Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

TƯ TƯỞNG hồ CHÍ MINH về đại đoàn kết dân tộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.99 KB, 13 trang )

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC

Tư tưởng về đại đoàn kết dân tộc có từ rất sớm và xuyên suốt trong hệ thống
luận điểm khoa học về cách mạng Việt Nam của Hồ Chí Minh. Đó là tư tưởng về
đoàn kết, tập hợp, phát huy sức mạnh cao nhất của dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh
vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Hiện nay, việc nghiên cứu và vận dụng tư
tưởng của Người về đại đoàn kết dân tộc là một vấn đề chính trị - thực tiễn cấp thiết,
có ý nghĩa quyết định thành công của cách mạng nước ta trong thời kỳ mới.
I. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT
DÂN TỘC
1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận chủ yếu quyết định hình thành tư tưởng khoa học và cách mạng
của Hồ Chí Minh là những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò
của quần chúng nhân dân trong lịch sử, về lực lượng nền tảng và giai cấp lãnh đạo
sự nghiệp cách mạng của nhân dân, về đoàn kết giai cấp vô sản thế giới và đoàn
kết các dân tộc bị áp bức.
Khái quát lịch sử nhân loại, Các Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ quan niệm duy
vật lịch sử về mối quan hệ biện chứng giữa quần chúng nhân dân và cá nhân lãnh tụ,
trong đó khẳng định quần chúng nhân dân là người sáng tạo chân chính ra lịch sử và
nhiệm vụ cách mạng càng phát triển thì vai trò đó ngày càng tăng lên. Phát triển
quan điểm của Các Mác và Ph.Ăngghen, Lênin đã chỉ rõ cách mạng là ngày hội của
quần chúng bị áp bức bóc lột và khẳng định vai trò của quần chúng nhân dân trong
cách mạng vô sản. Song, vai trò sức mạnh của quần chúng nhân dân chỉ được phát
huy khi được tổ chức, tập hợp thành khối thống nhất mà nền tảng là liên minh công nông- trí thức, dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân. Lênin đã bổ sung vào khẩu
hiệu của Mác “Vô sản thế giới liên hợp lại” thành khẩu hiệu “vô sản tất cả các nước
1


và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”. Những quan điểm trên của các nhà kinh điển
Mác - Lênin đã được Hồ Chí Minh thấm nhuần sâu sắc, Nhờ đó đã giúp Người đánh
giá được những yếu tố tích cực và hạn chế trong tư tưởng tập hợp lực lượng ở trong


nước và thế giới để hình thành tư tưởng về đại đoàn kết dân tộc.
Cơ sở đầu tiên, sâu xa cho sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn
kết dân tộc đó là truyền thống yêu nước, nhân ái, tinh thần cố kết cộng đồng của
dân tộc Việt Nam được hình thành và phát triển trong quá trình dựng nước và giữ
nước hàng nghìn năm lịch sử. Hồ Chí Minh đã sớm hấp thụ được truyền thống đó
qua nghiên cứu kho tàng văn hóa dân gian, qua tìm hiểu tư tưởng đoàn kết tập hợp
lực lượng của các vị anh hùng dân tộc, các nhà cách mạng yêu nước đầu thế kỷ
XX, tiêu biểu là của Phan Bội Châu, Phan Chu Chinh. Người khẳng định truyền
thống yêu nước, đoàn kết là “thuần phong mỹ tục” của dân tộc, cần phải kế thừa và
phát huy mãi mãi.
Không chỉ tiếp thu, phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về vấn đề
đoàn kết và truyền thống yêu nước, đoàn kết của dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh
còn tiếp thu được tư tưởng về đoàn kết trong nền văn hóa của các dân tộc phương
Đông, phương Tây. Nhất là tư tưởng “ lục hoà”,vị tha, từ bi, bác ái trong học thuyết
Phật giáo, tư tưởng về đoàn kết mọi dòng họ trong cả nước và đoàn kết quốc tế
“liên Nga, hiệp cộng, ủng hộ công nông” của Tôn Dật Tiên đã được Hồ Chí Minh
nghiên cứu, vận dụng một cách phù hợp với điều kiện thực tế ở nước ta. Tư tưởng
về vai trò sức mạnh của nhân dân và của đoàn kết nhân dân trong nền văn hoá
Pháp, Anh, đặc biệt là tư tưởng của Môngteckiơ, Vônte đã được Hồ Chí Minh tiếp
thu và phát triển rất sâu sắc.
2. Cơ sở thực tiễn.
Trên cơ sở thực tiễn các phong trào yêu nước, phong trào cách mạng Việt
Nam và thế giới, nhất là phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, Hồ
2


Chí Minh đã nghiên cứu tổng kết và rút ra những kinh nghiệm thành công và thất
bại của các phong trào này, trong đó có kinh nghiệm về thực hiện đoàn kết lực
lượng cách mạng. Đây là cơ sở quan trọng, cần thiết cho việc hoàn thành tư tưởng
Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.

