Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

chuyên đề phương pháp nắm bắt, phân tích, tổng hợp và viết báo cáo phản ánh dư luận xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168 KB, 16 trang )

CHUYÊN ĐỀ
PHƯƠNG PHÁP NẮM BẮT, PHÂN TÍCH, TỔNG HỢP
VÀ VIẾT BÁO CÁO PHẢN ẢNH DƯ LUẬN XÃ HỘI

Ở các quốc gia phát triển, từ lâu các chính khách, các tổ chức chính trị, xã
hội đã coi các kết quả nghiên cứu dư luận xã hội (DLXH) là một trong những
căn cứ quan trọng trong việc ban hành và bổ sung, điều chỉnh các chủ trương,
chính sách. Ở Việt Nam, theo sách Đại Việt sử ký toàn thư, năm 1076, Quách
Quỳ, Triệu Tiết đem quân 9 tướng, hợp với Chiêm Thành, Chân Lạp tấn công
Đại Việt. Hai bên giao tranh ở sông Như Nguyệt, một đêm quân sĩ chợt nghe
trong đền Trương tướng quân (tức Trương Hống, Trương Hát) có tiếng đọc to
rằng: “Nam quốc sơn hà Nam đế cư/Tiệt nhiên phân định tại thiên thư/Như hà
nghịch lỗ lai xâm phạm/Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”. Sau này đúng như lời
thơ, Lý Thường Kiệt đánh bại quân Tống. Tháng 10/1947, Chủ tịch Hồ Chí
Minh viết tác phẩm “Sửa đổi lề lối làm việc”: “Dân chúng đồng lòng, việc gì
cũng làm được. Dân chúng không ủng hộ, việc gì làm cũng không nên”.
Ngay từ đầu thập niên 1980, Đảng ta đã thấy được sự cần thiết của công
tác nghiên cứu DLXH. Hoạt động nghiên cứu, điều tra, nắm bắt DLXH đã
chính thức được thực hiện kể từ năm 1982, khi Ban Bí thư có quyết định thành
lập Viện Dư luận xã hội (nay là Viện Nghiên cứu dư luận xã hội) trực thuộc
Ban Tuyên huấn Trung ương Đảng (nay là Ban Tuyên giáo Trung ương). Ngày
18-8-2014 Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Kết luận số 100-KL/TW về
“Đổi mới và nâng cao chất lượng công tác điều tra, nắm bắt, nghiên cứu dư
luận xã hội”: Điều tra, nắm bắt, nghiên cứu dư luận xã hội là công việc quan
trọng và rất cần thiết nhằm nắm bắt, tập hợp kịp thời, sát thực tâm tư, tình cảm,
ý chí, nguyện vọng của nhân dân về những vấn đề, sự kiện có tính thời sự
trong nước và thế giới, đặc biệt là đối với các chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước; giúp các cơ quan lãnh đạo, quản lý có thêm thông tin tham khảo
trong quá trình xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực hiện các chủ trương,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; là một khâu quan trọng, cần
thiết trong xây dựng, ban hành, tổ chức thực hiện, đánh giá kết quả thực hiện


các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước. Ban Tuyên giáo Trung ương


ban hành Hướng dẫn số 167-HD/BTGTW ngày 26-12-2015 hướng dẫn thực
hiện Kết luận số 100-KL/TW.
Đảng ủy Khối ban hành Công văn số 377-CV/BTG ngày 9/3/2015 về việc
kiện toàn đội ngũ cộng tác viên DLXH, Trang tin điện tử và Thông tin sinh hoạt
chi bộ Đảng ủy Khối; Chỉ thị số 03-CT/ĐUK ngày 01-9-2016 về tăng cường xây
dựng đội ngũ cộng tác viên dư luận xã hội trong Đảng bộ Khối các cơ quan
Trung ương; Quyết định số 441-QĐ/ĐUK ngày 21-9-2016 kiện toàn đội ngũ
cộng tác viên nghiên cứu dư luận xã hội cấp Đảng ủy Khối; Quyết định số 545QĐ/ĐUK ngày 10-11-2016 ban hành Quy chế hoạt động cộng tác viên nghiên
cứu dư luận xã hội cấp Đảng ủy Khối các cơ quan Trung ương.
1. Khái niệm
Trong đời sống xã hội hiện nay, không chỉ trên các phương tiện thông tin
đại chúng, mà cả trong các văn bản chính thức của Đảng và Nhà nước, xuất hiện
ngày càng nhiều khái niệm "dư luận xã hội", như là sự bày tỏ thái độ, tình cảm
(nhận xét, đánh giá, ý nguyện, ý chí...) của các nhóm, các giai cấp, tầng lớp xã
hội khác nhau đối với các sự kiện, hiện tượng xảy ra trong đời sống xã hội. Trên
thế giới và trong nước ta hiện nay vẫn có rất nhiều cách hiểu khác nhau, có
nhiều định nghĩa khác nhau về dư luận xã hội. Cách hiểu đơn giản nhất là coi dư
luận xã hội, hay còn gọi là công luận, là ý kiến của quần chúng nhân dân. Một
cách khái quát hơn, có thể định nghĩa như sau về dư luận xã hội: "Dư luận xã
hội là tập hợp các luồng ý kiến cá nhân trước các vấn đề, sự kiện, hiện tượng
hay các quá trình xã hội". Định nghĩa trên mang một số nội dung cần chú ý sau:
Một là, mỗi luồng ý kiến là một số ý kiến cá nhân giống nhau.
Hai là, dư luận xã hội có thể bao gồm nhiều luồng ý kiến khác nhau, thậm
chí đối lập nhau.
Ba là, luồng ý kiến có thể rộng (tuyệt đại đa số, đa số, nhiều ý kiến) hoặc
hẹp (một số ý kiến).
Chỉ có những sự kiện, hiện tượng, vấn đề xã hội có tính thời sự (động

chạm đến lợi ích, các mối quan tâm hiện có của nhiều người) mới có khả năng
tạo ra dư luận xã hội.
Tin đồn là những thông tin từ những nguồn thông tin không chính thức,
thường là những thông tin thất thiệt, không đúng sự thật và rất khó kiểm chứng,


