Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

bài tập môn luật hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.59 KB, 10 trang )

MỞ ĐẦU
Xã hội ngày càng phát triển, cùng với sự phát triển đó thì đời sống con người
cùng ngày càng được chú trọng, nâng cao. Tuy nhiên, bên cạnh những sự phát triển
luôn luôn tồn tại những mặt trái, một trong số đó là những vấn đề về tội phạm. Có
một thực tế không thể phủ nhận là với sự đi lên của đời sống xã hội thì số lượng tội
phạm cũng ngày càng gia tăng, trở thành một vấn đề vô cùng nhức nhối hiện nay.
Trong đó, phải kể đến các tội xâm phạm sở hữu như tội cướp tài sản (Điều 133), tội
cướp giật tài sản (Điều 136), tội cưỡng đoạt tài sản (Điều 135),… không chỉ có
chiều hướng gia tăng mà thủ đoạn phạm tội cũng ngày một tình vi, xảo quyệt hơn và
diễn biến vô cùng phức tạp trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam nói riêng và các quốc
gia khác trên thế giới nói chung.
Để tìm hiểu rõ hơn về vấn đề này, em xin được xem xét và giải quyết một tình
huống cụ thể dưới đây:
Đề bài 5:
K và H đã bàn bạc trước về việc chiếm đoạt tài sản của gia đình ông N (giám
đốc một doanh nghiệp). Chiều 07/02/2010, lợi dụng gia đình ông N đi sắm tết, K và
H mang theo một túi quà đến gõ cửa nhà ông N và nói với bà P (là người giúp việc
nhà ông N) là đến chúc tết gia đình. Không nghi ngờ gì, bà P đã mở cửa cho K và H
vào nhà. Sau khi vào nhà, chúng vờ xin nước uống rồi xông vào đe doạ và định trói
bà P. Bà P sợ hãi van xin K, H và nói: “Các anh lấy gì thì cứ lấy, tôi chỉ là người
giúp việc thôi”. K và H phá két sắt và lấy đi của nhà ông N 70 triệu đồng, 50 chỉ
vàng cùng một số ngoại tệ .Tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 600 triệu đồng. Sau
khi K, H lấy được tài sản và bỏ đi thì bà P mới chạy ra đường hô hoán. Một tuần sau
K và H bị công an bắt giữ.
Có 4 ý kiến khác nhau về tội danh của K và H:
a, K và H phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản vì chúng đã có hành vi gian dối
đánh lừa người giúp việc.

1



b, K và H phạm tội trộm cắp tài sản vì chúng có hành vi lợi dụng lúc gia đình
ông N đi vắng để lấy tài sản. Tuy bà P ở nhà nhưng bà P chỉ là người giúp việc,
không phải là chủ sở hữu của những tài sản đó.
c, K và H phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản vì chúng công khai lấy tài
sản trước mắt người giúp việc.
d, K và H phạm tội cướp tài sản.
Hỏi
1. Hãy phân tích và phản bác ý kiến không đúng và xác định tội danh đúng.
2. Giả định K đủ 17 tuổi và H đủ 15 tuổi thì có vụ đồng phạm không và mức
hình phạt cao nhất có thể áp dụng trong trường hợp phạm tội nêu trên là bao nhiêu
năm tù?
NỘI DUNG
I. Hãy phân tích và phản bác ý kiến không đúng và xác định tội danh
đúng.
1. Ý kiến thứ nhất
“K và H phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản vì chúng đã có hành vi gian
dối đánh lừa người giúp việc.”
Định nghĩa về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản đã được quy định tại Khoản 1 –
Điều 139 – BLHS 1999 (Sửa đổi bổ sung năm 2009) như sau: “Người nào bằng thủ
đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ năm trăm nghìn đồng
đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả
nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết
án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải
tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.”
Mặt khách quan của tội phạm này đã chỉ rõ: Lừa đảo chiếm đoạt tài sản là sử
dụng những thủ đoạn gian dối, đưa ra những thông tin sai sự thật để người chủ hay
người quản lý hợp pháp tin tưởng, giao tài sản cho kẻ phạm tội.
Thủ đoạn gian dối của người phạm tội bao giờ cũng phải có trước việc giao
tài sản giữa người bị hại và người phạm tội. Về phía người bị hại, là người mất cảnh
2



