Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHĂM LO BỒI DƯỠNG THẾ HỆ CÁCH MẠNG CHO ĐỜI SAU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.97 KB, 23 trang )

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHĂM LO BỒI DƯỠNG THẾ HỆ CÁCH
MẠNG CHO ĐỜI SAU

Chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một nội dung quan trọng
trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Người cho rằng: “Đoàn viên và thanh niên ta nói
chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong... Đảng cần phải chăm lo giáo dục
đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ
nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”[1]. Quán triệt tư tưởng của Hồ Chí Minh,
Đảng ta trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng đã luôn quan tâm đến việc đào
tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ. Đặc biệt trong giai đoạn cách mạng hiện nay, chăm lo bồi
dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là vấn đề quan trọng và có ý nghĩa chiến lược,
nhằm đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ đáp ứng với yêu cầu của sự nghiệp xây dựng
thành công Chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
I. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHĂM LO
BỒI DƯỠNG THẾ HỆ CÁCH MẠNG CHO ĐỜI SAU
1. Cơ sở lý luận
a. Hồ Chí Minh kế thừa truyền thống tốt đẹp của dân tộc về chăm lo bồi
dưỡng thế hệ tương lai.
Lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam là lịch sử của sự kế tục nhau liên tiếp
giữa các thế hệ. Thế hệ đi trước đấu tranh và lao động cho những thế hệ đi sau, thế
hệ đi sau kế thừa, phát huy sự nghiệp của thế hệ đi trước, làm cho đất nước phát
triển không ngừng. Ông cha ta có câu: “Con hơn cha là nhà có phúc”, để nói về mối
quan hệ giữa các thế hệ, trực tiếp là hai thế hệ liền kề, từ đó tiến hành bồi dưỡng, giáo
dục và bàn giao thế hệ một cách tốt nhất.
Trong chiều dài lịch sử , ông cha ta luôn coi trọng giáo dục: Lòng yêu nước,
yêu lao động, tự hào, tự tôn dân tộc, tinh thần đoàn kết, tư tưởng nhân văn, nhân
1


đạo... cho thế hệ tương lai. Đặc biệt, các triều đại phong kiến Việt Nam rất quan
tâm đến việc học tập của thế hệ trẻ. Chính vì vậy, hiếu học đã trở thành một trong


những truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Năm 1245, triều Trần, lần đầu tiên trong
lịch sử văn hoá học thuật của dân tộc, đặt ra danh hiệu tam khôi, nghĩa là ba học vị
cao nhất: Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa, dành cho những người suất sắc
trong kỳ thi đình. Ba người năm đó, đạt được những danh hiệu này đều là những
người còn rất trẻ tuổi.
Để hình thành tư tưởng của mình về bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời
sau, Hồ Chí Minh đã tiếp thu truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Người khẳng
định: “Dân tộc Việt Nam ta có truyền thống hiếu học và tôn sư trọng đạo”. Dân
ta vì trọng đạo làm người mà tôn sư và coi trọng giáo dục. Học với mục đích trở
thành người, trở thành tài, với phương châm truyền thống là “tiên học lễ, hậu
học văn” và “cần khổ học”.
b. Hồ Chí Minh tiếp thu tinh hoa văn hoá của nhân loại về bồi dưỡng thế
hệ tương lai.
Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình hiếu học, nên quá trình buôn ba tìm
đường cứu nước, Người đã không ngừng làm giàu trí tuệ của mình, tiếp thu những
tinh hoa văn hoá của phương Đông, phương Tây về giáo dục bồi dưỡng thế hệ trẻ.
Giá trị văn hoá phương Đông về bồi dưỡng thế hệ trẻ, ảnh hưởng quan trọng
đến việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng
cho đời sau. Người tiếp thu những tri thức của nền giáo dục phương Đông ngay từ
khi còn nhỏ và không ngừng bù đắp những tri thức ấy cho mình. Đó là những tư
tưởng giáo dục mang tính chất tiến bộ của Nho giáo như: Dạy con người sống
trong sạch liêm khiết, sẵn sàng sả thân vì nghiệp lớn, say mê học tập, lấy giáo dục
và tự rèn luyện là yếu tố cơ bản để trưởng thành, phát triển trong xã hội. Hồ Chí
Minh còn kế thừa, phát triển tư tưởng “trồng người” của Quản Trọng, vì vậy trong
2