được dựng lên, hoặc nguỵ tạo nên bởi những mục đích hay dụng ý nào đó. Giữa
tin đồn và dư luận xã hội có những điểm khác biệt cơ bản sau đây:
Một là, nguồn thông tin của tin đồn bao giờ cũng xuất phát từ người khác
(tôi nghe người này nói, người kia nói); nguồn thông tin của dư luận xã hội lại
xuất phát từ chính là bản thân người phát ngôn (theo ý kiến của tôi thì...).
Hai là, tin đồn loang càng xa thì càng có nhiều biến thái, do nó không
ngừng được thêm thắt. Ngược lại, lúc ban đầu dư luận xã hội thường rất phân
tán, nhưng sau đó, thông qua sự trao đổi, tranh luận, tính thống nhất của dư luận
xã hội thường tăng lên.
Ba là, tin đồn thường có tính "thất thiệt" (mặc dù có những tin đồn về cơ
bản là sự thật). Dư luận xã hội phản ánh trung thực về những suy nghĩ, tình cảm,
thái độ của chủ thể.
Tuy nhiên, giữa dư luận xã hội và tin đồn không có sự ngăn cách tuyệt
đối. Tin đồn thường có nguyên nhân là do công chúng, nhân dân thiếu thông tin
cộng với tính tò mò, đưa chuyện của một bộ phận công chúng. Tin đồn thường
xuất hiện khi người ta thiếu (hoặc thừa) thông tin, dựa vào kinh nghiệm của bản
thân, dựa vào những yếu tố chủ quan mà phán đoán, nảy sinh những thông tin,
những câu chuyện thường là hoang đường. Nhưng tin đồn cũng ẩn chứa những
suy nghĩ và tình cảm của công chúng.
Dư luận xã hội thực hiện những chức năng cơ bản sau đây:
(1) Chức năng đánh giá. Dư luận xã hội thể hiện thái độ phán xét đánh giá
của công chúng đối với các sự kiện, hiện tượng, sự vật, vấn đề cuộc sống. Dư
luận xã hội có vai trò quyết định trong việc hình thành thang bậc giá trị xã hội.
(2) Chức năng điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. Dư luận xã hội chính là

"luật bất thành văn", thực hiện chức năng điều chỉnh các quan hệ xã hội thông qua
việc tác động đến hành vi và các mối quan hệ giữa các cá nhân với nhau; của cá
nhân với nhóm xã hội; trong tập thể, hay giữa các nhóm, các tập thể với nhau.
(3) Chức năng giáo dục của dư luận xã hội. Dư luận xã hội góp phần
chuyển giao các giá trị tinh thần, nhất là các giá trị đạo đức, luân lý từ thế hệ này
sang thế hệ khác, như ý thức về "phải - trái", "đúng - sai", "thiện - ác", "đẹp xấu". Dư luận xã hội có tác dụng giáo dục và răn đe đối với mỗi cá nhân, góp
phần vào việc giáo dục ý thức trách nhiệm của cá nhân đối với nhiệm vụ chung.


Dư luận xã hội giáo dục luân thường, đạo lý trong xã hội thông qua việc đồng
tình hay lên án một hành vi nào đó.
Tuy nhiên, cũng có nơi, có lúc dư luận xã hội có tác động tiêu cực, bảo
thủ, kìm hãm hành vi tích cực và sự sáng tạo. Thông thường, con người rất sợ
những dư luận nói chung, nhất là dư luận tiêu cực, giống như câu tục ngữ: "trăm
năm bia đá thì mòn, ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ".
(4) Chức năng giám sát. Dư luận xã hội luôn thể hiện lập trường rõ ràng
đối với vấn đề mà nó quan tâm, với mục đích đòi hỏi được đáp ứng những yêu
cầu của nó. Thông qua sự phán xét, đánh giá, dư luận xã hội giám sát các hoạt
động của các tổ chức xã hội, các cơ quan nhà nước, đòi hỏi các cơ quan này phải
làm việc phù hợp với lợi ích chung của xã hội. Dư luận xã hội về tệ quan liêu,
tham nhũng, lãng phí hiện nay có tác dụng giám sát và gây sức ép lên hoạt động
của Nhà nước và các tổ chức xã hội.
(5) Chức năng tư vấn, phản biện. Trước những vấn đề nan giảI trong xã
hội, dư luận xã hội có thể đưa ra những khuyến nghị sáng suốt mà các cơ quan
tham mưu cho chính quyền có thể chưa nghĩ ra được. Dư luận xã hội cũng là
người phản biện có uy tín đối với các quyết định của các cơ quan đảng, chính
quyền, tổ chức chính trị - xã hội.
(6) Chức năng giải toả tâm lý - xã hội. Sự giãi bày, bày tỏ thành lời với cơ
quan trách nhiệm, cơ quan thông tin hay trong sinh họat ở địa phương có thể giải
toả nỗi bất bình, uất ức của con người, nhóm xã hội, làm cho tâm lý của con

người, nhóm xã hội trở lại vị trí thăng bằng. Bị oan ức mà nói ra được người ta
sẽ cảm thấy nhẹ nhõm.
Dư luận xã hội là tập hợp các luồng ý kiến thể hiện thái độ của công chúng
trước các vấn đề, sự kiện có liên quan đến lợi ích và các mối quan tâm của họ; là
một trong những hình thức thể hiện tâm tư, ý chí và nguyện vọng của người dân.
Nghiên cứu DLXH là những nghiên cứu lý luận và thực tiễn về DLXH.
(1) Dư luận xã hội là nhân tố điều chỉnh các mối quan hệ giữa con người
với con người và giáo dục con người hoàn thiện nhân cách. Là điều kiện để
quần chúng nhân dân phát huy quyền làm chủ và mở rộng, phát triển nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa.


