Tải bản đầy đủ (.docx) (67 trang)

Bài giảng 5 bước và 12 nguyen lý TCHST trong QLTNTN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (402.97 KB, 67 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG HÀ NỘI
KHOA MÔI TRƯỜNG

TẬP BÀI GIẢNG

TIẾP CẬN HỆ SINH THÁI TRONG QUẢN LÝ
TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN
(The Ecosystem Approach in Natural Resource Management)

TS. LÊ VĂN HƯNG

Hà Nội, 2015


Tài liệu học tập
1. Tài liệu chính
(1) Thomas G. Barnes,2014. An Ecosystems Approach to Natural Resources
Management, University of Kentacky. UK.
(2) Gill Shepherd, 2004. The Ecosystem Approach Five Steps to
Implementation, Publishing House by IUCN. (tài liệu dịch của IUCN)
(3)

Dimple Roy, Jane Barr, and Henry David Venema 2011. Ecosystem

Approaches in Integrated Water Resources Management (IWRM) . In
Partnership with the UNEP-DHI Centre for Water and Environment August
2011.
(4) Sustainable Forest management snd The Ecological Approuch: Two
Concepts, One Goal. Mette Loyche Wilke, Peter Holmgren and Froglan
Castanela Forest Resources Development Service, 2003.
2. Tài liệu đọc thêm:


(5). Lê Huy Bá (chủ biên), Vũ Chí Hiếu, Võ Đình Long (2002), Tài nguyên môi
trường và phát triển bền vững, Nhà xuất bản Khoa học Kỹ thuật.
(6) Hứa Chiến Thắng (2008). Quản lý tổng hợp đới bờ, hướng tới phát triển bền
vững ở Việt Nam, Hội thảo Xây dựng quản lý biển đới bờ
(7) Nguyễn Xuân Cự, Đỗ Đình Sâm (2003), Giáo trình tài nguyên rừng, NXB
Đại học Quốc gia Hà Nội
(8) Luật đa dạng sinh học, 2008. Quốc hội nước CHXCHCN Việt Nam….
(9) Nguyễn Phương Loan (2005), Giáo trình tài nguyên nước, NXB Đại học
Quốc gia Hà Nội


Nội dung
Chương 1. Tổng quan về tiếp cận hệ sinh thái trong quản lý tài
nguyên thiên nhiên.
Khái niệm chung
1.1 Tiếp cận hệ sinh thái và Quản lý tài nguyên thiên nhiên
1.1.1. Khái niệm Tiếp cận hệ sinh thái
1.1.2. 5 bước trong tiếp cận hệ sinh thái trong quản lý tài nguyên thiên

nhiên
1.1.3. Các yêu cầu

LT

4
4
1,0
2,0
1,0


1.2. Thảo luận

Chương 2. Cách tiếp cận hệ sinh thái trong quản lý tài nguyên nước
2.1. Giới thiệu
- Khái niệm về Cách tiếp cận hệ sinh thái và quản lý tổng hợp nguồn
nước
- Giới thiệu về hệ sinh thái và cách tiếp cận sinh thái trong quản lý tài
nguyên nước.
2.2. Quản lý các hệ sinh thái và Quản lý tổng hợp đất ngập nước
- Quản lý các hệ sinh thái đất ngập nước
- Áp dụng cách tiếp cận sinh thái trong quản lý tài nguyên nước
Chương 3. Cách tiếp cận hệ sinh thái trong quản lý tài nguyên đất
3.1. Giới thiệu
- Khái niệm về Cách tiếp cận hệ sinh thái và quản lý tổng hợp đất
- Giới thiệu về hệ sinh thái và cách tiếp cận sinh thái trong quản lý tài
nguyên đất(nông, lâm, thủy)
3.2. Quản lý các hệ sinh thái và Quản lý tổng hợp đất
- Quản lý các hệ sinh thái đất (nông , lâm, thủy)

6,0
3,0
1,5
1,5
3,0
1,0
2,0
6,5
2
1.0
1.0

4,5
2
2,5

- Áp dụng cách tiếp cận sinh thái trong quản lý tài nguyên đất (nông,
lâm, thủy)
Chương 4. Cách tiếp cận hệ sinh thái trong quản lý tài nguyên sinh

8,0


vật, đa dạng sinh học và hệ sinh thái rừng
4.1. Khái niệm tiếp cận hệ sinh thái quản lý TNSV, đa dạng sinh học
4.1.1. Tiếp cận hệ sinh thái trong quản lý TNSV
4.1.2. Tiếp cận hệ sinh thái trong quản lý Đa dạng sinh học
4.1.3. Tiếp cận hệ sinh thái trong quản lý Đa dạng sinh học và phát triển
bền vững
4.2. Khái niệm tiếp cận hệ sinh thái trong quản lý rừng bền vững
4.2.1. Vai trò của đa dạng sinh học và phát triển rừng
4.2.2. Nguyên tắc tiếp cận HST và phát triển rừng

4,0
1,0
1,5
1,5
4,0
1,0
1,5
1,5


4.2.3. Áp dụng tiếp cận HST và phát triển rừng
Thảo luận
Kiểm tra
Cộng

1,0
24,5


GIỚI THIỆU
Tiếp cận hệ sinh thái là một chiến lược để quản lý tổng hợp đất, nước và
các tài nguyên sống nhằm tăng cường bảo vệ và sử dụng bền vững theo hướng
công bằng. Nó là khung cơ bản cho hành động của Hiệp định về Đa dạng sinh
học (CBD) và bao gồm 12 nguyên lý (trang 2). Khi xem xét làm thế nào để có
thể thực hiện tốt nhất tiếp cận hệ sinh thái, đã có một vài nỗ lực để xếp hạng các
nguyên lý theo mức độ quan trọng hoặc theo chủ đề.
Trong khi những nỗ lực này khá thú vị về mặt khái niệm, vẫn có những
khoảng trống đó là sự trợ giúp về mặt thực tiễn trong việc áp dụng lĩnh vực tiếp
cận hệ sinh thái Ủy ban IUCN về Quản lý hệ sinh thái (CEM) đã xây dựng tài
liệu này nhằm lấp đầy khoảng trống này.
Chúng tôi đã tập hợp nhiều Các nguyên lý Tiếp cận Hệ sinh thái thành một
tiếp cận chung để thúc đẩy những thảo luận, lập kế hoạch và hành động từng
bước. Đương nhiên, ta không thể giải quyết từng khía cạnh của một hệ sinh thái
một cách đơn lẻ cho dài hạn và những khía cạnh này có thể được xem xét giải
quyết sớm trong những nội dung mô tả dưới đây và sẽ được kiểm tra thường
xuyên. Tuy nhiên, tiếp cận này nâng cao khả năng chủ động bởi vì nó khuyến
khích cả nhà nghiên cứu và các cán bộ thực địa tập trung vào một nhóm vấn đề
tại một thời điểm.
Trong cách tiếp cận này, hệ sinh thái, các cư dân của nó, những thách thức,
cơ hội hiện hữu có thể dần thấy và quản lý được thành trọng tâm.