Nghiên cứu thực tế phong trào cách mạng ở Trung Quốc, Ấn Độ và ở Pháp,
Hồ Chí Minh tìm thấy ở đó nhiều bài học rất bổ ích về tập hợp lực lượng tiến bộ để
tiến hành cách mạng. Đến với cách mạng Tháng Mười Nga, Hồ Chí Minh đã nhận
thấy bài học thành công của cuộc cách mạng này từ việc huy động, tập hợp lực
lượng quần chúng công nông đông đảo dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản để
giành, giữ chính quyền và xây dựng chế độ xã hội mới.
Nghiên cứu thực tiễn Việt Nam, Người rút ra bài học lịch sử sâu sắc là: “Lúc
nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập tự do. Trái lại, lúc nào
nước ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn” [1]. Từ thực tiễn này, Người đã
đặc biệt quan tâm chăm lo xây dựng, củng cố, phát triển khối đại đoàn kết dân tộc
và chính Người đã trở thành linh hồn của khối đại đoàn kết dân tộc.
II. NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN
KẾT DÂN TỘC
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc có nội dung vô cùng phong
phú, đề cập đến nhiều lĩnh vực. Dưới đây là những quan điểm cơ bản, xuyên suốt
trong tư tưởng đại đoàn kết của Người.
1. Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược, bảo đảm thành công của
cách mạng Việt Nam
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược lâu
dài, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
đến cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đại đoàn kết dân tộc không phải là nhiệm vụ
mang tính nhất thời hay là một giải pháp tình thế. Trong “bài nói chuyện tại Hội
3


nghị đại biểu Mặt trận Liên Việt toàn quốc”, ngày 10.1.1955, Hồ Chí Minh đã
khẳng định “Đoàn kết là một chính sách dân tộc, không phải là một thủ đoạn chính
trị”[2].
Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, có thể và cần thiết phải điều
chỉnh chính sách, hình thức, phương pháp tập hợp lực lượng cho phù hợp với

những đối tượng khác nhau, nhưng đại đoàn kết dân tộc luôn luôn được Hồ Chí
Minh nhận thức là vấn đề sống còn của cách mạng. Theo Người “Trong thế giới
không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân” [3]. Chính vì thế mà “Quân
thù không sợ cái gì, chỉ sợ nhân dân Việt Nam đoàn kết” [4]. Đối với Hồ Chí Minh,
đại đoàn kết dân tộc không chỉ là sức mạnh chiến thắng kẻ thù xâm lược giành
thống nhất, độc lập cho Tổ quốc mà còn là sức mạnh trong xây dựng nước nhà. Hồ
Chí Minh đã nêu ra luận điểm khái quát có tính chân lý thể hiện mối quan hệ nhân
quả giữa đoàn kết với sự thành công của cách mạng:
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công”[5].
2. Đại đoàn kết dân tộc là một mục tiêu, một nhiệm vụ hàng đầu của cách
mạng Việt Nam.
Hồ Chí Minh không chỉ xác định đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược, có
ý nghĩa quyết định thành công của cách mạng mà còn coi đại đoàn kết dân tộc là
mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng. Theo đó, tư tưởng đại đoàn kết dân
tộc phải được quán triệt trong mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng.
Trong lời kết thúc buổi ra mắt của Đảng lao động Việt Nam ngày 3.3.1951, Hồ Chí
Minh đã thay mặt Đảng tuyên bố trước toàn thể dân tộc: Mục đích của Đảng lao
động Việt Nam có thể gồm 8 chữ là: “Đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc”.Đại
đoàn kết dân tộc không phải chỉ là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng mà còn
là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc. Bởi lẽ, đại đoàn kết dân tộc chính
4


