Tải bản đầy đủ (.pdf) (186 trang)

Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công tác dân vận ở Tây Nguyên từ năm 2001 đến năm 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.6 MB, 186 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN MẬU LINH

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO
CÔNG TÁC DÂN VẬN Ở TÂY NGUYÊN
TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2010

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

HÀ NỘI - 2017


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN MẬU LINH

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO
CÔNG TÁC DÂN VẬN Ở TÂY NGUYÊN
TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2010

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Mã số: 62 22 03 15

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. NGUYỄN MINH ĐỨC
2. PGS.TS. VŨ QUANG VINH

HÀ NỘI - 2017




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của
riêng tôi trên cơ sở sưu tầm, đọc và phân tích các tài liệu. Tất
cả các tài liệu tham khảo, các tư liệu, số liệu thống kê sử dụng
trong Luận án là trung thực, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng và
được trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Nghiên cứu sinh

Nguyễn Mậu Linh


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

6

1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến luận án

6

1.2. Khái quát kết quả các công trình đã công bố và những vấn đề luận án
tiếp tục giải quyết


24

Chƣơng 2: ĐẢNG LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC DÂN VẬN Ở TÂY NGUYÊN
TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2005

27

2.1. Đặc điểm tình hình Tây Nguyên và công tác dân vận ở Tây Nguyên
trước năm 2001

27

2.2. Chủ trương của Đảng về công tác dân vận ở Tây Nguyên từ năm
2001 đến năm 2005

38

2.3. Quá trình chỉ đạo thực hiện công tác dân vận của Đảng ở Tây
Nguyên từ năm 2001 đến năm 2005

48

Chƣơng 3: ĐẢNG LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC DÂN VẬN Ở TÂY NGUYÊN
TỪ NĂM 2006 ĐẾN NĂM 2010

73

3.1. Tình hình mới và chủ trương của Đảng về công tác dân vận ở Tây
Nguyên từ năm 2006 đến năm 2010


73

3.2. Quá trình chỉ đạo đẩy mạnh công tác dân vận của Đảng ở Tây
Nguyên từ năm 2006 đến năm 2010

82

Chƣơng 4: MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM

111

4.1. Một số nhận xét

111

4.2. Một số kinh nghiệm

129

KẾT LUẬN

148

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

150

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


151

PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CNXH

: Chủ nghĩa xã hội

CTDV

: Công tác dân vận

CTPĐQC

: Công tác phát động quần chúng

CTVĐQC

: Công tác vận động quần chúng

DTTS

: Dân tộc thiểu số

FULRO

: Mặt trận thống nhất đấu tranh của các sắc tộc bị áp bức


HTCT

: Hệ thống chính trị

Nxb

: Nhà xuất bản

UNESCO

: Tổ chức Văn hóa-Khoa học-Giáo dục của Liên hợp quốc

UNHCR

: Tổ chức Cao ủy Liên hợp quốc về người tị nạn

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công tác dân vận của Đảng là toàn bộ những hoạt động của Đảng và của các tổ
chức khác trong hệ thống chính trị (HTCT) dưới sự lãnh đạo của Đảng nhằm tuyên
truyền, giáo dục, vận động, thuyết phục, hướng dẫn, tập hợp và tổ chức mọi tầng lớp
nhân dân thực hiện tốt các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước; chăm lo, bảo vệ lợi ích của nhân dân; phát huy quyền làm chủ, sức mạnh to

lớn của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện thắng lợi mục
tiêu, lý tưởng của Đảng. Trong bài báo Dân vận đăng trên báo Sự thật, ngày 15-101949, Hồ Chí Minh khẳng định: "Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan
trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công"
[72, tr.234].
Trải qua các thời kỳ lịch sử, Đảng luôn xác định công tác dân vận (CTDV) là
một nhiệm vụ quan trọng, có ý nghĩa chiến lược đối với toàn bộ sự nghiệp cách
mạng của dân tộc; là điều kiện tiên quyết bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng; góp phần
củng cố, tăng cường mối quan hệ gắn bó giữa Đảng và nhân dân. Đặc biệt, trong
thời kỳ đổi mới, CTDV của Đảng được tăng cường và từng bước đổi mới. Đảng và
Nhà nước đã có nhiều chủ trương, giải pháp tích cực, phù hợp với từng đối tượng,
từng lĩnh vực; đồng thời, thường xuyên đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo,
mở rộng dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân cũng như vai trò của Nhà
nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể quần chúng và lực lượng vũ trang
trong CTDV. Từ đó, tạo ra các phong trào quần chúng rộng lớn, phát huy sức mạnh
của mọi tầng lớp nhân dân, tiến hành sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại
hóa (CNH, HĐH) đất nước, tạo nên những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, đưa
nước ta thoát khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển; từng bước nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân; giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn
xã hội; củng cố quốc phòng, an ninh; nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường
quốc tế... Bên cạnh những thành công và kết quả đạt được, CTDV của Đảng cũng
còn nhiều hạn chế, yếu kém, chưa đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp đổi
mới: Chậm cụ thể hóa cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ;


2
một số nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước chưa được quán
triệt và thực hiện hiệu quả; sự phối hợp giữa các tổ chức trong HTCT chưa chặt
chẽ; một số cơ quan nhà nước chưa nhận thức sâu sắc vị trí, tầm quan trọng của
CTDV; những yếu kém của bộ máy công quyền tạo bức xúc, khiếu kiện trong
nhân dân, là kẽ hở để các thế lực thù địch và bọn cơ hội chính trị lợi dụng xuyên

tạc, kích động quần chúng nhân dân, ảnh hưởng đến khối đại đoàn kết toàn dân
tộc. Trước tình hình đó, việc tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với
CTDV là một yêu cầu cấp thiết nhằm củng cố vững chắc lòng tin của nhân dân đối
với Đảng, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh to lớn
của các tầng lớp nhân dân, tạo ra phong trào quần chúng rộng lớn để xây dựng
một nước Việt Nam: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Tây Nguyên là địa bàn có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về kinh tế,
chính trị, quốc phòng, an ninh và môi trường sinh thái của đất nước; đây là vùng đất
có nhiều tiềm năng, lợi thế, nhưng cũng tiềm ẩn nhiều nhân tố mất ổn định, nhất là
sự chống phá thường xuyên, quyết liệt của các thế lực thù địch nhằm xóa bỏ vai trò
lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở nước ta. Nhận thức sâu
sắc vị trí, tầm quan trọng của địa bàn chiến lược và việc xây dựng "thế trận lòng
dân" ở Tây Nguyên, trong quá trình lãnh đạo đồng bào các dân tộc xây dựng và bảo
vệ cuộc sống mới ấm no, hạnh phúc, Đảng từng bước đổi mới nội dung và phương
thức lãnh đạo CTDV nhằm động viên, tập hợp mọi tầng lớp nhân dân thực hiện các
nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh; củng cố và tăng cường khối đại
đoàn kết các dân tộc trên địa bàn. Đặc biệt, trong những năm 2001 - 2010, trước
những diễn biến phức tạp của tình hình an ninh chính trị ở Tây Nguyên, Đảng đã
lãnh đạo, chỉ đạo CTDV đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Tuy nhiên, bên
cạnh những kết quả đạt được, công tác này vẫn còn nhiều hạn chế, khuyết điểm
chậm được khắc phục, sửa chữa. Thực tế của ba cuộc biểu tình, bạo loạn (năm
2001, 2004 và 2008) trên địa bàn một số tỉnh Tây Nguyên là minh chứng rõ nét.
Nguyên nhân xảy ra các cuộc bạo loạn này, cần được nhận diện và phân tích một
cách thấu đáo, đa chiều, trong đó có sự hạn chế, yếu kém của Đảng về CTDV. Vì
vậy, nghiên cứu, tổng kết quá trình Đảng lãnh đạo CTDV ở Tây Nguyên trong 10


