Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

2013 CD 10 xay dung chi tieu quan ly phat trien nang luc canh tranh quan hai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (223.52 KB, 32 trang )

UBND TỈNH HƯNG YÊN
SỞ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ
ĐỀ TÀI
Nghiên cứu xây dựng hệ thống tiêu chí quản lý doanh nghiệp sau đăng ký
trên hồ sơ điện tử tại tỉnh Hưng Yên

CHUYÊN ĐỀ 10

XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHỈ TIÊU QUẢN LÝ VÀ
PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC CẠNH TRANH

PGS. TS. Nguyễn Mạnh Quân

ĐH Kinh tế Quốc dân

ThS. Đỗ Hữu Hải

Viện CNTT, ĐH Quốc gia Hà Nội


2

Hà Nội, tháng 10 năm 2013


3

MỤC LỤC
MỤC LỤC......................................................................................................................................3
MỞ ĐẦU.........................................................................................................................................4
1.Tính cấp thiết.............................................................................................................................4


2.Mục tiêu nghiên cứu..................................................................................................................4
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.............................................................................................5
1.CHƯƠNG 1. ...............................................................................................................................6
TỔNG QUAN VỀ DOANH NGHIỆP VÀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH
NGHIỆP..........................................................................................................................................6
1.1.Tổng quan về doanh nghiệp....................................................................................................6
1.2.Tổng quan về năng lực cạnh tranh doanh nghiệp...................................................................9
2.CHƯƠNG 2. .............................................................................................................................20
XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHỈ TIÊU QUẢN LÝ VÀ PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC CẠNH
TRANH CỦA DOANH NGHIỆP...............................................................................................20
2.1.Thiết kế nghiên cứu..............................................................................................................20
2.2.Mô hình nghiên cứu..............................................................................................................21
2.3.Thiết kế thang đo..................................................................................................................21
2.4.Xác định tầm quan trọng của các tiêu chí.............................................................................25
2.5.Hệ thống chỉ tiêu quản lý và phát triển năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp...................26


4

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết
Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, vấn đề cạnh tranh trong nước và quốc
tế ngày càng trở nên mạnh mẽ và gay gắt, chính vì vậy, yêu cầu nâng cao năng lực cạnh
tranh của các doanh nghiệp là rất cần thiết. Đối với các doanh nghiệp, năng lực cạnh tranh
phải thể hiện được khả năng vượt trội của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh trong
việc thỏa mãn tốt nhất những yêu cầu của khách hàng nhằm thu lợi ngày càng cao hơn.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, các doanh nghiệp đang phải đối mặt với nhiều vấn đề
làm ảnh hưởng đến hiệu quả, sức cạnh tranh, như quy mô vốn nhỏ, khả năng tiếp cận vốn
yếu; trang thiết bị, công nghệ lạc hậu; chất lượng nguồn nhân lực, năng lực quản lý còn
yếu kém. Do quy mô nhỏ, các doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt với nhiều khó khăn

và thách thức trong cạnh tranh cả ở trong và ngoài nước, nhất là trong bối cảnh hội nhập
quốc tế và thị trường toàn cầu do các công ty đa quốc gia, xuyên quốc gia chi phối.
Bên cạnh đó, hệ thống quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam vẫn chưa đồng bộ, dẫn tới
việc các cơ quan quản lý không nắm bắt được kịp thời tình hình hoạt động của doanh
nghiệp, vì vậy chưa tạo ra được những chính sách khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp đúng
lúc. Điều này không chỉ làm cho doanh nghiệp mất đi cơ hội của mình mà còn gây ảnh
hưởng đến sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế và đất nước.
Xuất phát từ những điều đó, việc xây dựng một hệ thống quản lý thống nhất, giúp
doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường là thực sự cần thiết. Chuyền đề “
Xây dựng hệ thống chỉ tiêu quản lý và phát triển năng lực cạnh tranh” hy vọng sẽ giải
quyết được phần nào những vấn đề trên, góp phần giúp các doanh nghiệp xác định lợi thế
cạnh tranh của mình, đồng thời giúp các nhà quản lý xây dựng chính sách phát triển năng
lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp một cách hợp lý, kịp thời.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Chuyên đề dùng lý thuyết cạnh tranh để phân tích và xác định năng lực cạnh tranh


5

của các doanh nghiệp theo các tiêu chí của ngành, đánh giá tổng hợp các điểm mạnh,
điểm yếu trong năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, từ đó đề xuất xây dựng hệ
thống chỉ tiêu quản lý và phát triển năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của chuyên đề là năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Thời
gian nghiên cứu được thực hiện từ 2/2013 đến hết tháng 8/2013.


6

1. CHƯƠNG 1.

TỔNG QUAN VỀ DOANH NGHIỆP VÀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA
DOANH NGHIỆP
1.1.

Tổng quan về doanh nghiệp

Hiện nay trên phương diện lý thuyết có khá nhiều định nghĩa thế nào là một doanh
nghiệp, mỗi định nghĩa đều mang trong nó một nội dung với một giá trị nhất định. Một số
định nghĩa về doanh nghiệp được đưa ra như sau:
Xét theo quan điểm luật pháp: Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tư cách pháp
nhân, có con dấu, có tài sản, có quyền và nghĩa vụ dân sự hoạt động kinh tế theo chế độ
hạch toán độc lập, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh tế trong phạm vi vốn
đầu tư do doanh nghiệp quản lý và chịu sự quản lý của nhà nước bằng các loại luật và
chính sách thực thi
Xét theo quan điểm chức năng: Doanh nghiệp được định nghĩa như sau: "Doanh
nghiệp là một đơn vị tổ chức sản xuất mà tại đó người ta kết hợp các yếu tố sản xuất (có
sự quan tâm giá cả của các yếu tố) khác nhau do các nhân viên của công ty thực hiện
nhằm bán ra trên thị trường những sản phẩm hàng hóa hay dịch vụ để nhận được khoản
tiền chênh lệch giữa giá bán sản phẩm với giá thành của sản phẩm ấy. (M.Francois
Peroux).
Xét theo quan điểm phát triển: Doanh nghiệp là một cộng đồng người sản xuất ra
những của cải. Nó sinh ra, phát triển, có những thất bại, có những thành công, có lúc vượt
qua những thời kỳ nguy kịch và ngược lại có lúc phải ngừng sản xuất, đôi khi tiêu vong
do gặp phải những khó khăn không vượt qua được " (trích từ sách " kinh tế doanh nghiệp
của D.Larua.A Caillat - Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội 1992 )
Xét theo quan điểm hệ thống: Doanh nghiệp được các tác giả nói trên xem rằng "
doanh nghiệp bao gồm một tập hợp các bộ phận được tổ chức, có tác động qua lại và theo