Lịch sử và phát triển của quản lý hệ sinh thái dựa trên
Hệ sinh thái dựa trên quản lý có rễ trong tư tưởng của các nhà bảo tồn đầu
như Aldo Leopold, và trong cách tiếp cận hệ sinh thái và phương pháp tiếp cận
tổng quát đã được phát triển trong sinh thái học, nhân chủng học và các môn học
khác trong những năm 1960 và 1970 dựa trên hệ thống. Những phát triển khoa
học và triết học đã giúp để thông báo cho các phương pháp quản lý tài nguyên
trong khu vực, bioregional, và tích hợp, chẳng hạn như quản lý lưu vực sông và
quản lý tổng hợp vùng ven biển, tất cả đều đưa vào khuôn khổ cho quản lý hệ
sinh thái dựa trên từ đó đã xuất hiện. Quản lý hệ sinh thái dựa trên xây dựng dựa
trên những phương pháp trước đó trong khi kết hợp các yếu tố của khoa học hệ
5


sinh thái, sinh học bảo tồn, và quy hoạch môi trường và duy trì một trọng tâm rõ
ràng về việc quản lý các tác động của con người trong hệ sinh thái.
Đối với một số ngành, pháp luật liên bang và nhà nước đã chỉ đạo quản lý
để kết hợp phương pháp tiếp cận hệ sinh thái vào việc ra quyết định. Năm 1996,
Luật Thủy sản Bền vững (SFA), Quốc hội thông qua và có chữ ký của Tổng
thống Clinton, bắt buộc rằng động thái quản lý nghề cá đối với việc sử dụng các
phương pháp hệ sinh thái, bao gồm, đặc biệt, kết hợp tốt hơn các thông tin về
môi trường sống cá. Pháp luật này đã gieo hạt giống cho quản lý nghề cá dựa
vào hệ sinh thái (EBFM) ở Mỹ - một cách tiếp cận theo hướng quản lý trên cơ
sở hệ sinh thái (EBM), nhưng đó là tập trung vào một lĩnh vực duy nhất của hoạt
động con người. EBFM xây dựng dựa trên thực tiễn hiện nay như việc xem xét
môi trường và khí hậu, chế độ, môi trường sống thiết yếu cá, tác động không
đánh bắt cá trên nguồn hải sản, quản lý đánh bắt khi bị đe dọa tới các loài nguy
cấp, và như vậy sự không chắc chắn và rủi ro được tính đến trong các quyết định
quản lý, trong khi kết hợp các yếu tố trên thành một khuôn khổ pháp lý mới .
Gần đây, Ủy ban Đại dương Pew và Uỷ ban Hoa Kỳ về chính sách đại
dương kết luận rằng một sự kết hợp của các hoạt động của con người trên đất,

dọc theo bờ biển, và trong các đại dương dù vô tình nhưng đang ảnh hưởng
nghiêm trọng đến hệ sinh thái biển và đe dọa khả năng của các hệ sinh thái đại
dương để cung cấp cho con người những lợi ích mong đợi từ các đại dương. Cần
một sự tích hợp, phương pháp tiếp cận toàn diện hơn, tiếp cận hệ sinh thái dựa
trên nguyên tắc phát triển bền vững, thích ứng và quản lý có sự tham gia của
người dân, cộng đồng và áp dụng khoa học tiên tiến .

6


CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ TCHST TRONG QLTNTN

Một số khái niệm cơ bản.
Hệ sinh thái là gì?
Hệ sinh thái là một đơn vị cấu trúc và chức năng của sinh quyển, gồm: các
quần xã thực vật, các quần xã động vật, các quần xã vi sinh vật, thổ nhưỡng
(đất) và các yếu tố khí hậu. Các thành phần này liên hệ với nhau thông qua các
chu trình vật chất và năng lượng
Cách tiếp cận hệ sinh thái là gì?
Các phương pháp tiếp cận hệ sinh thái là một "chiến lược quản lý tổng hợp
đất, nước và các nguồn tài nguyên tái sinh nhằm tăng cường bảo tồn và sử dụng
đất bền vững trong thực tế một cách công bằng”
Cách tiếp cận này rõ ràng làm cho sự liên kết giữa các dịch vụ sẽ hỗ trợ cho
cuộc sống và con người hạnh phúc và bảo tồn tài nguyên thiên nhiên của trái
đất.
Chính phủ Welsh và quản lý tài nguyên thiên nhiên “Duy trì một lối sống
Xanh Wales” của Chính phủ Welsh, được công bố vào tháng Giêng 2012 đề xuất
một phương pháp tiếp cận hệ sinh thái để quản lý tài nguyên thiên nhiên ở xứ
Wales để đáp ứng mục tiêu đầy thách thức của việc đảm bảo “hệ sinh thái mền
dẻo, hiệu quả, khỏe mà quản lý bền vững và cung cấp cho toàn xã hội, hỗ trợ

việc làm và phúc lợi”. Cách tiếp cận này cho phép cho một sự thống nhất quản
lý tài nguyên thiên nhiên từ xem xét các bộ phận riêng lẻ để xem xét môi trường
tổng thể. Nó cho phép một phạm vi rộng lớn hơn nhiều để quản lý sử dụng đất
và ra quyết định vượt ra ngoài môi trường tự nhiên và bao gồm các yếu tố xã
hội, văn hóa và kinh tế tích hợp cùng dịch vụ hệ sinh thái.
12 Nguyên lý của Tiếp cận hệ sinh thái
1. Những mục tiêu của quản lý đất, nước và môi trường sống là một vấn đề
của sự lựa chọn xã hội.
2. Quản lý nên được phân cấp đến cấp quản lý phù hợp nhất và thấp nhất.
7


3. Các nhà quản lý hệ sinh thái nên xem xét những ảnh hưởng (thực tế hoặc
tiềm năng) của các hoạt động họ thực hiện tới những hệ sinh thái lân cận và các
hệ sinh thái khác.
4. Nhận thức rõ những lợi ích có thể đạt được từ quản lý, đó là sự cần thiết
thường xuyên để hiểu được và quản lý hệ sinh thái trong một bối cảnh kinh tế.
Mỗi một chương trình quản lý hệ sinh thái như thế này nên bao gồm:
(i) Giảm những khiếm khuyết của thị trường làm ảnh hưởng tiêu cực đến
sự đa dạng sinh học;
(ii) Khuyến khích để thúc đẩy việc sử dụng bền vững và bảo tồn sự đa dạng
sinh học và
(iii) Nội tại hóa chi phí và lợi ích của một hệ sinh thái ở một cấp độ khả thi
nhất.
5. Việc bảo tồn cấu trúc và chức năng hệ sinh thái, để duy trì dịch vụ hệ
sinh thái nên được xem như là một mục tiêu ưu tiên của tiếp cận hệ sinh thái.
6. Hệ sinh thái nên được quản lý trong phạm vi chức năng của nó.
7. Tiếp cận hệ sinh thái nên được thực hiện ở một phạm vi không gian và
thời gian phù hợp.
8. Nhận ra được sự khác nhau phạm vi không gian và những tác động trễ

do đặc thù của một hệ sinh thái, mục tiêu của quản lý hệ sinh thái nên được thiết
lập cho dài hạn.
9. Quản lý phải nhận ra sự thay đổi là không thể tránh khỏi.
10. Tiếp cận hệ sinh thái nên tìm kiếm sự cân bằng thích hợp và sự hòa
nhập của việc bảo tồn và sử dụng đa dạng sinh học.
11. Tiếp cận hệ sinh thái nên xem xét tất cả các dạng của thông tin có liên
quan, bao gồm những kiến thức khoa học và bản địa và địa phương, sự đổi mới
và thực tiễn.
12. Tiếp cận sinh thái nên thu hút sự tham gia của tất cả các bên có liên
quan của một xã hội và những kiến thức khoa học.
Tổ chức các nguyên lý
12 Nguyên lý đã được tổ chức thành 5 bước, mỗi bước liên quan đến một
phạm vi các hoạt động. Năm bước thực hiện tiếp cận hệ sinh thái như sau:
8


-

Bước A Xác định các nhóm có liên quan chính, xác định khu vực hệ sinh thái

và phát triển mối quan hệ giữa các bên và hệ sinh thái.
- Bước B Phác họa cấu trúc và chức năng của hệ sinh thái và thiết lập cơ chế để
quản lý và giám sát nó.
- Bước C Xác định tầm quan trọng của các vấn đề kinh tế sẽ có ảnh hưởng đến
hệ sinh thái và các cư dân trong hệ sinh thái.
- Bước D Xác định những tác động có thể xảy ra của hệ sinh thái này tới các hệ
sinh thái lân cận.
- Bước E Xây dựng các mục tiêu dài hạn, và các giải pháp linh hoạt để đạt được
những mục tiêu này
TIẾN HÀNH CÁC BƯỚC