là sự nghiệp của quần chúng, do quần chúng và vì quần chúng. Đảng có sứ mệnh
thức tỉnh, tập hợp, đoàn kết quần chúng tạo thành sức mạnh vô địch trong cuộc đấu
tranh vì độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
3. Đoàn kết dân tộc là đoàn kết toàn dân Viêt Nam.
Đại đoàn kết dân tộc theo Tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ được hiểu theo
nghĩa hẹp là đoàn kết các tộc người trong quốc gia đa dân tộc Việt Nam mà đựơc

hiểu theo nghĩa rộng, ở cấp độ phổ quát là đoàn kết toàn dân.
Dân, nhân dân trong Tư tưởng Hồ Chí Minh vừa là một tập hợp đông đảo
quần chúng vừa được hiểu là mỗi con người Việt Nam cụ thể và cả hai đều là chủ
thể của đại đoàn kết dân tộc. Người dùng khái niệm Dân để chỉ “mọi con dân nước
Việt”, “Con Rồng, cháu Tiên”, “con cháu Hồng Bàng”, không phân biệt dân tộc,
tôn giáo, tín ngưỡng, già, trẻ, gái trai, giàu nghèo, quý tiện. Hồ Chí Minh đã mở
rộng “biên độ” khái niệm toàn dân đến tất cả những ai vẫn còn “tán thành hòa bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù những người đó trước đây chống lại chúng ta,
bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ” [6]. Ngay từ tháng 3.1944, Hồ Chí
Minh đã chỉ rõ: “Hiện nay ở trong nước không cần nêu khẩu hiệu “Đoàn kết các
đảng phái” vì điều này đã trở thành hiện thực, mà cần phải mở rộng khối đoàn kết
đến toàn dân...để đạt tới mục đích... đặng hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân
tộc”[7].
Đại đoàn kết là đoàn kết toàn dân - Đây là một sáng tạo thể hiện rõ Hồ Chí
Minh đã nắm được bản chất, linh hồn của đấu tranh giai cấp và nhờ đó đã hóa giải
hợp lý những đối kháng về quyền lợi bộ phận trong những hoàn cảnh nhất định
phục vụ tập trung cho lợi ích chung.
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ để đoàn kết toàn dân thì phải kế thừa truyền thống
đoàn kết của dân tộc, phát triển “thuần phong mỹ tục” đó; phải có lòng khoan dung

5


độ lượng và niềm tin vào con người. Năm 1946, trong thư gửi đồng bào Nam Bộ,
Người viết:
“Tôi khuyên đồng bào đoàn kết chặt chẽ và rộng rãi. Năm ngón tay cũng có
ngón vắn ngón dài. Nhưng vắn dài đều hợp lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người
cũng có người thế này, thế khác nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ
tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ, ta phải nhận rằng đã là con Lạc, cháu
Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc. Đối với những đồng bào lạc lối lầm

đường ta phải lấy tình thân ái mà cảm hóa họ có như thế mới thành đại đoàn kết, có
đại đoàn kết thì tương lai chắc chắn sẽ vẻ vang”[8].
Để thực hiện đoàn kết toàn dân, Hồ Chí Minh yêu cầu phải xóa bỏ mọi thành
kiến, phải thật thà đoàn kết, đoàn kết thực sự, giúp nhau cùng tiến bộ để thực hiện
mục đích chung là “cứu nước, cứu dân tộc”, xây dựng nền độc lập và thống nhất
của Tổ quốc, cuộc sống tự do và hạnh phúc của nhân dân. Như thế, Hồ Chí Minh
đã tìm thấy “mẫu số chung” của toàn dân tộc, thay vì khoét sâu cách biệt, đặt tiến
trình đi lên của lịch sử trên sự quy tụ lợi ích chung thay vì loại trừ những lợi ích
khác nhau.
Điều mà Hồ Chí Minh rất quan tâm nhắc nhở là để đoàn kết toàn dân đòi hỏi
phải làm tốt công tác dân vận. Có như vậy mới “vận động tất cả lực lượng của mỗi
người dân không để sót một người dân nào góp thành lực lượng toàn dân”. Đồng
thời, Người chỉ rõ trong đoàn kết toàn dân phải thể hiện đúng lập trường giai cấp
công nhân, lấy liên minh công - nông - trí thức làm nền tảng do Đảng cộng sản
lãnh đạo. Chỉ có như vậy mới củng cố, mở rộng khối đoàn kết toàn dân bền vững
mà không có thế lực nào có thể làm suy yếu được.
4. Mặt trận dân tộc thống nhất là tổ chức thể hiện và phát huy sức mạnh
của khối đại đoàn kết dân tộc.