7


đuổi cùng một mục tiêu. Các bộ phận tập hợp trong doanh nghiệp bao gồm 4 phân hệ sau:
sản xuất, thương mại, tổ chức, nhân sự.
Ngoài ra có thể liệt kê hàng loạt những định nghĩa khác nữa khi xem xét doanh
nghiệp dưới những góc nhìn khác nhau. Song giữa các định nghĩa về doanh nghiệp đều có
những điểm chung nhất, nếu tổng hợp chúng lại với một tầm nhìn bao quát trên phương
diện tổ chức quản lý là xuyên suốt từ khâu hình thành tổ chức, phát triển đến các mối
quan hệ với môi trường, các chức năng và nội dung hoạt động của doanh nghiệp cho thấy
đã là một doanh nghiệp nhất thiết phải được cấu thành bởi những yếu tố sau đây:
• Yếu tố tổ chức: một tập hợp các bộ phận chuyên môn hóa nhằm thực hiện các
chức năng quản lý như các bộ phận sản xuất, bộ phận thương mại, bộ phận
hành chính.
• Yếu tố sản xuất: các nguồn lực lao động, vốn, vật tư, thông tin.
• Yếu tố trao đổi: những dịch vụ thương mại - mua các yếu tố đầu vào, bán sản
phẩm sao cho có lợi ở đầu ra.
• Yếu tố phân phối: thanh toán cho các yếu tố sản xuất, làm nghĩa vụ nhà nước,
trích lập quỹ và tính cho hoạt động tương lai của doanh nghiệp bằng khoản
lợi nhuận thu được.
Như vậy, từ cách nhìn nhận như trên ta có thể phát biểu về định nghĩa doanh nghiệp
như sau: Doanh nghiệp là đơn vị kinh tế có tư cách pháp nhân, quy tụ các phương tiện tài
chính, vật chất và con người nhằm thực hiện các hoạt động sản xuất, cung ứng, tiêu thụ
sản phẩm hoặc dịch vụ, trên cơ sở tối đa hóa lợi ích của người tiêu dùng, thông qua đó tối
đa hóa lợi của chủ sở hữu, đồng thời kết hợp một cách hợp lý các mục tiêu xã hội.
Phân loại doanh nghiệp: Có nhiều cách phân loại doanh nghiệp tùy theo các tiêu chí,
cụ thể như sau:
• Theo hình thức sở hữu: DN được chia làm 3 nhóm khác nhau


8


o DN Nhà nước: Là những DN mà Nhà nước nắm giữ 100% vốn chủ sở hữu
hoặc Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối trong doanh nghiệp.
o DN ngoài quốc doanh: Là những DN trong đó Nhà nước không tham gia
vốn hoặc tham gia vốn ở mức không chi phối.
o DN có vốn đầu tư nước ngoài: Là những DN được thành lập từ việc đăng kí
của nhà đầu tư nước ngoài hoặc từ những hợp đồng liên doanh giữa Việt
Nam và cá nhân, tổ chức nước ngoài
• Theo hình thức pháp lý: Căn cứ vào Luật Doanh nghiệp 2005, có các loại
hình DN sau:
o Công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH): bao gồm Công ty TNHH một thành
viên và Công ty TNHH hai thành viên trở lên. Thành viên của công ty
TNHH chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công
ty trong phạm vi số vốn cam kết góp vào DN.
o Công ty cổ phần: Là DN mà trong đó vốn điều lệ được chia thành nhiều
phần bằng nhau (gọi là cổ phần), cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân, nhưng
số lượng tối thiểu phải là ba và không hạn chế số lượng tối đa. Cổ đông chịu
trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong
phạm vi số vốn đã góp.
o Công ty hợp danh: Là DN mà trong đó phải có ít nhất 2 thành viên là chủ sở
hữu chung của công ty, cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung (gọi là
thành viên hợp danh); ngoài ra có thể có các thành viên góp vốn. Thành viên
hợp danh phải là cá nhân chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về
các nghĩa vụ của công ty. Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các
khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty.
o DN tư nhân: Là DN do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng
toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của DN. Mỗi cá nhân chỉ được


9


quyến thành lập một DN tư nhân.
o Nhóm công ty: Là tập hợp các công ty có mối quan hệ gắn bó lâu dài với
nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ, thị trường và các dịch vụ kinh doanh
khác. Nhóm công ty có thể được hình thành dưới hình thức Công ty mẹ Công ty con, Tập đoàn kinh tế, hợp tác kinh doanh ăn chia theo doanh thu
hoặc ăn chia theo lợi nhuận.
1.2.

Tổng quan về năng lực cạnh tranh doanh nghiệp.

1.2.1. Cạnh tranh
“Cạnh tranh” là một phạm trù kinh tế cơ bản. Điểm lại các lý thuyết cạnh tranh trong
lịch sử có thể thấy hai trường phái tiêu biểu: Trường phái cổ điển và trường phái hiện đại.
Trường phái cổ điển với các đại biểu tiêu biểu như Adam Smith, John Stuart Mill, Darwin
và C.Mác đã có những đóng góp nhất định trong lý thuyết cạnh tranh sau này. Trường
phái hiện đại với hệ thống lý thuyết đồ sộ với 3 quan điểm tiếp cận: tiếp cận theo tổ chức
ngành với đại diện là trường phái Chicago và Harvard; tiếp cận tâm lý với đại diện là
Meuger, Mises, Chumpeter, Hayek thuộc học phái Viên; tiếp cận “cạnh tranh hoàn hảo”
phát triển lý thuyết của Tân cổ điển. Như vậy, cạnh tranh là một khái niệm được sử dụng
trong nhiều lĩnh vực khác nhau và có nhiều cách quan niệm khác nhau dưới các góc độ
khác nhau:
i) Theo một định nghĩa được A. Lobe đưa ra từ gần một thế kỷ nay có thể hiểu cạnh
tranh là sự cố gắng của hai hay nhiều người thông qua những hành vi và khả năng nhất
định để cùng đạt được một mục đích.
ii) Khi bàn về cạnh tranh, Adam Smith cho rằng nếu tự do cạnh tranh, các cá nhân
chèn ép nhau thì cạnh tranh buộc mỗi cá nhân phải cố gắng làm công việc của mình một
cách chính xác. Ngược lại, chỉ có mục đích lớn lao nhưng lại không có động cơ thúc đẩy
thực hiện mục đích ấy thì rất ít có khả năng tạo ra được bất kỳ sự cố gắng lớn nào. Như
vậy, có thể hiểu rằng cạnh tranh khơi dậy sự nỗ lực chủ quan của con người, góp phần