Bước A Xác định các nhóm có liên quan chính và khu vực hệ sinh thái
- Bước A bao gồm những vấn đề khó khăn nhất:
Xác định các nhóm có liên quan chính;
Xác định khu vực sinh thái, và
Phát triển mối quan hệ giữa chúng.
Việc xác định đồng thời khu vực hệ sinh thái và các nhóm liên quan là
những người sẽ hỗ trợ sự lựa chọn và quản lý khu vực đó là rất quan trọng. Dù
bắt đầu với việc xác định khu vực hay xác định các nhóm có liên quan thì cũng
sẽ tốn thời gian và công sức để đạt được một công việc khả thi.
Chúng ta bắt đầu với các vấn đề về các bên có liên quan. Với nhiều nỗ lực
trước đây về quản lý sự đa dạng sinh học đã cố gắng gắn các bên liên quan vào
một khu vực đã được lựa chọn mà không xem xét đến những hàm ý rộng hơn về
tiếp cận sinh thái, nhấn mạnh vào sự lựa chọn của xã hội.
Nguyên lý liên quan đến Bước A
1. Mục tiêu của quản lý đất, nước, và các tài nguyên sống là một vấn đề
của sự lựa chọn xã hội.
7. Tiếp cận hệ sinh thái nên được thực hiện ở một phạm vi không gian và
thời gian phù hợp.
11. Tiếp cận hệ sinh thái nên xem xét tất cả các dạng của thông tin có liên
quan, bao gồm thông tin khoa học, thông tin bản xứ và kiến thức, sự đổi mới và
thực tiễn của địa phương.
12. Tiếp cận sinh thái nên thu hút sự tham gia của tất cả thành phần có liên
quan của một xã hội và những kiến thức khoa học.
Bước A: Nghiên cứu điển hình, xác định các bên liên quan Bocas del Toro
Archipelago, Panama
9


Nguồn tài nguyên chính được quản lý ở khu vực này là hệ sinh thái biển.
Các bên có liên quan – ngư dân, phụ nữ và các cư dân địa phương - đã thương

lượng về quyền quản lý các dãy san hô và khu vực đánh bắt thông qua việc thiết
lập các ban thủy sản địa phương (COLOCOPES). Với sự trợ giúp của 2 tổ chức
phi chính phủ (NGOs) là thành viên của IUCN:
Fundación Promar và Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên(TNC), các ban thủy sản
đã xây dựng đề xuất về các quy định cho việc quản lý đánh bắt thông qua Bocas
del Toro Archipelago.
Các nhóm COLOCOPES đã xác định 7 khu bảo tồn nguồn lợi thủy sản
cộng đồng bao gồm cả vùng cấm đánh bắt (để cho sinh sản) và các nguồn thủy
sản có chất lượng cao (ở đó việc khai thác cần được quy định chặt chẽ hơn). Các
nhóm COLOCOPES cũng đã tạo ra được các hiệp hội đánh bắt vùng, khu vực
đảo (ADEPESCO) để khuyến khích vị trí đàm phán của họ đối với các tổ chức
thể chế khác có quyền lực hơn.
Các ban ngành địa phương của chính phủ chịu trách nhiệm kiểm soát các
nguồn lợi thủy sản và các khu vực bảo tồn không ngừng tăng cường sự hỗ trợ
cho ý tưởng bảo tồn quản lý thủy sản cộng đồng. Hiện nay, các cuộc họp giữa
ADEPESCO và chính quyền địa phương diễn ra thường xuyên để giám sát và
đối phó với các vấn đề phát sinh.
Xác định các bên liên quan
Cả Nguyên lý 1vàNguyên lý 12nhấn mạnh đến sự tham gia của xã hội vào
sự lựa chọn hệ sinh thái và các mục tiêu quản lý, và ở một phạm vi của các kỹ
năng cần thiết.
Nguyên lý không đề ra tiêu chuẩn nào để lựa chọn một phần của xã hội, và
kiến thức của nó đối với các phần khác mặc dù điều này sẽ cần thiết trong thực
tiễn. Điều này đòi hỏi một sự phân tích các bên liên quan.
Phân tích các bên liên quan
Xác định các bên liên quan chính với sự quan tâm vào hệ thống sinh thái đã
đề xuất.
Trước tiên đánh giá bên liên quan chính sau đó bên liên quan thứ hai hoặc
thứ ba và đánh giá đánh giá rõ quan điểm của họ.
Bên liên quan chính

10


Là những người gần như phụ thuộc vào tài nguyên, mà họ thường đóng vai
trò tích cực trong quản lý nguồn tài nguyên đó và họ phải được xem là nhóm
liên quan chính.
Bên liên quan thứ hai và thứ ba
Là những bên mà tiếng nói của họ có trọng lựơng, có thể được đánh giá là
bên liên quan thứ hai và thứ ba bao gồm cán bộ chính quyền địa phương và
những người sống gần nguồn tài nguyên nhưng không quá phụ thuộc vào nó
(thứ hai); và các cán bộ cấp quốc gia và các tổ chức bảo tồn quốc tế (thứ ba).
Bước A: Nghiên cứu điển hình, xác định các bên liên quan (tiếp theo)
Tổ chức quản lý khu bảo tồn hưởng ứng ADEPESCO như là một sự hỗ trợ
quan trọng cho Công viên hải duơng quốc gia Isla Bastimentos, trong khi đó các
cơ quan quản lý tài nguyên biển rất quan tâm đến áp lực ngày càng lớn lên,
nguồn lợi thủy sản của địa phương và sẵn sàng xem xét những đề xuất xây dựng
để giải quyết áp lực này. Fundación Promar và TNC, cùng với các cơ quan quản
lý quốc gia chịu trách nhiệm quản lý tài nguyên biển đang thử nghiệm xem liệu
một quy định luật mới về biển có là sự mở cửa phù hợp cho việc bảo tồn nguồn
lực thủy sản của cộng đồng. Cơ quan quản lý các khu vực bảo tồn quốc gia quan
tâm đến tiếp cận này nhưng một điều băn khoăn là việc phát triển du lịch nhanh
chóng ở quần đảo Bocas del Toro Archipelago có thể cần có sự bảo vệ nghiêm
ngặt hơn các điều khoản quy định của các khu bảo tồn nguồn lực thủy sản cộng
đồng. Về ý tưởng, các kế hoạch của họ sẽ hỗ trợ và bảo vệ cả các bên liên quan
địa phương và nguồn lực thủy sản của họ. Tất cả những nhà quản lý hệ sinh thái
– hỗ trợ một phần và cạnh tranh một một phần, hoạt động ở các cấp khác nhau –
đang học cách làm việc cùng nhau để giải quyết áp lực ngày càng ra tăng lên hệ
sinh thái.Trong trung hạn, các vấn đề quản lý khả năng thích ứng có thể khuyến
khích một bước để bao gồm những tác động của các khu vực vùng cao lân cận
các nguồn lợi biển bởi vì ngư dân ngày càng nhận thức được những tác động của

các dòng phù sa từ lục địa và các hòn đảo đến hệ sinh thái biển.
Đánh giá năng lực quản lý và cam kết của các bên liên quan về lĩnh vực hệ
sinh thái. Thiết lập diễn đàn các bên có liên quan để họ gặp mặt thường xuyên.
Các bên liên quan chính có thể không có nhiều kinh nghiệm để phát biểu trong
11