giác, nhẹ dạ, cả tin hay do tham lam nên mới nên mới tạo điều kiện cho người phạm
tội lừa được. Một đặc điểm quan trọng của tội phạm này là khi bị lừa, người bị hại
phải tự nguyện giao tài sản cho kẻ phạm tội, tin rằng việc giao tài sản này là hoàn
toàn hợp pháp.
Từ đây đối chiếu với tình huống mà đề bài cho: K và H đã sử dụng thủ đoạn
lừa dối là mang gói quà đến nhà ông N trên danh nghĩa là chúc tết để lừa bà giúp
việc P, với mục đích tạo điều kiện tiếp cận dễ dàng hơn đến tài sản của gia đình ông
N. Chúng chỉ lợi dụng bà P để cho chúng vào nhà chứ không lừa bà P đưa tài sản
cho chúng, và bà P sau khi bị H và K dọa trói thì cũng đã biết được mục đích chiếm
đoạt tài sản của chúng. N và K cũng tự mình mở két để lấy đi số tài sản của ông N.
Vì vậy, ý kiến cho rằng K và H phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản vì chúng
đã có hành vi gian dối đánh lừa người giúp việc là sai.
2. Ý kiến thứ hai
“K và H phạm tội trộm cắp tài sản vì chúng có hành vi lợi dụng lúc gia
đình ông N đi vắng để lấy tài sản. Tuy bà P ở nhà nhưng bà P chỉ là người giúp
việc, không phải là chủ sở hữu của những tài sản đó.”
Theo quy định tại Khoản 1 – Điều 138 – BLHS về tội trộm cắp tài sản thì:
“Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến
dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả
nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết
án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải
tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.”
Có thể định nghĩa tội trộm cắp tài sản như sau: Trộm cắp tài sản là hành vi
lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác. Với đặc điểm nổi bật là người phạm tội
phải lén lút (bí mật), không dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hay bất cứ thủ đoạn nào
nhằm uy hiếp tinh thần, lấy đi tài sản mà chủ sở hữu hay người quản lý tài sản
không biết mình đã bị mất đi tài sản, chỉ sau khi đó mới biết được.
Theo như tình huống của đề bài, khi H và K phá két sắt và lấy đi tài sản của

nhà ông N, thì bà giúp việc P vẫn đang có mặt ở đó. Ở đây, bà P có thể được coi là
người quản lý tài sản tạm thời cho số tài sản của gia đình ông N (Người quản lý tài
3


sản là người đang nắm giữ hoặc trông coi, bảo vệ tài sản nhưng lại không phải là
chủ sở hữu tài sản và không có quyền định đoạt tài sản). Hơn nữa, bà P hoàn toàn
biết được ý đồ và hành vi chiếm đoạt tài sản của H và K, vì bà đã bị chúng dọa trói,
nhưng bà đã van xin để không bị trói cũng như chứng kiến toàn bộ sự việc H và K
lấy đi tài sản. Do đó, hành vi của H và K không hề có tính lén lút hay bí mật (hay
đúng hơn là chỉ lén lút với chủ tài sản là ông N).
Vì vậy, N và K không phạm tội trộm cắp tài sản.
3. Ý kiến thứ ba
“K và H phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản vì chúng công khai lấy tài
sản trước mắt người giúp việc.”
Ý kiến trên là không đúng, bởi vì
Theo Khoản 1 – Điều 137 – BLHS về tội công nhiên chiếm đoạt tài sản có
quy định: “Người nào công nhiên chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ
năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn
đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi
chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà
còn vi phạm, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.”
Tuy chưa được quy định rõ ràng về hình thức, hành vi công nhiên chiếm đoạt
tài sản được thực hiện như thế nào, nhưng căn cứ vào lý luận và thực tiễn xét xử thì
công nhiên chiếm đoạt tài sản là hành vi công khai (không giấu giếm hành vi, thực
hiện một cách trắng trợn) lấy tài sản trước sự chứng kiến của người chủ hoặc người
quản lý tài sản mà họ không thể làm gì hay không có biện pháp ngăn cản được hành
vi chiếm đoạt, kẻ phạm tội không dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hay bất kỳ thủ
đoan nào nhằm uy hiếp tinh thần.
Từ đây có thể thấy được những dấu hiệu rõ ràng của tội phạm này:

Thứ nhất là tính chất công khai, trắng trợn của hành vi chiếm đoạt – Áp dụng
vào tình huống của đề bài, N và K đã tự phá két, lấy đi tài sản trước sự chứng kiến
của bà P.
Thứ hai, người chủ hoặc người quản lý tài sản hoàn toàn biết được, chứng
kiến hành vi chiếm đoạt tài sản, không có khả năng, biện pháp ngăn cản hành vi
4


phạm tội – bà P hoàn toàn nhận biết được ý định chiếm đoạt tài sản của 2 kẻ phạm
tội, cũng như nhìn thấy toàn bộ sự việc lấy đi tài sản của H và K. Có thể do quá sợ
hãi và lo hai kẻ phạm tội sẽ làm gì nguy hại tới mình nên bà P không hề có hành vi
ngăn cản nào, chỉ khi chúng đi mất bà mới ra ngoài đường hô hoán. Tuy nhiên, cũng
không thể khẳng định hoàn toàn rằng bà P không có biện pháp ngăn cản H và K (bà
có thể lợi dụng lúc sơ hở lúc chúng đang phá két để chạy đi hô hoán cho hàng xóm
biết,… nhưng có thể đây là ý định vô cùng nguy hiểm). Nếu như bà P không được
coi là người quản lý tài sản tạm thời cho ông N lúc đó, thì dấu hiệu này không được
thể hiện, do gia đình ông N lúc đó không có mặt ở nhà, không thể biết được hành vi
chiếm đoạt tài sản của H và K.
Thứ ba, người phạm tội không dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hay bất kỳ
thủ đoan nào nhằm uy hiếp tinh thần người chủ sở hữu hay người quản lý tài sản – H
và K đã hoàn toàn vi phạm dấu hiệu này, bằng hành vi dọa trói bà P ngay từ khi vào
được nhà, để bà P không cản trở việc chúng chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên sau khi
nghe bà P van xin thì chúng đã không quan tâm đến bà nữa mà đi vào lấy tài sản
luôn. Do đã có ý định nhằm dùng vũ lực, uy hiếp tinh thần bà P (có thể được coi là
người quản lý tài sản tạm thời cho gia đình ông N lúc bấy giờ) nên dấu hiệu này
cũng không được thể hiện một cách chính xác. Hơn nữa H và K còn có hành vi như
gian dối bà P để vào được trong nhà,…
Vì vậy, H và K không phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản.
4. Ý kiến thứ tư
“K và H phạm tội cướp tài sản.”

Theo Khoản 1 – Điều 133 – BLHS có quy định về tội cướp tài sản như sau:
“Người nào dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác
làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm
đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm.”
Căn cứ vào cấu thành tội phạm của tội cướp tài sản, ta có thể thấy:
- Mặt khách thể của tội phạm: Tội cướp tài sản xâm hại cùng một lúc đến
hai khách thể – quan hệ nhân thân (sức khỏe, tính mạng của công dân) và quan hệ
tài sản (quyền sở hữu đối với tài sản). Cụ thể trong trường hợp của đề bài, H và K
5


