Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Tiểu luận triết học đặc điểm của TRIẾT học TRUNG QUỐC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.99 KB, 23 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU
Có thể nói rằng,trí tuệ của nhân loại được thể hiện một cách cô đọng ở
tri thức triết học và lịch sử triết học. Ngay từ khi mới hình thành, triết học đã
chứa đựng trong mình tất các tri thức mà con người có được lúc ấy: toán học, y
học, đạo đức học,… Với tính cách là một khoa học, lịch sử triết học nghiên cứu
tư tưởng, nội dung của các hệ thống triết học để vạch ra quy luật nội tại của sự
phát triển triết học trong lịch sử, tìm ra sự tương đồng và tính khác biệt giữa
các hệ thống triết học trong dòng chảy văn hóa chung của nhân loại.
Ph.Ăngghen đã từng khẳng định:” Một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao
của khoa học thì không thể không có tư duy lý luận”, mà muốn có tư duy lý
luận thì không có con đường nào khác hơn là phải nghiên cứu toàn bộ triết học
thời trước.Nghiên cứu, rèn luyện tư duy lý luận và vận dụng chúng để nhận
thức và cải tạo xã hội, góp phần thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”
là nhiệm vụ của tất cả các ngành khoa học, mà trước hết là triết học.
Để hiểu rõ hơn về lịch sử triết học, trước tiên chúng ta sẽ tìm hiểu rõ
hơn về “ Đặc điểm của triết học Trung Quốc thời cổ trung đại “
Trung quốc là một trong những cái nôi của lịch sử nhân loại, có một
nền văn hóa lâu đời, bền vững trong đó triết học Trung quốc được coi là ngọn
nguồn cho sự sáng tạo của nền văn minh toàn cõi Châu Á. Ảnh hưởng của
triết học Trung quốc với nhân loại là điều không thể phủ nhận, bởi vì ngay từ
thời cổ đại ở mảnh đất này đã sinh ra những nhà triết học kiệt xuất mà tư
tưởng của họ soi sáng mãi đến muôn đời sau đó…

1


B.PHẦN NỘI DUNG
Để tìm hiểu rõ hơn về những đặc điểm của triết học Trung quốc thời
cổ, trung đại trước hết là phải tìm hiểu hoàn cảnh lịch sử ra đời.
I.Hoàn cảnh ra đời của triết học Trung quốc cổ đại.


Trung quốc cổ đại là một quốc gia rộng lớn, có lịch sử lâu đời từ cuối
thiên niên kỷ III TCN kéo dài tới tận thế kỷ III TCN với sự kiện Tần Thủy
Hoàng thống nhất Trung Hoa mở đầu cho thời kỳ phong kiến. Trong hơn
2000 năm lịch sử ấy, lịch sử Trung Hoa được phân chia làm 2 thời kỳ lớn:
Thời kỳ từ thế kỷ IX TCN trở về trước và thời kỳ từ thế kỷ VIII TCN đến
cuối thế kỷ III TCN.
Ở thời kỳ thứ nhất: Có các triều đại nhà Hạ, nhà Thương và nhà Tây
Chu. Trong thời kỳ này, thế giới quan thần thoại, tôn giáo và chủ nghĩa duy
tâm thần bí thống trị trong đời sống tinh thần. Những tư tưởng triết học đã
xuất hiện, nhưng chưa đạt tới mức là một hệ thống. Nó đã gắn chặt thần
quyền với thế quyền, lý giải sự liên hệ mật thiết giữa đời sống chính trị - xã
hội với lĩnh vực đạo đức luân lý. Lúc này cũng đã xuất hiện những quan niệm
có tính chất duy vật mộc mạc, những tư tưởng vô thần tiến bộ.
Về khoa học, họ đã phát minh ra chữ viết và dựa vào sự quan sát vận
hành của mặt trăng, các vì sao, tính chất chu kỳ của nước sông và quy luật
sinh trưởng của cây trồng mà họ đã biết làm ra lịch (Âm lịch)
Ở Thời kỳ thứ hai: là thời kỳ Đông Chu (còn gọi là thời kỳ Xuân Thu Chiến quốc), thời kỳ chuyển biến từ chế độ chiếm hữu nô lệ sang chế độ
phong kiến. Sự phát triển của sức sản xuất đã tác động mạnh mẽ đến hình
thức sở hữu ruộng đất và kết cấu giai tầng của xã hội. Nếu dưới thời Tây Chu,
đất đai thuộc sở hữu của nhà vua thì nay thuộc về tầng lớp địa chủ mới lên và
chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất hình thành.Từ đó, sự phân hóa sang hèn
dựa trên cơ sở tài sản xuất hiện. Xã hội lâm vào cảnh loạn lạc, rối ren và chiến
tranh xảy ra liên miên. Đây chính là điều kiện lịch sử đòi hỏi giải thể chế độ
2


nô lệ thị tộc nhà Chu, hình thành chế độ phong kiến; đòi hỏi giải thể nhà nước
của chế độ gia trưởng, xây dựng nhà nước phong kiến nhằm giải phóng lực
lượng sản xuất, mở đường cho xã hội phát triển.
Sự phát triển sôi động của xã hội đã đặt ra và làm xuất hiện những tụ

điểm, những trung tâm của những "kẻ sĩ" luôn tranh luận về trật tự xã hội cũ
và đề ra những mẫu hình của một xã hội trong tương lai. Lịch sử gọi đây là
thời kỳ "Bách gia chư tử" (trăm nhà trăm thầy), "Bách gia tranh minh" (trăm
nhà đua tiếng). Chính trong quá trình ấy đã sản sinh ra những nhà tư tưởng
lớn và hình thành nên các trường phái triết học khá hoàn chỉnh. Đặc điểm của
các trường phái này là lấy con người và xã hội làm trung tâm của sự nghiên
cứu, có xu hướng chung là giải quyết những vấn đề thực tiễn chính trị - đạo
đức của xã hội. Theo Lưu Hâm (đời Tây Hán), Trung Hoa thời kỳ này có chín
trường phái triết học chính (gọi là Cửu lưu hay Cửu gia) là: Nho gia, Mặc gia,
Đạo gia, Âm dương gia, Danh gia, Pháp gia, Nông gia, Tung hoành gia, Tạp
gia. Trừ Phật giáo được du nhập từ ấn Độ sau này, các trường phái triết học
được hình thành vào thời kỳ này được bổ sung và hoàn thiện qua nhiều giai
đoạn lịch sử và tồn tại cho tới thời kỳ cận đại.
Muốn tìm hiểu những đặc điểm của triết học Trung Hoa cổ, trung đại
cần phải tìm hiểu những tư tưởng, những học thuyết tiêu biểu của thời kỳ này,
từ đó mới có thể rút ra những đặc điểm tiêu biểu của nó.
II. Một số trường phái trong triết học tiêu biểu của Trung quốc
thời cổ trung đại.
1. Âm – Dương gia
Âm-Dương gia (quan niệm Âm-Dương) có từ thời Thương (1766-1122
tr.c. n), xuất phát từ Kinh Dịch cổ là sự tổng hợp nhiều tư tưởng triết học nền
tảng ở Trung Quốc cổ đại. Theo thuyết Âm - Dương, khởi nguyên của mọi sự
hình thành, biến hoá vạn vật trong vũ trụ là hai thế lực Âm (- -) và Dương (–).
Âm và Dương vừa đối lập, vừa thống nhất với nhau. Biểu hiện của Âm,
Dương là những mặt đối lập trong vũ trụ, trời đất, vạn vật và trong đời sống
3