6


Theo Hồ Chí Minh để đạt được mục đích của đại đoàn kết dân tộc không thể
chỉ dừng lại ở quan niệm, tư tưởng, ở những lời kêu gọi mà phải trở thành một
chiến lược cách mạng, thành hành động thực tế của toàn Đảng, toàn dân. Đại đoàn
kết dân tộc phải biến thành sức mạnh vật chất, có tổ chức và tổ chức đó chính là
Mặt trận dân tộc thống nhất. Về bản chất, Mặt trận dân tộc thống nhất đó là tổ chức
chính trị xã hội rộng rãi, là nơi quy tụ mọi tổ chức, mọi cá nhân yêu nước không
chỉ ở trong nước mà cả những người Việt Nam định cư ở nước ngoài, phấn đấu góp
sức vì mục tiêu chung là độc lập thống nhất của Tổ quốc và tự do, hạnh phúc của

nhân dân.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về tổ chức Mặt trận dân tộc thống nhất được thể hiện
rõ ở việc Người đề nghị thành lập “Việt Nam độc lập đồng minh” gọi tắt là Việt
minh, vào tháng 5.1941 tại Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ Tám và đã được Hội
nghị thông qua. Sau Mặt trận Việt Minh sự ra đời của các Mặt trận Liên Việt, Mặt
trận Tổ quốc, Mặt trận dân tộc giải phóng Miền Nam, Liên minh các lực lượng dân
tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hiện nay chính
là sự tiếp tục thể hiện tư tưởng của Hồ Chí Minh về đoàn kết, đại đoàn kết, đại hòa
hợp trong vấn đề tổ chức.
Hồ Chí Minh không những chỉ rõ việc xây dựng và phát triển mặt trận dân tộc
thống nhất là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược của cách mạng Việt Nam, trong cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa mà
còn đưa ra những nguyên tắc cơ bản để xây dựng mở rộng Mặt trận. Đó là:
Thứ nhất, Mặt trận phải được xây dựng trên nền tảng liên minh công - nông lao động trí óc, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Theo Hồ Chí Minh, lực lượng, thành phần tham gia Mặt trận rất phong phú,
đa dạng, rộng rãi nhưng phải xác định rõ lực lượng nòng cốt, nền tảng. Lực lượng
đó là liên minh công - nông - lao động trí óc, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
7


Trên cơ sở khối liên minh này mà mở rộng Mặt trận, làm cho Mặt trận thực sự quy
tụ được cả dân tộc, tập hợp được toàn dân, kết thành một khối vững chắc.
Trong Mặt trận, Đảng cộng sản là một thành viên và là lực lượng lãnh đạo mặt
trận. Hồ Chí Minh cho rằng, quyền lãnh đạo Mặt trận không phải do Đảng tự
phong cho mình mà phải được nhân dân thừa nhận qua năng lực thực tế và uy tín
của Đảng. Đảng lãnh đạo Mặt trận bằng việc xác định chính sách Mặt trận đúng
đắn, phù hợp với từng thời kỳ, giai đoạn cách mạng. Đảng phải dùng phương pháp
vận động, giáo dục, thuyết phục nêu gương, tránh gò ép, quan liêu mệnh lệnh trong
lãnh đạo Mặt trận. Đặc biệt, Đảng phải thật sự tiêu biểu mẫu mực về đoàn kết, làm
cơ sở vững chắc để xây dựng sự đoàn kết trong Mặt trận.

Thứ hai, Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ, lấy việc
thống nhất lợi ích tối cao của dân tộc với lợi ích của các tầng lớp nhân dân làm cơ
sở để củng cố và không ngừng mở rộng.
Theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ, mọi việc của Mặt trận đều do bàn bạc
thống nhất quyết định một cách thật sự dân chủ. Khi có những lợi ích riêng không
phù hợp, Mặt trận theo phương châm “cầu đồng tồn dị” lấy cái chung là lợi ích tối
cao của dân tộc lên trên hết và lợi ích căn bản của các tầng lớp nhân dân để hạn
chế cái khác biệt thông qua bàn bạc để đi đến nhất trí.
Thứ ba, khối đoàn kết trong Mặt trận là lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết thật sự,
chân thành, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Đoàn kết trong Mặt trận không phải chỉ trong thời gian nhất định mà phải lâu
dài và chặt chẽ. Hồ Chí Minh đã nhiều lần nhắc nhở phải đoàn kết chặt chẽ thành
một khối vững chắc, thống nhất trong sự đa dạng, phong phú rộng rãi của các lực
lượng, thành phần Mặt trận.
Hồ Chí Minh đòi hỏi một sự đoàn kết thực sự, có hiệu quả, không phải đoàn
kết ngoài miệng, mà đoàn kết bằng việc làm, đoàn kết bằng tinh thần, Người giải
8


