĐBSCL. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trang bị đầy

đủ về kiến thức, các kĩ năng cần thiết và thái độ phục vụ đáp ứng được từng nghiệp
vụ cụ thể trong lĩnh vực du lịch của Vùng thông qua các giải pháp chính sau: Đẩy
mạnh xã hội hóa trong công tác đào tạo; Mời các chuyên gia nước ngoài về tập huấn
nghiệp vụ cho người đang hoạt động trong lĩnh vực du lịch tại ĐBSCL; Xây dựng và
hoàn thiện cơ chế, chính sách về phát hiện và bồi dưỡng, sử dụng nguồn nhân lực du
lịch của Vùng; Chú trọng duy trì và phát triển hệ thống cơ sở đào tạo, dạy nghề và cơ
sở nghiên cứu về du lịch của vùng ĐBSCL; Huy động các nguồn vốn cho phát triển
nhân lực ngành Du lịch vùng ĐBSCL.


20

5.3.5 Chính sách và giải pháp phát triển du lịch vùng ĐBSCL trong hội
nhập quốc tế
- Chính sách: Liên kết mở các tour du lịch đến ĐBSCL với các quốc gia khu
vực Bắc Mỹ, Tây Âu, Đông Bắc Á; Liên kết hợp tác phát triển du lịch giữa vùng
ĐBSCL với các nước ASEAN và Trung Quốc; Xúc tiến, ký kết hợp tác và phối hợp
phát triển du lịch giữa ĐBSCL với các tổ chức du lịch quốc tế, các nước trong khu
vực và với các quốc gia riêng lẻ.
- Giải pháp thực hiện: Quá trình liên kết, hợp tác quốc tế về du lịch của vùng
ĐBSCL trong thời gian tới, cần tập trung theo hướng: Đẩy mạnh liên kết, hợp tác
phát triển du lịch vùng ĐBSCL với các tổ chức du lịch quốc tế và các quốc gia phát
triển; Liên kết, hợp tác với các quốc gia trong khu vực; Thúc đẩy việc liên kết hợp tác
tiểu vùng sông Mekong du lịch ĐBSCL; Liên kết sự phát triển du lịch chung của
vùng Nam Trung Bộ và Đông Nam Bộ cũng như của du lịch cả nước.
5.3.6 Chính sách và giải pháp bảo vệ môi trường, sinh thái trong phát triển
du lịch vùng ĐBSCL
- Chính sách: Ban hành chính sách về bảo tồn và phát triển hệ sinh thái tự nhiên
trong Vùng, có cơ chế đặc thù để bảo vệ một số vùng có hệ sinh thái đặc sắc như
Tràm Chim, hệ sinh thái sông nước, hệ sinh thái biển Phú Quốc; Xử phạt nghiêm