con người, xã hội như trời (dương) - đất (âm), cha (dương) – mẹ (âm), quân
tử (dương) – tiểu nhân (âm), các hiện tượng cao – thấp, sáng – tối, cứng –

mềm, thẳng – cong, khô - ướt, nóng – lạnh, thịnh – suy v.v đều là sự thể hiện
của hai mặt dương và âm. Hai mặt đối lập Âm - Dương không có sự ngăn
cách tuyệt đối. Trong Âm có Dương, trong Dương có Âm. Chính sự tác động
qua lại và kết hợp với nhau của hai mặt Âm - Dương quyết định sự hình thành
và biến đổi của vạn vật. Sự tác động qua lại của hai thế lực Âm và Dương,
trong quá trình sinh hoá của vạn vật, được diễn ra theo những tính quy luật.
Từ một sự vật (được gọi là Thái cực) sinh ra Âm, Dương (gọi là Lưỡng
nghi), rồi từ Lưỡng nghi sinh ra Thái Âm, Thái Dương, Thiếu Âm, Thiếu
dương (gọi là Tứ tượng, tượng trưng cho Mặt Trời, Mặt Trăng, hành tinh), Tứ
tượng sinh ra Bát quái [Càn (Trời, giống đực), Ly (Lửa, sáng), Cấn (Núi, tĩnh,
an), Tốn (Gió, vào) {thuộc Dương} và Khôn (Đất, giống cái), Khảm (Nước,
hiểm trở), Đoài (Đầm, vui vẻ), Chấn (Sấm, động){thuộc Âm}], Bát quái sinh
ra Trùng quái (64 quẻ), Mỗi quẻ lại có 6 hào). Như vậy, 64 quẻ x 6 hào = 384
hào, tạm đủ để giải thích nhiều sự vật, hiện tượng trong Trời, Đất.
Thứ nhất, Âm và Dương vừa đối lập vừa gắn kết không rời nhau, là cơ
sở sinh thành mọi vật, gọi là Âm – Dương giao dịch.
Thứ hai, Âm – Dương luôn luôn vận động theo hai khuynh hướng trái
ngược nhau. Cái này lớn dần (trưởng) thì cái kia nhỏ dần (tiêu), gọi là Âm –
Dương tiêu trưởng, Âm thịnh Dương suy, Dương thịnh Âm suy.
Thứ ba, Âm – Dương tuy vận động trái ngược nhau nhưng không phải
là huỷ thể của nhau, cái này là điều kiện của sự tồn tại, sinh thành của cái kia.
Nếu Dương phát triển đến vô cùng hoặc Âm phát triển đến vô cùng thì xoay
ngược lại, gọi là Âm – Dương phản phục. Trong Âm có Dương, trong Dương
có Âm. Âm – Dương luôn gắn bó với nhau, không tách rời nhau.
Thứ tư, nếu Âm – Dương cân bằng thì sự vật còn tồn tại là nó, nếu Âm
– Dương mất cân bằng thì sự vật không còn là nó nữa, mà chuyển thành cái
khác, sự vật cũ tàn lụi, tiêu vong sự vật mới khác ra đời, sinh trưởng.
4



Trong học thuyết Âm – Dương có nhiều tư tưởng duy vật và biện
chứng tự phát, lý giải sự vận động, biến đổi của sự vật theo chu kỳ tuần hoàn
chứ không phải là sự phát triển đi lên từ thấp đến cao. Do đó, khi vận dụng
thuyết âm - dương vào vào lĩnh vực chính trị - xã hội người Trung Quốc thởi
cổ, trung đại hay rơi vào chủ nghĩa bảo thủ, biện hộ cho sự thống trị của chế
độ phong kiến.
2. Ngũ hành gia.
Ngũ hành là một trong những phạm trù triết học mang tính khái quát,
trừu tượng đầu tiên của người Trung quốc cổ đại, nhằm giải thích nguồn gốc
và quá trình biến hóa của vạn vật trong vũ trụ. Nó đánh dấu bước phát triển sơ
khai của tư duy khoa học nhằm thoát khỏi sự chi phối của tư tưởng duy tâm
tôn giáo về cái gọi là thượng đế, quỷ thần đang thống trị trong đời sống tinh
thần xã hội Trung quốc đương thời. Đó là một trong những cội nguồn của chủ
nghĩa duy vật và tử tưởng biện chứng trong lịch sử tư tưởng Trung quốc.
Trong triết học Trung Quốc cổ đại, cùng với Âm-Dương là Ngũ Hành,
bởi chỉ riêng 384 hào của Thuyết Âm-Dương không đủ giải thích mọi sự biến
thiên phức tạp của vạn vật.
Ngũ hành là năm yếu tố vật chất mang tính khởi nguyên của thế giới là
Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ. Năm "Hành" được định sẵn cùng với năm cặp số
"sinh-thành" ra chúng, có vị trí "tiên thiên" quy định: Thuỷ (số 1,6; phía Bắc,
mùa Đông, màu Đen), Hoả (số 2,7; phía Nam, mùa Hè, màu Đỏ), Mộc (số
3,8; phía Đông, mùa Xuân) Kim (số 4,9; phía Tây, mùa Thu, màu trắng), Thổ
(số 5,10; Trung tâm, giao thời bốn mùa, màu vàng)
Theo thuyết ngũ hành, năm yếu tố vật chất khởi nguyên ấy ở trạng thái
động; quan hệ mật thiết với nhau. Mọi sự sinh thành hay huỷ diệt, sự sống
hay chết đếu do năm hành kết hợp hay tan rã mà có. Khi đã sinh thành rồi thì
mỗi sự vật hiện tượng đều tương ứng với một hành nào đó làm chủ. Do đó,
tính chất, bản chất của sự vật hiện tượng ấy là do tính chất của hành chủ quyết
định. Căn cứ vào hành chủ thì có thể giải thích được tính chất của mọi sự vật,
5