những sự kiện như thế này và có thể cần sự giúp đỡ trong thảo luận các vấn đề
và chuẩn bị các bài trình bày cho diễn đàn chính.
Phân tích khu vực Độ rộng của khu vực sinh thái sẽ được lựa chọn thế nào
và sử dụng tiêu chuẩn nào để lựa chọn? Một kích thước và phạm vi thích
hợp(Nguyên lý 7)phải thoả mãn các tiêu chí sau đây:
Đáp ứng được những tiêu chuẩn về khoa học (Nguyên lý 11và Nguyên lý
12);
Phải phù hợp với năng lực quản lý, kiến thức và kinh nghiệm hiện tại
(Nguyên lý 11);
Xem xét đến những giới hạn về hành chính, luật pháp và văn hóa, là nơi có
thể đơn giản hóa thông tin liên lạc với các thể chế hiện hữu (Nguyên lý 11);
Nắm bắt được rằng các ý tưởng dài hạn có thể hạn chế bởi những cái
thường được xem là đơn vị quản lý hiệu quả trong ngắn hạn
Drylands in Niger-Nigeria
Sahel nằm ở vùng biên phía Nam của vùng Sahara, có khả năng về chăn
nuôi và sản xuất nông nghiệp. Sahel là một ví dụ điển hình về cách xác định
vùng hệ sinh thái trong cách nhìn của những người khai thác tài nguyên thường
xuyên và gắn bó nhất.
Do vùng đất khô hạn như thế này rất rộng và rất hỗn tạp, và có nhiều điều
cần biết về nó. Các vùng đất khô hạn đòi hỏi các cư dân phải rất linh hoạt, tìm
cách thích nghi và sáng tạo do lượng mưa khác nhau theo mùa và theo chu kỳ
dài. Ở vùng biên giới Niger-Nigeria, những người chăn nuôi gia súc phải di
chuyển vật nuôi của họ vài trăm km từ phía Bắc lên phía Nam hàng năm, theo

mùa mưa và có cỏ cho gia súc.
Các nông dân cư trú tại chỗ trồng hoa màu dọc theo đường dốc Nam – Bắc
nơi có lượng mưa tăng dần nhưng thưa thớt và không đều. Những vùng đất khô
hạn cũng tồn tại ngay cùng với những khu vực có lượng mưa cao hơn ở xa, do
sự dịch chuyển những nông dân thiếu việc làm sang các vùng khô hạn hơn
nhưng cũng tạo cơ hội nhập cư lao động và thị trường cho các cư dân vùng đất
khô hạn này.
Người dân - và việc khai thác cảnh quan và sự đa dạng sinh học là trung
tâm của quản lý hệ sinh thái. Bảo tồn, sản xuất và tính bền vững đều phụ thuộc
vào những quyết định của các nhà chức trách địa phương, đa số những người
12


nông dân sản xuất nhỏ hoặc những người chăn nuôi gia súc. Những quyết định
này tuân theo những kỹ thuật mới.
Chấp nhận rằng những phần thiết yếu của các khu vực hệ sinh thái được
lựa chọn ban đầu sẽ không phải là trách nhiệm của các cá nhân hay các nhóm
cụ thể, sau đó những đường biên giới có thể được suy xét lại.
Xây dựng mối quan hệ logic giữa các bên liên quan và khu vực.
Khi đã xác định rõ ràng những ai là các bên liên quan và ai có mối quan
tâm nhất đến quản lý khu vực nào trong hệ sinh thái, sau đó ta có thể xác định cả
danh giới hệ sinh thái và các cá nhân, các nhóm hoặc tổ chức có liên quan, họ là
những người có thể bảo vệ, quản lý và ra quyết định với những giới hạn này, cho
một thời gian từ trung hạn đến dài hạn.
Kết quả sẽ là một bức khảm của các khu vực, được quản lý bỏi các bên liên
quan khác nhau, ở các cấp độ khác nhau trong phạm vi tổng thể hệ sinh thái.
Trong khi các chuyên gia bảo tồn sẽ duy trì các tầm nhìn dài hạn, thực tiễn
của việc điều phối và quản lý sẽ cần được xây dựng từ dưới lên, thông qua diễn
đàn các bên liên quan, chứ không phải do chỉ định từ trên xuống.
Hoặc các hình thức quản lý, sự khuyến khích về kinh tế, sự thương lượng

về cạnh tranh hoặc xung đột và thế mạnh của trách nhiệm tập thể.
Hệ sinh thái không có mục tiêu, sự áp đặt về lãnh thổ ở trong vùng này, một
vùng mà hệ thống kênh rạch bề mặt hầu như không có và sự bồi đắp là một khái
niệm chỉ có một ít giá trị. Hơn nữa, các nhóm sử dụng tài nguyên (nhóm liên
quan) xác định hệ sinh thái cho riêng họ bởi vì chúng liên quan đến sinh kế và
những mối quan tâm về kinh tế của họ. Điều này được các nông dân địa phương,
những người khai thác gỗ, những người chăn thả gia súc và những người làm
thuốc hiểu rõ ở một cấp độ và những người chăn nuôi gia súc từ vùng khác đến
lại hiểu ở một cấp độ khác và chính phủ, các tổ chức quốc tế hiểu ở một cấp độ
khác nữa.
Chính vì vậy hệ sinh thái được xác định bởi các mối quan tâm kinh tế của
những người sử dụng tài nguyên vì đó là giá trị của sự đa dạng sinh học. Hệ sinh
thái khác nhau về kích thước, khác nhau giữa các nhóm sử dụng tài nguyên này
so với các nhóm khác. Điều này tạo ra sự cạnh tranh quyết liệt cho những tài
nguyên nhất định ở khu vực này và trong những mùa vụ nhất định, nhưng là sự
13


bổ trợ hữu ích ở những thời điểm khác và ở một địa điểm khác. Khung thể chế
cho quản lý việc tiếp cận, hưởng lợi từ các nguồn tài nguyên thiên nhiên là
không thể tách rời từ ngay hệ sinh thái đó. Những hệ sinh thái này đã được thay
đổi từ nhiều thiên niên kỷ do việc khai thác, và chúng có thể tiếp tục được thay
đổi không chỉ do việc khai thác và mùa mà còn xu hướng dài hạn hơn như sự
xâm lấn của sản xuất nông nghiệp và sự thâm canh sử dụng đất.
Bước B Cấu trúc, chức năng và quản lý hệ sinh thái
Bước B liên quan đến việc phác họa cấu trúc và chức năng hệ sinh thái,
thiết lập những cơ chế quản lý và giám sát nó.
Cấu trúc và chức năng hệ sinh thái
Làm thế nào chúng ta có thể xác định được những đặc tính của cấu trúc và
chức năng một hệ sinh thái, là những yếu tố cần thiết để cung cấp những sản

phẩm và dịch vụ hệ sinh thái? Làm thế nào chúng ta có thể nói một hệ sinh thái
bị đe doạ bở việc sử dụng và khai thác quá mức (Nguyên lý 5 và Nguyên lý 6)?
Cách hiệu quả nhất trước mắt thu hút các nhà khoa học và các cư dân địa
phương làm việc cùng nhau tại văn phòng cũng như tại ngay hệ sinh thái. Kiến
thức của mỗi nhóm thường khác nhau và bổ trợ cho nhau.
Những nguyên lý liên quan đến Bước B
2. Quản lý nên được phân cấp đến cấp quản lý thấp nhất phù hợp.
5. Việc bảo tồn cấu trúc và chức năng hệ sinh thái, để duy trì dịch vụ hệ
sinh thái nên được xem như là một một mục tiêu ưu tiên của tiếp cận hệ sinh
thái.
6.