bài nói chuyện với cán bộ giáo dục ngày 13.09.1958, Người khẳng định: “Vì lợi
ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người” [2]. Tiếp
thu những tư tưởng tiến bộ, những hạt nhân hợp lý của nền giáo dục phương Đông,

nên sau khi đi khắp thế giới về nước, Người thường nhắc lại câu nói của Khổng
Tử: “Học không biết chán, dạy không biết mỏi”[3].
Hồ Chí Minh tiếp thu văn minh và nền giáo dục Phương Tây, với những tư
tưởng tiến bộ như: Đề cao sự tự do, bình đẳng, bác ái, khẳng định những giá trị cao
quý của con người, coi trọng việc giáo dục và đào tạo. Khi tiếp thu nền giáo dục
Phương Tây, Người đã chỉ ra mối quan hệ chặt chẽ, biện chứng giữa học và hành,
giữa lý luận và thực tiễn.
Hồ Chí Minh tiếp thu có chọn lọc những yếu tố tích cực, những tư tưởng tiến
bộ của tinh hoa văn hoá phương Đông và phương Tây, đồng thời Người đấu tranh
loại bỏ những mặt hạn chế của nó, để hình thành tư tưởng của mình về bồi dưỡng
thế hệ cách mạng cho đời sau. Cũng vì lẽ đó, Người khẳng định: “chỉ có những
người cách mạng chân chính mới thu hái được những hiểu biết quý báu của thời
đại trước để lại”[4].
c. Hồ Chí Minh tiếp thu, vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác
- Lênin về giáo dục bồi dưỡng thế hệ tương lai
Đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh tiếp thu và vận dụng sáng tạo
quan điểm của các nhà kinh điển về việc giáo dục, bồi dưỡng thế hệ trẻ trong cách
mạng vô sản. Chủ nghĩa Mác - Lênin là yếu tố quyết định bản chất nội dung tư
tưởng Hồ Chí Minh về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau.
Theo Mác, thắng lợi của cuộc đấu tranh thúc đẩy sự phát triển xã hội loài
người trong thời đại mới, hoàn toàn phụ thuộc vào việc bồi dưỡng giáo dục thế hệ
công nhân đang lớn. Mác cho rằng: Bộ phận giác ngộ nhất của giai cấp công nhân
nhận thức rất rõ ràng tương lai của họ và do đó tương lai của cả loài người hoàn
3


toàn phụ thuộc vào việc giáo dục thế hệ công nhân đang lớn. Còn Ăngghen khi bàn
về vai trò của thanh niên cũng chỉ ra: Chúng ta là Đảng của tương lai, mà tương lai
thuộc về thanh niên.
Trên cơ sở tư tưởng của Mác - Ăngghen, Lênin đã khẳng định vai trò của thế

hệ trẻ trong cách mạng vô sản và yêu cầu các đồng chí Bônxêvích: Không nên cho
rằng thanh niên là một tổ chức xã hội thông thường mà phải coi họ là những người
trực tiếp giúp sức cho Đảng. Lênin đặc biệt quan tâm tới việc bồi dưỡng, giáo dục
thế hệ thanh niên, Người nói: Thế hệ trẻ không học thì không trở thành người cộng
sản được.
Hồ Chí Minh đã tiếp thu, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin về việc
bồi dưỡng thế hệ trẻ vào điều kiện thực tiễn cách mạng Việt Nam. Người luôn gắn
trách nhiệm của thế hệ trẻ với nhiệm vụ của dân tộc, nhiệm vụ của cách mạng.
Trên cơ sở ấy Người khẳng định: “Muốn thức tỉnh một dân tộc trước hết phải thức
tỉnh thanh niên” và “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần phải có những
con người mới xã hội chủ nghĩa”[5].
2. Cơ sở thực tiễn
a. Từ thực tiễn thế hệ trẻ Việt Nam chịu hậu quả của chính sách thực dân.
Sau khi đặt xong ách đô hộ ở Việt Nam, thực dân Pháp đã thi hành chính sách
“ngu dân” để dễ bề cai trị, nhất là đối với thanh niên, thế hệ tương lai của đất nước.
Chúng đầu độc thanh niên bằng rượu, thuốc phiện, lối sống thực dụng, thực hiện
“nhà tù nhiều hơn trường học”. Trong tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp”
(1925), Hồ Chí Minh tố cáo: “Để đánh lừa dư luận bên Pháp và bóc lột dân bản xứ
một cách êm thấm, bọn cá mập của nền văn minh không ngừng đầu độc nhân dân
An Nam bằng rượu và thuốc phiện, mà còn thi hành chính sách ngu dân triệt để”[6].
Hồ Chí Minh lên án một cách gay gắt kiểu giáo dục thực dân phong kiến, thực
hiện thứ giáo dục nhồi sọ, làm ảnh hưởng đến sự phát triển của thế hệ trẻ Việt
4