3
năm đầy biến động này, nhằm khẳng định những thành công, chỉ ra những hạn chế
và bước đầu đúc kết một số kinh nghiệm, góp phần xây dựng và tổ chức thực hiện

có hiệu quả các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về CTDV ở Tây
Nguyên là việc làm cấp thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Với ý nghĩa
đó, nghiên cứu sinh lựa chọn vấn đề "Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công tác
dân vận ở Tây Nguyên từ năm 2001 đến năm 2010" làm luận án Tiến sĩ lịch sử,
chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghi n cứu
21

c đ ch nghiên c u

Làm sáng tỏ quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo CTDV trên địa
bàn Tây Nguyên từ năm 2001 đến năm 2010; qua đó, rút ra một số kinh nghiệm chủ
yếu, góp phần vào việc nâng cao chất lượng và hiệu quả CTDV ở Tây Nguyên trong
giai đoạn hiện nay.
2 2 Nhiệm v nghiên c u
- Nghiên cứu, luận giải, làm rõ những yếu tố tác động đến quá trình lãnh đạo
thực hiện CTDV của Đảng trên địa bàn Tây Nguyên từ năm 2001 đến năm 2010.
- Làm rõ những chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với
CTDV trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên từ năm 2001 đến năm 2010.
- Đánh giá đúng thực trạng CTDV của Đảng với những ưu điểm, hạn chế cũng
như nguyên nhân của nó và rút ra một số kinh nghiệm chủ yếu về quá trình lãnh đạo
CTDV ở Tây Nguyên từ năm 2001 đến năm 2010 của Đảng Cộng sản Việt Nam.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghi n cứu
3 1 Đối tượng nghiên c u
Đối tượng nghiên cứu là hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam đối với CTDV trên địa bàn Tây Nguyên.
3 2 Phạm vi nghiên c u
- Về nội dung: Công tác dân vận của Đảng có nội hàm phong phú và rộng
lớn. Trong phạm vi của đề tài, luận án tập trung nghiên cứu về việc Đảng đề ra
những quan điểm, chủ trương về CTDV và quá trình chỉ đạo tổ chức thực hiện

CTDV trên địa bàn Tây Nguyên từ năm 2001 đến năm 2010.


4
- Về không gian: Nghiên cứu CTDV của Đảng trên địa bàn Tây Nguyên (gồm
các tỉnh Đắk Lắk, Gia Lai, Kon Tum, Lâm Đồng, Đắk Nông).
- Về thời gian: Tập trung nghiên cứu khoảng thời gian 10 năm (2001-2010).
Tuy nhiên, để vấn đề nghiên cứu có tính hệ thống, luận án có đề cập một số nội
dung liên quan trong thời gian trước năm 2001.
4. Cơ sở lý luận, phƣơng pháp nghi n cứu và nguồn tƣ liệu
4 1 Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về vai trò của quần chúng nhân dân và công tác vận động quần chúng của Đảng.
4.2. Phương pháp nghiên c u
Luận án sử dụng phương pháp lịch sử, phương pháp lôgíc và kết hợp hai
phương pháp đó là chủ yếu. Ngoài ra, luận án còn sử dụng các phương pháp nghiên
cứu bổ trợ khác như: Phương pháp đồng đại, lịch đại, phân kỳ, thống kê, phân tích tổng hợp, so sánh.
Phương pháp lịch sử, phương pháp lôgíc và kết hợp hai phương pháp đó được
sử dụng ở Chương 2, Chương 3 và Chương 4 của luận án nhằm phục dựng bối cảnh
lịch sử, chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam về CTDV ở Tây
Nguyên qua hai giai đoạn 2001-2005 và 2006-2010. Qua đó, tái hiện quá trình Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo CTDV ở Tây Nguyên từ năm 2001-2010.
Ở Chương 4, tác giả luận án sử dụng phương pháp lôgic là chủ yếu, đồng
thời kết hợp với phương pháp lịch sử để đánh giá và đúc rút kinh nghiệm về quá
trình Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo CTDV ở Tây Nguyên thời kỳ 2001-2010.
Luận án sử dụng phương pháp thống kê, phương pháp so sánh ở Chương 1,
phần Phụ lục và Danh mục tài liệu tham khảo. Sử dụng phương pháp phân tích, so
sánh để làm rõ sự phát triển trong nhận thức và thực tiễn quá trình lãnh đạo của Đảng
đối với CTDV ở Tây Nguyên giai đoạn 2006-2010 so với giai đoạn 2001-2005.
4.3. Nguồn tư liệu

Nguồn tài liệu chính được sử dụng trong luận án là: Các văn kiện của Đảng
và Nhà nước về CTDV, về Tây Nguyên; các kết luận, báo cáo tổng kết của Ban Chỉ
đạo Tây Nguyên, Ban Dân vận Trung ương về CTDV ở Tây Nguyên; các văn kiện,
báo cáo của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh, Ban Dân vận Tỉnh ủy của 5 tỉnh Tây
Nguyên; những công trình nghiên cứu về Tây Nguyên và CTDV ở Tây Nguyên.


5
5. Đóng góp mới của luận án
- Phân tích làm rõ bước phát triển trong nhận thức và chủ trương cũng như sự
chỉ đạo của Đảng đối với CTDV trên địa bàn Tây Nguyên từ năm 2001 đến năm 2010.
- Đánh giá một cách khách quan, toàn diện những thành công và hạn chế của
Đảng về lãnh đạo, chỉ đạo CTDV ở Tây Nguyên thời kỳ 2001-2010.
- Đúc rút một số kinh nghiệm lịch sử CTDV của Đảng ở Tây Nguyên có giá
trị cho CTDV trong hiện tại và tương lai.
6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận án
- Công tác dân vận là một lĩnh vực rất quan trọng trong hoạt động của Đảng,
nghiên cứu quá trình Đảng lãnh đạo CTDV ở Tây Nguyên thời kỳ 2001-2010 sẽ
góp phần tổng kết CTDV của Đảng trong thời kỳ đổi mới.
- Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần cung cấp cơ sở khoa học cho
việc hoạch định những chủ trương, giải pháp đúng đắn, phù hợp nhằm tăng cường
CTDV của Đảng trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên trong giai đoạn hiện nay và
những năm tiếp theo.
- Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy
lịch sử CTDV của Đảng nói chung và của Đảng bộ ở các tỉnh Tây Nguyên nói riêng.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
án gồm 4 chương, 9 tiết.