10

làm tăng của cải của nền kinh tế.
iii) Khi nghiên cứu về cạnh tranh, K. Marx cho rằng “Cạnh tranh là sự ganh đua, sự
đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản
xuất và tiêu thụ hàng hóa để thu lợi nhận siêu ngạch” .
iv) Kinh tế học của P. Samuelson định nghĩa: “Cạnh tranh là sự tranh giành thị
trường để tiêu thụ sản phẩm giữa các nhà doanh nghiệp”.
v) Từ điển rút gọn về kinh doanh định nghĩa: “Cạnh tranh là sự ganh đua, kình địch
giữa các nhà kinh doanh trên thị trường nhằm giành cùng một loại tài nguyên sản xuất
hoặc cùng một loại khách hàng về phía mình”, tức là nâng cao vị thế của người này và
làm giảm vị thế của người khác.
vi) Theo Từ điển Bách khoa của Việt Nam thì “Cạnh tranh (trong kinh doanh) là
hoạt động tranh đua giữa những người sản xuất hàng hoá, giữa các thương nhân, các nhà
kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, chi phối quan hệ cung cầu, nhằm dành các điều
kiện sản xuất, tiêu thụ thị trường có lợi nhất”.
vii) Theo các tác giả của cuốn Các vấn đề pháp l ý về thể chế, về chính sách cạnh
tranh và kiểm soát độc quyền kinh doanh thì: “Cạnh tranh có thể được hiểu là sự ganh đua
giữa các doanh nghiệp trong việc giành một số nhân tố sản xuất hoặc khách hàng nhằm
nâng cao vị thế của mình trên thị trường, để đạt được mục tiêu kinh doanh cụ thể”.
Ở Việt Nam, khi đề cập đến “cạnh tranh” người ta thường là vấn đề giành lợi thế về
giá cả hàng hóa, dịch vụ mua bán và đó là phương thức để giành lợi nhuận cao cho các
chủ thể kinh tế. Trên quy mô toàn xã hội, cạnh tranh là phương thức phân bổ các nguồn
lực một cách tối ưu và do đó nó trở thành động lực bên trong thúc đẩy nền kinh tế phát
triển. Mặt khác, với mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận của các chủ thể kinh doanh, cạnh tranh
cũng dẫn đến yếu tố thúc đẩy quá trình tích lũy và tập trung tư bản không đồng đều ở các
doanh nghiệp.
Mặc dù còn có thể dẫn ra nhiều cách diễn đạt khác nhau về khái niệm cạnh tranh,



11

song qua các định nghĩa trên có thể rút ra những nét chung về cạnh tranh như sau:
Thứ nhất, khi nói đến cạnh tranh là nói đến sự ganh đua giữa một (hoặc một nhóm)
người nhằm giành lấy phần thắng của nhiều chủ thể cùng tham dự. Cạnh tranh nâng cao
vị thế của người này và làm giảm vị thế của những người còn lại.
Thứ hai, mục đích trực tiếp của cạnh tranh là một đối tượng cụ thể nào đó mà các
bên đều muốn giành giật (như một cơ hội, một sản phẩm dịch vụ, một dự án hay một thị
trường, một khách hàng...) với mục đích cuối cùng là kiếm được lợi nhuận cao.
Thứ ba, cạnh tranh diễn ra trong một môi trường cụ thể, có các ràng buộc chung mà
các bên tham gia phải tuân thủ như: đặc điểm sản phẩm, thị trường, các điều kiện pháp lý,
các thông lệ kinh doanh…
Thứ tư, trong quá trình cạnh tranh, các chủ thể tham gia cạnh tranh có thể sử dụng
nhiều công cụ khác nhau: cạnh tranh bằng đặc tính và chất lượng sản phẩm dịch vụ, cạnh
tranh bằng giá bán sản phẩm dịch vụ; cạnh tranh bằng nghệ thuật tiêu thụ sản phẩm (tổ
chức các kênh tiêu thụ); cạnh tranh nhờ dịch vụ bán hàng tốt; cạnh tranh thông qua hình
thức thanh toán…
Cạnh tranh là một trong những đặc trưng cơ bản, một xu thế tất yếu khách quan
trong nền kinh tế thị trường và là động lực phát triển của nền kinh tế thị trường. Đối với
các doanh nghiệp, cạnh tranh luôn là con dao hai lưỡi. Một mặt nó đào thải không thương
tiếc các doanh nghiệp có mức chi phí cao, sản phẩm có chất lượng kém. Mặt khác, nó
buộc tất cả các doanh nghiệp phải không ngừng phấn đấu để giảm chi phí, hoàn thiện giá
trị sử dụng của sản phẩm, dịch vụ đồng thời tổ chức tốt khâu tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ
để tồn tại và phát triển trên thị trường. Do vậy, cạnh tranh đã buộc các doanh nghiệp phải
tăng cường năng lực cạnh tranh của mình, đồng thời thay đổi mối tương quan về thế và
lực để tạo ra các ưu thế trong cạnh tranh. Do vậy, cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường
có vai trò tích cực:
Thứ nhất, đối với các chủ thể sản xuất kinh doanh, cạnh tranh tạo áp lực buộc họ