Nam. Người nói: “Trong mấy mươi năm nô lệ, đế quốc và phong kiến đã dùng thứ
giáo dục nô lệ để nhồi sọ thanh niên ta, làm cho thanh niên ta hư hỏng” [7]. Vì vậy,
Người chủ trương khi cách mạng thành công sẽ tẩy sạch việc giáo dục mang tính
chất kinh viện, giáo điều, học lấy bằng, lấy cấp, loại bỏ thứ giáo dục xa rời thực
tiễn, xa rời cuộc sống lao động và đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân,

cũng như toàn thể nhân dân Việt Nam. Người cho rằng, phải xây dựng một nền
giáo dục mới, “một nền giáo dục hoàn toàn Việt Nam”. Hồ Chí Minh nói: “Trước
hết phải ra sức tẩy sạch ảnh hưởng giáo dục nô dịch của thực dân còn sót lại, như:
thái độ thờ ơ đối với xã hội, xa đời sống lao động và đấu tranh của nhân dân, học
lấy bằng cấp, dạy theo lối nhồi sọ”[8].
b. Thực tiễn việc chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau của Hồ
Chí Minh
Thực tiễn trong suốt quá trình hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh luôn coi
trọng và thường xuyên quan tâm đến việc bồi dưỡng thế hệ trẻ Việt Nam. Người đã
nhìn thấy những phẩm chất tốt đẹp của thanh niên, cũng như vai trò của họ đối với
vận mệnh của đất nước. Người dùng những lời lẽ tha thiết để kêu gọi thanh niên:
“Hỡi Đông Dương đáng thương hại, Người sẽ bị chết mất nếu đám thanh niên già
của người không sớm hồi sinh”[9].
Không chỉ dừng lại ở những bài nói, bài viết, mà Hồ Chí Minh còn trực tiếp tổ
chức, giáo dục bồi dưỡng thế hệ trẻ Việt Nam. Năm 1925, để chuẩn bị cho sự ra đời
của Đảng, Người đã bắt tay vào việc giác ngộ, tập hợp thanh niên yêu nước trong tổ
chức: “Hội Việt Nam cách mạng thanh niên”, đào tạo ra những cán bộ trẻ làm nòng
cốt cho cách mạng Việt Nam sau này.
Cách mạng Tháng Tám thành công, mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử dân
tộc, trên cơ sở đánh giá đúng đắn và tin tưởng vào thế hệ trẻ trong giai đoạn cách
mạng mới, Hồ Chí Minh nói: “Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời khởi đầu
5


từ tuổi trẻ, tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội: Các cháu phải xung phong thực hành
đời sống mới để trở thành những công dân mới, xứng đáng với nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà”[10].
Trong cuộc kháng chiến trường kỳ và gian khổ chống thực dân Pháp xâm
lược, Hồ Chí Minh đã đặt niềm tin vào sức mạnh của thanh niên đối với sự nghiệp
giải phóng dân tộc. Người cho rằng, xây dựng nền giáo dục phải gắn với nhiệm vụ

của đất nước, gắn liền với nhiệm vụ của cuộc kháng chiến giành độc lập dân tộc.
Người nói: “Chúng ta cần phải có một nền giáo dục kháng chiến và kiến
quốc”[11] và “phải đào tạo cán bộ mới và giúp đỡ cán bộ cũ theo tôn chỉ kháng
chiến và kiến quốc”[12].
Khi đế quốc Mỹ điên cuồng mở rộng chiến tranh trên phạm vi cả nước, Hồ
Chí Minh lại càng khẳng định vai trò của thế hệ trẻ, quan tâm hơn hết đối với sự
nghiệp đào tạo, bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau. Người khẳng định:
“Trong hoàn cảnh cả nước có chiến tranh, sự nghiệp giáo dục của chúng ta vẫn
phát triển nhanh, mạnh hơn bao giờ hết”[13]. Đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội, Hồ Chí Minh cho rằng thế hệ trẻ Việt Nam là lực lượng xung kích, quyết
định sự phát triển trên mặt trận kinh tế, văn hoá xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Người
nói : “Thanh niên là người xung phong trong công cuộc phát triển kinh tế, văn hoá và
trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”[14].
Như vậy, trong mỗi giai đoạn lịch sử, ở bất cứ nhiệm vụ nào của cách mạng,
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng quan tâm chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho
đời sau. Thực tiễn sự quan tâm của Người đã góp phần làm cho thế hệ trẻ Việt
Nam khẳng định vai trò quyết định đến sự phát triển trong hiện tại, cũng như trong
tương lai của dân tộc.
II. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ CHĂM LO BỒI DƯỠNG THẾ HỆ CÁCH MẠNG CHO ĐỜI SAU
6