(2) Dư luận xã hội là phương tiện tăng cường mối liên hệ chặt chẽ giữa
Đảng, Nhà nước và nhân dân, góp phần hoàn thiện công tác lãnh đạo, quản lý xã
hội của Đảng, nhà nước trên cơ sở khoa học.
(3) Trong công tác tư tưởng, cần coi trọng việc nghiên cứu, định hướng dư
luận xã hội và tình hình tư tưởng. Dư luận xã hội, tình hình tư tưởng của cán bộ,
đảng viên và các tầng lớp nhân dân là một trong những căn cứ xác định, điều
chỉnh, bổ sung, hoàn thiện các chủ trương, kế hoạch, biện pháp công tác tư
tưởng, là cơ sở của việc đánh giá hiệu quả công tác tư tưởng.
Chính những văn bản pháp luật, chính sách được hình thành từ những
ý nguyện của người dân sẽ có khả năng áp dụng vào thực tiễn cao nhất. Điều
đó cũng góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan công quyền
ở Việt Nam, đặc biệt là các cơ quan Trung ương. Sự phản biện, kiểm tra,
giám sát xã hội của người dân sẽ giúp các người lãnh đạo, quản lý kịp thời
phát hiện những sơ hở, hạn chế, yếu kém trong công tác lãnh đạo, quản lý
của mình, trên cơ sở đó, kịp thời đề ra các giải pháp khắc phục, nâng cao
hiệu quả hơn trong việc đưa ra các quyết định điều hành của cán bộ, quản lý
tại các cơ quan Trung ương.
2. Kết quả bước đầu công tác điều tra, nắm bắt, nghiên cứu DLXH ở

Đảng bộ Khối
Công tác điều tra, nắm bắt, nghiên cứu DLXH ở Đảng bộ Khối đã
từng bước đi vào nền nếp, chất lượng, hiệu quả được nâng lên. Nhiều báo
cáo nhanh của các đảng ủy trực thuộc đã đáp ứng được yêu cầu phản ánh
nhanh, kịp thời, trung thực, đầy đủ các “luồng DLXH” trước các sự kiện,
hiện tượng, vấn đề kinh tế, chính trị..., đã phản ánh kịp thời những bức xúc
của người dân, góp phần quan trọng giúp các cấp uỷ đảng và cơ quan Trung
ương sớm đưa ra được các chủ trương, quyết sách sát thực, hợp lòng dân,
nhất là trong việc giải quyết, xử lý các “điểm nóng”. Đó cũng là một kênh
thông tin quan trọng giúp các cơ quan lãnh đạo đánh giá đúng hơn, sát thực
hơn tình hình tâm trạng, tư tưởng của các tầng lớp nhân dân. Trên cơ sở đó,
đề ra các giải pháp tuyên truyền, định hướng DLXH, giải quyết và hoàn
thiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Hoạt động của các cộng tác viên dư luận xã hội nói riêng và công tác
tuyên giáo trong Đảng bộ Khối nói chung luôn được Ban Thường vụ Đảng ủy
Khối, các cấp ủy trực thuộc quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo; điều đó đã và đang


tạo ra động lực quan trọng để giúp đội ngũ cộng tác viên DLXH trong Đảng
bộ Khối nỗ lực phấn đấu thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao.
3. Một số tồn tại, hạn chế và nguyên nhân
Công tác điều tra, nắm bắt, nghiên cứu DLXH của Đảng ủy Khối cũng
còn có những hạn chế, bất cập, cụ thể là:
(1) Một số báo cáo nhanh của các đơn vị còn thiếu kịp thời, đôi khi còn
hạn chế trong phân tích và đề xuất, kiến nghị việc định hướng DLXH.
(2) Cách tiến hành điều tra DLXH có lúc, có nơi còn chưa thực sự khoa
học, thiếu bề rộng và chiều sâu cần thiết, thể hiện ở các khâu chọn vấn đề điều
tra, xây dựng phiếu câu hỏi điều tra, chọn mẫu điều tra, tập huấn điều tra viên,
triển khai trên thực địa, nhập dữ liệu và phân tích số liệu, viết báo cáo điều tra.
Do đó, chất lượng thông tin thu được đôi khi còn thấp, ảnh hưởng đến chất

lượng dự báo tình hình cũng như các đề xuất, kiến nghị.
Những hạn chế, bất cập nêu trên do nhiều nguyên nhân, trong đó có một
số nguyên nhân chính sau:
Thứ nhất, một số cấp ủy đảng nhận thức chưa sâu sắc, chưa đầy đủ về vai
trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác điều tra, nắm bắt, nghiên cứu dư luận
của cán bộ, đảng viên, người lao động và các tầng lớp nhân dân trong công tác
lãnh đạo, quản lý. Do đó, chưa quan tâm đến việc xây dựng thiết chế và phân
công cán bộ làm công tác này. Cho đến nay, chưa có một quy định chung, có
tính chỉ đạo, làm cơ sở pháp lý cho toàn hệ thống chính trị về công tác nghiên
cứu, điều tra, nắm bắt DLXH.
Thứ hai, trong thời đại bùng nổ thông tin, đa dạng, nhiều chiều và trong
cơ chế kinh tế thị trường với sự phân hóa lớn về lợi ích giữa các tầng lớp, nhóm
xã hội như hiện nay, quan điểm, thái độ của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối
với mọi vấn đề của đời sống xã hội thường rất đa dạng, phức tạp, thậm chí trái
ngược nhau, đồng thời dễ biến đổi. Điều đó khiến cho việc nắm bắt DLXH, tập
hợp ý kiến của cán bộ, đảng viên và nhân dân trở nên rất khó khăn.
Thứ ba, một số cơ quan có trách nhiệm soạn thảo, ban hành chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước chưa nhận thức đầy đủ ý nghĩa, tầm quan
trọng của việc điều tra DLXH, tập hợp ý kiến cán bộ, đảng viên và nhân dân để
tham khảo; công tác thông tin, tuyên truyền nâng cao ý thức của người dân về