Hệ sinh thái nên được quản lý trong phạm vi những giới hạn chức năng

của nó.
10. Tiếp cận hệ sinh thái nên tìm kiếm sự cân bằng phù hợp, và tổng hợp
của việc bảo tồn và sử dụng đa dạng sinh học.
Bước B: Nghiên cứu điển hình, quản lý cấu trúc và chức năng hệ sinh
thái Tỉnh Papua, Indonesia
Papua là khu bảo tồn lớn nhất của Indonesia với khu rừng nguyên sinh.
Diện tích rừng của khu vực này chiếm đến xấp xỉ 24% của tổng diện tích rừng
của Indonesia và rất giàu về sự đa dạng sinh học.
Gần đây, những cộng đồng lâm nghiệp và các cán bộ chính phủ dã tìm ra
những phương cách để xem xét những mối quan tâm chung của họ - bảo vệ môi
trường, quản lý rừng bền vững và sinh kế bền vững - từ phương hướng của tiếp
14


cận hệ sinh thái. Họ được hỗ trợ bởi các tổ chức phi chính phủ địa phương và
một chương trình lâm nghiệp nhiều bên do Chính phủ Anh tài trợ Chương trình

được thực hiện cả ở khu vực rừng vùng đất thấp và rừng vùng đất cao.
Những đàm phán đã được thực hiện với sự tham gia và đồng ý của các bên,
việc sử dụng đất đai hiệu quả về mặt môi trường đã được bắt đầu với những
quyết định của người dân địa phương để lập bản đồ cả những đường biên giới
của các nhóm dân tộc và các loại tài nguyên thiên nhiên và khu vực sử dụng.
Những bản đồ các nhóm sắc tộc này, khi so sánh với những bản đồ phân loại đất
của Phòng Lâm nghiệp, ngay lập tức đã bộc lộ những sự khác biệt, đòi hỏi có
các giải pháp xử lý nhanh chóng.
Ở những vùng đất thấp, là nơi lý tưởng cho việc thiết kế cho rừng sản xuất
và bảo tồn, một điều rõ ràng là cấu trúc và chức năng hệ sinh thái được định giá
bởi giá trị sử dụng của các nhóm dân tộc cao hơn Chính phủ đã làm.
Ở những vùng đất cao mà các bộ tộc có, hơn nữa đất sản xuất nông nghiệp,
Một bộ 7 công cụ như làvẽ bản đồ, ground-truthing, lược đồ mặt cắt, đánh giá
tài nguyên có sự tham gia (PRA), cùng với các bài tập về giám sát để đo lường
sự thay đổi so với các hoạt động cơ sở, xây dựng kiến thức hai chiều và niềm tin
cùng một thời điểm.
Sự cân đối giữa việc bảo tồn và sử dụng đa dạng sinh học sẽ đạt được
thông qua việc ra những quyết định có sự tham gia của các bên và thông qua sự
thống nhất về việc ai nên quản lý những phần nào của hệ sinh thái(Nguyên lý
10) cho những mục đích gì.
Một điều rất quan trọng là phải hiểu rằng kiến thức lúc đầu không đầy đủ là
không thể tránh khỏi nhưng nó sẽ được bổ sung dần theo thời gian nếu những
phương pháp có sự nhất trí cao được thiết lập ngay từ ban đầu. Tiếp cận hệ sinh
thái đòi hỏi chủ nghĩa thực tế: thường thì ta chỉ giải quyết những cái có thể
không phải là những cái lý tưởng về mặt lý thuyết.
Quản lý hệ sinh thái
Áp dụng Nguyên lý 2liên quan đến việc triển khai các hoạt động càng
nhanh càng tốt với các bên liên quan địa phương. Cần phải chấp nhận rằng thậm
chí nếu khái niệm về quyền sở hữu và trách nhiệm của địa phương khác với các
quan điểm “chính thống”, thì những khái niệm này vẫn phải được tôn trọng - và

15


xem xét - nếu những nhóm liên quan chính cam kết với việc quản lý hợp tác dài
hạn Phân loại rừng theo vùng, với các hình thức sử dụng, quản lý và bảo vệ khác
nhau được áp dụng cho từng vùng. Phòng Lâm nghiệp đã phân loại toàn bộ khu
vực, hàng nghìn km2 thành một công viên quốc gia.
Bốn khu vực hệ sinh thái được lựa chọn năm 2004, với sự giúp đỡ của các
bản đồ bộ tộc và bản đồ lâm nghiệp. Các cán bộ lâm nghiệp ở đó khoảng một
tuần với những người dân địa phương ở mỗi khu vực và tham dự cùng họ vào
công việc các bài tập trọng tâm về rừng được thiết kế chuyên biệt trong các đợt
đánh giá nhanh nông thôn (PRA). Những người dân địa phương có cơ hội giải
thích về cấu trúc và chức năng hệ sinh thái theo quan điểm của riêng họ và phân
tích những vấn đề. Họ mô tả sự đóng góp của rừng trong hơn 40 năm qua,và dẫn
cán bộ lâm nghiệp đi theo các đường cắt ngang các khu rừng và đất nông
nghiệp, giải thích những quy định và kỹ thuật về quản lý. Trong họ có cơ hội
phân tích những nguồn sinh kế (cả tiền mặt và trợ cấp) họ có được từ hệ sinh
thái và xác định những cảnh quan khuynh hướng xã hội quan trọng. Họ cũng xác
định các vấn đề và những giải pháp có thể để chỉ ra những vấn đề gì họ cảm thấy
tự giải quyết được và những vấn đề gì cần có sự giúp đỡ từ bên ngoài để giải
quyết.
Những đánh giá nhanh nông thôn(PRAs) xem xét thế mạnh của những kỹ
năng quản lý đất của người dân địa phương và các tổ chức ra quyết định, tạo ra
cơ hội cho việc thương lượng quyền sử dụng đất. Mặc dù mỗi bên có sự e dè khi
làm việc với các bên khác, những bài thực hành cùng nhau mở ra những dòng
trao đổi thông tin và xây dựng sự tin tưởng, tôn trọng và thấu hiểu. Các kế hoạch
cho việc quản lý rừng được thiết kế cùng nhau để chọn lọc ra tiếp cận tốt tổng
hợp tốt hơn cho việc bảo tồn, đang được thực hiện.
Cũng sẽ cần thiết phải chấp nhận rằng một vài, cũng có thể nhiều phần của
hệ sinh thái có thể hiệu quả hơn nếu là đất sở hữu riêng.

Chấp nhận thực tế này sẽ làm rõ hơn những nội dung sau:
Những vùng nào hoặc khía cạnh nào của hệ sinh thái mà người dân địa
phương muốn quản lý;
Những vùng nào hoặc khía cạnh nào mà người dân địa phương muốn sự
giúp đỡ và hỗ trợ; và
16


Những vùng nào hoặc khía cạnh nào người dân muốn những người khác
quản lý.
Quản lý ở “cấp thấp nhất và phù hợp nhất” (Nguyên lý 2)thường có nghĩa
là quản lý nhiều cấp khác nhau (từng nông dân, các nhóm cộng đồng, huyện,
quốc gia và thậm chí quốc tế) ở các phần khác nhau của hệ sinh thái. Bức ghép
tổng hợp về quản lý sẽ được tiến triển. Bức ghép này cần được giám sát theo
thời gian, trong điều kiện ngày càng hiểu hơn về các vấn đề liên quan đến cấu
trúc, chức năng hệ sinh thái và sức khỏe.
Sử dụng diễn đàn các bên tham gia đã được phát triển ở bước A(trang 8),
và kinh nghiệm của các thành viên của diễn đàn, sẽ đưa ra các chủ đề cho thảo
luận và xác định rõ khu vực. Điều này có thể bao gồm việc xác định những khu
vực trong hệ sinh thái mà quản lý còn yếu nhưng nhu cầu cho bảo vệ hệ sinh
thái thì mạnh; hoặc những khu vực có sự liên kết yếu kém. Diễn đàn cũng có thể
xác định và xem xét bất kỳ vấn đề điều phối quản lý nào cấp bách
Quản lý ở cấp thấp và phù hợp nhất ở Tanzania
Trong nhiều hệ sinh thái, có sự xung đột giữa các chế độ quản lý tài nguyên
sở hữu chung (điều này không được nhận ra bởi chính phủ) và quản lý chính
quyền (không quan trong đến các hoạt động bảo tồn được thực hiện bởi người
dân địa phương).
Tanzania giải quyết vấn đề này bằng cách hòa trộn cả hai; đó là kinh
nghiệm quan trọng cho việc xây dựng một mô hình quản lý phân cấp. Từ năm
1974, quyền sở hữu và kiểm soát đất nông nghiệp và những vùng gần với đất sở