những tổ chức và cá nhân xâm hại, làm ảnh hưởng đến môi trường sinh thái trong
Vùng; Tuyên truyền, nâng cao nhận thức và huy động người dân trong vùng ĐBSCL
tham bảo vệ môi trường sinh thái. Tuyên truyền, nâng cao ý thức của du khách trong
việc bảo vệ môi trường, sinh thái của Vùng.
- Giải pháp thực hiện: Nâng cao ý thức của người dân tại các địa phương trong
Vùng về giữ gìn vệ sinh tại các địa điểm du lịch; Chính quyền các địa phương trong
vùng ĐBSCL, các doanh nghiệp du lịch và cư dân địa phương trong Vùng phải có
trách nhiệm trong tuyên truyền, vận động du khách thực hiện tốt yêu cầu du lịch
xanh: không xả rác, không gây ô nhiễm nguồn nước, bảo vệ các loài động thực vật tại
điểm đến du lịch; Xây dựng hệ thống các công trình chống lũ và chống xâm nhập
mặn; Đề xuất các giải pháp phòng chống sạt lở đất tại các khu vực có nguy cơ sạt cao
và giải pháp phòng chống thiên tai; Tăng cường hoạt động thông tin, truyền thông để
nâng cao nhận thức của hệ thống chính trị, người dân, cộng đồng về vai trò, ý nghĩa,
tầm quan trọng của việc phát triển loại hình du lịch xanh, nhất là những sản phẩm du
lịch xanh mang tính đặc thù của vùng ĐBSCL.
5.3.7 Chính sách và giải pháp về đảm bảo an ninh, an toàn trong phát triển
du lịch vùng ĐBSCL
- Chính sách: Các địa phương trong vùng cần xây dựng lực lượng chuyên trách
nhằm bảo vệ an ninh, an toàn tuyệt đối cho du khách khi đến du lịch vùng ĐBSCL;
Tuyên truyền, vận động, nâng cao trình độ văn hoá cho người dân trong Vùng để
từng bước loại bỏ các tệ nạn xã hội, nhằm lành mạnh hoá môi trường du lịch trong
Vùng; Phát triển du lịch trong Vùng phải gắn với việc đảm bảo an ninh - quốc phòng,
giữ vững biên giới lãnh thổ của quốc gia, ngăn chặn những hoạt động chống phá
chính quyền và chế độ.
- Giải pháp thực hiện: Xây dựng được hệ thống an ninh vững mạnh, hiệu quả
kịp thời giải quyết những bất ổn xảy ra trên địa bàn; Chủ động và phòng ngừa không
để xảy ra những sự cố đáng tiếc cho du khách, giải quyết tốt các tệ nạn xã hội, tình


21


trạng trộm cắp, cướp giật, ăn xin, nạn chèo kéo khách,...tạo môi trường an ninh cho
du khách khi đến vùng ĐBSCL; Phối hợp với các ngành chức năng tăng cường phòng
chống tệ nạn xã hội, đảm bảo an ninh trật tự, an toàn cho du khách và bảo vệ môi
trường du lịch vùng ĐBSCL; Tuyên truyền, vận động người dân trong Vùng tham gia
tích cực vào việc đảm bảo an ninh, quốc phòng, xây dựng nền quốc phòng toàn dân,
vừa góp phần giữ vững an ninh, quốc phòng trong Vùng ĐBSCL vừa thúc đẩy sự
phát triển của du lịch trong Vùng; Đầu tư phát triển hệ thống giao thông trên các
tuyến biên giới, xây dựng, nâng cấp các đồn, trạm biên phòng trong Vùng, kết hợp
với xây dựng nền quốc phòng toàn dân trong Vùng, phát triển các khu dân cư và hạ
tầng kinh tế - xã hội gắn với bảo vệ biên giới, hải đảo vùng ĐBSCL; Kết hợp phát
triển kinh tế du lịch gắn với đảm bảo an ninh quốc phòng; Nâng cao hiểu biết, nhận
thức và trách nhiệm của người dân về các chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà
nước, bài trừ các tệ nạn xã hội như mê tín dị đoan, tảo hôn,…
5.3.8 Chính sách và giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý để phát triển du
lịch vùng ĐBSCL trong hội nhập quốc tế
- Chính sách: Cần có cơ chế phối hợp giữa Chính phủ, các bộ ngành liên quan
với chính quyền các địa phương trong vùng ĐBSCL để phát triển du lịch. Phát huy
vai trò của Hiệp hội du lịch Vùng ĐBSCL, kết nối giữa các địa phương, các doanh
nghiệp hoạt động du lịch trong Vùng; Mỗi địa phương trong Vùng cần cử một phó
chủ tịch tỉnh chuyên trách theo dõi, quản lý, phối hợp các hoạt động du lịch trong
Vùng. Kịp thời tháo gỡ những khó khăn trong hoạt động du lịch; Thường xuyên tập
huấn cho cán bộ quản lý hoạt động du lịch trong Vùng để nâng cao trình độ và hiệu
quả quản lý.
- Giải pháp thực hiện: Có sự phối hợp giữa các Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch với các bộ, ngành Trung ương và các địa phương trong vùng để nghiên cứu, đánh
giá toàn diện, đảm bảo tính đồng bộ, hệ thống về thực trạng và tiềm năng phát triển
du lịch vùng ĐBSCL; Tăng cường sự liên kết vùng trong phát triển du lịch; Hình
thành Ban Điều phối phát triển du lịch vùng ĐBSCL để thực hiện vai trò nhạc trưởng
cho các hoạt động liên kết phát triển du lịch trong vùng; Nghiên cứu sửa đổi bổ sung