1. Hồ Chí Minh xác định vị trí vai trò, mục đích của việc chăm lo bồi
dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau
a. Vai trò của việc chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau
Hồ Chí Minh viết: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là việc làm rất
quan trọng và rất cần thiết” [15]. Hai cụm từ “rất quan trọng” và “rất cần thiết” được
đặt ở liền nhau, với ý nghĩa như nhau, để khẳng định vai trò to lớn của việc chăm
lo bồi dưỡng thế hệ trẻ cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, cũng như quá trình

phát triển của dân tộc. Sở dĩ xác định như vậy, vì theo Người bồi dưỡng thế hệ
cách mạng cho đời sau, tức là chăm lo đến tương lai của dân tộc. Nước nhà thịnh
hay suy, dân tộc có trường tồn và phát triển được hay không, đều phụ thuộc vào thế
hệ trẻ, cũng như việc bồi dưỡng giáo dục họ. Hồ Chí Minh khẳng định: “thanh niên là
người chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh
một phần lớn là do các thanh niên”[16].
Từ quan niệm đúng đắn trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng Đảng, Nhà
nước, mọi tổ chức xã hội, các thế hệ đi trước, mỗi gia đình, phải nhận thức sâu sắc
về vai trò và tầm quan trọng của việc chăm lo bồi dưỡng thế hệ trẻ. Mọi người ai
cũng phải làm hết trách nhiệm đối với công việc “quan trọng” và lâu dài này.
Đồng thời, Người cũng chỉ ra nhiệm vụ của thế hệ trẻ là noi gương thế hệ đi trước,
thường xuyên rèn luyện phấn đấu, để không những đáp ứng với yêu cầu của cách
mạng, mà phải vượt lên những gì thế hệ đi trước mong muốn. Người nói: “Thanh
niên muốn làm chủ cho xứng đáng thì ngay hiện tại phải rèn luyện tinh thần và lực
lượng của mình, phải làm việc để chuẩn bị cho tương lai đó”[17].
b. Mục đích của việc chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra mục đích việc chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách
mạng cho đời sau, là đào tạo ra những cán bộ cho Đảng, đào tạo ra những chủ nhân
tương lai của đất nước. Như vậy, nền giáo dục cách mạng sẽ đào tạo thế hệ trẻ trở
7


thành những công dân có ích cho nước nhà, đó là một nền giáo dục nhằm phát triển
đầy đủ những năng lực sẵn có của các em, để các em trở thành những con người
phát triển toàn diện trong tương lai. Hồ Chí Minh cho rằng: “Trường học của
chúng ta là trường học của chế độ dân chủ nhân dân, nhằm mục đích đào tạo
những công dân và cán bộ tốt, những người chủ tương lai tốt của nước nhà” [18] và
Người còn khẳng định: “Về mọi mặt, trường học của chúng ta phải hơn hẳn trường
học của Thực dân và Phong kiến”[19].
Theo Hồ Chí Minh, mục đích việc chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho

đời sau là đào tạo ra những cán bộ, những chiến sĩ cách mạng kiên cường, trong sự
nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc và trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước ta. Họ luôn luôn xứng đáng với danh hiệu là người đầy tớ trung thành,
tận tuỵ của nhân dân. Người chỉ rõ: “Các thầy có nhiệm vụ nặng nề và vẻ vang là
đào tạo cán bộ cho dân tộc. Vậy giáo dục cần nhằm vào mục đích thật thà phụng sự
nhân dân”[20].
Khái niệm “trồng người” của Hồ Chí Minh thể hiện rõ mục đích của việc
chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau, nó như một cương lĩnh hành
động cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, đồng thời cũng là một chân lý tất
yếu của cách mạng Việt Nam. Sự nghiệp “trồng người” nhằm đào tạo ra những chủ
nhân tương lai của đất nước, đó là công việc khó khăn, lâu dài trong suốt cả cuộc
đời mỗi con người. Để đạt được mục đích “trồng người”, chúng ta phải tiến hành một
cách rất cẩn thận và công phu, như Hồ Chí Minh đã từng khái quát:
“Gạo đem vào giã bao đau đớn
Gạo giã xong rồi trắng tựa bông
Sống ở trên đời người cũng vậy
Gian nan rèn luyện mới thành công”.