hiện tượng. Ngũ hành có chức năng to lớn đó vì chúng là những “khí” đầu
tiên, luôn luôn vận động và biến đổi, tác động qua lại, chuyển hoá lẫn nhau
theo hai quá trình vừa tương sinh vừa tương khắc. “Tương sinh” là quá trình
bồi đắp, nuôi dưỡng, thúc đẩy. “Tương khắc” là quá trình kìm hãm, chế ngự
sự tồn tại và phát triển của sự vật.
Ngũ hành tương sinh là do yếu tố này tác động mà sinh ra yếu tố khác
như Mộc sinh Hoả (gỗ cháy sinh lửa), Hoả sinh Thổ (mọi vật cháy thành than,
thành đất), Thổ sinh Kim (đất rắn ngưng kết thành kim loại), Kim sinh Thuỷ
(kim loại nóng chảy, rỉ sét thành nước), Thuỷ sinh Mộc (có nước cây cỏ nảy
sinh phát triển), Mộc sinh Hoả v.v… cứ như vậy quá trình sình thành của vạn
vật không dứt.
Ngũ hành tương khắc là quá trình các yếu tố chống đối, bài trừ nhau,
chế ước lẫn nhau. Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thuỷ, Thuỷ khắc Hoả, Hoả khắc
Kim, Kim khắc Mộc v.v… Quá trình ngũ hành tương khắc cũng liên tục không
ngừng tạo thành quá trình tuần hoàn phản ánh tính chất chống đối lẫn nhau của
các mặt đối lập. Quá trình sinh khắc của ngũ hành không tách rời nhau, xen kẽ
lẫn nhau phản ánh quá trình sinh thành và biến đổi của trời đất, vạn vật. Đây là
tư tưởng triết học quan trọng nhất, cơ bản nhất của thuyết ngũ hành.
3. Nho gia
Nho gia là học thuyết chính trị xã hội, theo khuynh hướng nhập thế,
chứa đựng nhiều tư tưởng triết học sâu sắc. Ra đời vào cuối thời Xuân Thu
(giữa thế kỷ VI tr.c.n) và nhanh chóng trở thành học thuyết có ảnh hưởng lớn
ở Trung Quốc. Từ thời nhà Hán đến nhà Thanh, Nho giáo trở thành hệ tư
tưởng giữ địa vị thống trị trong xã hội.
Người sáng lập ra Nho giáo là Khổng Tử (551- 479 tr.cn). Những
người kế tục xuất sắc của Khổng tử là Mạnh Tử (327-289 tr.cn), Tuân Tử
(298-238 tr.c.n); Đổng Trọng Thư (180-105 tr.c.n); Vương Sung (27-105)
Nho giáo có 6 bộ sách lớn là Lục Kinh và Truyện. Kinh Dịch, Kinh

Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Nhạc và Kinh Xuân Thu. Đến thời nhà Tần,
6


Kinh Nhạc bị thất truyền. Về sau các học trò Khổng Tử cứ vào Lục Kinh và
những lời dạy cho học trò và đàm thoại của Khổng Tử với những người khác
viết thêm được Luận ngữ, Mạnh Tử (Mạnh Tử viết), Đại học (Tăng Sâm
viết), Trung Dung (Tử Tư viết). Truyện là sách để truyền kinh, thuyết minh
nội dung, tinh thần, tư tưởng của các Kinh.
Khổng Tử tên là Khâu, tự là Trọng Ni vốn là người Tống, sinh ra ở
nước Lỗ (nay thuộc huyện Khúc Phụ tỉnh Sơn Đông). Ông là chính trị, nhà
triết học, nhà giáo vĩ đại trong lịch sử Trung Quốc.
Về bản thể luận, Khổng Tử đề cập nhiều đến vấn đề “trời”, “đạo trời”,
“mệnh trời”. Quan niệm về “trời” của Khổng Tử bao hàm hai nghĩa. Theo
nghĩa thứ nhất, “Trời” được hiểu là quy luật, trật tự vốn có của tự nhiên;
nghĩa thứ hai, “Trời” được hiểu là thực thể có ý chí, là “thiên mệnh” không
thể chống lại
Tuy nhiên, quyền năng của ý trời bị hạn chế do vai trò và năng lực chủ
quan của con người. Ông cho rằng, quỷ thần là do khí thiêng trong trời đất tạo
thành, tuy nhìn mà không thấy, lắng mà không nghe, quỷ thần có ở mọi nơi,
với quỷ thần mọi người đều phải cung kính. Mặt khác, ông cũng cho rằng,
“kính nhi viễn chi” đối với qủy thần
Về chính trị - xã hội, Khổng Tử chủ trương lập lại pháp chế, kỷ cương
của Văn Vương, Chu Công trước đây. Khổng Tử mong có một “xã hội hoà”
là xã hội không có phản kháng, không có đấu tranh lẫn nhau, xã hội không có
bạo lực, tranh giành lợi ích
Các quan hệ trong xã hội cần theo nguyên tắc hai chiều, người dưới có
thái độ kính trọng người trên, người trên đối với người dưới phải tôn trọng
(sai khiến dân việc gì cũng phải thận trọng) thì sẽ tại nên sự hoà hợp với nhau.
Ông coi quan hệ chính trị đạo đức là những quan hệ cơ bản, đề cao vai trò của

những quan hệ đó đặc biệt vào ba mối quan hệ chủ đạo, rường cột là vua tôi,
cha con, chồng vợ (tam cương). Từ ba quan hệ đó mà mở rộng ra việc gải
quyết những mối quan hệ xã hội khác.
7


Khổng Tử đặc biệt đề cao tư tưởng “thân thân” (coi trọng người thân)
và “thượng hiền” (coi trọng kẻ hiền tài). Xã hội hoà theo quan điểm của
Khổng Tử còn là một xã hội có cuộc sống thanh bình, trẻ nhỏ được chăm sóc,
người già được hưởng cuộc sống thanh nhàn; khoảng cách giữa người giàu và
người nghèo không quá đối lập, cách biệt cho dù hiện tượng phân biệt sang,
hèn trong xã hội là khó tránh khỏi. Đó là một xã hội trong đó mọi người có sự
yêu thương, gần gũi, tôn trọng lẫn nhau. Đường lối chính trị để thực hiện mục
tiêu ấy, theo Khổng Tử cần phải “chính danh”.
Tư tưởng Chính danh là một nội dung quan trọng trong học thuyết về
chính trị-xã hội của Khổng Tử. Cho rằng, trời đất và mọi sự vật tồn tại là vì
chúng có vai trò, nhiệm vụ của mình; cho nên, nếu dùng đúng lúc, đúng chỗ
(tức là thực hiện “chính danh”) thì sẽ trở nên hữu ích, Khổng Tử đòi hỏi trong
xã hội cũng phải có chính danh
“Danh” là tên gọi vai trò, địa vị của từng người trong trật tự xã hội.
“Thực” là phận sự của từng người bao gồm nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền
lợi ứng với Danh. Danh và Thực phải phù hợp, thống nhất, nếu không gọi là
“loạn danh”. “Chính danh” là điều căn bản của việc làm chính trị để đưa xã
hội “loạn” trở lại “trị”. Danh phận của mỗi người, trước hết do các quan hệ xã
hội quy định. Trong xã hội, có các mối quan hệ cơ bản, đó là quân - thần
(vua- tôi), phụ - tử (cha- con), phu - phụ (chồng - vợ), huynh- đệ (anh - em),
bằng - hữu (bạn - bè)
Trong các mối quan hệ đó, Khổng Tử đặc biệt nhấn mạnh ba mối quan
hệ đầu, coi tam cương là rường cột trong xã hội. Để chính danh, có thể dùng
pháp trị (Bá đạo) và đức trị (Vương đạo). Khổng Tử không muốn dùng pháp

trị, bởi dùng pháp trị là dùng hệ thống luật pháp cưỡng bức người ta, dẫn đến
tâm lý chống đối, cưỡng lại, từ đó nảy sinh oán hận, phản loạn, không bền
vững. Khổng Tử chủ trương dùng đức trị, dựa vào đạo đức để cảm hoá, giáo
dục, thuyết phục mọi người tự giác thực hiện chính danh. Những người cầm
đầu xã hội phải là những tấm gương mẫu mực về đạo đức để thần dân noi theo.
8