12

phải thường xuyên tìm tòi sáng tạo, cải tiến phương pháp sản xuất và tổ chức quản lý kinh
doanh, đổi mới công nghệ, áp dụng tiến bộ KHKT, phát triển sản phẩm mới, tăng năng
suất lao động, hạ giá thành sản phẩm. Qua đó nâng cao trình độ của công nhân và các nhà
quản l ý các cấp trong doanh nghiệp. Mặt khác, cạnh tranh sàng lọc khách quan đội ngũ
những người thực sự không có khả năng thích ứng với sự thay đổi của thị trường.
Thứ hai, đối với người tiêu dùng, cạnh tranh tạo ra một áp lực liên tục đối với giá cả,
buộc các doanh nghiệp phải hạ giá bán để nhanh chóng bán được sản phẩm, qua đó người
tiêu dùng được hưởng các lợi ích từ việc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong cung cấp
sản phẩm, dịch vụ. Mặt khác, cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải mở rộng sản xuất,
đa dạng hóa về chủng loại, mẫu mã vì thế người tiêu dùng có thể tự do lựa chọn theo nhu
cầu và thị hiếu của mình.
Thứ ba, đối với nền kinh tế, cạnh tranh làm sống động nền kinh tế, thúc đẩy tăng
trưởng và tạo ra áp lực buộc các doanh nghiệp phải sử dụng có hiệu quả các nguồn lực,
qua đó góp phần tiết kiệm các nguồn lực chung của nền kinh tế. Mặt khác, cạnh tranh
cũng tạo ra áp lực buộc các doanh nghiệp phải đẩy nhanh tốc độ quay vòng vốn, sử dụng
lao động có hiệu quả, tăng năng suất lao động, góp phần thúc đẩy tăng trưởng nền KTQD.
Thứ tư, đối với quan hệ đối ngoại, cạnh tranh thúc đẩy doanh nghiệp mở rộng thị
trường ra khu vực và thế giới, tìm kiếm thị trường mới, liên doanh liên kết với các doanh
nghiệp nước ngoài, qua đó tham gia sâu vào phân công lao động và hợp tác kinh tế quốc
tế, tăng cường giao lưu vốn, lao động, KHCN với các nước trên thế giới.
Bên cạnh các mặt tích cực của cạnh tranh, luôn tồn tại các mặt còn hạn chế, những
khó khăn trở ngại đối với các doanh nghiệp mà không phải bất cứ doanh nghiệp nào cũng
có thể vượt qua. Trên lý thuyết, cạnh tranh sẽ mang đến sự phát triển theo xu thế lành
mạnh của nền kinh tế thị trường. Song, trong một cuộc cạnh tranh bao giờ cũng có “kẻ
thắng, người thua”, không phải bao giờ “kẻ thua” cũng có thể đứng dậy được vì hiệu quả
đồng vốn khi về không đúng đích sẽ khó có thể khôi phục lại được. Đó là một quy luật tất
yếu và sắt đá của thị trường mà bất cứ nhà kinh doanh nào cũng biết, song lại không biết



13

lúc nào và ở đâu mình sẽ mất hoàn toàn đồng vốn ấy. Mặt trái của cạnh tranh còn thể hiện
ở những điểm sau:
Thứ nhất, cạnh tranh tất yếu dẫn đến tình trạng các doanh nghiệp yếu sẽ bị phá
sản, gây nên tổn thất chung cho tổng thể nền kinh tế. Mặt khác, sự phá sản của các
doanh nghiệp sẽ dẫn đến hàng loạt người lao động bị thất nghiệp, gây ra gánh nặng
lớn cho xã hội, buộc Nhà nước phải tăng trợ cấp thất nghiệp, hỗ trợ việc làm…Bên
cạnh đó, nó còn làm nảy sinh nhiều tệ nạn xã hội khác.
Thứ hai, cạnh tranh tự do tạo nên một thị trường sôi động, nhưng ngược lại cũng dễ
dàng gây nên một tình trạng lộn xộn, gây rối loạn nền KT-XH. Điều này dễ dàng dẫn đến
tình trạng để đạt được mục đích một số nhà kinh doanh có thể bất chấp mọi thủ đoạn “phi
kinh tế”, “phi đạo đức kinh doanh”, bất chấp pháp luật và đạo đức xã hội để đánh bại đối
phương bằng mọi giá, gây hậu quả lớn về mặt KT-XH. [4]
1.2.2. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Cạnh tranh gắn liền với hành vi của chủ thể như hành vi của doanh nghiệp kinh
doanh, của cá nhân kinh doanh và của một nền kinh tế. Trong quá trình cạnh tranh với
nhau, để giành lợi thế về phía mình, các chủ thể phải áp dụng tổng hợp nhiều biện pháp
nhằm duy trì và phát triển vị thế của mình trên thị trường. Các biện pháp này thể hiện một
sức mạnh nào đó của chủ thể, được gọi là năng lực cạnh tranh hay sức cạnh tranh hoặc
khả năng cạnh tranh của chủ thể đó. Khi muốn chỉ một sức mạnh, một khả năng duy trì
được vị trí của một hàng hóa nào đó trên thị trường thì người ta dùng thuật ngữ “sức cạnh
tranh của hàng hóa” hoặc “năng lực cạnh tranh của hàng hóa”. Đó cũng là chỉ mức độ hấp
dẫn của hàng hóa đó với khách hàng.
Hiện nay, các thuật ngữ “năng lực cạnh tranh”, “sức cạnh tranh” và “khả năng cạnh
tranh” được sử dụng nhiều ở Việt Nam, trong khi thông dụng trong tiếng Anh đều được
sử dụng là “competitiveness”, cho nên chúng cùng chung một nghĩa và có thể dùng thay
thế cho nhau. Một định nghĩa chính xác cho khái niệm này đến nay là vấn đề gây nhiều
tranh luận