quyền lợi và trách nhiệm tham gia góp ý xây dựng chủ trương, chính sách, văn
bản quy phạm pháp luật chưa được quan tâm đúng mức.
Thứ tư, tổ chức bộ máy, cán bộ, cơ chế, điều kiện, phương thức hoạt động
của các cơ quan có chuyên môn, nghiệp vụ, có chức năng nắm bắt, điều tra
DLXH (ban tuyên giáo) ở đảng ủy các bộ, ban, ngành, các tổ chức chính trị - xã
hội ở Trung ương còn nhiều bất cập. Tình trạng rõ nhất là thiếu cán bộ giỏi về
chuyên môn, nghiệp vụ; chưa có cơ chế để đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ; kinh phí điều tra DLXH, tập hợp ý

kiến cán bộ, đảng viên và nhân dân không đủ hoặc không kịp thời để thực hiện
nhiệm vụ; cách thức tổ chức mạng lưới cộng tác viên nắm bắt DLXH chưa khoa
học, thiếu tính đại diện.
Chính vì vậy, trong Kết luận 100 KL/TW, Ban Bí thư Trung ương Đảng
đặt ra yêu cầu phải đổi mới, nâng cao chất lượng công tác điều tra, nắm bắt,
nghiên cứu DLXH. Theo đó, công tác này phải bám sát thực tiễn xây dựng, ban
hành và tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước; thực hiện theo yêu cầu, đề nghị của các cơ quan Đảng, Nhà nước
hoặc về những vấn đề nhân dân quan tâm để phục vụ công tác lãnh đạo, quản lý,
điều hành của các cấp uỷ, chính quyền các cấp. Đối với các chủ trương, chính
sách, dự án phát triển kinh tế - xã hội quan trọng có ảnh hưởng sâu rộng, trước
khi xây dựng, ban hành, triển khai thực hiện và sau một thời gian tổ chức thực
hiện phải tiến hành điều tra, nắm bắt, nghiên cứu DLXH.
4. Nắm bắt dư luận xã hội theo cách truyền thống
Nắm bắt DLXH là hình thức tập hợp thông tin DLXH không thông qua
phương pháp điều tra xã hội học. Hình thức nắm bắt DLXH rất đa dạng, bao
gồm: Nắm bắt thông tin qua mạng lưới cộng tác viên; qua các phương tiện thông
tin đại chúng; qua việc lấy ý kiến đóng góp của các tầng lớp nhân dân đối với dự
thảo các văn kiện, văn bản pháp luật. Các phương pháp truyền thống thường sử
dụng để thu thập cứ liệu là: nghe, quan sát, tọa đàm, phỏng vấn, thảo luận, phân
tích tài liệu (đơn thư khiếu nại, tố cáo, ý kiến cử tri, biên bản các cuộc họp...),
gồm 5 phương pháp chủ yếu sau:
(1) Phỏng vấn nhóm là loại phỏng vấn nhằm vào các đối tượng là những
nhóm nhỏ (thông thường từ 8 đến 12 người, lớn hơn hoặc nhỏ hơn sẽ thiếu tập
trung, hoặc tẻ nhạt). Mục đích chính của phỏng vấn nhóm là phát huy thế mạnh
của sự trao đổi, thảo luận, tranh luận tập thể để làm rõ các “góc cạnh” của vấn


đề nghiên cứu (có bao nhiêu loại tâm trạng, thái độ, quan điểm trước một vấn
đề, sự kiện mà người nắm dư luận xã hội quan tâm). Trong phỏng vấn nhóm,

người phỏng vấn có thể tuỳ cơ ứng biến để đặt ra các câu hỏi cho mọi người.
Các cuộc giao ban dư luận xã hội với số lượng người tham gia ít (từ 8 đến 12
người), trong đó, người chủ trì giao ban đặt ra các câu hỏi để người tham dự
giao ban trả lời có thể được coi là hình thức phỏng vấn nhóm.
(2) Phỏng vấn cá nhân (gọi chính xác hơn là phỏng vấn sâu) là hình thức
trao đổi “tay đôi” giữa người phỏng vấn và cá nhân được phỏng vấn. Trong
phỏng vấn cá nhân, người nêu câu hỏi được phép tuỳ cơ ứng biến khi nêu câu
hỏi. Thế mạnh của phỏng vấn sâu là bằng các câu hỏi có tính gợi mở, người
phỏng vấn có thể làm rõ mọi ngóc ngách suy nghĩ, thái độ, tâm trạng, tình cảm
của người được phỏng vấn đối với vấn đề mà mình quan tâm.
(3) Phương pháp liên tưởng: Đây là hình thức nắm bắt ý kiến của đối
tượng thông qua phản ứng tức thì của người được phỏng vấn trước câu hỏi
của người phỏng vấn. Hình thức liên tưởng phổ biến nhất là liên tưởng ngôn
ngữ. Trong liên tưởng ngôn ngữ, cán bộ làm công tác nghiên cứu dư luận xã
hội đề nghị đối tượng cho biết ý nghĩ xuất hiện tức thì trong đầu họ mỗi khi
cán bộ làm công tác nắm bắt dư luận xã hội đề cập đến một khái niệm, một
chủ đề nhất định nào đó. Phương pháp này cho phép nắm bắt trung thực suy
nghĩ của đối tượng đối với những vấn đề tế nhị, nhạy cảm. Bởi vì, đối với
những vấn đề tế nhị, nhạy cảm, người được hỏi ý kiến thường có phản ứng
phòng vệ, xuất hiện “hàng rào tâm lý” khiến họ không nói thật suy nghĩ của
mình. Phương pháp liên tưởng đòi hỏi người trả lời phải nói nhanh, “hàng rào
tâm lý” chưa kịp xuất hiện.
(4) Phương pháp bổ khuyết: người nghiên cứu có thể tổng hợp sơ bộ tình
hình dư luận xã hội về một vấn đề, sự kiện, hiện tượng nào đó và đề nghị đối
tượng nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện. So với phương pháp liên tưởng ngôn từ,
phương pháp bổ khuyết có khả năng cung cấp một lượng thông tin nhiều hơn về
suy nghĩ và thái độ của người trả lời.
(5) Phương pháp người thứ ba (người khác): Đối tượng được hỏi cần cho
biết người khác có phản ứng (suy nghĩ, thái độ) như thế nào đối với một vấn đề
sự kiện, hiện tượng nhất định nào đó. Người thứ ba đó có thể là bạn bè, là hàng

xóm, là đồng nghiệp ... của đối tượng. Trong các suy đoán về thái độ và cảm
tưởng của người thứ ba này phản ánh chính các cảm tưởng, thái độ của đối
tượng. Phương pháp này cũng nhằm ngăn chặn sự xuất hiện “hàng rào tâm lý”,