Giáo dục dù có tốt đến mấy đi nữa, nhưng vua, quan vô đạo thì xã hội không
thể có chính danh được. Có năm tiêu chuẩn đạo đức được đề cao là Nhân,
Nghĩa, Lễ, Trí, Dũng (sau này, Đổng Trọng Thư bỏ Dũng thêm Tín hình thành
năm tiêu chuẩn đạo đức là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín (Ngũ thường).
Nhân là khái niệm trung tâm trong học thuyết chính trị của Khổng Tử.
Nhân bao hàm nhiều nội dung, nhưng nội dung cơ bản là ái nhân (lòng yêu
thương con người). Từ ái nhân đi đến hai nguyên tắc là “kỷ sở bất dục vật thi
ư nhân” (điều gì mình không muốn thì cũng đừng đem áp dụng cho người
khác) và “kỷ dục lập nhi lập nhân, kỷ dục đạt nhi đạt nhân” (mình muốn lập
thân thì cũng giúp người khác lập thân, mình muốn thành đạt thì cũng giúp
người khác thành đạt). Nhân còn được thể hiện ra ở nhiều tiêu chuẩn đạo đức
khác nữa như trung, hiếu, tiết nghĩa, cung, kính, khoan hoà, cần mẫn, chính
đáng, thật thà, khiêm nhường, dũng cảm, trách mình hơn là trách người, thận
trọng, biết yêu người đáng yêu, biết ghét người đáng ghét v.v
Khổng Tử gọi người có nhân là người quân tử, trượng phu để đối lập
với kẻ tiểu nhân. Nhưng có thể có người quân tử bất nhân, nhưng chưa hề
thấy có kẻ tiểu nhân có nhân bao giờ. Thi hành điều nhân phải có sự phân biệt
thân sơ, trên dưới
Như vậy, Nhân của Khổng Tử chính là đạo lý làm người, vừa thương
người (ái nhân) vừa giúp người (cứu nhân), mà cứu nhân là quan trọng hơn
cả. Vì vậy, một người dù quán triệt nhiều tiêu chuẩn đạo đức Nho giáo, nhưng
không đảm bảo được hai mặt ái nhân và cứu nhân thì cũng chưa được coi là

người có nhân. Khái niệm Nhân của Khổng Tử có quan hệ với các khái niệm
khác như Lễ, Trí, Dũng.
Lễ vừa là cách thức thờ cúng (lễ bái) trời đất, quỷ thần, vừa là những
quy định có tính luật pháp, thể hiện tôn ti trật tự xã hội; lại vừa là những
phong tục, tập quán, quy tắc ứng xử v.v mà mọi người, từ vua quan cho đến
thần dân phải tuân theo. Thực chất Lễ là một thứ kỷ luật tinh thần để điều

9


chỉnh hành vi của con người cho đúng với Nhân. Như vậy, lễ là sự biểu hiện
của nhân, đồng thời là điều kiện để đạt tới điều nhân
Trí là tri thức, mà con người phải có mới thực hành được điều nhân một
cách triệt để. Muốn có tri thức thì phải học tập. Học để tu thân-tề gia-trị quốcbình thiên hạ
Dũng là dũng cảm, dám vì nghĩa quên mình, không sợ cường quyền
bạo lực, có như vậy mới thực hiện được cứu nhân
Khổng Tử ít nói đến chữ Tín, nhưng ông khẳng định Tín là lời nói và
việc làm phải thống nhất với nhau. Khổng Tử coi trọng chữ Tín. Để giữ vững
trật tự xã hội, theo Khổng Tử điều kiện cơ bản, có ý nghĩa quyết định là dân
tin vào chính quyền
Về giáo dục, theo Khổng Tử, giáo dục là con đường duy nhất để thực
hiện lý tưởng chính trị, giáo hóa dân chúng, thay đổi cách cư xử trong xã hội
và cao hơn cả là làm cho thiên hạ thái bình, thịnh trị. Ông chủ trương học ở
mọi nơi, mọi lúc, mọi người, “học không biết chán”, học phải đi đôi với hành.
“Người quân tử học đạo, đồng thời phải biết hành đạo”. Trên cương vị là một
người thầy, Khổng Tử là một tấm ngương mẫu mực của việc lấy nhân cách
của mình để tác thành nhân cách của học trò. Ông đề cao việc tự học và
phương pháp dạy học theo cách đàm thoại, phù hợp với từng đối tượng. Lý
tưởng của việc giáo dục là hướng tới tạo dựng những nhân cách mẫu mực của
con người theo quan điểm Nho giáo. Nho giáo đề cao ba mẫu người tiêu biểu:

kẻ sỹ, kẻ đại trượng phu và người quân tử. Trong đó, người quân tử là danh
hiệu cao quý nhất. Mục đích của giáo dục là tạo dựng, phát triển, hoàn thiện
nhân cách con người, giúp con người được đẩy đủ những phẩm chất, năng lực
để tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.
Nhìn chung, hệ thống tư tưởng của Khổng Tử rất phong phú, có tính
bách khoa. Trong đó các tư tưởng về chính trị xã hội, về đạo đức, về giáo dục
hàm chứa nhiều tư tưởng triết học sâu sắc, được coi là tiêu biểu nhất. Tuy
nhiên, học thuyết của Khổng Tử có mâu thuẫn, đan xen những khuynh hướng
10