14

Theo M. Porter, hiện chưa có một định nghĩa nào về năng lực cạnh tranh được thừa
nhận một cách phổ biến. Dưới đây là một số định nghĩa về năng lực cạnh tranh:
• Đối với các lãnh đạo doanh nghiệp, năng lực cạnh tranh có nghĩa là sức cạnh
tranh trên thị trường thế giới nhờ áp dụng chiến lược toàn cầu mà có được;
• Trong Từ điển thuật ngữ chính sách thương mại: “Sức cạnh tranh là năng lực
của một doanh nghiệp, hoặc một ngành, một quốc gia không bị doanh nghiệp
khác, ngành khác đánh bại về năng lực kinh tế”;
• Nguyên nhân dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau về năng lực cạnh tranh do
quan niệm khác nhau;
• Theo M.Porter thì năng lực cạnh tranh chỉ có nghĩa khi xem xét ở cấp độ
quốc gia là năng suất;
• Theo Krugman thì năng lực cạnh tranh ít nhiều chỉ phù hợp ở cấp độ doanh
nghiệp vì ranh giới cận dưới ở đây rất rõ ràng, nếu công ty không bù đắp nổi
chi phí thì hiện tại hoặc sau này sẽ phải từ bỏ kinh doanh hoặc phá sản.
Do vậy, khi nghiên cứu năng lực cạnh tranh người ta thường xem xét, phân biệt
năng lực cạnh tranh theo 4 cấp độ: năng lực cạnh tranh quốc gia, năng lực cạnh tranh
ngành, năng lực cạnh tranh doanh nghiệp và năng lực cạnh tranh của sản phẩm.[4] Tuy
nhiên, trong giới hạn phạm vi nghiên cứu của chuyên đề “Xây dựng hệ thống chỉ tiêu
quản lý và phát triển năng lực cạnh tranh”, tác giả chỉ xin đề cập đến cấp độ thứ 3, đó là
năng lực cạnh tranh cấp doanh nghiệp.
Một doanh nghiệp muốn có một vị trí vững chắc và thị trường ngày càng được mở
rộng thì cần có một tiềm lực đủ mạnh để có thể cạnh tranh trên thị trường. Đó chính là
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Do vậy, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là
tổng hợp năng lực nắm giữ và nâng cao thị phần của chủ thể trong sản xuất kinh doanh
hàng hoá, là trình độ sản xuất ra sản phẩm đáp ứng được yêu cầu của thị trường. Năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp được hiểu là năng lực tồn tại và phát triển mà không cần sự



15

hỗ trợ của Nhà nước. Bên cạnh đó, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là năng lực
cung cấp sản phẩm của chính doanh nghiệp trên các thị trường khác nhau với chi phí biến
đổi trung bình thấp hơn giá của nó trên thị trường, thể hiện thực lực và lợi thế của doanh
nghiệp so với đối thủ trong việc sản xuất và cung ứng, vừa tối đa hoá lợi ích của mình vừa
thoả mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng cho thấy năng lực cạnh tranh được nâng cao.
Do vậy, nói một cách cụ thể hơn thì năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả
năng doanh nghiệp tạo ra được lợi thế cạnh tranh, có khả năng tạo ra năng suất và chất
lượng cao hơn đối thủ cạnh tranh, chiếm lĩnh thị phần lớn, tạo ra thu nhập cao và phát
triển bền vững.
Để xây dựng được hệ thống chỉ tiêu quản lý và phát triển năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp, việc tìm hiểu các yếu tố tác động đến năng lực cạnh tranh là rất cần thiết.
Trong thực tế, có nhiều yếu tố tác động đến năng lực này, tuy nhiên, để dễ dàng nhận diện
các yếu tố chủ yếu, tác giả tiến hành phân chia thành 2 nhóm yếu tố cơ bản: nhóm yếu tố
bên trong và nhóm yếu tố bên ngoài doanh nghiệp.
Nhóm các nhân tố bên trong: Đây là nhóm các nhân tố có tác động trực tiếp, quyết
định đến hiệu quả hoạt động và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Ngược lại, bản
thân doanh nghiệp cũng có thể tác động để thay đổi những nhân tố này. Nhóm các nhân tố
này bao gồm các nhân tố chính sau:
Năng lực tài chính: Là nguồn lực tài chính của bản thân DN, là khả năng tạo tiền, tổ
chức lưu chuyển tiền hợp lý, đảm bảo khả năng thanh toán của DN. Trong nền kinh tế thị
trường, hầu hết mọi yếu tố đầu vào của sản xuất đều phải đi mua hoặc phải đầu tư ứng
trước. Do vậy, doanh nghiệp cần phải có vốn. Vốn chính là tiền đề để doanh nghiệp có
được lợi nhuận và tăng khả năng cạnh tranh của mình. Bên cạnh đó, việc khai thác và sử
dụng các nguồn lực tài chính của doanh nghiệp cũng rất quan trọng trong việc tạo ra khả
năng cạnh tranh. Chính vì vậy, năng lực tài chính thể hiện ở quy mô vốn và khả năng sinh
lời của doanh nghiệp.

Năng lực quản lý và điều hành: Một yếu tố quan trọng quyết định đến sự thành bại


16

trong hoạt động kinh doanh của bất kỳ một doanh nghiệp nào là vai trò của những người
lãnh đạo công ty, những quyết định của họ có tầm ảnh hưởng mạnh mẽ đến toàn bộ hoạt
động của công ty. Những tiêu chí chính đánh giá năng lực quản lý và điều hành là chiến
lược kinh doanh, cơ cấu tổ chức và sự tăng trưởng trong kết quả hoạt động của doanh
nghiệp.
Năng lực công nghệ: Đây là nhân tố quan trọng tạo tiền đề nâng cao năng suất lao
động. Trong điều kiện nền kinh tế tri thức, khi mà hàm lượng tri thức được vật chất hóa
thành kỹ thuật công nghệ thì công nghệ, kỹ thuật sản xuất trở thành yếu tố then chốt trong
việc tăng năng suất lao động, hạ giá thành và nâng cao chất lượng sản phẩm. Trên thực tế,
do tốc độ tiến bộ khoa học kỹ thuật ngày càng cao nên trình độ công nghệ của một doanh
nghiệp được đánh giá không chỉ dựa trên việc sử dụng thành thạo những kỹ thuật công
nghệ sẵn có mà còn bao gồm cả khả năng tiếp nhận các công nghệ hiện đại được chuyển
giao. Năng lực công nghệ được thể hiện qua khả năng kết nối dữ liệu và cung cấp dịch vụ
liên thông trong toàn bộ hệ thống của doanh nghiệp (yếu tố này giúp doanh nghiệp tăng
cường tính thuận tiện, nhanh chóng cho sản phẩm, dịch vụ); khả năng lưu trữ, quản lý và
truy xuất dữ liệu khách hàng của doanh nghiệp (yếu tố này giúp doanh nghiệp thỏa mãn
nhu cầu khách hàng và giúp cho việc lập báo cáo về tình hình hoạt động của doanh
nghiệp một cách nhanh chóng).
Nguồn nhân lực: Con người là yếu tố quan trọng quyết định sự tồn tại và phát triển
của doanh nghiệp. Trình độ, chất lượng của đội ngũ lao động ảnh hưởng đến chất lượng
sản phẩm dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp. Năng lực cạnh tranh về nguồn nhân lực của
doanh nghiệp bao gồm cả số lượng và chất lượng lao đông. Để đảm báo quá trình hoạt
động, doanh nghiệp nhất định phải có lực lượng lao động đủ về số lượng. Về chất lượng
lao động, các tiêu chí đánh giá bao gồm trình độ văn hóa (trình độ học vấn, các kỹ năng
hỗ trợ như ngoại ngữ, tin học, khả năng giao tiếp, thuyết trình, ra quyết định, giải quyết

vấn đề,…); kỹ năng quản trị đối với nhà điều hành, trình độ chuyên môn nghiệp vụ và kỹ
năng thực hiện nghiệp vụ đối với nhân viên.