“phản ứng đề phòng” của người trả lời. Nó thích hợp trong việc nắm bắt dư luận
xã hội đối với những vấn đề tế nhị, nhạy cảm.
5. Nắm bắt DLXH qua phương pháp điều tra dư luận xã hội
Có thể hiểu một cách khái quát, điều tra DLXH là hình thức nắm thông tin
DLXH bằng phương pháp điều tra xã hội học. Phương pháp này tuân thủ
nghiêm ngặt các yêu cầu có tính khoa học. Hiện nay, hình thức phổ biến là điều
tra thông qua phát phiếu hỏi cho các đối tượng được lựa chọn theo phương pháp
chọn mẫu ngẫu nhiên hoặc có chủ định. Điều tra dư luận xã hội là hình thức
phỏng vấn một lượng người nhất định, được lựa chọn theo những cách thức
khoa học, do vậy chỉ cần điều tra (phỏng vấn) một lượng người không lớn (ví dụ
một vài nghìn người), nhưng kết quả thu được cũng gần giống như kết quả điều
tra toàn bộ cộng đồng. Các phương pháp điều tra dư luận xã hội cho phép khắc
phục những điểm hạn chế của các phương pháp truyền thống nêu trên. Tuy
nhiên, các phương pháp điều tra dư luận xã hội cũng có những điểm yếu như chi
phí lớn, cán bộ phải được đào tạo cơ bản về chuyên môn, nghiệp vụ, phải có
những kiến thức nhất định về xã hội học, tâm lý học.
Dư luận xã hội có thể được nắm bắt chính xác (cả về mặt định tính và mặt
định lượng) thông qua điều tra xã hội học. Hình thức điều tra xã hội học phổ
biến là phỏng vấn một tập hợp người (gọi là mẫu điều tra) theo các bảng (phiếu
câu hỏi) đã được chuẩn bị trước. Mỗi cuộc điều tra xã hội học đều phải trải qua
các bước sau đây: 1) Xác định chủ đề, mục đích điều tra; 2) Xây dựng phiếu câu
hỏi; 3) Chọn mẫu điều tra; 4) Xử lý phiếu điều tra; 5) Viết báo cáo.
(1) Xác định chủ đề, mục đích điều tra. Để tiến hành một cuộc điều tra xã
hội học, trước hết phải làm rõ chúng ta điều tra vấn đề gì, các nội dung thông tin
cần có để làm rõ vấn đề nghiên cứu là những nội dung gì.

(2) Xây dựng phiếu câu hỏi. Có thể chia cấu trúc của một phiếu câu hỏi thành
3 phần: Phần mở đầu, phần nội dung và phần các đặc điểm xã hội của đối tượng.
+ Phần mở đầu: giới thiệu mục đích nghiên cứu và hướng dẫn cách trả lời,
khẳng định nguyên tắc khuyết danh (người trả lời không phải ghi tên mình vào phiếu
câu hỏi mà mình trả lời) để người trả lời có thể trả lời thành thực, không e ngại.
+ Phần nội dung: Câu hỏi có thể phân chia thành hai loại: câu hỏi kín, câu
hỏi mở.


Câu hỏi kín: là câu hỏi có kèm sẵn các phương án trả lời khác nhau dựa
trên một cơ sở phân chia nhất định. Người trả lời chỉ cần đánh dấu vào phương
án nào phù hợp với suy nghĩ của mình. Có loại câu hỏi kín đơn giản và câu hỏi
kín phức tạp. Câu hỏi kín đơn giản là loại câu hỏi chỉ có hai phương án trả lời
kiểu "có - không" hoặc “tán thành - không tán thành).
Câu hỏi mở: là loại câu hỏi không có sẵn các phương án trả lời, người trả
lời phải tự viết ý kiến của mình ra.
Còn có loại câu hỏi vừa kín vừa mở: Đó là loại câu hỏi có một số phương
án trả lời cho sẵn và một phương án trả lời là câu hỏi mở. Câu hỏi này được sử
dụng khi vấn đề được hỏi có thể chứa đựng rất nhiều phương án trả lời mà
chúng ta khó có thể lường hết được. Phương án mở nhằm mục đích bao quát hết
các loại ý kiến trả lời mà chúng ta chưa liệt kê.
+ Phần đặc điểm của đối tượng điều tra: Ở cuối mỗi bảng câu hỏi, chúng ta
thường có những câu hỏi về lứa tuổi, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, giới tính…
Phần này có tác dụng lớn trong việc phân tích và so sánh kết quả thu được.
(3) Chọn mẫu điều tra. Để nắm ý kiến của một cộng đồng xã hội nào đó,
tốt nhất chúng ta phỏng vấn tất cả các thành viên trong cộng đồng. Đó là kiểu
điều tra tổng thể. Nhưng trên thực tế, điều tra tổng thể chỉ thực hiện được đối
với các nhóm người có số lượng ít, vài ba trăm người trở xuống, còn với số
lượng của nhóm người điều tra lớn (hàng chục vạn, hàng triệu người) thì có rất
nhiều khó khăn, tốn phí rất nhiều công sức, tiền của và thời gian.