6
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

Công tác dân vận của Đảng Cộng sản là vấn đề quan trọng được đề cập trong
nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học trong và ngoài nước. Liên quan
đến đề tài luận án có thể chia thành các nhóm công trình như sau:
Nhóm 1: Các công trình nghiên c u về công tác dân vận nói chung
Sách Tư tưởng Dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh [29] là tập hợp 34 tham
luận tại Hội thảo khoa học về tư tưởng Dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã tập
trung làm rõ quan điểm lý luận chung về CTDV trong lịch sử, trong học thuyết Mác
- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; nội dung, phương thức CTDV trong tư tưởng Hồ
Chí Minh; đồng thời liên hệ, vận dụng vào thực tiễn CTDV trong sự nghiệp đổi
mới. Đáng chú ý là tham luận "Suy ngẫm về định nghĩa dân vận của Bác Hồ", cho
rằng: Công tác dân vận phải đi sâu vào từng con người, khơi dậy và phát huy tính
tích cực, sáng tạo, tính chủ động và tự giác của mỗi người thể hiện ở tài trí, sức lực,
tiền của của mỗi người góp vào công việc chung… Công tác dân vận bao giờ cũng
gắn với nhiệm vụ chính trị. Kết quả của CTDV là tạo được phong trào hành động
cách mạng của quần chúng sôi nổi, rộng khắp thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã
hội, quốc phòng, an ninh, xây dựng Đảng, chính quyền và các đoàn thể vững mạnh
[29, tr.202-204].
Cuốn sách Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể nhân dân trong thời kỳ đổi mới [107] đã khẳng định: Đổi mới
phương thức lãnh đạo đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân
nhằm mục tiêu củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc và mối liên hệ
giữa Đảng và nhân dân. Trên cơ sở phân tích những ưu điểm và hạn chế về phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng, tác
giả nêu lên một số bài học kinh nghiệm: Đảng phải tiếp tục nâng cao nhận thức và
quan điểm quần chúng, đấu tranh khắc phục bệnh quan liêu, xa rời quần chúng của

cán bộ, đảng viên, loại bỏ những phần tử thoái hóa, biến chất… Củng cố, tăng


7
cường Ban Dân vận các cấp về tổ chức, bộ máy và cán bộ; về phương tiện, điều
kiện làm việc để cho Ban làm tốt chức năng tham mưu, hướng dẫn, kiểm tra, phối
hợp hoạt động, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ về CTDV. Tăng cường vai trò tổ chức
đảng và đảng viên trong Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Đồng thời, tác
giả đưa ra 6 giải pháp chung, đó là: Nâng cao chất lượng các định hướng của Đảng
đối với các tổ chức quần chúng về chính trị, tư tưởng, nội dung, phương thức hoạt
động, tổ chức và cán bộ; thể chế hóa kịp thời các chủ trương của Đảng về dân vận,
tăng cường CTDV của chính quyền và sự phối hợp công tác giữa chính quyền với
Mặt trận và các đoàn thể nhân dân; coi trọng lãnh đạo việc tổ chức thực hiện, đôn
đốc kiểm tra, sơ kết, tổng kết kịp thời; củng cố, tăng cường HTCT ở cơ sở vững
mạnh; tăng cường hoạt động của Ban Dân vận các cấp tham mưu giúp Đảng tổng
kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về phương thức lãnh đạo đối với Mặt trận và các
đoàn thể; thực hiện quy chế hóa, chương trình hóa, hiện đại hóa sự lãnh đạo của cấp
ủy đối với hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân. Tuy nhiên, do chủ đề
của sách tập trung vào phương thức lãnh đạo của Đảng đối với một đối tượng cụ
thể, nên chưa bao trùm hết các hoạt động lãnh đạo của Đảng trong CTDV.
Sách Làm tốt công tác quần chúng trong tình hình mới: kinh nghiệm Trung
Quốc, kinh nghiệm Việt Nam [64] là tập hợp các tham luận trong Hội thảo lý luận
lần thứ 7 giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc, tập trung
vào chủ đề: Công tác quần chúng trong tình hình mới, trong đó khẳng định vị trí,
vai trò quan trọng của CTDV trong tình hình mới; sự cần thiết phải tăng cường mối
quan hệ máu thịt giữa Đảng và nhân dân; vai trò của HTCT, đặc biệt là Mặt trận Tổ
quốc và các tổ chức quần chúng trong công tác vận động quần chúng (CTVĐQC).
Các tham luận của học giả Việt Nam đã đúc kết, đề xuất nhiều kinh nghiệm và giải
pháp đổi mới CTDV của Đảng. Tiêu biểu có các bài: "Đảng Cộng sản Việt Nam với
công tác quần chúng - thực tiễn và một số kinh nghiệm" [64, tr.36-60] đã nhấn

mạnh: Công tác quần chúng cần tiếp tục đổi mới, không chỉ để theo kịp, giải quyết
kịp thời những vấn đề mới nảy sinh, mà còn để xác định tầm nhìn có tính chiến lược
và lâu dài… Sự đổi mới đó là một trong những cơ sở lý luận - thực tiễn quan trọng
để Đảng Cộng sản tiếp tục giữ vững vai trò là hạt nhân lãnh đạo, tiếp tục lãnh đạo


8
quần chúng làm nên những thắng lợi lịch sử mới; Bài viết "Lãnh đạo công tác quần
chúng trong giải quyết các điểm nóng ở địa bàn cơ sở - một số kinh nghiệm của
Việt Nam". Trên cơ sở nhận diện những điểm nóng xảy ra ở Việt Nam trong thời
gian qua, tác giả đã nhận định: Với mục tiêu xây dựng vững chắc mối quan hệ giữa
Đảng, Nhà nước với nhân dân, tạo sức mạnh phát triển bền vững, giải quyết điểm
nóng không chỉ nhằm mục tiêu thiết lập sự ổn định và củng cố cơ sở chính trị - xã
hội, mà quan trọng hơn còn tăng cường sức mạnh và hiệu lực của HTCT. Điều đó,
đòi hỏi lãnh đạo phải hiểu sâu sắc nguyện vọng của quần chúng, thu phục được lòng
dân, tạo được niềm tin và sự đồng thuận, đồng tình ủng hộ của nhân dân đối với
Đảng, Nhà nước; huy động được sự tham gia một cách tự nguyện và phát huy cao
nhất ý thức trách nhiệm công dân, sức mạnh của quần chúng vào việc giải quyết dứt
điểm các điểm nóng [64, tr.214].
Sách Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận trong thời kỳ đổi mới ở
nước ta hiện nay [80] là tập hợp các bài nói, bài nghiên cứu tiêu biểu của các đồng
chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và các nhà khoa học liên quan đến vấn đề dân vận
trong tư tưởng Hồ Chí Minh và sự vận dụng vào thời kỳ đổi mới ở nước ta hiện nay.
Đây là tập tư liệu quý, gắn nghiên cứu lý luận với vận dụng vào thực tiễn, nhằm
nâng cao chất lượng, hiệu quả CTDV trong tình hình mới.
Sách Học tập và làm theo phong cách "Dân vận khéo" Hồ Chí Minh [85] đã
phân tích làm rõ những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận
khéo; nêu lên những tiêu chí về mô hình và điển hình dân vận khéo ở một số cơ sở;
đề xuất một số nội dung và phương pháp nhằm hiện thực hóa tư tưởng "Dân vận
khéo" của Người trong giai đoạn hiện nay, đó là: thực hành dân chủ, nêu gương; cải

cách thủ tục hành chính; thực hiện kỹ năng "nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân
tin"; đổi mới công tác cán bộ dân vận. Đáng chú ý là nhận định của tác giả: "Dân
vận là công tác khoa học, nhưng cũng là nghệ thuật, nhằm giải quyết mối quan hệ
giữa Đảng và dân. Muốn làm tốt CTDV, cán bộ phải có tâm trong sáng, có trách
nhiệm, có tri thức khoa học, tóm lại phải có tâm và có tài, như vậy mới là "Dân vận
khéo" theo tư tưởng Hồ Chí Minh" [85, tr.80].
Sách Lý luận và kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác dân