thích: đoàn kết thực sự nghĩa là mục đích phải nhất trí và lập trường cũng phải nhất
trí, vừa đoàn kết vừa đấu tranh, học những cái tốt của nhau, phê bình những cái sai
của nhau và phê bình trên lập trường thân ái, vì nước, vì dân. Người thường xuyên
căn dặn phải khắc phục tình trạng đoàn kết xuôi chiều, không có đấu tranh trong
nội bộ Mặt trận.
5. Đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế
Khi tìm thấy con đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã sớm xác định cách mạng
Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, cách mạng Việt Nam chỉ có thể
thắng lợi khi đoàn kết chặt chẽ với các lực lượng trong phong trào cách mạng thế
giới. Theo Người “Ai làm cách mệnh trong thế giới đều là đồng chí của nhân dân
An Nam cả”[9]. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh đã đấu

tranh không mệt mỏi để củng cố, tăng cường đoàn kết quốc tế, kiên quyết chống
chủ nghĩa chủng tộc, chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Đối với Hồ Chí Minh, các dân
tộc trên thế giới đủ màu da “vàng đen trắng đỏ đều là anh em”. Trong diễn văn
khai mạc Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III Đảng lao động Việt Nam, Hồ Chí
Minh rất phấn khởi đọc câu thơ : “Quan san muôn dặm một nhà, Bốn phương vô
sản đều là anh em”[10].
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ dừng lại ở đoàn kết trong nội bộ
dân tộc Việt Nam mà phải đi đến đoàn kết quốc tế, coi đại đoàn kết dân tộc là cơ sở
cho việc thực hiện đoàn kết quốc tế, đoàn kết quốc tế làm tăng thêm sức mạnh của
đại đoàn kết dân tộc. Nếu như đại đoàn kết dân tộc là một trong những nhân tố
quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam thì đoàn kết quốc tế là một nhân tố
hết sức quan trọng giúp cho cách mạng dân tộc dân chủ ở Việt Nam đi đến thắng
lợi hoàn toàn và quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

9


III. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN
TỘC VÀO XÂY DỰNG VÀ CỦNG CỐ KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN
HIỆN NAY
1.Giáo dục nâng cao nhận thức về tính cấp thiết xây dựng và củng cố khối
đại đoàn kết dân tộc hiện nay theo Tư tưởng Hồ Chí Minh
Dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc, từ khi ra đời
đến nay Đảng ta luôn coi trọng việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Điều
này đã trở thành truyền thống quý báu của Đảng và nhân dân ta, tạo thành sức
mạnh tổng hợp đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Tuy nhiên, “khối đại đoàn kết toàn dân tộc, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và
nhân dân chưa thật bền chặt và đang đứng trước những thách thức mới” [11]. Lòng
tin vào Đảng, Nhà nước và chế độ của một bộ phận dân chưa vững chắc, việc tập
hợp nhân dân vào mặt trận và các đoàn thể, các tổ chức xã hộ còn nhiều hạn chế.

Yêu cầu đặt ra trong giai đoạn cách mạng hiện nay là phải củng cố và tăng cường
khối đại đoàn kết dân tộc nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, tiến hành
thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh. Trong khi đó, những tác động tiêu cực từ
tình hình kinh tế xã hội, sự chống phá của kẻ thù đang ảnh hưởng không nhỏ tới xây
dựng và phát triển khối đại đoàn kết dân tộc. Hiện nay có những quan niệm muốn thu
hẹp hoạt động của Mặt trận, bài bác, chê bai một số việc làm của Mặt trận, thực chất
là muốn hạ thấp vai trò của Mặt trận, xem nhẹ tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Đảng
và Hồ Chí Minh. Các thế lực thù địch vẫn tìm mọi cách để chia rẽ, phân hóa, gây nên
tình trạnh đối đầu giữa các bộ phận dân cư để phá ta từ bên trong, khi cần thì dùng lực
lượng từ bên ngoài để can thiệp hỗ trợ. Thủ đoạn của chúng hết sức tinh vi, thâm độc.
Nhất là, chúng lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo để chống phá khối đại
đoàn kết dân tộc, xuyên tạc các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, lợi
dụng các khó khăn, yếu kém trong quản lý của các cấp chính quyền, bịa đặt, vu khống
10