17

Năng lực Marketing: Năng lực marketing của công ty trước hết là khả năng nắm bắt
nhu cầu thị trường, hoạch định chiến lược marketing và triển khai các chương trình
marketing hỗn hợp, là khả năng quảng bá và phát triển thương hiệu. Năng lực marketing
tác động trực tiếp tới sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, đáp ứng nhu cầu khách hàng, góp
phần làm tăng doanh thu, tăng thị phần, nâng cao vị thế của công ty. Khảo sát nhu cầu thị
trường để lựa chọn thị trường mục tiêu phù hợp, xây dựng chiến lược sản phẩm, định giá
và phát triển hệ thống phân phối là những hoạt động sống còn của công ty. Trong điều
kiện bùng nổ thông tin về hàng hoá sản phẩm, việc xây dựng thương hiệu sản phẩm,
thương hiệu công ty là một vấn đề hết sức quan trọng. Bên cạnh đó chính sách khuyến
mãi, dịch vụ bán hàng và hậu mãi đóng vai trò quan trọng đến việc thu hút và xây dựng
đội ngũ khách hàng truyền thống. Do đó, có thể nói, năng lực marketing là yếu tố quan
trọng của năng lực cạnh tranh.
Năng lực nghiên cứu và phát triển: Đây là năng lực có vai trò quan trọng trong việc
phát hiện và ứng dụng những công nghệ mới kịp thời, để tạo lợi thế cạnh tranh trên thị
trường như: phát triển sản phẩm mới trước đối thủ cạnh tranh, nâng cao chất lượng sản
phẩm, cải tiến quy trình sản xuất để giảm chi phí… Hoạt động này có sự khác nhau giữa
các doanh nghiệp, giữa các ngành đồng thời còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: đặc
trưng của sản phẩm, nguồn nhân lực, nguồn vốn, sự trợ giúp của Chính phủ…Các doanh
nghiệp theo đuổi chiến lược phát triển sản phẩm mới rất quan tâm đến hoạt động R&D,
họ còn hợp tác với các cơ quan nghiên cứu như các trường đại học để đưa các công trình
nghiên cứu mới vào sản xuất.
Năng lực hợp tác: Đứng trước ngưỡng cửa hội nhập quốc tế, trước hết các doanh
nghiệp phải khẳng định được vị thế trên thị trường trong nước trên cơ sở tăng cường hợp
tác kinh doanh với các đối tác trong nước để các bên cùng có lợi. Sau đó buộc các doanh

nghiệp phải cân nhắc, xem xét đến khả năng tham gia kinh doanh trên thị trường quốc tế
mà không chỉ bó hẹp chiếm lĩnh thị trường trong nước. Việc tham gia hợp tác sẽ tận dụng
được các cơ hội để mở rộng thị trường, tìm các đối tác để cung kinh doanh có lợi. Khi đó
doanh nghiệp có thể đứng vững trên thương trường, khẳng định được vị thế của doanh


18

nghiệp ở thị trường trong và ngoài nước.
Tiềm lực vô hình: Trong cơ chế thị trường, sự cạnh tranh luôn diễn ra quyết liệt, mà
yếu tố quan trọng nhất là chỗ đứng vững của doanh nghiệp trong lòng khách hàng. Do
vậy, uy tín đóng vai trò quyết định tới sự thành bại trong cuộc chiến để khẳng định sự tồn
tại và sức mạnh của doanh nghiệp. Đây là tiêu chí để đánh giá trị vô hình mà doanh
nghiệp đạt được thể hiện ở uy tín doanh nghiệp trên thương trường, qua sức mạnh về
thương hiệu doanh nghiệp và thương hiệu dịch vụ mà doanh nghiệp hiện đang cung cấp
trên thị trường trong nước và quốc tế. Tiềm lực vô hình được đánh giá thông qua hiệu quả
tác động của doanh nghiệp và các dịch vụ do doanh nghiệp cung cấp đến thái độ và hành
vi của các khách hàng, các đối tác của doanh nghiệp trong nước và quốc tế. Mức độ nhận
biết được tiềm lực này thông qua mức độ nhận biết/hiểu rõ/quen thuộc về sản phẩm,
những đặc điểm hình ảnh cụ thể, những yếu tố cân nhắc khi mua sắm và sở thích, mức độ
thỏa mãn và giới thiệu với người khác.
Nhóm các nhân tố bên ngoài: Khác với nhóm nhân tố bên trong, đây là nhóm nhân
tố chỉ tác động đến hiệu quả hoạt động và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp và
doanh nghiệp không thể can thiệp trực tiếp để có thể làm thay đổi các nhân tố này. Có rất
nhiều yếu tố bên ngoài ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của công ty. Vận dụng mô
hình kim cương của Michael Porter, có 3 yếu tố thuộc môi trường bên ngoài ảnh hưởng
đến năng lực cạnh tranh của công ty, đó là: thị trường; luật pháp và chính sách, kết cấu hạ
tầng và dịch vụ hỗ trợ.
Thị trường: Thị trường vừa là nơi công ty tiêu thụ sản phẩm, tìm kiếm đầu vào. Thị
trường điều tiết hoạt động của công ty, thông qua cung cầu, giá cả, lợi nhuận… công ty

căn cứ vào thị trường để định hướng chiến lược, xây dựng kế hoạch kinh doanh. Sự ổn
định của thị trường có ý nghĩa rất quan trọng đối với sức cạnh tranh của công ty. Để phát
hiện và tận dụng các cơ hội thị trường, công ty cần phải có hệ thống nghiên cứu
marketing mạnh. Cần có sự can thiệp của nhà nước thông qua việc xây dựng và thực thi
pháp luật, tạo lập môi trường cạnh tranh tích cực và hiệu quả, chống gian lận thương mại,