canh tân với những khuynh hướng bảo thủ, giữa tư tưởng tiến bộ với tư tưởng
bảo thủ, giữa quan niệm duy vật, vô thần với quan niệm duy tâm, thiên mệnh,
hữu thần, giữa những yếu tố tích cực với yếu tố tiêu cực. Tính không nhất
quán trong hệ thống tư tưởng của Khổng Tử là cơ sở để Nho giáo phát triển
theo hai hướng: duy vật của Tuân Tử và duy tâm của Mạnh Tử
Nho gia dòng Khổng-Mạnh có ảnh hưởng sâu rộng và lâu dài nhất
trong lịch sử Trung Quốc và các nước lân cận. Nho giáo được lưu truyền ở
Việt Nam là tư tưởng Khổng-Mạnh với cách giải thích của Trình-Chu (Trình
Hạo 1032-1085, Trình Di 1033-1107, Chu Hy 1130-1200, đời nhà Tống).
4. Đạo gia
Đạo gia là trường phái lớn của triết học Trung quốc.Trong Bách gia thì
Đạo gia mang đậm tính chất triết học hơn cả.
Đạo gia là một trường phái triết học phản ánh sâu sắc tư tưởng của
tầng lớp quý tộc nhỏ và bộ phận tầng lớp tri thức bị đại quý tộc và địa chủ
chèn ép. Đạo gia có nhiều môn phái. Đại biểu tiêu biểu của Đạo gia là Lão
Tử, Dương Chu (khoảng 395 - 335 tr.c.n) và Trang Tử (369-286 tr.c.n); Liệt
Tử, Hoài Nam Tử.Người sáng lập Đạo gia là Lão Tử. Lão Tử tự Bá Dương có
3 tên gọi là Lý nhĩ, Thái sử Đan, Lão Lai Tử; vẫn chưa có điều kiện làm rõ là
ông sống vào thời Xuân Thu (thế kỷ VI t.c.n) hay thời Chiến Quốc (thế kỷ IV

t.c.n). Tác phẩm duy nhất là Đạo Đức Kinh, còn gọi là Lão tử.
Lão Tử trình bày toàn bộ tư tưởng của ông trên các lĩnh vực bản thể
luận, nhận thức luận, đạo đức và chính trị - xã hội trong Đạo Đức kinh gồm
5000 chữ.
Về bản thể luận, Lão Tử tập trung ở phạm trù Đạo và Đức, phản ánh
thế giới quan duy vật tự phát và tính biện chứng sơ khai. Đạo là bản nguyên
của thế giới, là cội nguồn sinh ra vũ trụ, trời đất, vạn vật. Đó là lực lượng vật
chất (thực tại) vô cùng rộng lớn, vận động không ngừng. Vì là cái khởi
nguyên cái ban đầu, thống nhất, nên Lão Tử gọi Đạo là cái một. Đạo có thể,
tướng và dụng. Thể của đạo là cái một, thống nhất, tượng của đạo là vô, còn
11


dụng của đạo là động lực sinh ra trời đất vạn vật. Mọi sự vật, hiện tượng, theo
đó cũng có thể, tướng và dụng (thể của vật là đạo, tướng của vật là hình dáng
diện mạo của nó, còn dụng của vật là giá trị, công dụng của nó). Đạo sinh ra
mọi sự vật, hiện tượng theo một chu kỳ khép kín “Đạo sinh một, một sinh hai,
hai sinh ba, ba sinh vạn vật, vạn vật sinh sôi đến vô cực lại quay trở về đạo”
Đức phụ thuộc vào Đạo, là sự thể hiện Đạo một cách tiềm tàng trong
thế giới hiện hữu. Đức biểu hiện tính chất của các sự vật, hiện tượng về hình
dáng, vị trí trật tự, tính chất, vận động. Đức cũng biểu hiện tính quy luật trong
sự vận động, sinh hoá của thế giới vạn vật. Vậy, Đạo là bản thể, bản chất tiềm
ẩn ở bên trong. Còn Đức là tính chất, thể lực của đạo, là sự biểu hiện của đạo
ra bên ngoài.
Ông cho rằng, vạn vật luôn ở trong quá trình sinh thành, biến đổi và tiêu
vong, có sinh, có diệt, không có gì trường tồn, vĩnh cửu như Đạo và Đức. Mọi
sự vật đều bao hàm hai mặt đối lập; là thể thống nhất của hai mặt đối lập vừa
xung khắc nhau, vừa nương tựa vào nhau, vừa bao hàm lẫn nhau. Trong âm có
dương, trong dương có âm, âm phát triển đến tận cùng thì sinh dương, dương
phát triển đến tận cùng lại sinh âm. Đó là luật vốn có của trời đất. Từ những

quan niệm trên, Lão Tử đưa ra nhiều luận điểm lý thú về tính tương đối của sự
vật, hiện tượng. Ví dụ, phúc, hoạ không phải là tuyệt đối. Trong phúc có hoạ,
trong hoạ có phúc, khi đạo lớn bị phá bỏ thì xuất hiện nhân, nghĩa khi trí tuệ
được đề cao thì giả dối, lừa đảo nhiều, khi gia tộc không hoà thuận thì xuất
hiện hiếu và từ; khi quốc gia rối loạn thì xuất hiện trung thần; coi trọng của cải
mới sinh ra trộm cướp; coi trọng hiền tài mới sinh ra tranh giành địa vị...
Tư tưởng biện chứng. Lão Tử cho rằng, toàn thể thế giới bị chi phối bởi
hai luật phổ biến là luật quân bình và luật phản phản phục, trong đó luật quân
bình giữ cho sự vận động của các sự vật, hiện tượng luôn được cân bằng theo
một trật tự điều hoà trong tự nhiên, không có gì thái quá, không có gì bất cập.
Luật phản phục nói rằng, cái gì phát triển tột độ thì sẽ trở thành cái đối lập với
nó. Phản phục có nghĩa là vạn vật biến hoá nối tiếp nhau theo một vòng tuần
12


hoàn đều đặn, nhịp nhàng, bất tận như bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông thay
đổi, qua lại, và vòng tuần hoàn đó của tự nhiên được gọi là Thiên Quân.
Ngoài ra, phản phục còn có nghĩa là trở về với đạo tự nhiên, với Vô Vi, tức là
trở về với cái gốc của mình.
Về nhận thức, Lão Tử chủ yếu dựa trên thuyết vô danh. Theo Lão Tử,
Đạo thì vô danh, nhưng vạn vật- cái do Đạo sinh ra thì có danh (hữu danh).
Danh là tên gọi (khái niệm) chỉ sự vật. Danh là do con người đặt ra căn cứ
vào cơ sở so sánh sự vật đó với những sự vật khác. Ví dụ, gọi là tốt là trong
sự so sánh với xấu, gọi là trắng là trong sự so sánh với đen. Đó chẳng qua chỉ
là sự quy ước có tính phổ biến. Vì vậy, danh (khái niệm) không phải là bất
biến, có thể thay đổi
Từ quan niệm ấy, Lão Tử cho rằng nhận thức của con người phải thông
qua danh (thông qua các khái niệm). Nhận thức phụ thuộc vào quá trình tổng
hợp và tích luỹ những khái niệm. Nhưng nhận thức đi từ khái niệm (danh) thì
con người chỉ biết được chân lý tương đối (cái đúng của ngày hôm nay) chứ