tung tin thất thiệt... nhằm làm cho người dân nghi ngờ, nghi kỵ và xung đột lẫn nhau.
Trong không ít trường hợp, người dân rất khó phát hiện ra âm mưu, thủ đoạn của
chúng, vô tình mắc mưu của kẻ xấu, làm suy giảm khối đại đoàn kết toàn dân. Về phía
chúng ta, việc tập hợp xây dựng phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc còn
nhiều hạn chế, nhất là ở khu vực kinh tế tư nhân, khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài, ở một số vùng có đồng bào theo đạo, đồng bào dân tộc thiểu số... Một số
cấp ủy, cán bộ đảng viên còn hẹp hòi, định kiến với những người ngoài đảng, người
làm kinh tế tư nhân.
Xuất phát từ thực tế, cả về mặt khách quan và nhân tố chủ quan cho thấy cần
phải tăng cường giáo dục để nâng cao nhận thức của cán bộ và nhân dân về sự cần
thiết phải tiếp tục xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc theo Tư tưởng Hồ
Chí Minh.
2. Quán triệt và thực hiện tốt những chủ trương, biện pháp xây dựng

khối đại đoàn kết dân tộc trong tình hình mới.
Trong tình hình hiện nay, để tiếp tục phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc
theo Tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp tục đưa Nghị quyết đại hội lần thứ IX, X của
Đảng, Nghị quyết TW 7 (khóa IX) về “phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc vì
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh” vào cuộc sống, cần
thực thi mạnh mẽ, có hiệu quả những chủ trương biện pháp chủ yếu sau:
Một là, phải thấu suốt quan điểm đại đoàn kết toàn dân tộc là nguồn sức
mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền
vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hai là, lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ quốc, vì dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng để gắn bó
đồng bào các dân tộc, các tôn giáo, các tầng lớp nhân dân trong nước và người Việt
Nam định cư ở nước ngoài, xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá
11


khứ, thành phần giai cấp, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng
tới tương lai.
Ba là, xây dựng và thực hiện các chính sách bảo đảm công bằng và bình đẳng
xã hội, chăm lo lợi ích thiết thực, chính đáng, hợp pháp của các giai cấp, tầng lớp
nhân dân, kết hợp hài hòa các lợi ích, thực hiện dân chủ gắn liền với tăng cường,
đẩy mạnh chống các tiêu cực trong Đảng, Nhà nước và xã hội để củng cố và phát
triển khối đại đoàn kết dân tộc.
Bốn là, mở rộng và đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân, nâng cao vị
trí vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể trong việc thực hiện đại
đoàn kết dân tộc.
Năm là, tăng cường công tác chính trị tư tưởng, nâng cao trách nhiệm công
dân, xây dựng sự đồng thuận xã hội, đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước.
Sáu là, phát huy vai trò của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị trong xây
dựng và phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Trong đó coi trọng xây dựng tổ

chức Đảng trong sạch, vững mạnh và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng để
Đảng thật sự là hạt nhân lãnh đạo khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy mạnh
mẽ vai trò của chính quyền nhà nước ở các cấp trong việc thực hiện chính sách đại
đoàn kết toàn dân tộc.

[1] Hồ Chí Minh, Nxb CTQG, HN 1995, tập 3, tr 217
[2] Sđd, tập 7, tr 438.
[3] Sđd, tập 8, tr 276.
[4] Sđd, tập 3, tr 462.
[5] Sđd, tập 7, tr 438.
[6] Sđd, tập 7, tr 438.
[7] Sđd, tập 3, tr 465.
12


[8] Sđd, tập 4, tr 246 - 247.
[9] Sđd, tập 2, tr 301.
[10] Sđd, tập 10, tr 195.
[11] Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy BCHTW, khóa IX, Nxb CTQG, H. 2003, tr10.

13



×