xâm hại đến quyền sở hữu của ông N với số tiền mặt, vàng và ngoại tệ trong két sắt,
hơn nữa đe dọa xâm phạm tới sức khỏe, tính mạng của bà P.
- Mặt khách quan: với những hành vi như dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực
ngay tức khắc hoặc làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống
cự. Trong trường hợp này, H và K đã sử dụng đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc đối
với bà P, với những biểu hiện như:
+ Nội dung và hình thức của hành vi đe dọa: K và H đã có hành vi đe
dọa dùng vũ lực ngay tức khắc nhằm chống lại sự phản kháng của bà P để chiếm
đoạt tài sản (ý định, hành vi trói bà P lại). Ngay tức khắc là khi H và K vờ uống
nước đã xông vào và đe dọa trói bà P.
+ Sự tương quan lực lượng giữa hai bên: Có thể thấy rõ sự không cân
bằng khi bên bị hại lúc đó chỉ có bà P là người giúp việc đối mặt với 2 kẻ phạm tội
H và K là đàn ông, khỏe mạnh hơn bà P rất nhiều. K và H dễ dàng có thể đe dọa đến
sức khỏe và tính mạng của bà P nếu chúng ra tay.
+ Hoàn cảnh: Thời điểm H và K phạm tội là lúc ông N đi vắng, chỉ có
người giúp việc là bà P ở nhà. Hơn nữa còn là trong những ngày tết, thời điểm mà
mọi người khác vô cùng bận rộn, việc đi chúc tết do H và K giả tạo cũng không có
gì mờ ám – hành vi phạm tội tại nhà ông N khó có thể phát hiện được.
- Mặt chủ quan: Tội phạm đã được thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý trực

tiếp, xu hướng vụ lợi. Mục đích chiếm đoạt được coi là dấu hiệu thuộc mặt chủ
quan. Trong tội phạm này, mục đích chiếm đoạt của người phạm tội phải luôn có
trước hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực… Tuy nhiên, trong một số trường
hợp khác theo lý luận và thực tiễn xét xử, cũng có thể bị quy về tội cướp tài sản,
như: Mục đích chiếm đoạt có thể đến sau khi chủ thể đang thực hiện hành vi phạm
tội với mục đích khác (trả thù,…), và cuối cùng vẫn chiếm đoạt số tài sản từ người
bị hại. Cũng như thế, một vài trường hợp có thể không bị coi là tội cướp đoạt tài sản,
khi mà chủ thể phạm tội đã có mục đích chiếm đoạt từ trước, đã thực hiện hành vi
của tội cướp tài sản, nhưng sau đó lại bỏ chạy, để lại tài sản phía sau,…
Có thể thấy, H và K đã lên kế hoạch kĩ lưỡng, rõ ràng trong việc đi chiếm tài
sản từ ông N, chúng tìm hiểu rõ ràng, lợi dụng thời điểm gia đình ông N đi sắm tết,
6


với thủ đoạn lừa gạt – mang một túi quà trên danh nghĩa là chúc tết để lừa bà P vào
nhà, dễ dàng tiếp cận đến số tài sản hơn. Lỗi của H và K là lỗi cố ý trực tiếp – do
chúng đã có ý định từ trước, tự mình, cố tình thực hiện và có thể thấy được hậu quả
có thể xảy ra là gia đình ông N bị mất tài sản, bà P có thể bị đe dọa đến sức khỏe,
tính mạng nếu cố ngăn cản H và K.
Qua những phân tích ở trên, ta có thể thấy H và K đã phạm tội cướp tài sản.
Vậy khẳng định thứ tư là đúng.
II. Giả định K đủ 17 tuổi và H đủ 15 tuổi thì có vụ đồng phạm không và
mức hình phạt cao nhất có thể áp dụng trong trường hợp phạm tội nêu trên là
bao nhiêu năm tù?
1. Vụ đồng phạm
Theo quy định tại Điều 20 – BLHS, có thể coi K và H là vụ đồng phạm, đầy
đủ hơn đồng phạm đơn giản (do cả K và H đều có vai trò là người thực hành). Bởi vì
H và K cùng thực hiện một tội phạm, cùng có ý định, mục đích chung như nhau
(cướp tài sản gia đình ông N), đã có bàn bạc trước với nhau. Cả hai đều nhận thức
được hành vi của mình là nguy hiểm, sẽ gây ra hậu quả nhưng vẫn để mặc hậu quả