không thể biết được chân lý đầy đủ (chân lý tuyệt đối), chưa hiểu được Đạo.
Hiểu Đạo mới là mục tiêu của nhận thức. Để hiểu Đạo thì chỉ bằng con đường
trực giác tâm linh. Đó là con đường quay về với tự nhiên, giống như đứa trẻ
mới sinh, hồn nhiên, chất phác, chưa bị khúc xạ, lêch lạc bởi các quy định,
không cần học cũng đạt tới đạo, không đi mà biết, không thấy mà gọi được tên,
không làm mà thành. Trong quan điểm nhận thức, ông đề cao sự cảm nhận trực
tiếp của con người trước sự vật, không lệ thuộc vào khái niệm (“vô danh”).
Về chính trị - xã hội, Lão Tử phê phán gay gắt xã hội đương thời. Ông
gọi tầng lớp quan lại thống trị là kẻ trộm cướp và kịch liệt phản đối sự phân
hoá xã hội. Ông mong muốn xây dựng một xã hội tốt đẹp dựa trên quan hệ xã
hội thuần phác tự nhiên. Để có được một xã hội như vậy, ông chủ trương thực
hiện đường lối vô vi- sự mở rộng quan niệm về Đạo sang lĩnh vực xã hội.
"Vô Vi", theo nghĩa thông thường là không làm gì cả. Trong tư tưởng
triết học của Lão Tử, Vô Vi nghĩa là sống, hoạt động theo lẽ tự nhiên, không
13


gượng ép, giả tạo, không trái với bản tính tự nhiên của mình, không can thiệp
vào vòng tuần hoàn của tự nhiên. Vô Vi còn có nghĩa là bảo vệ, giữ gìn bản
tính tự nhiên của mình và của vạn vật. Từ quan niệm này, Lão Tử phản đối
mọi chủ trương "Hữu Vi" vì cho rằng hành vi của con người hữu vi chỉ làm
xáo trộn mọi trật tự, điều hoà tự nhiên và bị ràng buộc bởi những danh vọng,
ham muốn sẽ làm mất bản tính tự nhiên của chính mình.
Từ quan điểm “vô vi”, ông khuyên con người phải thực hiện sáu điều a)
Tri túc (biết đủ thì dừng lại). b) Không cạnh tranh, không bạo động, lấy thiện
thắng ác, lấy nhu thắng cương. c) Công thành thân thoái. d) Sống vô tư, hồn
nhiên. đ) Lấy đức báo oán. e) Tu luyện thần hoá, hạn chế dục tính. Thực hiện
được những điều đó sẽ giúp con người ngộ được Đạo, trở về với tự nhiên,
sống trường sinh cùng với tự nhiên. Ông gọi đạo vô vi là đạo không làm gì cả
nhưng không gì không làm. Quan điểm đó của ông là điều hoà mâu thuẫn,

dẫn tới thủ tiêu mâu thuẫn.
5. Mặc gia
Mặc gia là trường phái triết học lớn của Trung quốc hình thành kế tiếp
theo Nho gia vào đầu thời chiến quốc, do Mặc Tử sáng lập.Đến cuối thời
chiến quốc, một số tác giả đã bổ sung phát triển học thuyết của Mặc Tử hình
thành giai đoạn hậu Mặc. Đánh giá về Mặc Tử, Hàn Phi Tử viết: “ Đạo học
nổi tiếng ở đời thì có hai phái Nho và Mặc. Nho học cao nhất là Khổng Khâu,
Mặc học cao nhất là Mặc Địch (Hàn Phi Tử 50)
Mặc gia phản ánh tư tưởng của tầng lớp du hiệp (võ sĩ nay đây mai đó),
thợ thủ công, tiểu thướng sản xuất nhỏ tiểu tư hữu. Họ thuộc tầng lớp dưới
của xã hội nên có xu hướng bênh vực người lao động, phê phán Nho gia. Sự
đối lập giữa Nho gia và Mặc gia tạp nên một diện mạo mới trong sự phát triển
tư tưởng thời kỳ này, thời kỳ giai cấp quý tộc cũ suy tàn, giai cấp địa chủ mới
đang hình thành.
Mặc gia do Mặc Tử (Mặc Địch 479-381 tr.c.n) sáng lập, người nước Lỗ,
từng làm quan đại phu nước Tống. Tư tưởng của Mặc Tử gồm ha phần chính
14


1) chống lại thuyết thiên mệnh của Khổng Tử và 2) đưa ra thế giới quan duy
tâm, tôn giáo: ý chí của trời chi phối hành vi của con người và của vạn vật
Tuân theo ý trời, con người phải kiêm ái. “Kiêm” là chung, “ái” là yêu
thương giúp đỡ lẫn nhau để cùng có lợi. Kiêm tương ái, giao tương lợi là hạt
nhân của thuyết Kiêm ái. Kiêm ái là mọi người không phân biệt đẳng cấp
sang hèn đều phải thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, tranh điều lành, tránh điều
dữ, điều ác, không gây chém giết, thù oán. Phải làm như thế mới đúng với
“thiên chí” của trời. Nhưng làm thế nào để thực hiện được ý tưởng đó, ông
chủ trương một mặt nâng cao đạo đức của mọi người trên cơ sở kiêm ái, mặt
khác trông chờ vào đường lối cai trị của nhà cầm quyền, thông qua quyền uy,
“ý chí” của Trời.

Về chính trị-xã hội, Mặc Tử công kích chế độ cha truyền con nối, chủ
trương thượng hiền vì “quân không sáng mãi, dân không hèn mãi”. Trong lĩnh
vực kinh tế, Mặc Tử chủ trương tiết kiệm sản vật, lao động không quá sức.
Mọi người sống phải có lao động và tiết kiệm, mở mang nhiều ngành nghề,
chăm lo sản xuất nhưng phải cần kiệm. Mặc Tử phản đối sự lười biếng, xa
hoa lãng phí, phản đối sự bóc lột, thiếu bình đẳng về lao động và hưởng thụ.
Ông cũng kịch liệt phản đối chiến tranh vì nó không những phá hoại nhiều
của cải vật chất, mà còn tổn hại lớn cho cho xã hội. Ông có tư tưởng trọng
dụng người hiền tài ra đảm đương việc nước, không phân biệt danh phận, xuất
thân, địa vị
Về nhận thức, Mặc Tử đưa ra phép tam biểu nổi tiếng: Lời nói muốn
chính xác phải có ba biểu là cái bản (cơ sở), cái nguyên (nguồn gốc) và cái
dụng (đem lại cái gì). Biểu thứ nhất phục tùng biểu thứ hai và thứ ba, hai biểu
sau quy định biểu thứ nhất. Trong đó, biểu một là so sánh với kinh nghiệm,
việc làm của thánh vương đời trước, nếu thấy đúng thì làm, nếu thấy sai thì
bỏ. Biểu hai là dựa vào cái thực của tai mắt trăm họ là thực tế đang diễn ra
xung quanh. Biểu ba là đề xuất việc làm xem có lợi cho nhà nước, cho mọi
người không
15


Như vậy, hậu Mặc đã phân biệt các khái niệm, vận dụng quan hệ
chung, riêng, đơn và đa, đồng và dị... để biện bác cho quan niệm của mình.
Gía trị của hậu Mặc là ở thành tựu về lý luận nhận thức và loogic học. Phần
bảo vệ phát triển kiêm ái có tính chất máy móc siêu hình ít sức thuyết phục.
Học thuyết Mặc gia mang đậm màu sắc bình dân, họ chưa vượt qua
được giới hạn của lịch sử, không thể là hệ tử tưởng của giai cấp thống trị cũ
và mới. Cho nên từ Tần, hán về sau, Mặc gia bị suy vong là điều dễ hiếu.Tuy
vậy thành tựu của Mặc gia vẫn là một trong những di sản sáng giá trong kho
tàng tử tưởng Trung Quốc.