hữu chung đã được trao cho từng người dân thôn bản; năm 1996, các khu bảo
tồn rừng cấp thôn bản cũng đã được quản lý ở cấp thôn bản. Trong phạm vi địa
giới của thôn, các quyết định về sử dụng đất được thực hiện bởi hội đồng thôn,
với sự đại diện của các hộ trong thôn.
Ban sử dụng đất của thôn dự báo trước kế hoạch sử dụng đất của thôn, bổ
nhiệm cán bộ kiểm tra để theo dõi thường xuyên việc thực hiện. Mỗi thôn phải
chịu trách nhiệm trước cấp huyện theo luật pháp về những vấn đề như bảo vệ đất
dốc. Những vấn đề quản lý đất trong thôn được xem xét bởi cấp huyện.
Một vài vùng đất được giữ lại làm tài sản cấp quốc gia hoặc các khu bảo
tồn cấp huyện và cấp khu vực. Tuy nhiên, mối quan hệ cơ bản giữa thôn và
17


huyện kết hợp tốt nhất tài nguyên sở hữu chung và quản lý đất của chính phủ.
Từng thôn chịu trách nhiệm cho khu vực trực tiếp của mình và có thể hành động
nếu các vấn để bắt đầu cấp bách. Cùng thời điểm đó, những tiềm năng về thể
chế cho các hành động rộng hơn ở ngay đó (xem bước D)
Bước C: Những vấn đề kinh tế
Việc xác định các vấn đề kinh tế có ảnh hưởng đến hệ sinh thái và cư dân
hệ sinh thái là rất quan trọng. Những vấn đề kinh tế nào sẽ điều tiết sự lựa chọn
quản lý trong hệ sinh thái?
Khuyến khích và không khuyến khích Điểm i và ii của Nguyên lý 4tập
trung vào việc giảm những tác động của thị trường có ảnh hưởng tiêu cực đến sự
đa dạng sinh học và việc tạo ra sự khuyến khích cho việc bảo vệ và sử dụng
khôn ngoan sự đang dang sinh học. Cả hai nhiệm vụ này yêu cầu những phân
tích sâu sắc ở ngay những giai đoạn sớm của quản lý hệ sinh thái.
Ví dụ, những khuyến khích mang tính tiêu cực, hoặc trợ cấp nào khiến
người dân khai thác tài nguyên một cách không bền vững?
Nguyên lý áp dụng trong Bước C
Nhận thức rõ những lợi ích có thể đạt được từ quản lý, đó là sự cần thiết

thường xuyên để hiểu được và quản lý hệ sinh thái trong một bối cảnh kinh tế.
Mỗi một chương trình quản lý hệ sinh thái như thế này nên bao gồm:
i) Giảm những can thiệp của thị trường làm ảnh hưởng tiêu cực đến sự đa
dạng sinh học;
ii) Khuyến khích để thúc đẩy việc sử dụng bền vững và bảo tồn sự đa
dạng sinh học và
iii) Nội tại hóa chi phí và lợi ích của một hệ sinh thái đối ở một mức độ
khả thi nhất.
Bước C: Nghiên cứu điển hình, những vấn đề kinh tế
Lưu vực sông Mêkông
Các nước ở vùng hạ lưu sông Mêkông, Campuchia, Lào, Thái Lan, và Việt
Nam, đã thành lập Ủy ban sông Mêkông (MRC) để bảo vệ sự đa dạng sinh học
của sông Mê Kông để đảm bảo nguồn tài nguyên cho sinh kế của người dân địa
phương và người nghèo. Dự án đa dạng sinh học và vùng ngập nước sông Mê
Kông (MWBP ) do IUCNs thực hiện đã phối hợp với Ủy ban sông Mê Kông, và
phát huy được khái niệm về “dòng môi trường” — chế độ nước cần được đảm
bảo để duy trì hệ sinh thái và những lợi ích của nó ở những nơi có sự cạnh tranh
18


về sử dụng nước và những nơi dòng nước bị điều chỉnh. Ủy ban sông Mê Kông
đàm phán với những việc sử dụng nước này và đang xây dựng bản kế hoạch lưu
vực và đưa ra dòng môi trường yêu cầu.
Tác động chính của thị trường có ảnh hưởng đến cả sự đa dạng hóa sinh
học đó là việc đánh giá qúa mức giá trị của những công trình đập ngăn nước và
kế hoạch thủy lợi và đánh giá thấp giá trị sử dụng kinh tế của nước sông. Người
nghèo sống dựa vào sông chủ yếu nhờ hệ thực vật và những nguồn lợi thủy sản
của sông; đối với sự dồi dào này, một tỷ lệ nhất định của lượng nước phải được
chảy tự do và một cách tự nhiên vào các đầm lầy và nhánh sông, và luôn đảm
bảo nguồn nước mặt. Thực tế thì nhu cầu của người dân rất phù hợp với chế độ

phân bổ nước, tôn trọng khái niệm dòng chảy môi trường và làm lợi cho sự đang
dạng sinh học. Giảm sự ảnh hưởng xấu của thị trường và tăng cường những
khuyến khích để thúc đẩy bảo tồn sự đang dạng sinh học và khai thác bền vững
liên quan đến việc cải thiện cả kiến thức và những thiện chí về mặt chính trị. Dự
án MWBP, thông qua những hỗ trợ gần đây của nó đối với những Một số vấn đề
có thể mang tính địa phương như việc những cán bộ địa phương bắt ép phải hối
lộ để khai thác tài nguyên từ hệ sinh thái. Một số vấn đề có thể được chỉ ra là
không phù hợp hoặc không theo luật quốc gia. Trong trường hợp nghiên cứu
điển hình của Mekong, việc sử dụng nước không bền vững về mặt môi trường bị
điều tiết do sự quan tâm nhiều đến nhu cầu sử dụng nước của người giàu hơn
người nghèo.
Những khích lệ mang tính tích cực dẫn đến việc sử dụng nước tốt hơn bao
gồm kiến thức tốt hơn và hiểu biết hơn, và có tiếng nói có trọng lượng hơn hơn
trong việc ra quyết định cấp quốc gia và cấp vùng. Cũng rất quan trọng nếu ta
hiểu và có thể lượng hóa những lợi ích về kinh tế, sẽ dẫn đến việc quản lý hệ
sinh thái tốt hơn.
Những phân tích kinh tế như thế này sẽ là một hoạt động tiếp diễn. Nhiều
thực tế kinh tế chỉ trở lên rõ ràng từng bước. Thị trường - và sự méo mó của thị
trường - thay đổi liên tục và biến động, tạo ra mức độ thay đổi không ngừng của
các những khuyến khích tiêu cực và tích cực cho việc phá vỡ hoặc bảo vệ sự đa
dạng sinh học.
19


Nội tại hóa chi phí và lợi ích trong một hệ sinh thái (Nguyên lý 4:Mục iii)
là điểm cốt lõi của những vấn đề mới mẻ của tiếp cận hệ sinh thái. Thách thức
đó là cần tránh việc tập trung những lợi ích trong một hệ sinh thái hoặc trong
một tiểu hệ sinh thái trong khi đánh chi phí sang một đối tượng khác. Một điều
sống còn nữa là làm việc với,chứ không chống lại,những khía cạnh cốt yếu của
nền kinh tế địa phương.