19

hạn chế độc quyền kinh doanh,… nhằm hạn chế những biến động thị trường. Một thị
trường cạnh tranh sẽ tạo sức ép đến quá trình đổi mới quản lý, cải tiến sản xuất, ứng dụng
khoa học - công nghệ, đổi mới và đa dạng hoá sản phẩm,… tạo động lực cho công ty
vươn lên. Một thị trường như thế sẽ tạo điều kiện thuận lợi để các công ty có điều kiện
nâng cao năng lực cạnh tranh của mình.
Luật pháp và chính sách: Luật pháp và chính sách là tiền đề quan trọng cho mọi hoạt
động của xã hội và thị trường. Nội dung của thể chế, chính sách bao gồm các quy định
pháp luật, các biện pháp hạn chế hay khuyến khích đầu tư, kinh doanh đối với hàng hoá,
dịch vụ, ngành nghề, địa bàn… Những chính sách quan trọng bao gồm chính sách về đầu
tư, tài chính, tiền tệ, đất đai, công nghệ, thị trường… Đó là các chính sách điều tiết đầu
vào và đầu ra cũng như toàn bộ quá trình hoạt động của công ty. Đây là nhóm yếu tố rất
quan trọng đối với toàn bộ hoạt động của công ty nói chung và năng lực cạnh tranh của
công ty nói riêng.
Kết cấu hạ tầng và dịch vụ hỗ trợ: Kết cấu hạ tầng bao gồm hạ tầng vật chất - kỹ
thuật và hạ tầng xã hội, bao gồm hệ thống giao thông, mạng lưới điện, hệ thống thông tin,
giáo dục - đào tạo… Đây là tiền đề quan trọng, tác động mạnh đến hoạt động của công ty,
ảnh hưởng đến chất lượng và giá cả của sản phẩm. Có thể lấy trường hợp của các nước
phát triển làm ví dụ điển hình như Singapore, Nhật Bản, EU,… nhờ hạ tầng tốt, các công
ty đã có điều kiện tiết giảm chi phí bốc xếp vận chuyển. Hệ thống thông tin viễn thông
phát triển giúp các công ty tiếp cận nhanh chóng và đa chiều các thông tin kinh tế thương
mại, tranh thủ được cơ hội và giảm thiểu rủi ro. Muốn có hệ thống kết cấu hạ tầng hoàn

thiện, chất lượng tốt như thế, thì nhà nước với tư cách là người đại diện cho quyền lợi xã
hội cần quan tâm đầu tư đúng mức. Hoạt động sản xuất kinh doanh với mỗi công ty sẽ
liên quan tới một chuỗi các ngành khác và dịch vụ hỗ trợ kinh doanh như: những ngành
cung cấp nguyên liệu đầu vào, dịch vụ vận tải, cung cấp điện, cung cấp nước… Nếu sử
dụng các dịch vụ với chi chí thấp, chất lượng phục vụ tốt sẽ tạo ra lợi thế cho công ty
nâng cao năng lực cạnh tranh, vì mỗi lĩnh vực hoạt động sẽ có cơ hội để thực hiện mức độ
chuyên môn hoá cao hơn làm tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh. Vì vậy, công ty rất cần


20

duy trì mối quan hệ hợp tác lâu dài với các ngành có liên quan nhằm tạo ra lợi thế tiềm
tàng cho cạnh tranh.
2. CHƯƠNG 2.
XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHỈ TIÊU QUẢN LÝ VÀ PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC
CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP

2.1.

Thiết kế nghiên cứu

Xuất phát từ mục tiêu nghiên cứu và nội dung nghiên cứu đã được xác định, tác giả
tiến hành thiết kế nghiên cứu, lựa chọn phương pháp đánh giá năng lực cạnh tranh, xác
định tầm quan trọng của các yếu tố tác động đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp,
xây dựng thang đo, từ đó đưa ra hệ thống chỉ tiêu quản lý và phát triển năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp.
Phương pháp chuyên gia được vận dụng để thu thập ý kiến về các yếu tố tác động
đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Dữ liệu thu thập sẽ được xử lý để xây dựng
ma trận các yếu tố bên trong, cho phép rút ra các kết luận về năng lực cạnh tranh. Sau đó,
phương pháp phân tích các yếu tố tác động đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp

được sử dụng để xây dựng hệ thống chỉ tiêu quản lý và phát triển năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp. Phương pháp phân tích các yếu tố coi năng lực cạnh tranh là một hệ
phương trình phụ thuộc vào nhiều biến số và giá trị chỉ số năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp được tính bằng công thức F(b) = ∑a i x bi (i = 1-n). (Trong đó: F(b) là biểu hiện giá
trị chỉ số năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp; ai là các hệ số thể hiện tầm quan trọng
của các yếu tố đối với năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp; bi là biến số biểu hiện thay
đổi năng lực cạnh tranh. Giá trị bi là giá trị của các chỉ số thành phần tạo nên giá trị chỉ số
năng lực cạnh tranh.)
Tóm lại, các bước để xây dựng hệ thống chỉ tiêu quản lý và phát triển năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp bao gồm:


21

Bước 1: Xác định những yếu tố tác động đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Bước 2: Xây dựng thang đo những yếu tố tác động đến năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp.
Bước 3: Xác định tầm quan trọng của các tiêu chí đánh giá những yếu tố tác động
đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Bước 4: Xây dựng hệ thống chỉ tiêu quản lý và phát triển nằng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp.
2.2.

Mô hình nghiên cứu

Dựa trên việc trình bày các yếu tố chính tác động đến năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp cùng với việc tham khảo, xin ý kiến chuyên gia, tác giả đề xuất mô hình nghiên
cứu gồm 2 nhân tố là nhân tố bên trong và nhân tố bên ngoài doanh nghiệp, trong đó,
nhân tố bên trong được đo lường bằng 8 tiêu chí, nhân tố bên ngoài được đo lường bằng 3
tiêu chí. Mô hình nghiên cứu cụ thể được thể hiện trong hình dưới đây:

2.3.