ấy xảy ra.
2. Hình phạt cao nhất có thể áp dụng
Ở đây, ta xét đến Điều 12. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự, có thể thấy: H do
mới 15 tuổi nên chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội rất nghiêm trọng do cố ý
hoặc tội cực kỳ nghiêm trọng, còn K do đã đủ 17 tuổi nên phải chịu trách nhiệm
hình sự về mọi tội mà mình gây ra.
Hơn nữa, theo Điều 133 – BLHS về Khoản 4. Phạm tội thuộc một trong các
trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười tám năm đến hai mươi năm, tù chung thân
hoặc tử hình: …“Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên”… Do
tổng số tiền từ số tài sản mà H và K chiếm được là 600 triệu đồng, nên H và K sẽ
phải chịu tội đặc biệt nghiêm trọng (Khoản 3 – Điều 8).
Theo Điều 68 – BLHS và đặc biệt là Điều 74 – BLHS
“Người chưa thành niên phạm tội chỉ bị phạt tù có thời hạn theo quy định
sau đây:

7


1. Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều
luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt
cao nhất được áp dụng không quá mười tám năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức
hình phạt cao nhất được áp dụng không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật
quy định;
2. Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều
luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt
cao nhất được áp dụng không quá mười hai năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức
hình phạt cao nhất được áp dụng không quá một phần hai mức phạt tù mà điều luật
quy định.”
Vì vậy, từ những phân tích trên, có thể thấy mức hình phạt cao nhất mà H có
thể phải chịu là 12 năm tù. Còn K thì có thể phải chịu nhiều nhất 18 năm tù.

KẾT LUẬN
Việc gia tăng tội phạm với tính chất và hành vi ngày càng tinh vi, chuyên
nghiệp hơn vào thời điểm hiện tại, đòi hỏi trước hết sự vào cuộc mạnh mẽ của các
cơ quan chức năng, ngăn chặn tận gốc những hành vi, thủ đoạn của kẻ phạm tội, đề
ra những hình thức xử lý mới nhằm răn đe. Hơn nữa, người dân phải biết tự mình đề
cao cảnh giác đối với tội phạm, đặc biệt là các tội xâm phâm phạm tới quyền sở hữu,
bảo đảm an toàn cho bản thân, những người xung quanh cũng như tài sản của mình.

8


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình luật Hình sự Việt Nam tập 1 – 2, Nxb CAND, 2007.
2. Bình luận khoa học bộ Luật Hình sự, phần các tội phạm, tập 2, Nxb Tp. Hồ
Chí Minh, 2002.
3. Bộ Luật Hình sự 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009.
4. Đấu tranh phòng, chống tội trộm cắp tài sản ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ,
Hoàng Văn Hùng, Trường ĐH Luật Hà Nội, 2008.
5. www.cand.com
6. www.moj.gov.vn

9


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU....................................................................Error: Reference source not found
NỘI DUNG................................................................ Error: Reference source not found
I. Hãy phân tích và phản bác ý kiến không đúng và xác định tội danh đúng.Error:
Reference source not found
1. Ý kiến thứ nhất......................................................Error: Reference source not found

2. Ý kiến thứ hai........................................................Error: Reference source not found
3. Ý kiến thứ ba.........................................................Error: Reference source not found
4. Ý kiến thứ tư..........................................................Error: Reference source not found
II. Giả định K đủ 17 tuổi và H đủ 15 tuổi thì có vụ đồng phạm không và mức hình
phạt cao nhất có thể áp dụng trong trường hợp phạm tội nêu trên là bao nhiêu
năm tù?.......................................................................Error: Reference source not found
1. Vụ đồng phạm.......................................................Error: Reference source not found
2. Hình phạt cao nhất có thể áp dụng......................Error: Reference source not found
KẾT LUẬN................................................................Error: Reference source not found
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................Error: Reference source not found

10



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×