9
vận [81], tập hợp hơn 30 bài viết của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước; lãnh
đạo các bộ, ban, ngành; các nhà khoa học, đã phân tích làm nổi bật những vấn đề lý
luận và kinh nghiệm thực hiện CTDV trong thời kỳ đổi mới. Qua đó, cho thấy
CTDV của Đảng là một lĩnh vực rộng lớn, nhạy cảm, bao trùm mọi mặt của đời
sống xã hội. Đây là công việc rất quan trọng, phải làm thực chất, không phô trương,
hình thức; đồng thời, công tác này cần phải thường xuyên được đúc kết kinh
nghiệm từ thực tiễn để kịp thời hoạch định chủ trương, chính sách hợp lòng dân,
nhằm phát huy cao nhất sức mạnh của toàn dân tộc trong công cuộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Tiêu biểu có bài: "Mấy vấn đề về đổi mới nội dung, phương thức
vận động quần chúng của Đảng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước" [81, tr.174-183] cho rằng: Ở mỗi giai đoạn lịch sử, có những mục
tiêu, nhiệm vụ, nội dung, phương pháp và đối tượng của cách mạng khác nhau. Vì
vậy, CTDV cũng được thay đổi cho phù hợp với tình hình thực tiễn và nhiệm vụ
của từng giai đoạn. Trong những năm qua, Đảng đã có nhiều đổi mới về nội dung,
phương thức CTDV như: Mục tiêu của CTDV ngày càng rõ hơn; chủ trương, chính
sách, giải pháp CTDV ngày càng phong phú, hoàn chỉnh, đi sâu từng lĩnh vực, từng
đối tượng; các cấp ủy đảng đã tăng cường lãnh đạo CTDV, kiện toàn, củng cố Ban
Dân vận các cấp; phương thức CTDV có sự đổi mới theo hướng trực tiếp với cơ sở,
gần dân, sát dân hơn… Tuy nhiên, CTDV của HTCT còn một số khuyết điểm, đó
là: Cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ chưa được cụ thể

hóa đầy đủ và đồng bộ; tình trạng quan liêu, cửa quyền của một bộ phận cán bộ,
công chức nhà nước chưa được khắc phục; hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể
nhân dân không ít nơi vẫn còn tình trạng hành chính hóa. Từ đó, tác giả đề xuất 7
nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức CTDV.
Trong đó, giải pháp quan trọng hàng đầu là: Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên
truyền, giáo dục, không ngừng nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ, đảng viên,
công chức, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu, trách nhiệm của đội ngũ cán
bộ, công chức chính quyền về CTDV trong tình hình mới.
Sách Lịch sử công tác dân vận của Đảng Cộng sản Việt Nam (1930-2010)
[11]. Công trình đã phản ánh quá trình lịch sử phong phú, sinh động về CTDV của


10
Đảng qua các thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng XHCN; nêu bật
những chủ trương, chính sách, nhiệm vụ và quá trình lãnh đạo thực hiện, khẳng
định những thành tựu đạt được; đồng thời, chỉ rõ những sai lầm, hạn chế trong
CTDV; từ đó, đúc kết những bài học lịch sử cho CTDV của Đảng trong hiện tại và
tương lai.
Cùng với các công trình trên có rất nhiều nghiên cứu đăng tải trên các tạp chí
khoa học. Tiêu biểu là những bài viết: "Một số bài học kinh nghiệm về công tác vận
động quần chúng của Đảng trong những năm đổi mới" [83]. Từ thực tế lãnh đạo
CTVĐQC của Đảng hơn 25 năm đổi mới, tác giả rút ra 6 bài học chủ yếu: Đảng
luôn nhận thức đầy đủ, sâu sắc về vai trò quan trọng của CTVĐQC trong quá trình
lãnh đạo công cuộc đổi mới; lấy độc lập dân tộc và dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh làm mục tiêu của CTVĐQC; đoàn kết, thống nhất trong Đảng
là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc;
CTVĐQC phải được thực hiện trên cơ sở giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các
thành viên trong xã hội, giữa lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể và xã hội; CTVĐQC
phải được dựa trên cơ sở thấm nhuần phương châm "Vì quần chúng nhân dân, do
quần chúng nhân dân"; trong CTVĐQC phải biết phát huy những truyền thống quý

báu của dân tộc, nhất là truyền thống yêu nước.
Bài viết "Quan niệm về chất lượng và hiệu quả công tác dân vận" [39] đã
xác định năm tiêu chí và yêu cầu để đánh giá chất lượng, hiệu quả CTDV trong tình
hình mới, đó là: Sự tin tưởng của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, đồng thuận
với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, làm cho
dân hăng hái, phấn khởi, tự giác thực hiện nhiệm vụ và nghĩa vụ của mình trong xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đây là thước đo chất lượng giáo dục, tuyên truyền, phổ
biến và tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
trong các tầng lớp nhân dân; phải tăng cường được sự đoàn kết, nhất trí trong các
cộng đồng dân cư ở cơ sở; công tác dân vận phải tập hợp được quần chúng nhân
dân thành lực lượng xã hội rộng lớn và nuôi dưỡng các phong trào thi đua yêu
nước; công tác dân vận phải đảm bảo thực hành dân chủ rộng rãi; chất lượng CTDV
phải được đánh giá bởi chất lượng hoạt động của HTCT các cấp.