8


2. Nội dung giáo dục, bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau theo tư
tưởng Hồ Chí Minh
a. Giáo dục, bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau một cách toàn diện,
trong đó chú trọng đạo đức và tài năng
Muốn đưa sự nghiệp cách mạng phát triển, muốn xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam, theo Hồ Chí Minh cần phải đào tạo thế hệ kế tiếp vừa
“Hồng” vừa “Chuyên”, làm động lực cho sự phát triển trên tất cả các lĩnh vực. Đề
cập đến tính toàn diện của nội dung giáo dục, bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời
sau, Hồ Chí Minh xác định: “trong việc giáo dục và học tập, phải chú trọng đủ các

mặt: đạo đức cách mạng, giác ngộ xã hội chủ nghĩa, văn hoá, kỹ thuật, lao động
sản xuất”[21].
Tính toàn diện trong bồi dưỡng giáo dục thế hệ trẻ thể hiện cụ thể ở những nội
dung sau:
Giáo dục, bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau, trước hết là phải giáo
dục, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm xây dựng mục đích, lý tưởng sống cho
mọi người, nhất là cho thế hệ trẻ. Theo Người, nếu thanh niên sống có lý tưởng cao
đẹp, có bản lĩnh chính trị vững vàng, thì dù gặp khó khăn gian khổ đến đâu, họ
cũng không từ bỏ con đường đã chọn, con đường đem lại độc lập tự do cho Tổ
quốc, hạnh phúc cho nhân dân, suốt đời phấn đấu hy sinh cho sự nghiệp của Đảng.
Người dịch câu nói của Mạnh Tử để nói về phẩm chất của người cách mạng mà
thế hệ trẻ cần phấn đấu vươn tới:
“Giầu sang không quyến rũ
Nghèo khó chẳng chuyển lay
Uy vũ không khuất phục”.
9


Chăm lo bồi dưỡng lý tưởng cách mạng cho thanh niên, sẽ giúp cho thanh
niên tránh được những sai lầm, có lập trường tư tưởng vững vàng, không thoả mãn
kiêu căng khi thuận lợi, không sợ sệt, nản chí, khi gặp khó khăn, có nghị lực vươn
lên hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.
Để có lý tưởng cách mạng cao đẹp, Hồ Chí Minh cho rằng trước hết phải giáo
dục truyền thống yêu nước và tinh thần quật khởi của dân tộc Việt Nam, được hình
thành, phát triển qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước. Ngay tại lớp
huấn luyện cho đội ngũ cán bộ là thanh niên ở thời kỳ tiền khởi nghĩa, Hồ Chí
Minh đã soạn thảo ra bài “Sử nước ta”, để giáo dục mọi người.
“Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”

Lý tưởng cách mạng của thế hệ trẻ còn được biểu hiện ở việc nắm vững và
vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, trong từng hoàn cảnh, nhiệm vụ cụ thể.
Hồ Chí Minh nói: “Có học lý luận Mác - Lênin mới củng cố được đạo đức cách
mạng, giữ vững lập trường, nâng cao hiểu biết về trình độ chính trị, mới làm được
tốt công tác đảng giao phó cho mình” [22]. Vì vậy, phải giáo dục cho thanh niên hiểu
được bản chất chủ nghĩa Mác - Lênin, làm cho thế giới quan, nhân sinh quan của chủ
nghĩa Mác - Lênin, trở thành hệ tư tưởng chỉ đạo toàn bộ hoạt động thực tiễn của
thanh niên. Kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục truyền thống yêu nước với lý luận tiên
phong, hình thành dũng khí cách mạng, tinh thần độc lập sáng tạo cho thanh niên. Hồ
Chí Minh căn dặn: “Thanh niên phải chẩn bị làm người chủ nước nhà. Muốn thế phải
ra sức học tập chính trị, kỹ thuật, văn hoá, trước hết phải rèn luyện và chiếm lĩnh tư
tưởng chủ nghĩa xã hội”[23].
Giáo dục, bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho thế hệ cách mạng đời sau
Trong các nội dung bồi dưỡng giáo dục thế hệ cách mạng cho đời sau, Hồ Chí
Minh rất coi trọng giáo dục đạo đức cách mạng. Người cho rằng, đạo đức là cái
10