các chính sách, thể chế, cơ chế vể du lịch vùng ĐBSCL, hoàn thiện Luật du lịch để
tạo môi trường pháp lí thuận lợi cho phát triển du lịch cả nước nói chung và cho
ĐBSCL nói riêng; Nâng cao trình độ và năng lực quản lí nhà nước ở các địa phương,
phải có cơ chế phối hợp liên ngành, lĩnh vực của Vùng để phát triển du lịch ĐBSCL;
Xây dựng các chiến lược phát triển du lịch của Vùng và các địa phương trong Vùng
ĐBSCL đảm bảo hiệu quả, chất lượng và tính khả thi cao; Áp dụng hệ thống các tiêu
chuẩn ngành du lịch, tăng cường kiểm tra, giám sát nhằm duy trì chất lượng sản phẩm
dịch vụ, thiết lập hệ thống đánh giá và quản lý chất lượng du lịch qua đó tạo môi
trường cạnh tranh lành mạnh cho tất cả các đơn vị tham gia tổ chức du lịch của
ĐBSCL; Trong quản lý có sự phân cấp, đảm bảo vai trò quản lý vĩ mô khuyến khích
sự tham gia tích cực của cộng đồng dân cư trong vùng cũng như tạo sự chủ động cho
doanh nghiệp khi tham gia các hoạt động du lịch; Thực hiện cổ phần hóa các doanh
nghiệp du lịch nhà nước ở ĐBSCL; Nhà nước và chính quyền địa phương trong Vùng
cần hỗ trợ việc đưa công nghệ quản lý tiên tiến vào việc kinh doanh du lịch; Các tỉnh,
thành trong vùng ĐBSCL cần thắt chặt mối liên kết, hợp tác để xây dựng các chương
trình, dự án phát triển sản phẩm du lịch đặc thù của từng địa phương, của vùng; Phát


22

huy vai trò quản lý nhà nước về lĩnh vực du lịch đối với tất cả đối tượng, thuộc mọi
thành phần kinh tế hoạt động kinh doanh du lịch và dịch vụ du lịch trên địa bàn; Chú
trọng nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành và người dân trong Vùng về vị trí,
vai trò của du lịch đối với phát triển kinh tế - xã hội vùng ĐBSCL.
5.4 Kiến nghị với Chính phủ, các bộ, ngành liên quan và chính quyền địa
phương trong Vùng về chính sách phát triển du lịch ĐBSCL.
5.4.1 Kiến nghị với Chính phủ, các bộ, ngành liên quan
Đối với Thủ tướng Chính phủ: Đề nghị tăng nguồn vốn hỗ trợ cho đầu tư, phát
triển cơ sở hạ tầng vùng ĐBSCL theo hướng tập trung hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng các
công trình chuyển tiếp, các công trình hạ tầng du lịch thuộc các khu du lịch quốc gia