11
Luận án Công tác vận động đồng bào Công giáo của Đảng bộ một số tỉnh ở
miền Đông Nam Bộ từ năm 1986 đến năm 2006 [118]. Trên cơ sở phân tích làm rõ
những thành công và hạn chế trong công tác vận động đồng bào Công giáo của
Đảng bộ một số tỉnh miền Đông Nam Bộ, luận án đã rút ra 4 kinh nghiệm về tăng
cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng; về việc tổ chức phối hợp giữa cơ
quan dân vận của Đảng với chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể; về việc
chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào Công giáo và về công tác cán bộ.
Đặc biệt, tác giả nhấn mạnh: Tăng cường sự lãnh đạo, không ngừng đổi mới
phương thức chỉ đạo của cấp ủy là điều kiện quyết định để những quan điểm, chủ
trương đổi mới về chính sách tôn giáo của Đảng được hiện thực hóa có hiệu quả…
Thực chất của việc đổi mới phương thức lãnh đạo CTVĐQC của cấp ủy các tỉnh là
nhằm tăng cường công tác lãnh đạo của Đảng đối với chính quyền, Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể trong công tác vận động đồng bào Công giáo trên địa bàn.
Hình thức thể hiện vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động đồng bào

Công giáo là bằng nghị quyết, chỉ thị hay các văn bản chỉ đạo, bằng việc kiểm tra
kết quả thực hiện, phát hiện và điều chỉnh những thiếu sót trong quá trình thực hiện
[118, tr.175-178].
Luận án Công tác vận động đồng bào Khmer của các Đảng bộ xã, phường,
thị trấn ở Tây Nam Bộ trong giai đoạn hiện nay [115]. Đóng góp của tác giả luận án
là làm rõ đặc điểm của đồng bào Khmer, chỉ ra nội dung và phương thức vận động
đồng bào Khmer với tư cách là đối tượng có tính đặc thù trong CTDV của Đảng;
đồng thời, luận án đã rút ra một số kinh nghiệm và đề xuất những giải pháp mang
tính đặc thù để tăng cường công tác vận động đồng bào Khmer của các Đảng bộ xã,
phường, thị trấn ở Tây Nam Bộ.
Bên cạnh các công trình nghiên cứu trong nước là những nghiên cứu ở nước
ngoài. Tiêu biểu có các công trình:
Sách Đổi mới công tác xây dựng Đảng ở nông thôn [58] đã khẳng định công
tác quần chúng nông thôn có làm tốt hay không có liên quan, ảnh hưởng đến đại cục
cải cách, phát triển và ổn định của Trung Quốc. Làm tốt công tác quần chúng trong
thời kỳ mới là nhiệm vụ quan trọng của đội ngũ cán bộ nông thôn. Người cán bộ


12
nông thôn phải tích cực nghiên cứu những chuyển biến mới trong đời sống kinh tế xã hội và những đặc điểm mới trong công tác quần chúng nông dân ở Trung Quốc;
thường xuyên đổi mới phương thức làm việc, vận dụng các biện pháp như thuyết
phục, giáo dục, làm thí điểm và cung cấp dịch vụ thì mới có thể giải quyết tốt những
vấn đề và mâu thuẫn nội bộ trước mắt của người dân nông thôn và đoàn kết, dìu dắt
quần chúng nông dân không ngừng phấn đấu, tiến lên để thực hiện mục tiêu xây
dựng xã hội khá giả toàn diện... Cán bộ nông thôn phải bắt được mạch tư tưởng của
quần chúng nông dân, phải hiểu được những khó khăn và tình hình thực tế của họ,
phải tạo ra những cách làm phong phú, có tính khả thi, hợp ý dân mới có thể đạt
hiệu quả cao trong công tác quần chúng [58, tr.485-488].
Bài viết "Thúc đẩy xây dựng chính trị dân chủ cơ sở nông thôn, thực hiện
quản lý của chính quyền cơ sở và tự trị của quần chúng thúc đẩy lẫn nhau một cách

tích cực" [79] cho rằng: Xây dựng chính trị dân chủ cơ sở nông thôn Trung Quốc là
một hành động sáng tạo vĩ đại của đông đảo nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Trung Quốc. Thực hiện kết hợp hữu cơ giữa xây dựng chính quyền xã, thị
trấn với phát triển tự trị dân làng trở thành bộ phận cấu thành quan trọng của xây
dựng chính trị dân chủ XHCN của Trung Quốc, phát huy vai trò quan trọng trong
việc củng cố nền tảng cầm quyền của Đảng Cộng sản Trung Quốc, thúc đẩy kinh tế,
xã hội nông thôn phát triển, tăng cường quản lý xã hội ở cơ sở và thúc đẩy hài hòa
ổn định. Nội dung hạt nhân của tự trị quần chúng cơ sở nông thôn là bầu cử dân
chủ, quyết sách dân chủ, quản lý dân chủ và giám sát dân chủ. Đây là nội dung mà
luận án có thể kế thừa trong trình bày vấn đề xây dựng HTCT cơ sở, xây dựng buôn
làng tự quản ở Tây Nguyên.
Bài viết: "Kiên trì quan điểm nhân dân là tối thượng, thiết thực làm tốt công
tác quần chúng trong tình hình mới" [64] đã nêu rõ những vấn đề trọng tâm trong
công tác quần chúng của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã và đang tập trung hướng
vào: Xây dựng quan điểm quần chúng đúng đắn, thắt chặt sợi dây tình cảm gắn kết
với quần chúng, tạo nền tảng tư tưởng vững chắc để làm tốt công tác quần chúng;
luôn giữ vững lập trường quần chúng, đề cao tôn chỉ phục vụ nhân dân, tập trung
giải quyết những vấn đề liên quan đến lợi ích thiết thân của quần chúng nhân dân;


13
cải tiến và đổi mới phương thức và phương pháp, sử dụng các hình thức và biện
pháp mà quần chúng yêu thích, nỗ lực tăng cường tính hướng đích và tính hiệu quả
của công tác quần chúng; xây dựng và kiện toàn chế độ công tác, nâng cao sức ràng
buộc và thực thi của chế độ, tăng cường mức độ quy phạm hóa và chế độ hóa của
công tác quần chúng [64, tr.19-35]. Việt Nam có nhiều điểm tương đồng với Trung
Quốc, nên những kinh nghiệm quý báu trong CTDV của Trung Quốc có giá trị tham
khảo đối với luận án.
Bài viết "Đảng Cộng sản các nước trên thế giới tận dụng như thế nào sự tham
dự dân chủ để thắt chặt quan hệ giữa Đảng và quần chúng" [68, tr.23-31] cho rằng,

phát huy dân chủ không chỉ là sự tôn trọng đối với người dân, mà còn tạo sức mạnh
của một chính đảng. Các Đảng Cộng sản cầm quyền hay không cầm quyền ở các
nước đều coi trọng mối liên hệ mật thiết với quần chúng và nhấn mạnh mục đích vì
nhân dân phục vụ trong điều lệ, cương lĩnh của đảng. Một số Đảng Cộng sản do mất
dân chủ, không gắn với dân nên suy yếu, thậm chí sụp đổ. Tác giả đã dẫn ra kinh
nghiệm ở các nước như: Đảng Nhân dân Cách mạng Lào lấy công tác cơ sở làm
trọng điểm, lấy dân chúng làm đối tượng phục vụ, thực hiện kế hoạch giúp người
dân nông thôn thoát nghèo, tiến tới giàu có làm mục tiêu; triển khai xây dựng cơ sở
chính trị, xây dựng "Chi bộ đảng cơ sở kiên trì và giỏi lãnh đạo toàn diện"; yêu cầu
bí thư, phó bí thư, đảng ủy viên các cấp mỗi năm phải dành thời gian 1/3 đến nửa
năm xuống cơ sở để tuyên truyền đường lối, chính sách của đảng, lắng nghe ý kiến
của quần chúng, kịp thời nắm bắt và giải quyết các vấn đề mà quần chúng phản ánh.
Đảng Cộng sản Trung Quốc đã dựa vào những thay đổi trong đời sống kinh tế - xã
hội và đặc điểm mới của công tác quần chúng để xác định trọng tâm công tác quần
chúng là giải quyết những điểm nóng và những vấn đề nổi cộm mà quần chúng
quan tâm. Cánh tả liên hợp Tây Ban Nha do Đảng Cộng sản là chủ thể đã triển khai
hoạt động đào tạo cán bộ, đảng viên cơ sở, làm cho mỗi đảng viên đều thấm nhuần
phương châm, chính sách của đảng, nắm vững kỹ năng trao đổi với cử tri để có thể
trả lời một cách kịp thời, chính xác phương châm, chính sách của đảng mình; đồng
thời, phản ánh nhu cầu lợi ích của dân chúng với đảng. Những vấn đề mà bài viết đề
cập có thể dùng trong so sánh, đối chiếu với CTDV của Đảng Cộng sản Việt Nam,
gợi mở cho việc đúc kết những kinh nghiệm trong CTDV của Đảng ở Tây Nguyên.