gốc, cái nền tảng của thế hệ trẻ, trên cơ sở có đạo đức cách mạng thì trí tuệ, tài
năng mới được phát huy một cách đầy đủ. Năm 1964 Người nói: “dạy cũng như
học phải biết chú trọng cả tài lẫn đức. Đức là đạo đức cách mạng. Đó là cái gốc rất
quan trọng”[24].
Có đạo đức cách mạng khi gặp khó khăn gian khổ thế hệ trẻ không lùi bước,
vẫn trung thành với sự nghiệp của Đảng, có đức tính giản dị khiêm tốt, “Lo trước
thiên hạ, vui sau thiên hạ”, không kèn cựa, không quan liêu, kiêu ngạo, hủ hoá.
Những phẩm chất ấy cần được chú trọng giáo dục bồi dưỡng, rèn luyện cho thế hệ trẻ
trong mọi giai đoạn cách mạng. Nên đối với nhiệm vụ xây dựng Chủ nghĩa xã hội,
Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con người thấm
nhuần đạo đức cách mạng”[25].
Nội dung giáo dục đạo đức cách mạng đối với thế hệ trẻ được Hồ Chí Minh đề

cập một cách toàn diện và sâu sắc, nói lên mối quan hệ giữa thế hệ trẻ với Đảng,
với Tổ quốc, với nhân dân. Người nói: “thanh niên luôn luôn rèn luyện đạo đức
cách mạng. Đạo đức cách mạng có thể tóm tắt trong mấy điểm:
- Trung thành: trọn đời trung thành với sự nghiệp cách mạng, với Tổ quốc, với
Đảng, với giai cấp.
- Dũng cảm: Không sợ khổ, không sợ khó, thực hiện: “đâu cần thanh niên có,
việc gì khó có thanh niên làm”, “gian khổ thì đi trước, hưởng thụ sau mọi người”.
- Khiêm tốn: Không nên tự cho mình là tài giỏi, không khoe công, không tự
phụ”[26].
Đi đôi với việc rèn luyện đạo đức cách mạng cho thế hệ trẻ, theo Hồ Chí Minh
phải đẩy mạnh đấu tranh chống lại thói hư tật xấu, chống lại chủ nghĩa cá nhân. Người
gọi đó là “giặc nội xâm”, “Lợi ích của chủ nghĩa xã hội không tách rời thắng lợi của
cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân”. Hồ Chí Minh cho rằng, kiên quyết đấu tranh

11


chống lại chủ nghĩa cá nhân, nhưng không được “giày xéo” lên lợi ích cá nhân, lợi ích
chính đáng của thanh niên, cũng như của những người lao động khác.
- Giáo dục, bồi dưỡng cho thế cách mạng đời sau về trình độ học vấn và
năng lực hoạt động thực tiễn .
Đạo đức cách mạng và năng lực hoạt động thực tiễn, là hai nội dung không
thể thiếu được trong tư tưởng Hồ Chí Minh về bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời
sau. Muốn có năng lực trong hoạt động thực tiễn thì trước hết phải bồi dưỡng và
nâng cao trình độ văn hoá cho thế hệ trẻ, Người nói: “Một dân tộc dốt, là một dân
tộc yếu”, “dốt nát cũng là kẻ địch”, “địch dốt nát giúp cho địch ngoại xâm”[27].
Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, thế hệ trẻ lại càng phải nâng cao trí tuệ, có
kiến thức toàn diện, sâu sắc, trên mọi lĩnh vực. Trình độ học vấn sẽ giúp thế hệ trẻ
tiếp thu được tri thức mới, những kiến thức khoa học kỹ thuật, để vận dụng trong
quá trình xây dựng đất nước. Hồ Chí Minh cho rằng: Không có tri thức thì không