Thậm chí tốt hơn nếu phải đối mặt với những thách thức về chính trị, hệ
thống phải được thiết lập đúng chỗ để những người chăm sóc hệ sinh thái có
quyền kiểm soát những lợi ích mà hệ sinh thái đó mang lại và những người gây
ra những chí phí về môi trường phải trả cho việc làm của họ.
Hỗ trợ của các nghiên cứu người dân bản xứ (Thai Baan) ở một nhánh của
sông Mekong ở Thái Lan, đã làm sáng tỏ về khía cạnh mà các thống kê thủy sản
trên đất liền của khu vực đã đánh giá thấp tầm quan trọng kinh tế của việc sử
dụng nước của người nghèo cho các nguồn lợi thỷ sản. Hiến pháp mới của Thái
Lan làm cho người dân địa phương có ảnh hưởng nhiều hơn vào quản lý và phát
triển các nguồn tài nguyên thiên nhiên, và có quyền lực hơn để vượt qua những
xung đột do đặc điểm của sự phát triển quy mô rộng. Những đầu tư vào dòng
môi trường có thể được điều chỉnh bởi những lợi ích rõ ràng cho người nghèo.
Trong một hệ sinh thái rộng như Mekong, nội tại hóa chi phí và lơi ích là
một vấn đề rất phức tạp. Lưu vực sông phải được xem xét như là một chuỗi của
các tiểu hệ thống, ảnh hưởng bởi cả việc xem xét về chính trị và tự nhiên. Sự
điều tiết quá mức lượng nước vào các hồ đập, và kế hoạch thuỷ lợi gây lên
những ngoại ứng không mong đợi ở hạ lưu, làm nguy hại tới sự da dạng và
phong phú của các tài nguyên ở đây. Nhu cầu của hạ lưu phải giúp cho việc định
hình cách quản lý và sử dụng tài nguyên ở thượng lưu, và nhu cầu về nước của
người nghèo phải được ưu tiên hàng đầu. “Dòng môi trường” phải được xác
định dựa trên những vấn đề cơ bản về kiến thức tốt nhất có thể có được tại thời
điểm đó và thường xuyên được điều chỉnh.
Để có những tác động về kinh tế, Những nghiên cứu kiểu Thai Baan nên
tập trung vào việc xây dựng sự liên kết của các bên liên quan ở địa phương để
20


trao đổi những kết quả và and hạn chế những thay đổi không mong đợi từ
thượng nguồn. Chính phủ nên đúc rút kinh nghiệm về những kiến thức sâu rộng
của cán bộ và cộng đồng địa phương và xay dựng cách quản lý nước độc quyền

hơn. Các cơ quan trong chính phủ nên giải quyết các xung đột một cách táo bạo,
đúc rút kinh nghiệm quốc tế về các hiệp đinh quốc tế ưu tiên tiếp cận hệ sinh
thái và lấy lợi thế của những cơ hội cho những thay đổi tích cực như chúng đã
xảy ra.
Bước D: Quản lý thích ứng về không gian
Quản lý thích ứng theo không gian liên quan đến những tác động có thể của
hệ sinh thái với những vùng hệ sinh thái lân cận. Những thay đổi trong quản lý
của một hệ sinh thái có thể làm ảnh hưởng đến những hệ sinh thái lân cận , mặc
dù đã có những nỗ lực để nội tại hóa chi phí và lợi ích (Nguyên lý 4: Điểm iii).
Một vài tác động không thể biết trước chắc chắn sẽ xảy ra. Ví dụ một số
hoạt động nhất định về chăn nuôi và sản xuất nông nghiệp không được cho phép
trong hệ sinh thái này thì nó sẽ diễn ra nhiều hơn ở hệ sinh thái khác.
Rõ ràng quản lý là phải thích ứng. Những quản lý tốt hơn trong môt hệ sinh
thái thường đem lại quản lý tốt hơn ở những hệ sinh thái lân cận trong một thời
gian nhất định.
Nguyên lý liên quan đến Bước D
3. Các nhà quản lý hệ sinh thái nên xem xét những ảnh hưởng (thực tế
hoặc tiềm năng) của các hoạt động họ thực hiện ở các hệ sinh thái lân cận và các
hệ sinh thái khác.
7. Tiếp cận hệ sinh thái nên được thực hiện ở một phạm vi không gian và
thời gian phù hợp.
Nhân diện mô hình ở Tanzania
Ở huyện Babati, sườn núi Rift Valley, khi được trồng rừng có độ dốc
nghiêng về phía đồng bằng phía dưới. Một trụ sở của
thiên chúa giáo và một bệnh viện được xây dựng ở đó từ những năm 1920,
đã thu hút nông dân đến sống ở vùng này và vào
những năm 1970, việc xây dựng nhà cửa ở đây đã hình thành nên khu vực
dân cư mới dọc theo chân của vách núi. Cây cối
trên sườn núi bị cắt để xây dựng nhà cửa và làm củi đun, thậm chí gia súc
được chăn thả vùng này.

21


Vào những năm 1990, sườn núi trở lên rất nghèo về hệ sinh thái. Các dòng
suối không còn chảy quanh năm và có ít phù sa hơn trước đây, nở đất diễn ra
thường xuyên. Các lối đi bộ trên sườn núi bị lún sâu và nguy hiểm. Trưởng thôn
Bermi đã ban hành lệnh cấm người dân trong thôn của ông chăn thả gia súc năm
1994, và phạt nếu phát hiện gia súc ở đó. Ông cũng cấm việc thu lượm củi và đề
xuất việc trồng cây rộng khắp theo sườn dốc.
Hai thôn lân cận sau đó cũng cấm chăn thả gia súc trên địa bàn của họ. Hệ
thực vật phục hồi nhanh chóng đã khuyến khích nhiều thôn khác nữa thiết lập
các khu vực cấm chăn thả. Vào năm 2001, các dòng suối đã bắt đầu chảy quanh
năm và đất ít bị sạt lở hơn. Các loài động vật hoang dã bắt đầu sinh sản và phát
triển trở lại trên vùng dốc. Các thôn hiện nay thậm chí xem xét giải quyết các
vấn đề rộng hơn. Các vấn để này bao gồm việc yêu cầu các gia đình ở vùng đồi
ngừng việc chăn thả gia súc ở sườn núi và yêu cầu bệnh viện của thiên chúa giáo
ngừng ngay việc cắt hai xe tải gỗ mỗi tuần làm củi đun và xem xét các nguồn
nhiên liệu khác như biogas.
Thực sự thì những thay đổi trong một hệ sinh thái có thể từng bước làm cho
họ nhận thấy bởi vì các cư dân thuộc hệ sinh thái lân cận thích nghi dần với
những tác động không biết trước do những thay đổi trong quản lý hệ sinh thái
của họ.
Cũng như vậy, trong một vài trường hợp, sự thay đổi có tính chất bắt buộc
theo hướng ngược chiều làm cho thu nhỏ hệ sinh thái. Những thay đổi do tác
động từ bên ngoài (khi một vài hoạt động được tài trợ kinh phí hoặc yếu tố kinh
tế khác) có thể có nghĩa chỉ một phần của hệ sinh thái nguyên thủy lớn hơn đã
được quản lý thành công.
Thu hẹp mô hình, vùng biên giới Niger-Nigeria
Khoảng hơn 30 năm trước, các cư dân của hệ sinh thái Maradi Department
ở Niger, gần biên giới Nigeria đã thích nghi với việc lượng mưa thưa thớt và dân

số ngày càng tăng. Một phần đất của thôn được trồng hoa hồng từ những diện
tích rừng và đồng cỏ trước đây, nông dân đã phải chịu sự thiếu về phân chuồng
và các sản phẩm phụ của cây trồng cần thiết để duy trì độ phì của đất.
22