14
Bài viết "Vận động quần chúng: bối cảnh dẫn đến sự trỗi dậy của phong trào
xã hội cách mạng, động lực, bản chất và tầm quan trọng" [125, tr.99-103] cho thấy:
Chiến lược vận động thường xuyên mang tính dân chủ, được chính phủ Venezuela
vạch ra trên cơ sở nhận thức, cam kết và quyết định của người dân không chỉ trong
các hoạt động bầu cử mà trong cả hành động tổ chức chính trị, để xác định các vấn

đề cơ bản nhất và tìm ra các giải pháp mang tính tập thể về sự tham gia, tổ chức và
gắn kết các nhu cầu xã hội nhằm hỗ trợ Nhà nước đưa ra các giải pháp một cách
hiệu quả. Nhiệm vụ trọng tâm của Đảng là xây dựng mối liên hệ chặt chẽ và quy củ
giữa Đảng và quần chúng. Đây chính là điều kiện, động cơ để nhân dân hướng tới
tập trung và xây dựng ý thức tập thể, nhằm củng cố sức mạnh chính trị và hiện thực
hóa những nhu cầu thiết yếu nhất của mình.
Nhóm 2: Những công trình nghiên c u chung về Tây Nguyên
Địa bàn Tây Nguyên từ trước đến nay luôn là khu vực thu hút sự quan tâm,
nghiên cứu của các nhà khoa học. Đặc biệt, từ sau sự kiện bạo loạn, biểu tình năm
2001, có rất nhiều công trình nghiên cứu về đặc điểm kinh tế - xã hội, những giá trị
truyền thống văn hóa, sự biến đổi về chính trị, xã hội… Tiêu biểu là các công trình,
bài viết:
Sách Tây Nguyên trên đường phát triển bền vững [17], đã đề cập toàn diện
các mặt kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, các tiềm năng, thế mạnh của
5 tỉnh Tây Nguyên trong quá trình phát triển và hội nhập.
Sách Tổ chức và hoạt động buôn làng trong phát triển bền vững vùng Tây
Nguyên [53], tập trung làm rõ thực trạng tổ chức và hoạt động của buôn làng Tây
Nguyên trong lịch sử, đặc biệt là từ năm 1975 đến hiện nay, trên các chiều cạnh
không gian sinh tồn tự nhiên, kinh tế, xã hội, văn hóa; bước đầu đề xuất một số giải
pháp góp phần xây dựng buôn làng mới trong phát triển bền vững vùng Tây
Nguyên, đó là: Nâng cao vai trò, vị thế của buôn làng, coi buôn làng Tây Nguyên
như một pháo đài để ổn định và phát triển; tôn trọng và kế thừa những truyền thống
tốt đẹp của buôn làng, trong đó, có phương án phù hợp nhằm kết hợp hài hòa luật
pháp với luật tục và tòa án phong tục ở các buôn làng, cần thực sự tôn trọng, tôn
vinh, tranh thủ và phát huy vai trò của già làng vào xây dựng buôn làng, xây dựng


15
và củng cố HTCT cơ sở buôn làng phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội
để nắm dân, ổn định an ninh chính trị, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ thôn buôn

có đủ trình độ lý luận và quản lý nhà nước… [53, tr.220-221].
Cuốn sách Một số vấn đề cơ bản của xã hội Tây Nguyên trong phát triển bền
vững [55]. Trên cơ sở khái quát xã hội Tây Nguyên truyền thống, công trình này đã
trình bày thực trạng xã hội Tây Nguyên đương đại trên ba chiều cạnh: cơ cấu xã hội,
tổ chức xã hội, giá trị xã hội; từ đó, phân tích và làm sáng tỏ một số vấn đề cơ bản
của xã hội Tây Nguyên hiện nay như áp lực tăng dân số, chất lượng nguồn nhân lực
thấp, đói nghèo và phân hóa đời sống cao, quan hệ dân tộc, tôn giáo và an ninh
chính trị phức tạp, tổ chức xã hội thôn làng đa dạng và chồng chéo, mâu thuẫn quản
lý và sử dụng đất đai, HTCT cơ sở và buôn làng yếu kém, tư duy sản xuất tiểu nông
đậm nét và sự mai một, suy thoái văn hóa truyền thống ở các dân tộc thiểu số
(DTTS) tại chỗ; đồng thời, đề xuất những quan điểm, kiến nghị, giải pháp làm cơ sở
khoa học cho xây dựng chính sách phát triển bền vững xã hội Tây Nguyên những
thập niên tới. Đáng chú ý là những kiến nghị được nêu ra, liên quan trực tiếp đến
CTDV, đó là: Triển khai ở Tây Nguyên một chương trình tuyên truyền, vận động
chính trị mà nội dung là giúp các dân tộc hiểu rõ chủ trương, đường lối và chính
sách dân tộc của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước… Trong những thập
niên qua, chúng ta đã làm được rất nhiều để phát triển kinh tế - xã hội các dân tộc
Tây Nguyên, nhưng tuyên truyền để người dân hiểu được điều này thì chúng ta còn
làm được ít. Trong bối cảnh của Tây Nguyên hiện nay, nếu không thực hiện tốt
công tác tuyên truyền thì tiền của và công sức bỏ ra có lớn đến đâu, an ninh chính
trị vẫn khó ổn định và lòng dân có thể yên nhưng chưa hẳn đã ổn [55, tr.226-227].
Sách Một số điểm nóng chính trị - xã hội điển hình tại các vùng dân tộc ở
miền núi trong những năm gần đây: hiện trạng, vấn đề, các bài học kinh nghiệm
trong xử lý tình huống [86]. Trong nghiên cứu này, tác giả có đề cập, phân tích diễn
biến và những nguyên nhân phát sinh điểm nóng ở các tỉnh Tây Nguyên năm 2001
và năm 2004, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm: Một là, để ổn định và phát
triển bền vững Tây Nguyên cần có giải pháp tổng thể mang ý nghĩa chiến lược: kinh
tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng theo tinh thần Nghị quyết 10 của