thể xây dựng chủ nghĩa xã hội được. Mặt khác, trình độ học vấn còn là điều kiện
để phát huy dân chủ, nâng cao ý thức và năng lực làm chủ đất nước của thanh niên.
Người nói: “Mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của
mình, phải có kiến thức mới có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà”[28].
Bên cạnh chăm lo bồi dưỡng trình độ học vấn, Hồ Chí Minh còn đặc biệt quan
tâm đến năng lực tổ chức hoạt động thực tiễn của thế hệ trẻ. Theo Người, nếu không
có năng lực trong công việc thì cũng như: “ông bụt” ngồi chùa, không giúp ích gì
được cho ai. Thế hệ trẻ muốn làm tốt công việc của mình phải “hiểu biết”, “thành
thạo”, “làm việc gì học việc ấy”, nên Hồ Chí Minh yêu cầu phải đưa thanh niên vào
hoạt động thực tiễn, rèn luyện và bồi dưỡng cho họ, thực hiện phương châm lý luận
gắn liền với thực tiễn: “Lý luận cũng như cái tên (hoặc viên đạn). Thực hành cũng
như cái đích để bắn. Có tên mà không bắn, hoặc bắn lung tung, cũng như không có
tên”[29]
12


Thường xuyên quan tâm chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho thế hệ
cách mạng đời sau.
Hồ Chí Minh cho rằng, thế hệ trẻ là lực lượng quyết định đến sự phát triển của
dân tộc, nhưng không nên chỉ đòi hỏi ở họ, mà chúng ta phải quan tâm đến đời
sống vật chất, tinh thần, cũng như những lợi ích chính đáng của thanh niên. Có
như vậy, thế hệ trẻ mới phát triển một cách toàn diện về “đức, trí, thể, mỹ”, mới
phát huy được hết khả năng sáng tạo của mình trong quá trình học tập và công tác.
Đối với những thanh niên làm nhiệm vụ trong quân đội, Hồ Chí Minh yêu
cầu: “Phải quản lý bộ đội tốt, bảo đảm đời sống vật chất, tinh thần tốt trong mọi
hoàn cảnh”[30]. Trong bài nói chuyện tại Đại hội đại biểu toàn quốc đoàn thanh niên
lao động Việt Nam, ngày 2.11.1956, Người dạy: “Đoàn phải liên hệ rộng rãi và
chặt chẽ với các tầng lớp thanh niên, phải quan tâm đến đời sống, công tác và học
tập của thanh niên”[31].
Quan tâm đến đời sống vật chất, tinh thần của thế hệ trẻ, để tạo điều kiện

thuận lợi cho họ phát triển, trưởng thành, hoạt động có hiệu quả trên tất cả các mặt
học tập và công tác. Nên Hồ Chí Minh luôn luôn yêu cầu Chính phủ: Giáo dục
thanh niên cả về thể dục, trí dục và đức dục.
b. Giáo dục, bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau một cách toàn diện
nhưng phải vận dụng phù hợp với mỗi đối tượng
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau
mang nội dung sâu sắc, toàn diện, trên tất cả các mặt, tuy nhiên ở mỗi đối tượng,
mỗi lứa tuổi, cần có nội dung và phương pháp giáo dục phù hợp. Theo Người phải
có nội dung giáo dục riêng cho mỗi đối tượng, trên các lĩnh vực như: Quốc phòng,
an ninh, chính trị, xã hội, văn hoá, thanh niên là dân tộc ít người, hoặc giữa các vùng
miền, các địa phương trong cả nước. Trong từng nhiệm vụ cách mạng, ở mỗi giai đoạn
lịch sử thì nội dung và phương pháp giáo dục thế hệ trẻ cũng khác nhau.
13


Hồ Chí Minh cho rằng, nhi đồng, thiếu niên, thanh niên là những thế hệ kế
tiếp nhau, ở độ tuổi khác nhau, vì vậy phải có nội dung giáo dục phù hợp với lứa
tuổi của các em.
Đối với thiếu niên và nhi đồng, giáo dục các em yêu Tổ quốc, yêu đồng bào,
yêu lao động, chăm ngoan học giỏi, nắm chắc những kiến thức cơ bản để phục vụ
quá trình học tập, xây dựng đất nước sau này. Trong thư gửi giáo viên, học sinh,
cán bộ thanh niên và nhi đồng (31.10.1955), Người chỉ rõ: “mỗi cấp giáo dục cần
phải nhận rõ trách nhiệm của mình trong lúc này:
Trong học cần phải đảm bảo cho học sinh những tri thức phổ thông chắc
chắn, thiết thực, thích hợp với nhu cầu và tiền đề xây dựng nước nhà, bỏ những
phần nào không cần thiết cho cuộc sống thực tế.
Tiểu học thì cần giáo dục cho các cháu thiếu nhi: yêu Tổ quốc, yêu nhân dân,
yêu lao động, yêu khoa học, trọng của công. Cách dạy phải nhẹ nhàng và vui vẻ,
chớ gò ép thiếu nhi vào khuân khổ của người lớn, phải đặc biệt chú ý giữ gìn sức
khoẻ của các cháu” [32].