Một vài nông dân đã bắt đầu khai hoang về phía Bắc để có những vùng cỏ
độc quyền.
Sự suy giảm về các tài nguyên sở hữu chung đã dẫn đến những thay đổi
trong quản lý hệ sinh thái. Nhìn chung, các cư dân ở vùng này ngày càng sở hữu
ít đất hơn mặc dù việc thâm canh ngày càng tăng.
Các hộ nông dân đã thích nghi với những thay đổi bằng việc duy trì sản
xuất
Tăng mật độ cây trồng trên đơn vị diện tích - chủ yếu thôngqua quản lý và
bảo vệ sự tái sinh của tự nhiên - và tư nhân hóa những vùng đất bạc màu (khi
còn là tài sản chung) để chăn thả gia súc và lấy củi, và tăng sự nhập cư lao động.
Ở phía Nam của huyện, họ giới thiệu các giống cây trồng mới và hàng loạt các
giải pháp bảo tồn độ phì của đất mới.
Ở phía Bắc, nông dân mở rộng các diện tích cây trồng, và đưa những vùng
đất không có khả năng canh tác trước đây vào sử dụng. Họ cũng thay đổi
phương pháp chăn thả gia súc gia cầm: một số vật nuôi được nhốt cố định trong
trang trại trong khi các vật nuôi khác được chăn thả ở hầu hết các thời gian trong
năm.
Bước E Quản lý sự thích ứng theo thời gian
Lập kế hoạch cho quản lý thích nghi liên quan đến những mục tiêu dài hạn
và nhiều biện pháp linh hoạt để đạt được mục tiêu đó.
Những nguyên lý liên quan đến bước cuối cùng này là (Nguyên lý 7,
Nguyên lý 8, Nguyên lý 9) đều nhấn mạnh một điều là trong khi phải xác đinh
được mục tiêu dài hạn, chắ chắn một điều rằng những vấn đề không thể biết
trước sẽ điều chỉnh những mục tiêu này hoặc cho ta biết những biện pháp mới

để đạt được mục tiêu.
Để giải quyết được những thách thức này, những mục tiêu dài hạn - và các
công cụ quản lý được sử dụng để đạt được mục tiêu - phải được thường xuyên
kiểm tra.Một cách quản lý thích ứng hiệu quả đòi hỏi phải có những phương
pháp giám sát xuất sắc để phát hiện ra những vấn đề sớm.
Chương trình lâm nghiệp đa bên ở tỉnh Papua, Indonesia

23


Ở Papua, mục tiêu của chính quyền là lập kế hoạch cho cả việc bảo tồn và
sản xuất ở những khu rừng của Papua thông qua hàng loạt cách phân loại đất
linh hoạt (xem Nghiên cứu điển hình ở bước
B). Người dân địa phương cũng nhằm mục tiêu vừa bảo tồn vừa sản xuất,
nhưng ở một sắc thái khác, theo cách thích hợp và bổ trợ trong khực mà họ coi
là hệ sinh thái của chính họ. Sáng kiến về chương trình lâm nghiệp đa bên
(MFP) đã cho thấy một ví dụ điển hình về quản lý thích ứng trong hành động
bằng việc tạo ra những minh chứng cụ thể của các phương pháp cải thiện hệ
sinh thái, và thông qua thử nghiệm những tiếp cận mới đối với bảo tồn và
quản lý rừng bền vững trên cơ sở kết hợp kỹ năng và quan điểm của nhiều bên
khác nhau.
MFP đã tạo ra hoặc tăng cường tổ chức cộng đồng đàm phán với thế giới
bên ngoài. Các tổ chức bộ tộc đã nhận ra cái họ cần để hợp tác hiệu quả hơn với
các bên khác là hình thành những Hiệp hội các bộ tộc. Những tổ chức này được
tăng cường qua khó khăn thách thức khi xây dựng bản đồ khu vực của nhiều bộ
tộc và những nghị quyết về về tranh cãi mốc giới. Các quy định bảo vệ tài
nguyên thiên nhiên và một hệ thống xử phạt đã phát triển sau đó điều phối giữa
các bộ tộc. Sách tham khảo
Tiếp tục, trang 29
Cũng cần có sự minh bạch và mối quan hệ tin tưởng lẫn nhau giữa các bên

liên quan đến các vấn đề cần thảo luận.
Quản lý thích ứng theo thời gian đòi hỏi năng lực giải quyết các nguyên
nhân của các vấn đề và các tìm ra các giải pháp cho các vân đề này, để rút kinh
nghiệm cho các nguyên lý tiếp cận hệ sinh thái khác (đặc biệt Nguyên lý 4,liên
quan đến các vấn đề kinh tế) để hiểu được những gì không đúng và thiết kế
những giải pháp mới để đạt được mục tiêu. Tất cả những nhiệm vụ này đòi hỏi
một diễn đàn hiệu quả của các bên tích cực và có trách nhiệm.
Cả hiệp hội các bộ tộc vùng đất thấp và vùng cao đã được khuyến khích
trong việc tạo ra và phát huy quyền lực của các tổ chức đại diện đề xuất mối
quan tâm của họ lên chính quyền cấp tỉnh và địa phương.

24


MFP làm việc cùng với các tổ chức xã hội, các tổ chức phi chính phủ,
chính quyền cấp tỉnh và chính quyền địa phương trong việc giải quyết những
vấn đề hệ sinh thái mới và trong việc tìm kiếm giải pháp cho họ. Những hình
thức tổ chức mới này rõ ràng đã thể hiện mối quan hệ qua lại lẫn nhau, bởi nó
xuất phát từ các bộ tộc sẽ giải quyết những thách thức về quản lý thích khi nó
phát sinh. Quản lý thích ứng là công việc của cả các tổ chức và những khu vực
hệ sinh thái có liên quan đến những tổ chức này. Lãnh thổ của những bộ tộc nhỏ
được liên kết với lãnh thổ của các bộ tộc, và những quy định chung được xây
dựng để giải quyết những thách thức từ bên ngoài.
Tương tự, những khái niệm của chính phủ về phân loại đất và trách nhiệm
tổ chức phải được thích ứng theo thời gian để có thể thực hiện ở các cấp thấp
hơn và cấp bách hơn, ở những nơi cần thiết phải có sự thỏa hiệp về đất đai.
Cuối cùng, MFP đã làm tăng khả năng của sự thay đổi chính sách trong
việc hỗ trợ để có sự quản lý hệ sinh thái tốt hơn thông qua việc khuyến khích
các chính sách sử dụng đất hiệu quả hơn, hiểu sâu hơn về nhu cầu tồn sinh kế,
và sự tin tưởng cao hơn vào năng lực quản lý kỹ thuật của người dân địa phương

và có sự tiếp cận từ dưới lên nhiều hơn.
Kết luận
Hội nghị của các bên về Bảo tồn và Đa dạng sinh học hỗ trợ việc áp dụng
và thực hiện tiếp cận hệ sinh thái, và hoan nghênh những hướng dẫn bổ sung
cho hiệu quả này (Quyết định VII/1 1). Tài liệu này gợi ý một cách tiếp cận thực
tế để thực hiện Tiếp cận hệ sinh thái, sử dụng phương pháp 5 bước đã được xây
dựng ở trên. Sử dụng phương pháp này, Ủy ban IUCN’s về quản lý môi trường
đang thực hiện một số nghiên cứu điển hình ở nhiều cảnh quan khác nhau, do
chính phủ Hà Lan tài trợ. Một số nghiên cứu đã được sử dụng ở đây để minh
họa việc áp dụng Những nguyên lý tiếp cận hệ sinh thái.
Ba vấn đề nêu ra đã chứng tỏ tầm quan trọng. Thứ nhất, do sự sở hữu đất
và tổ chức thể chế khác nhau tồn tại trong cùng một hệ sinh thái, chúng ta phải
học cách quản lý như thế nào khi chúng ta không có quyền kiểm soát lên tất cả,
phải đàm phán giữa người sử dụng đất và các tác nhân khác.
25


×