16
Bộ Chính trị đã đề cập; Hai là, hết sức cảnh giác với âm mưu "diễn biến hòa bình",
gây bạo loạn, lật đổ của các thế lực thù địch và sử dụng mọi biện pháp làm thất bại
âm mưu ấy. Để ổn định chính trị - xã hội thì phải áp dụng các giải pháp cơ bản là an
dân, "chiến lược lòng dân", quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân, sao cho mỗi
người dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc bản địa như là người lính bảo vệ biên cương
của Tổ quốc; Ba là, tạo điều kiện và phương thức sinh sống mới cho đồng bào dân
tộc bản địa, xây dựng sự đồng thuận, đoàn kết, cộng sinh giữa các tộc người là nhân
tố đảm bảo cho sự ổn định và phát triển bền vững; Bốn là, xây dựng HTCT cơ sở
vững mạnh, đặc biệt là ở các buôn làng, là nhân tố trực tiếp quyết định giữ vững ổn
định chính trị - xã hội; Năm là, phát triển giáo dục, đào tạo cán bộ người dân tộc
bản địa để đảm đương công việc của chính họ là nhiệm vụ cấp thiết và lâu dài.
Sách Nhận thức, thái độ, hành vi của cộng đồng các dân tộc thiểu số đối với
chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn hiện nay - thực trạng và
giải pháp [88], đã đưa ra các số liệu điều tra xã hội học đối với 4 vùng có đông
đồng bào DTTS ở miền Bắc, miền Trung, Tây Nguyên, miền Nam. Trong đó, tỷ lệ
đồng bào DTTS Tây Nguyên có nhận thức, thái độ và hành vi đối với chính sách
dân tộc là thấp nhất so với 3 vùng còn lại. Các tác giả đưa ra một số kiến nghị như:
Nâng cao tính tích cực trong nhận thức, thái độ, hành vi của đồng bào DTTS; phát
huy vai trò của cộng đồng, người có uy tín; phối hợp trách nhiệm của cấp ủy, chính
quyền, đoàn thể... Đó là những gợi mở cần thiết cho việc nâng cao chất lượng, hiệu
quả CTDV ở vùng đồng bào DTTS ở Tây Nguyên.
Sách Kết hợp phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng ở Tây Nguyên giai
đoạn 1996 - 2010 [59], đã nghiên cứu, làm sáng tỏ hệ thống quan điểm, chủ trương
của Đảng, chính sách của Nhà nước về kết hợp phát triển kinh tế với bảo đảm quốc
phòng trên địa bàn Tây Nguyên qua hai giai đoạn 1996-2000 và 2001-2010; nêu lên
những thành tựu và hạn chế, rút ra một số kinh nghiệm chủ yếu về giữ vững và tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, giữ
vững sự ổn định chính trị - xã hội và củng cố khối đại đoàn kết các dân tộc, xây
dựng thế trận lòng dân, đấu tranh chống những hoạt động chống phá của các thế lực

thù địch, phản động. Tuy nhiên, tác giả chưa đề cập sâu về vai trò của CTDV trong


17
kết hợp phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng và vấn đề củng cố, tăng cường
CTDV trên địa bàn Tây Nguyên.
Sách Hướng tới phát triển bền vững Tây Nguyên [69], đã giới thiệu các
thông tin tổng quan về đặc điểm tự nhiên, lịch sử và xã hội vùng Tây Nguyên; đánh
giá những thành quả, hạn chế của quá trình phát triển kinh tế - xã hội trong hơn 30
năm qua, cũng như phân tích tính đặc thù và các cơ hội phát triển của vùng trong
thời gian tới; trên cơ sở đó, nhóm tác giả nêu ra những quan điểm, định hướng và đề
xuất một số giải pháp cơ bản nhằm góp phần phát triển bền vững vùng Tây Nguyên.
Đặc biệt, trong nhóm giải pháp về các vấn đề xã hội và an ninh quốc phòng, các tác
giả đã nhận định: Trong các vấn đề xã hội nổi cộm của Tây Nguyên, đáng chú ý là
sự tụt hậu của nhóm dân tộc tại chỗ so với mặt bằng chung của vùng do thiếu các
điều kiện phát triển thiết yếu, tình trạng nghèo và phân hóa giàu nghèo giữa các
nhóm dân tộc ngày càng gia tăng, kéo theo nguy cơ xung đột, bất ổn xã hội. Một khi
những vấn đề này chưa được giải quyết hoặc cải thiện thì khả năng tạo lập sự ổn
định, đồng thuận, bình đẳng xã hội ở Tây Nguyên sẽ vẫn là một viễn cảnh xa vời.
Do đó, bản chất của nhóm giải pháp cho các vấn đề xã hội của Tây Nguyên là thực
hiện tái phân phối các nguồn lực phát triển một cách hợp lý, công bằng hơn giữa các
nhóm dân tộc, trong đó, vấn đề trọng tâm là hỗ trợ các điều kiện thiết yếu nhằm
đảm bảo sự phát triển ổn định của nhóm dân tộc tại chỗ [69, tr.486].
Sách Tạo nguồn cán bộ, công chức xã người dân tộc thiểu số ở các tỉnh Tây
Nguyên [129]. Trên cơ sở phân tích những ưu điểm, hạn chế của đội ngũ cán bộ
DTTS ở Tây Nguyên, tác giả cho rằng, để xây dựng HTCT, ổn định quốc phòng, an
ninh, thúc đẩy kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên phát triển thì việc xây dựng nguồn
cán bộ, công chức xã người DTTS là nhiệm vụ quan trọng trong công tác cán bộ cơ
sở của các cấp ủy đảng địa phương, nhằm tạo dựng một đội ngũ những người trong
các DTTS ở Tây Nguyên có đủ tiêu chuẩn để bầu cử, tuyển dụng, bổ nhiệm làm cán

bộ, công chức xã. Đó chính là nhân tố quan trọng để lãnh đạo, quản lý, vận động
quần chúng thực hiện các nhiệm vụ chính trị ở địa phương, cơ sở.
Bài viết "Tây Nguyên vững bước đi lên" [46, tr.11-15] đã khẳng định, sau 10
năm thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW của Bộ Chính trị, Tây Nguyên đã đạt được


18
những thành tựu to lớn, toàn diện và có ý nghĩa rất quan trọng, trong đó, thành tựu
lớn nhất là đã nỗ lực xây dựng được khối đại đoàn kết các dân tộc và giữ vững sự
ổn định về chính trị - xã hội. Tác giả cho rằng, để Tây Nguyên phát triển nhanh và
bền vững cần quán triệt sâu sắc và thực hiện đồng bộ, có hiệu quả Nghị quyết số 10NQ/TW của Bộ Chính trị, đặc biệt là tăng cường vững chắc khối đại đoàn kết các
dân tộc và giữ vững ổn định chính trị - xã hội là tiền đề quan trọng, có ý nghĩa quyết
định cho phát triển bền vững ở Tây Nguyên.
Bài viết "Phát triển Tây Nguyên toàn diện, bền vững, xứng đáng với vị trí
chiến lược đặc biệt quan trọng về kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và môi
trường sinh thái của đất nước" [84, tr.12-18]. Từ thực tiễn triển khai thực hiện các
chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với Tây Nguyên, tác giả bài viết đã
rút ra một số kinh nghiệm sau: Một là, sự ổn định và phát triển của Tây Nguyên
phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quan tâm đầu tư tương xứng của Nhà nước.
Hai là, phát triển Tây Nguyên toàn diện, bền vững phải trên nền tảng bảo đảm quốc
phòng, an ninh; giữ vững ổn định chính trị, xã hội; bảo vệ vững chắc chủ quyền, an
ninh biên giới. Ba là, sự ổn định và phát triển vùng DTTS là nhân tố quan trọng bảo
đảm sự ổn định và phát triển của Tây Nguyên. Bốn là, việc thực hiện tốt chính sách
tôn giáo có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự ổn định và phát triển của Tây
Nguyên; Năm là, coi trọng công tác xây dựng Đảng, xây dựng HTCT cơ sở; đào
tạo, bồi dưỡng, sử dụng đội ngũ cán bộ người DTTS.
Kỷ yếu Hội thảo Biến đổi tôn giáo ở Tây Nguyên: thực trạng, chính sách và
giải pháp [126], đã tập hợp 19 bài viết đề cập đến rất nhiều khía cạnh cụ thể của vấn
đề tôn giáo ở Tây Nguyên. Các tác giả đã có những phân tích, lý giải mới về vai trò
của tôn giáo đối với phát triển bền vững Tây Nguyên, trong đó, đáng chú ý là nhận