trên địa bàn vùng ĐBSCL, hỗ trợ đầu tư cho các điểm du lịch trọng yếu của Vùng để
thu hút du khách trong và ngoài nước; Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính, thực hiện
tốt cơ chế "một cửa"; Hoàn thiện các quy định của pháp luật nhằm thúc đẩy phát triển
du lịch.
Kiến nghị Chính phủ và Bộ ngoại giao: Nghiên cứu miễn thị thực Visa nhập
cảnh cho một số quốc gia thân hữu, đối tác của Việt Nam với thời gian dài hơn, hợp
lý hơn và chi phí thấp để thu hút khách quốc tế. Tạo thuận lợi và rút ngắn thời gian
cấp visa, thị thực cho khách du lịch quốc tế.
Kiến nghị đối với Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Thúc đẩy nhanh tiến độ các dự án đầu
tư Nhà nước do Bộ trực tiếp quản lý vào vùng ĐBSCL nhằm hỗ trợ cho phát triển du
lịch.
Kiến nghị với Bộ Tài nguyên và Môi trường: Cần bổ sung các quy định về phân
loại tỷ lệ sử dụng đất đối với các dự án khu du lịch vùng ĐBSCL, để làm cơ sở tính
toán tiền thuê đất hợp lý phù hợp với cơ chế thị trường, đảm bảo lợi ích của Nhà
nước, nhà đầu tư và người dân.
5.4.2 Kiến nghị đối với các địa phương trong vùng ĐBSCL
Đối với các địa phương trong Vùng cần nâng cao hiệu quả quản lý của các sở
văn hóa, thể thao và du lịch, phối hợp tốt giữa sở văn hoá – thể thao và du lịch của
các địa phương trong vùng ĐBSCL với Hiệp hội du lịch ĐBSCL. Xây dựng quy
hoạch, chiến lược phát triển du lịch của các địa phương phải gắn với chiến lược phát
triển du lịch của toàn Vùng, có những quy định về diện tích tối thiểu đối với một dự
án trong các khu du lịch vùng ĐBSCL, phù hợp với từng loại hình khu du lịch và
từng địa bàn theo định hướng phát triển du lịch của từng địa phương.
Nâng cao nhận thức của chính quyền các địa phương trong Vùng về tầm quan
trọng của phát triển du lịch. Chú trọng xây dựng hệ thống thông tin quản lí du lịch
của các địa phương trong Vùng và Nâng cao hiệu quả hoạt động của Hiệp hội du lịch
vùng ĐBSCL trong việc phối hợp, liên kết và phát triển các hoạt động du lịch trong
Vùng, đáp ứng yêu cầu của hội nhập quốc tế.



23

KẾT LUẬN
ĐBSCL là khu vực có tiềm năng về du lịch độc đáo, không giống với vùng
miền nào trên cả nước. Với những lợi thế về điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế xã
hội cùng với sự quan tâm của Nhà nước, du lịch ĐBSCL đã, đang và sẽ ngày càng
phát triển, khẳng định vị trí, vai trò của mình trong hệ thống ngành du lịch của nước
nhà. Để du lịch ĐBSCL phát triển tương xứng với tiềm năng của Vùng và thật sự trở
thành ngành kinh tế mũi nhọn, luận án nghiên cứu nhằm đánh giá tình hình phát triển
trong thời gian qua từ đó đưa ra các giải pháp phù hợp với định hướng phát triển
trong hệ thống du lịch của cả nước cũng như của Vùng.
Luận án tập trung làm rõ cơ sở lí luận chung về dịch vụ du lịch. Đưa ra các khái
niệm liên quan đến du lịch, các loại hình du lịch (phân theo địa lí và mục đích chuyến
đi), thị trường du lịch, các chức năng của thị trường và phân loại thị trường du lịch
theo các tiêu chí thông dụng. Các khái niêm trên được khái quát một cách phù hợp,
mang tính tổng quát của hoạt động du lịch hiện nay. Bên cạnh đó, luận án còn vận
dụng lý luận của Mác Lênin làm cơ sở lý luận giải thích cho quá trình phân công lao
động, phân phối hàng hóa dịch vụ du lịch trên thị trường dịch vụ du lịch. Luận án
khẳng định vai trò của du lịch đối với quá trình phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt là
xóa đói giảm nghèo, giải quyết vấn đề việc làm cho người dân, thúc đẩy giao lưu văn
hóa giữa các địa phương trong vùng và với các vùng khác.
Các mối quan hệ trong phát triển du lịch của Vùng được luận án tập trung làm rõ
bao gồm: mối quan hệ giữa tài nguyên thiên nhiên giúp hình thành nên những sản
phẩm du lịch đặc trưng góp phần tạo nên thị trường du lịch hấp dẫn của Vùng; sự tác
động của hội nhập kinh tế quốc tế và du lịch; vấn đề phát triển du lịch gắn liền với
các yếu tố đảm bảo phát triển bền vững. Sự tác động qua lại giữa phát triển du lịch
với hệ thống chính trị thể hiện ở việc hình thành các cơ chế chính sách trong phát
triển du lịch và sự tác động trở lại của du lịch đối với hệ thống chính trị (mà theo kinh
tế chính trị giải thích đó là mối quan hệ qua lại giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng). Hiểu rõ được tầm quan trọng của Nhà nước trong việc các chính sách phát triển