Thiết kế thang đo

Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp gồm 11 tiêu chí được đo lường bằng 59 biến
quan sát, sử dụng thang đo Likert từ 1 đến 5 (1: Rất yếu, 2: Yếu, 3: Trung bình, 4: Mạnh,
5: Rất mạnh) . Các biến đo lường cụ thể của 11 tiêu chí thể hiện trong bảng dưới đây:
Biến quan

Nhãn biến

sát
Năng lực tài chính
TC1

Doanh nghiệp huy động vốn dễ dàng

TC2

Doanh nghiệp có lợi nhuận hàng năm tăng lên

TC3

Doanh nghiệp có tính thanh khoản tốt

TC4

Doanh nghiệp có vòng quay vốn nhanh



22

TC5

Doanh nghiệp có tình hình tài chính lành mạnh
Năng lực quản lý và điều hành

QL1

Lãnh đạo doanh nghiệp có năng lực tốt

QL2

Doanh nghiệp có mô hình tổ chức phù hợp

QL3

Doanh nghiệp bố trí lao động hợp lý

QL4

Doanh nghiệp có chiến lược kinh doanh tốt

QL5

Doanh nghiệp ra quyết định chính xác

QL6

Doanh nghiệp có chính sách nhân sự tốt


QL7

Doanh nghiệp có hệ thống kiểm soát hữu hiệu
Năng lực công nghệ

CN1

Doanh nghiệp có công nghệ hiện đại

CN2

Doanh nghiệp có quy trình nghiệp vụ tốt

CN3

Doanh nghiệp có cơ sở vật chất đảm bảo an toàn cho giao dịch

CN4

Doanh nghiệp có không gian giao dịch hiện đại, tiện nghi
Nguồn nhân lực

NL1

Doanh nghiệp có tính tuân thủ cao về đạo đức nghề nghiệp

NL2

Nguồn nhân lực của doanh nghiệp đáp ứng yêu cầu công việc


NL3

Lao động của doanh nghiệp có trình độ chuyên môn cao

NL4

Lao động của doanh nghiệp được đào tạo có chuyên môn phù hợp

NL5

Lao động của doanh nghiệp có khả năng sáng tạo


23

Năng lực Marketing
MA1

Doanh nghiệp có đội ngũ marketing tốt

MA2

Doanh nghiệp có hệ thống thông tin marketing tốt

MA3

Doanh nghiệp hiểu rõ nhu cầu của khách hàng

MA4


Doanh nghiệp luôn theo sát động thái của đối thủ cạnh tranh

MA5

Doanh nghiệp xác định thị trường mục tiêu phù hợp

MA6

Doanh nghiệp có chiến lược marketing tốt

MA7

Doanh nghiệp khuyến mãi có hiệu quả

MA8

Doanh nghiệp quảng cáo hiệu quả

MA9

Doanh nghiệp quan hệ công chúng tốt
Năng lực nghiên cứu và phát triển

RD1

Doanh nghiệp coi trọng hoạt động nghiên cứu và phát triển

RD2


Doanh nghiệp bỏ chi phí cho hoạt động nghiên cứu và phát triển

RD3

Doanh nghiệp có bộ phận phát triển sản phẩm tốt

RD4

Doanh nghiệp có bộ phận nghiên cứu sản phẩm tốt
Năng lực hợp tác

HT1

Doanh nghiệp có quan hệ hợp tác tốt với các đối tác trong nước

HT2

Doanh nghiệp có khả năng mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế

HT3

Doanh nghiệp có quan hệ hợp tác với các đối tác quốc tế

HT4

Doanh nghiệp có vị thế vững chắc trên thị trường
Tiềm lực vô hình


24


TL1

Doanh nghiệp tạo dựng được uy tín và hình ảnh trong lòng khách
hàng

TL2

Doanh nghiệp có uy tín với đối tác

TL3

Doanh nghiệp có sức mạnh về thương hiệu sản phẩm, dịch vụ

TL4

Doanh nghiệp có văn hóa vững mạnh, thống nhất
Thị trường

TT1

Doanh nghiệp mong muốn hoạt động trong thị trường ổn định

TT2

Tình hình lạm phát ảnh hưởng xấu đến hoạt động của doanh nghiệp

TT3

Sự tham gia của các công ty nước ngoài gây khó khăn cho hoạt động

của doanh nghiệp

TT4

Lãi suất huy động vốn ảnh hưởng tới khả năng hoạt động của doanh
nghiệp
Luật pháp và chính sách

LP1

Tình trạng tham nhũng ảnh hưởng xấu đến hoạt động của doanh
nghiệp

LP2

Chính sách tiền tệ còn nhiều hạn chế

LP3

Chính sách tài khóa còn nhiều hạn chế

LP4

Sự bất ổn của nền kinh tế ảnh hưởng xấu đến hoạt động của doanh
nghiệp

LP5

Quản lý hoạt động của các cơ quan Nhà nước còn nhiều bất cập


LP6

Thủ tục hành chính rườm rà

LP7

Hỗ trợ của Nhà nước đối với doanh nghiệp trong nước còn hạn chế


25

Kết cấu hạ tầng và dịch vụ hỗ trợ
HT1

Chi phí vận chuyển cao

HT2

Chi phí điện cao

HT3

Chi phí dịch vụ cao

HT4

Hệ thống đào tạo nguồn nhân lực còn hạn chế

HT5


Hệ thống giao thông kém

HT6

Hệ thống đường truyền thấp

2.4.

Xác định tầm quan trọng của các tiêu chí

Một bảng câu hỏi được thiết kế với các tiêu chí cùng sự đánh giá về tầm quan trọng
của từng tiêu chí theo thang đo từ 1 đến 3 (1: Không quan trọng, 2: Quan trọng và 3: Rất
quan trọng). Bảng câu hỏi được gửi đến các 80 người, là những lãnh đạo doanh nghiệp,
các nhà quản lý kinh tế, các chuyên gia về kinh tế để lấy kết quả. Kích thước mẫu được
xác định theo công thức: n ≥ m*5, với m là số mục hỏi, m = 11. Như vậy, số mẫu cần
khảo sát là 55 mẫu. So với thực tế là 80 người được phỏng vấn nên mẫu đảm bảo độ tin
cậy. Kết quả của cuộc khảo sát nhằm xác định tầm quan trọng của các tiêu chí được đưa
ra dưới đây:
Tiêu chí

Điểm số

Năng lực tài chính

3

Năng lực quản lý và điều hành

3


Năng lực công nghệ

2

Nguồn nhân lực

2

Năng lực Marketing

2


×