6. Danh gia
Danh gia (Ngụy biện gia- chơi chữ) nổi tiếng thời Chiến quốc- có Huệ
Thi và Công Tôn Long là hai đại biểu cho hai khuynh hướng khác nhau
Huệ Thi (370-310 tr.c.n, chủ nghĩa tương đối) người nước Tống, từng
làm tướng quốc cho Nguỵ Huệ Vương, bạn thân của Trang Chu, Trang Tử.
Người ta truyền nhau một số mệnh đề có tính chirts trung, ngụy biện của Huệ
Thi như trời đất, núi đầm bằng nhau; mặt trời vừa đứng bóng, vừa xế tà;
phương nam vô cùng mà hữu cùng …
Huệ Thi đưa ra tư tưởng “kiêm ái vạn vật”, nghĩa là thương yêu vạn
vật, vì mọi vật đều đồng nhất thể “nhất đồng dị” và đều tương đối như nhau.
Trong những mệnh đề tương đối ở trên, Huệ Thi đã thể hiện những yếu tố
biện chứng, hàm chứa trong đó những mặt đối lập liên hệ, chuyển hoá cho
nhau. Nhưng do tuyệt đối hoá tính tương đối, chuyển hoá của sự vật hiện
tượng, tách rời điều kiện cụ thể, nên đã đẩy ông sang phía những nhà tương
đối luận.
Công Tôn Long (320 -250 tr.c.n) người nước Triệu, là người kế tục
phát triển tư tưởng của Huệ Thi, nhưng đẩy chủ nghĩa tương đối của Huệ Thi
lên cực điểm, chuyển hẳn sang thuật nguỵ biện của Trung Quốc cổ đại. Tư
tưởng chủ yếu của Công Tôn Long được trình bày trong các sách Công Tôn
Long Tử, Nam Hoa kinh và Liệt Tử
16


Thuật nguỵ biện của Công Tôn Long dựa trên sự tách rời giữa danh
(tên gọi) với thực (sự vật) giữa cái riêng và cái chung và kết quả các quá trình
cảm giác. Ví dụ: biện luận “ngựa trắng không phải là ngựa”, hay “cái dây một
thước” mỗi ngày lấy đi một nửa, muôn đời không hết, “không ai có thể bẻ đôi
một cái gậy”,“thước vuông không vuông”, “bóng chim bay không hề động
đậy”,“nhanh như tên bắn mà có lúc không đi, không dừng”. Thuật nguỵ biện
của Công Tôn Long phần nhiều xoay quanh vấn đề về nhận thức và lôgíc học.

7. Pháp gia
Pháp gia là một trong bốn trường phái tư tưởng lớn nhất thời cổ đại có
ý nghĩa góp phần quyết định sự ra đời và củng cố chế độ phong kiến tập
quyền ở Trung Quốc. Cùng với Nho gia, tư tưởng triết học – chính trị của
Pháp gia trở thành hệ tư tưởng thống trị của chế độ phong kiến Trung Quốc
suốt hàng nghàn năm lịch sử.
Pháp gia xuất hiện từ thời Xuân Thu. Người khởi xướng là Quản Trọng
nước Tề (khoảng thế kỷ VII tr.c.n). Đến thời Chiến Quốc thì hình thành nên
ba hệ phái là phái trọng Pháp (Luật và biện pháp trong phép trị nước) đại biểu
là Thương Ưởng; phái trọng Thế (của người đứng đầu), đại biểu là Thận Đáo
và phái trọng Thuật (thủ đoạn, phương pháp cai trị) đại biểu là Thân Bất Hại.
Hàn Phi Tử (khoảng 280-233 tr.c.n) là người tổng hợp cả ba phái, tư
tưởng cơ bản của Pháp gia được thể hiện tập trung trong học thuyết của Hàn
Phi Tử
Bản thể luận của Hàn Phi Tử thể hiện quanh phạm trù đạo và đức. Ông
cho rằng, Đạo là quy luật phổ biến của giớí tự nhiên, tồn tại vĩnh cửu, không
thay đổi, là cái siêu nhiên thần bí, khó hiểu. Đức là cái lý sâu sắc phổ biến, là
cái đã phân chia của Đạo làm cho sự vật có hình dáng cụ thể và biến hoá bất
thường. Hình dáng cụ thể của sự vật như dài ngắn, to nhỏ, vuông tròn, đen
trắng v.v gọi là Lý. Theo Hàn Phi Tử, phải nắm lấy cái lý của vạn vật luôn
biến hoá bất thường để hành động cho phù hợp. Lý của sự vật có thể nhận

17


thức được. Tuy nhiên, trong thực tế Hàn Phi Tử ít bàn đến những vấn đề bản
thể luận mà chủ yếu bàn về vấn đề chính trị-xã hội.
Về chính trị-xã hội, Hàn Phi Tử phê phán gay gắt thực trạng xã hội
đương thời và đề ra những giải pháp xã hội thể hiện khuynh hướng tư tưởng
có tính chất duy vật. Ông chủ trương kết hợp pháp - thế - thuật trong đường

lối trị nước. Pháp là pháp luật; Thuật là thủ đoạn, cách thức, nghệ thuật trong
hoạt động chính trị; Thế là quyền lực, uy quyền của chủ thể hoạt động chính
trị mà vua là đại diện cao nhất. Nhà vua phải nắm được cả pháp, thế và thuật,
trong đó pháp là quan trọng nhất
Tư tưởng chính trị-xã hội của Hàn Phi Tử tập trung ở lý luận chứng
nghiệm. Thực chất của chứng nghiệm là đòi hỏi mọi cái đều phải chứng thực,
đều phải xuất phát từ thực tế, chú trọng thực tế. Mọi cái nếu không thông qua
chứng nghiệm mà cứ chắc đúng, cứ dựa vào để tuân theo là sai lầm, giả dối.
Ông cho rằng, nếu tin tưởng tuyệt đối vào Đạo của những đời vua trước, áp
dụng theo một cách máy móc mà không tham khảo chứng nghiệm là không có
cơ sở, dẫn đến sai lầm. Cần phải xét cái Đạo ấy cho phù hợp với thực tế.
Quan điểm của ông là “đời khác thì việc khác, việc khác thì pháp độ phải
khác”. Ông chủ trương đổi mới đường lối chính trị, và đưa ra tư tưởng Pháp
trị. Theo ông sự ổn định về chính trị, sự thái bình thịnh trị của đất nước phải
được dựa trên cái nền của sự đảm bảo là pháp luật.
Về pháp luật, Hàn Phi Tử cho rằng pháp luật phải công minh, thưởng
phạt phải rõ ràng. Cũng như cái Lý của mọi sự vật là luôn biến đổi bất
thường, nên không có thứ pháp luật nào luôn đúng. Phải chứng nghiệm để
thường xuyên thay đổi cho phù hợp với thực tế. Xuất phát từ thuyết tính ác
của Tuân Tử cho rằng bản chất con người là tự tư tự lợi, Hàn Phi Tử khẳng
định cần nắm lấy tâm lý tránh hại hám lợi của con người mà định ra pháp luật,
mà có chế độ thưởng phạt thích đáng để duy trì trật tự xã hội.
Về luân lý, đạo đức, Hàn Phi Tử cho mọi thứ luận lý đạo đức trong
quan hệ giữa người với người như Trung, Tín, Hiếu, Nhân v.v đều được xây
18