định: "Vấn đề tôn giáo ở Tây Nguyên gắn bó rất chặt chẽ với vấn đề phát triển bền
vững ở Tây Nguyên. Nếu tôn giáo ở Tây Nguyên diễn biến phức tạp, sẽ khó có được
sự phát triển bền vững ở Tây Nguyên. Do vậy, mọi chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội, phát triển bền vững Tây Nguyên phải tính đến yếu tố tôn giáo" [126, tr.183].
Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài "Quan hệ tộc người và chiến
lược xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trong phát triển bền vững Tây Nguyên"


19
[60], đã luận giải, làm rõ cơ sở lý luận về quan hệ tộc người và khối đại đoàn kết
dân tộc từ nhiều chiều cạnh và theo quan điểm phát triển bền vững; phân tích thực
trạng các trục quan hệ tộc người và khối đại đoàn kết dân tộc, các chính sách dân
tộc và tác động của chúng đến quan hệ tộc người và khối đại đoàn kết dân tộc ở Tây
Nguyên; rút ra 10 bài học kinh nghiệm trong việc thúc đẩy sự cố kết, hòa hợp dân
tộc, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ở Tây Nguyên thời kỳ CNH, HĐH đất nước
và hội nhập.
Luận án Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện chính sách xã hội ở
Tây Nguyên từ năm 1996 đến năm 2006 [62], đã hệ thống, phân tích quá trình lãnh
đạo thực hiện chính sách xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam ở Tây Nguyên từ
năm 1996 đến năm 2006, từ đó rút ra một số kinh nghiệm chủ yếu để vận dụng thực
hiện chính sách xã hội ở khu vực này trong thời gian tới đạt hiệu quả cao hơn.
Nhóm 3: Những công trình nghiên c u về công tác dân vận ở Tây Nguyên
Liên quan đến CTDV ở Tây Nguyên thời kỳ đổi mới, đã có một số công
trình đề cập dưới góc độ thực trạng và giải pháp tăng cường, đổi mới CTDV trên
phạm vi toàn vùng cũng như từng tỉnh ở Tây Nguyên. Tiêu biểu là các công trình,
bài viết:
Sách Nâng cao năng lực hoạt động và khả năng tập hợp quần chúng của
Mặt trận và các đoàn thể ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh Gia Lai trong tình
hình mới [28], đã nêu rõ thực trạng về tổ chức và hoạt động của Mặt trận và các
đoàn thể ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh Gia Lai; đề xuất những nội dung,

giải pháp trong tình hình mới, đó là: Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc ở
xã, phường, thị trấn trong tình hình mới; đổi mới nội dung, phương pháp tuyên
truyền, giáo dục và tổ chức các phong trào hành động cách mạng của Mặt trận và
các đoàn thể nhân dân ở xã, phường, thị trấn; quan tâm xây dựng, củng cố tổ chức
và tập hợp quần chúng vào tổ chức Mặt trận và các đoàn thể nhân dân ở xã, phường,
thị trấn; đổi mới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng và sự phối hợp của chính quyền
đối với Mặt trận và các đoàn thể cơ sở. Tuy nhiên, đây mới là những nghiên cứu
bước đầu trên địa bàn một tỉnh ở Tây Nguyên nên chưa bao quát hết trên phạm vi
toàn vùng.


20
Sách Xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc ở Tây Nguyên [45], đã
đề cập đến vấn đề dân tộc, đặc điểm kinh tế - xã hội của các DTTS ở Tây Nguyên;
phân tích làm rõ truyền thống đoàn kết các dân tộc Tây Nguyên qua các thời kỳ lịch
sử, quá trình xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết các dân tộc ở Tây Nguyên
trong cách mạng dân tộc dân chủ và xây dựng CNXH, đặc biệt là thời kỳ đổi mới;
đánh giá những kết quả đã đạt được và những hạn chế, yếu kém trong quá trình
thực hiện chính sách của Đảng về đoàn kết các dân tộc Tây Nguyên, từ đó đề xuất
các nhóm giải pháp khá toàn diện, đồng bộ nhằm xây dựng và củng cố khối đại
đoàn kết dân tộc ở Tây Nguyên trong giai đoạn hiện nay. Trong đó, đáng chú ý là
nhóm giải pháp tăng cường CTDV: Cần nhận thức đúng đắn vai trò của CTDV
trong quá trình xây dựng khối đoàn kết dân tộc ở Tây Nguyên; công tác vận động
quần chúng phải thật sự hướng về cơ sở, nội dung, phương pháp vận động phải cụ
thể, thiết thực, phù hợp với trình độ nhận thức và tâm lý của đồng bào; công tác
phát động quần chúng là một trong những biện pháp quan trọng hàng đầu, là
nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên của HTCT các cấp; phát huy vai trò già làng
trong quá trình củng cố và tăng cường khối đoàn kết các DTTS; xây dựng đội ngũ
cán bộ làm CTVĐQC có tâm huyết, biết nghe dân nói, nói dân nghe, làm dân tin
[45, tr.424-432].

Sách Người cao tuổi dân tộc và già làng trong phát triển bền vững Tây
Nguyên [65], đã làm rõ thực trạng đời sống của người cao tuổi dân tộc và già làng
Tây Nguyên; đồng thời, nêu bật vai trò và những đóng góp to lớn của họ trong phát
triển bền vững Tây Nguyên. Điểm nổi bật của sách này là khẳng định người cao
tuổi dân tộc và già làng là những lực lượng nòng cốt trong CTVĐQC ở địa phương,
là cầu nối giữa nhân dân với Đảng và chính quyền. Đảng và Nhà nước cần có chính
sách, chế độ cho họ, để phát huy hơn nữa khả năng của họ vào sự nghiệp phát triển
bền vững Tây Nguyên.
Sách Giải pháp tăng cường đoàn kết, tập hợp thanh niên các dân tộc ở Tây
Nguyên hiện nay [56], đã tập trung phân tích tình hình thanh niên và thực trạng
công tác đoàn kết, tập hợp thanh niên các dân tộc ở Tây Nguyên trong thời gian
qua; nêu lên những ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân và đề ra những giải pháp góp


×