Để giải quyết các khó khăn này, người ta đã dùng phương pháp chọn
mẫu, chỉ cần chọn lấy một số người đại diện trong tổng thể (số người này được
gọi là mẫu điều tra) để điều tra mà kết quả vẫn không bị sai lệch nhiều.
6. Nắm bắt DLXH giúp giải quyết tình huống có vấn đề, điểm nóng,
tâm lý đám đông
Công tác nắm bắt tình hình DLXH ở các cơ quan Trung ương hiện nay có
tác dụng rất quan trọng trong tham mưu giúp cấp ủy, lãnh đạo cơ quan xử lý tình
huống có vấn đề, điểm nóng và tâm lý đám đông
6.1. Tình huống có vấn đề, điểm nóng và tâm lý đám đông
(1) Tình huống có vấn đề là hệ thống các sự kiện bên ngoài có quan hệ
đối với chủ thể, có tác dụng thúc đẩy tính tích cực của người đó. Tình huống xảy
ra ngoài ý muốn của chủ thể, xảy ra trước hành động của chủ thể, độc lập với
chủ thể. Tình huống có vấn đề là tình huống đòi hỏi cá nhân hay nhóm người


phải tìm kiếm, sử dụng các phương tiện và phương pháp mới cho hoạt động của
mình. Tình huống có vấn đề thể hiện tác động tương hỗ giữa chủ thể và môi
trường xung quanh, đồng thời phá vỡ trạng thái cân bằng, trạng thái tâm lý
"tĩnh" của chủ thể. Điều chưa biết trong tình huống có vấn đề thường tồn tại
dưới dạng câu hỏi đặt ra cho chủ thể, thúc đẩy chủ thể phải tư duy, tìm kiếm
phương tiện để trả lời, lựa chọn phương pháp cần thiết để giải quyết nó.
Bất cứ một tình huống có vấn đề nào cũng bao gồm các yếu tố sau: Một
là, có chứa đựng mâu thuẫn; Hai là, có tính chủ quan. Cùng ở trong tình huống
nhưng có thể xuất hiện mâu thuẫn ở người này, mà không làm xuất hiện mâu
thuẫn ở người khác ; Ba là, phá vỡ cân bằng trong nhận thức của chủ thể.
Mỗi khi nhận thấy có bất cứ mâu thuẫn nào trong hoạt động của mình,
chủ thể sẽ có nhu cầu tìm kiếm những kiến thức mới, những phương tiện,
phương pháp mới để làm sao giải quyết được mâu thuẫn nảy sinh. Do vậy, tình
huống có vấn đề mang tính tất yếu trong quá trình phát triển của mỗi cá nhân
cũng như của xã hội.

Bên cạnh tác động tích cực, tình huống có vấn đề sẽ trở nên tiêu cực khi
không tìm được lời giải cho những câu hỏi của nó. Khi mà mâu thuẫn sẽ trở
thành xung đột và tình huống có vấn đề có nguy cơ trở thành những khủng
hoảng tâm lý đối với cá nhân và thành khủng hoảng chính trị - xã hội đối với
một nhóm người hay toàn xã hội.
Việc quan tâm, phát hiện và giải quyết kịp thời tình huống có vấn đề sẽ
giữ gìn sự ổn định, đồng thời thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Những thái độ
thiếu quan tâm, bỏ qua, bưng bít... sẽ mang lại những hậu quả khôn lường. Đó là
tính chất hai mặt, rất tích cực, đồng thời rất nguy hiểm của tình huống có vấn đề.
Trên địa bàn cơ sở, có thể coi “tình huống có vấn đề” là tình huống trong
đó mối quan hệ giữa cán bộ, công chức, người lao động với nhau, với công dân
hoặc giữa lãnh đạo với cán bộ, công chức, người lao động xảy ra mâu thuẫn,
căng thẳng đến mức có thể chuyển hoá thành các hành vi vượt ra khỏi tầm kiểm
soát của một hoặc cả hai bên. Những mâu thuẫn này có thể phát triển thành
“điểm nóng”, các “phản ứng tập thể” và các hệ quả nguy hiểm khác không thể
lường hết được.
(2) Điểm nóng là nơi mâu thuẫn giữa cán bộ, công chức, người lao động
với nhau, với công dân hoặc giữa lãnh đạo với cán bộ, công chức, người lao
động xảy ra mâu thuẫn, căng thẳng đến mức vượt ra khỏi tầm kiểm soát của một


hoặc cả hai bên. Đây chính là nguyên nhân lý giải vì sao tại các điểm nóng, các
hành vi cực đoan, quá khích thường rất dễ xảy ra. Một trong những hiện tượng
thường bắt gặp tại các điểm nóng là sự tụ tập đông người một cách không có tổ
chức hoặc có nhưng mờ nhạt, lỏng lẻo. Theo các chuyên gia tâm lý học xã hội,
đám đông không có tổ chức hoặc có tổ chức lỏng lẻo rất dễ rơi vào trạng thái bị
kích động, sẵn sàng thực hiện các hành vi thiếu lý trí.
(3) Tâm lý đám đông là tâm lý của một tập hợp người vì lý do nào đó mà
hội tụ lại tại một địa điểm nhất định, vào một thời điểm nhất định. Đám đông
thường được xem là một loại nhóm hỗn hợp, lỏng lẻo, giữa các thành viên