dựng trên cơ sở quan hệ lợi ích. Ông cũng cho rằng hiện tượng kẻ giàu người
nghèo hay hiện tượng người bóc lột người là bình thường trong xã hội.
Toàn bộ tư tưởng căn bản của Pháp gia được Tần Thuỷ Hoàng triệt để

vận dụng đã góp phần quan trọng vào việc kết thúc cục diện phân tán, thực
hiện thống nhất đất nước, đưa xã hội Trung Quốc cổ đại tiến vào xã hội phong
kiến.
Từ những học thuyết triết học tiêu biểu đã nêu ỏa trên ta có thể thấy
triết học Trung quốc cổ trung đại có những đặc điểm chủ yếu sau:
III.Một số đặc điểm cơ bản của triết học Trung Quốc cổ trung đại.
Triết học Trung Quốc cổ đại nhấn mạnh nội dung chủ yếu là những vấn
đề về nhân sinh, đạo đức, chính trị - xã hội, giải đáp những mối quan hệ giữa
con người với tự nhiên và giữa người với người trong xã hội.
Triết học Trung Quốc cổ đại tập trung chú ý nhiều về những vấn đề về
đạo làm người, ít chú ý đến những vấn đề triết học tự nhiên. Đây cũng là
nguyên nhân của sự kém phát triển về nhận thức và khoa học thực chứng của
người Trung Quốc
Tư tưởng triết học xuyên suốt là tư tưởng về thiên nhân hợp nhất, vạn
vật đồng thể. Khi khảo cứu sự vận động của tự nhiên, xã hội và nhân sinh, đa
số các nhà tư tưởng Trung Quốc cổ đại coi trọng sự hài hoà thống nhất (đồng
nhất) của các mặt đối lập, coi việc điều hoà mâu thuẫn là mục tiêu để giải
quyết vấn đề con người và xã hội
Triết học Trung Quốc cổ, trung đại thể hiện rõ nét những tư tưởng duy
vật và biện chứng tự phát trong giai đoạn đầu. Tuy nhiên, có duy vật, có duy
tâm, có đan xen, dao động giữa duy vật và duy tâm, nhưng đặc điểm phát
triển của triết học Trung Quốc cổ đại là các hệ thống triết học sau không gạt
bỏ mà thường bổ sung, phát triển các hệ thống triết học trước, tạo ra tính liên
tục trong quá trình biến đổi phát triển
Phương thức tư duy triết học đặc thù là tư duy trực giác. Người Trung
Quốc thiên về sự cảm nhận, thể nghiệm trực tiếp, đặt mình giữa đối tượng để
19


chiêm nghiệm, khám phá và đi tới bản chất trừu tượng của sự vật. Hầu hết các

nhà tư tưởng Trung Quốc đều bằng phương thức duy trực giác để tìm ra chân
lý về thế giới vạn vật, về con người và cuộc đời. Phương thức tư duy này đặc
biệt coi trọng tác dụng của tâm, coi tâm là gốc rễ của nhận thức, lấy tâm để
bao quát sự vật. Trong việc xây dựng các khái niệm, phạm trù triết học, người
Trung Quốc cổ, trung đại đã đạt tới một trình độ trừu tượng khá cao.
Nền triết học Trung Hoa cổ đại ra đời vào thời kỳ quá độ từ chế độ
chiếm hữu nô lệ lên chế độ phong kiến. Trong bối cảnh lịch sử ấy, mối quan
tâm hàng đầu của các nhà tư tưởng Trung hoa cổ đại là những vấn đề thuộc
đời sống thực tiễn chính trị - đạo đức của xã hội. Tuy họ vẫn đứng trên quan
điểm duy tâm để giải thích và đưa ra những biện pháp giải quyết các vấn đề
xã hội, nhưng những tư tưởng của họ đã có tác dụng rất lớn trong việc xác lập
một trật tự xã hội theo mô hình chế độ quân chủ phong kiến trung ương tập
quyền theo những giá trị chuẩn mực chính trị - đạo đức phong kiến phương
Đông.
Bên cạnh những suy tư sâu sắc về các vấn đề xã hội, nền triết học
Trung Hoa thời cổ còn cống hiến cho lịch sử triết học thế giới những tư tưởng
sâu sắc về sự biến dịch của vũ trụ. Những tư tưởng về Âm - Dương - Ngũ
hành tuy còn có những hạn chế nhất định, nhưng đó là những triết lý đặc sắc
mang tính chất duy vật và biện chứng của người Trung Hoa thời cổ, có ảnh
hưởng lớn đến thế giới quan triết học sau này ở Trung Hoa và một số nước
khác trong khu vực.

20


C.PHẦN KẾT LUẬN
Lịch sử nhân loại ngày nay đã bước vào những nấc thang phát triển
mới, đã có nhiều quan điểm, học thuyết triết học tiếp theo ra đời nhưng những
học thuyết của triết học Trung Hoa thời cổ trung đại vẫn còn những giá trị to
lớn. Việc tiếp thu những điểm tích cực, duy vật, biện chứng tạo điều kiện cho

chúng ta có cái nhìn đúng đắn khách quan hơn về thế giới hiện tại và phấn
đấu vì thế giới tương lai.
Cuối cùng có thể nói những giá trị mà triết học Trung Hoa để lại sẽ mãi
là thang giá trị cho nhân loại, loài người khi muốn đi đến những chân lý đỉnh
cao. Việt Nam trong quá trình đổi mới phát triển cùng với Chủ nghĩa Mác –
Lênin cũng cần tiếp thu những yếu tố tích cực mà triết học trung Hoa cổ trung
đại mang lại.

21


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cuốn giáo trình lịch sử triết học Trung quốc thời kỳ cổ - trung đại
(khoa triết học – Học viện báo chí tuyên truyền)
2. Cuốn lịch sử triết học (PGS.TS Trần Đăng Sinh, chủ biên)
3. Cuốn lịch sử triết học – Triết học cổ đại (tập 1) của TS.Nguyễn Thế
Nghĩa – TS. Doãn Chính., chủ biên)
4. Cuốn đại cương triết học Trung quốc (PGS. Doãn Chính, chủ biên)
5. Khổng Tử: Kinh thư, Nxb. Văn hóa thông tin, H.2004
6. Hồ Thích: Trung quốc triết học sử đại cương, Nxb. Văn hóa thông
tin, H.2004

22


MỤC LỤC

23




×