về thị trường, nguồn nhân lực, cơ sở hạ tầng, văn hóa, xã hội,…cho ngành du lịch.
Nghiên cứu phát triển du lịch của Vùng không chỉ phục vụ cho hoạt động du
lịch của Vùng mà còn là căn cứ để phát triển các mô hình liên kết với các Vùng du
lịch lân cận nhằm đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Luận án
đánh giá một cách khoa học tiềm năng du lịch của Vùng về điều kiện tự nhiên, văn
hóa, xã hội, kinh tế để ĐBSCL phát triển du lịch. Đây là cơ sở khoa học cho việc xây
dựng các chiến lược phát triển du lịch có tính bền vững phù hợp với điều kiện của
Vùng.
Phân tích cụ thể từ đó đưa ra những đánh giá toàn diện về thực trạng phát triển
du lịch vùng ĐBSCL giai đoạn 2000-2015. Phân tích những đóng góp tích cực của
ngành du lịch đối với tăng trưởng kinh tế, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xóa
đói giảm nghèo cũng như giải quyết vấn đề việc làm cho người dân. Bên cạnh đó
đánh giá tác động của du lịch trong hội nhập kinh tế trên một số mặt. Từ những phân
tích trên cũng giúp đánh giá được những mặt mạnh, mặt yếu và nguyên nhân, nêu lên
những cơ hội và những thách thức trong quá trình phát triển du lịch của ĐBSCL từ đó


24

có một cái nhìn khách quan và tổng quát nhằm đưa ra những giải pháp phù hợp và sát
với thực tế tình hình phát triển du lịch của Vùng.
Luận án đã xác định những định hướng, mục tiêu và các giải pháp cho phát triển
du lịch vùng ĐBSCL đến năm 2025 và tầm nhìn 2030, dựa trên cơ sở nghiên cứu dự
báo tình hình xu hướng phát triển của du lịch thế giới, du lịch của vùng Châu Á –
Thái Bình Dương và Việt Nam. Dự báo đóng góp của ngành du lịch vào tốc độ tăng
trường GDP, tỷ trọng GDP du lịch, đóng góp vào nguồn thu ngân sách, phát triển cơ
sở vật chất, thu hút nguồn lao động ở vùng ĐBSCL. Từ thực trạng đã được phân tích,
luận án đề xuất các giải pháp phát triển một cách toàn diện, trên cơ sở mô hình: khối
liên kết ngành, liên kết các doanh nghiệp, liên kết các cơ quan quản lí nhà nước về du
lịch trong điều phối và tổ chức thực hiện. Bên cạnh các chính sách và giải pháp để

phát triển du lịch vùng ĐBSCL trong hội nhập quốc tế, luận án còn đưa ra các kiến
nghị đối với Chính phủ, các Bộ, ngành có liên quan nhằm hoàn thiện hơn nữa các cơ
chế, chính sách góp phần cho việc phát triển du lịch của Vùng ĐBSCL trở nên xứng
đáng với tiềm năng hiện có trong hội nhập quốc tế.



×