không có một mối liên hệ chặt chẽ. Các thành viên của đám đông có thể rất khác
nhau về thành phần xã hội, trình độ nghề nghiệp, tôn giáo, thậm chí mục đích
khiến họ tụ tập lại cũng có thể không giống nhau. Trong một đoàn biểu tình, có
người thực sự muốn đấu tranh, phản đối, có người do a dua, tò mò, có người đơn
thuần ham vui, thích không khí ồn ào, náo nhiệt.
Không phải bất cứ sự hội tụ nào cũng được xem là đám đông. Chỉ khi sự
hội tụ đông người đó đem lại những thay đổi về phương diện tâm lý, tạo ra
những trạng thái tâm lý mới, hay xuất hiện "một tâm hồn cộng đồng" thì mới
được quan tâm nghiên cứu. Sự hội tụ, tập trung của nhiều cá nhân tạo ra một
môi trường tâm lý đặc biệt, kích thích thúc đẩy hoặc đè nén, ức chế các hành vi
của họ. Đám đông làm từng cá nhân mất đi năng lực điều khiển hành vi một
cách có ý thức và có lý trí, hành động diễn ra trong trạng thái "bị kích động".
Về trí tuệ của đám đông quần chúng. Nếu đặt sang một bên vấn đề trình
độ của các thành viên, thường thấy có hiện tượng sau: nếu tập hợp người càng
lớn thì khả năng đưa ra những quyết định chính xác càng giảm. Các lập luận có
xu hướng thái quá, tư duy chịu sự chi phối nặng nề của những tâm trạng hay xúc
cảm nhất thời.
Thuyết phục đám đông quần chúng là công việc khó khăn, có thể bằng
những lập luận lô gích chặt chẽ hay bằng các thủ thuật đánh vào tình cảm?
Nhiều ý kiến cho rằng, để đạt được một hiệu quả nhất thời, nhanh chóng, tốt
nhất nên áp dụng các biện pháp có khả năng gây ra những xáo trộn tình cảm,
hơn là lập luận, lý trí.
6.2. Nắm bắt DLXH giúp xử lý "tình huống có vấn đề" và "điểm nóng"


Giải quyết tình huống có vấn đề, điểm nóng, đặc biệt khi đã xuất hiện các
đám đông là công việc khó khăn, phức tạp, cần có sự phối hợp của nhiều ngành.
Nắm bắt dư luận xã hội lúc đó là rất cần thiết để giúp cấp ủy và lãnh đạo đơn vị
giải quyết tình huống đó. Nội dung cụ thể là:
(1) Lắng nghe một cách tích cực, chủ động nắm bắt nhanh, chính xác dư

luận xã hội, thái độ, ý kiến, nguyện vọng của nhân dân
Trong tình huống có vấn đề nghiên cứu dư luận xã hội cần giúp cho cấp
uỷ và các cơ quan cấp trên nắm bắt ý nguyện của cán bộ, công chức, người lao
động và nhân dân, để có những đối sách, hoàn thiện các chủ trương, đường lối,
chính sách một cách thích hợp. Một số nội dung cần thiết phải nắm bắt là:
- Thái độ (đồng tình hay không đồng tình; ủng hộ hay không ủng hộ...),
tâm trạng (phấn khởi, chán nản hay thờ ơ...) đối với những chủ trương, chính
sách mới ra của Đảng, Nhà nước và cấp uỷ, chính quyền các cấp ở địa phương.
Chú trọng nắm bắt những dư luận tiềm ẩn, chưa được quần chúng phát biểu ra,
nhưng "âm ỉ" và tạo ra những bất ổn về tâm lý và tâm trạng xã hội. Để nắm bắt
những dư luận này, cách "tiếp xúc thân tình", không chính thức là cách tiếp xúc
tốt nhất để tìm hiểu thông tin. Dư luận cán bộ, công chức, người lao động và
nhân dân về việc tín nhiệm, hay không tín nhiệm đối với các cán bộ, đảng viên ở
cơ quan, đơn vị, đặc biệt là khi có những vụ việc bất thường (ví dụ như những
mâu thuẫn, xô xát trong cán bộ, công chức, người lao động và nhân dân, những
vụ vi phạm pháp luật có liên quan tới cán bộ, đảng viên...)
- Tâm trạng và mức độ ổn định của tâm trạng cán bộ, công chức, người
lao động và người dân đối với đời sống của chính cá nhân và gia đình họ, cũng
như đối với đời sống chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước.
- Khi xảy ra những vụ việc lớn ở cơ sở, khiếu kiện vượt cấp, gây rối trật
tự công cộng có sự lôi kéo hay tổ chức của những thế lực thù địch, hoặc phản
động…, phải chú ý tới tất cả những dư luận trong cán bộ, công chức, người lao
động và nhân dân mang sắc thái tình cảm tiêu cực, như bất bình, hoang mang, lo
lắng... để đề xuất cách xử lý phù hợp.
(2) Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, định hướng dư luận xã hội
Để thực hiện tốt công tác dư luận xã hội không chỉ cần có nắm bắt nhanh,
chính xác các ý kiến, đánh giá, phán xét, tâm trạng, thái độ của cán bộ, công
chức, người lao động và nhân dân, mà còn phải có những tác động nhất định,
xoá bỏ những dư luận xã hội tiêu cực, đặc biệt là những tin đồn thất thiệt, góp



phần định hướng, tạo những dư luận xã hội theo chiều thuận, đấu tranh chống
các âm mưu gây dư luận không thuận, làm thất bại âm mưu "diễn biến hoà bình"
của các thế lực thù địch. Cụ thể, có một số việc cần làm tốt:
Một là, đối thoại trực tiếp với cán bộ, công chức, người lao động và nhân
dân ở cơ sở. Làm tốt việc định hướng dư luận xã hội thông qua việc cung cấp
thông tin đầy đủ, chính xác, giúp xoá bỏ những tin đồn, thay đổi những dư luận
tiêu cực trong nhân dân, nhất là đối với những chủ trương, quyết sách mới mà
cán bộ, công chức, người lao động và người dân chưa hiểu hoặc chưa nắm được
đủ các thông tin nên lo lắng, hoang mang.
Việc đối thoại với cán bộ, công chức, người lao động và người dân có thể
thực hiện bằng cách chính thức, hoặc không chính thức. Tức là, có thể gặp gỡ
cán bộ, công chức, người lao động và nhân dân tại các cuộc họp một cách chính
thức, toạ đàm, trao đổi, trả lời theo cách hỏi - đáp. Mặt khác, đối với những vụ
việc phức tạp, mang tính chất cá biệt (ví dụ có liên quan tới vụ việc kiện cáo...)
cán bộ lãnh đạo cần gặp gỡ trực tiếp bên ngoài các cuộc họp, với tư cách một
người "hoà giải mâu thuẫn" hơn là một cán bộ cấp trên, để lắng nghe cán bộ,
công chức, người lao động và người dân và cùng họ tìm cách khắc phục những
mâu thuẫn, khó khăn.
Hai là, quan tâm tác động tới các yếu tố có ảnh hưởng tới việc hình thành
và thay đổi thái độ cán bộ, công chức, người lao động và người dân.
- Quan tâm tới việc cung cấp thông tin chính xác, đầy đủ cho cán bộ, công
chức, người lao động và người dân và liều lượng của thông tin cung cấp ấy. Bởi
lẽ, sự hiểu biết nhiều hay ít của công chúng, nhóm xã hội đối với vấn đề, hiện
tượng, sự kiện sẽ quyết định sự đánh giá đúng hay sai của công chúng đối với
vấn đề, sự kiện, hiện tượng đó. Đối với những vấn đề, sự kiện, hiện tượng xã hội
đơn giản, dễ hiểu, ý kiến (dư luận) của đại đa số nhân dân thường là đúng. Đối
với những vấn đề phức tạp, mới nảy sinh, ý kiến đúng thường là ý kiến của thiểu
số những người có thông tin, có nhiều am hiểu chứ không phải là ý kiến của đa
số thiếu thông tin, ít am hiểu. Như vậy, nội dung và sắc thái của dư luận xã hội

được quyết định trực tiếp bởi trình độ hiểu biết và các đặc điểm tâm lý xã hội
khác của công chúng, nhóm xã hội.
- Quan tâm tới việc rèn luyện, trau dồi các kỹ năng tuyên truyền. Một nhà
nghiên cứu đã viết: "Kỹ năng trong tuyên truyền trở thành một trong những con


đường hiệu quả nhất dẫn tới quyền lực trong các quốc gia phát triển"; và "việc
kiểm soát các thái độ được tập hợp thông qua việc sử dụng những biểu tượng có
ý nghĩa, như lời nói, hình ảnh, giọng điệu...".
Như vậy, trong bất cứ sự kiện nào, tuyên truyền là một vũ khí rất lợi hại.
Nếu sự thật nhận được sự hậu thuẫn của tuyên truyền, chúng trở nên có sức
thuyết phục mạnh mẽ gấp nhiều lần trong việc hình thành thái độ và hành vi của
con người. Sự thật được biên tập tốt là việc tuyên truyền dễ nói nhất.
- Trong việc định hướng thái độ và dư luận xã hội, ta phải đứng trên lợi
ích của cán bộ, công chức, người lao động và quần chúng để tuyên truyền. Đặc
biệt phải chú ý tới lợi ích của nhóm xã hội mà các cá nhân tham gia (hội, đoàn
thể, tôn giáo, dân tộc...). Phương pháp tổ chức hội họp có định hướng trong
nhóm sẽ khiến cho giao tiếp trong nhóm được hình thành và có tác động củng cố
các thái độ và đánh giá tích cực, thay đổi những dư luận tiêu cực.
Sử dụng cách tiếp cận cá nhân, đối thoại trực tiếp "ngoài cuộc họp", một
cách thân tình, không chính thức với cán bộ, công chức, người lao động và nhân
dân trong việc giải quyết các "điểm nóng", các vụ việc liên quan tới nhân sự, xử
lý kỷ luật cán bộ, giải quyết mâu thuẫn nội bộ...
Ba là, thường xuyên vạch rõ những thủ đoạn tuyên truyền xuyên tạc mà các
thế lực thù địch thường sử dụng để tác động lên sự hình thành dư luận tiêu cực và
thay đổi ý kiến, thái độ của cán bộ, công chức, người lao động và người dân.
7. Tổng hợp, phân tích, viết dự thảo báo cáo DLXH
Sau khi đã thu thập được các cứ liệu cần thiết, người viết báo cáo phải
tổng hợp, phân tích các cứ liệu và đưa ra các nhận định, đánh giá về tình hình,
tâm trạng, tư tưởng trong cán bộ, đảng viên và người lao động ở các cơ quan

Trung ương. Các phân tích, tổng hợp có thể được viết thành báo cáo, lúc đầu là
báo cáo dưới hình thức dự thảo.
Xin ý kiến góp ý tổ chức thảo luận (hoặc xin ý kiến lãnh đạo, những
người am hiểu) đối với dự thảo báo cáo; tiếp thu và sửa chữa, hoàn thiện dự thảo
báo cáo, chuyển dự thảo báo cáo đã được hoàn thiện thành báo cáo chính thức.
Nếu quy trình này không được tuân thủ nghiêm ngặt thì chất lượng báo cáo có
thể không đáng tin cậy.
Phương pháp nắm bắt tâm trạng, tư tưởng truyền thống dễ làm, cán bộ
không cần phải đào tạo nhiều, ít tốn kém về thời gian và chi phí. Tuy nhiên, các


thông tin thu được dễ mang tính chủ quan, phiến diện, thiếu rõ ràng về mặt định
lượng (ví dụ, không thể xác định được có bao nhiêu % trong xã hội tán thành
hoặc không tán thành một quan điểm nhất định nào đó).
Phương pháp phân tích tài liệu: Phân tích tài liệu (báo chí, biên bản các
cuộc họp, đơn thư khiếu nại, tố cáo, góp ý của nhân dân...) đòi hỏi các kỹ
thuật nhất định, như phân loại các nội dung mà các tài liệu này đề cập, tính số
lần được đề cập của mỗi nội dung. Ví dụ, chúng ta có thể dùng phương pháp
này để làm rõ ở một đơn vị nhất định nào đó, hàng tháng có bao nhiêu đơn
thư tố cáo, nội dung chủ yếu của đơn thư tố cáo là gì và mỗi nội dung được
bao nhiêu đơn thư đề cập...
Các phương pháp nghiên cứu định lượng (số lượng những người có cùng
loại ý kiến). Dư luận xã hội cần phải được làm rõ không chỉ về nội dung mà còn
về số lượng người có loại ý kiến tương ứng (đa số? số đông? một số? bao nhiêu
%?). Các phương pháp nghiên cứu định lượng phổ biến trong nghiên cứu dư
luận xã hội là:




×