Thanh niên là lớp người kế thừa và tiếp tục sự nghiệp của các thế hệ đi trước,
đồng thời có trách nhiệm dìu dắt thiếu niên và nhi đồng. Hồ Chí Minh chỉ ra:
“thanh niên là người tiếp sức cách mạng cho thế hệ thanh niên già, đồng thời là
người dìu dắt thế hệ thanh niên tương lai - tức là các cháu nhi đồng” [33].
3. Phương châm, phương pháp giáo dục, bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho
đời sau theo tư tưởng Hồ Chí Minh
a. Phương châm giáo dục, bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau của Hồ
Chí Minh
Phương châm giáo dục, bồi dưỡng: Học đi đôi với hành, giáo dục gắn liền
với xã hội.
14


Học đi đôi với hành, giáo dục gắn liền với xã hội là phương châm quan trọng
nhất, định hướng cho tất cả các nội dung khác trong tư tưởng Hồ Chí Minh về
chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau. Đây cũng chính là quá trình
chuyển biến căn bản về phương châm giáo dục thế hệ trẻ, so với kiểu giáo dục
dưới chế độ Thực dân Phong kiến. Giáo dục, rèn luyện thế hệ trẻ theo phương
châm học đi đôi với hành, thực chất là nhằm giải quyết mối quan hệ gắn bó, không
tách rời nhau giữa lý luận và thực tiễn. “Học”và “hành” là con đường tất yếu để
hình thành, phát triển nhân cách, năng lực mọi mặt của thế hệ trẻ. Tháng 9.1945
trong thư gửi các học sinh, Hồ Chí Minh viết: “Đối riêng với các em lớn phải sẵn
sàng chống giặc cướp nước, đây là bổn phận của mỗi công dân, ngoài giờ học ở
trường tham gia vào các hội nghị cứu quốc để luyện tập thêm cho quen với đời
sống chiến sĩ và để giúp đỡ vài việc nhẹ nhàng trong cuộc phòng thủ đất nước”[34].
Giáo dục gắn liền với xã hội, nghĩa là cần xây dựng một nền giáo dục gắn với
nhiệm vụ đất nước trong từng giai đoạn lịch sử, sự nghiệp giáo dục ấy phải nhằm
thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, đem lại cuộc sống ấm lo
hạnh phúc cho nhân dân. Trong thư gửi cán bộ giáo dục, học sinh, sinh viên các
trường và các lớp bổ túc văn hoá (31.8.1960), Hồ Chí Minh căn dặn: “giáo dục

phải phục vụ đường lối của Đảng và Chính phủ, gắn với sản xuất và đời sống nhân
dân”[35].
Từ phương châm học đi đôi với hành, giáo dục gắn liền với xã hội, nên khi đề
cập đến việc giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin cho thanh niên, Hồ Chí Minh cho
rằng không chỉ tính là đọc được bao nhiêu sách của chủ nghĩa Mác - Lênin, mà
phải nắm vững những tư tưởng chính của chủ nghĩa Mác - Lênin để vận dụng vào
hoạt động thực tiễn đem lại kết quả cao nhất. Người nói: “hiểu chủ nghĩa Mác Lênin tức là cách mạng phân công việc gì, làm chủ tịch nước hay nấu ăn, đều phải
làm tròn nhiệm vụ. Không nên đào tạo ra những người thuộc sách làu làu, cụ Mác

15


nói thế này, cụ Lênin nói thế kia, nhưng khi nhiệm vụ của mình được giao quét nhà
lại để cho đầy rác”[36].
Hồ Chí Minh còn cho rằng, hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin là trong cuộc sống
hàng ngày phải thông cảm, tôn trọng, thương yêu lẫn nhau, quan hệ với nhau có
tình, có nghĩa. Người nói: “Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình nghĩa
thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin được”[37].
Phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường - xã hội - gia đình để giáo dục, bồi
dưỡng thế hệ cách mạng đời sau.
Muốn thực hiện việc bồi dưỡng giáo dục thế hệ cách mạng cho đời sau một
cách tốt nhất, theo Hồ Chí Minh phải kết hợp chặt chẽ giữa ba yếu tố nhà trường,
xã hội và gia đình. Nếu thực hiện không đồng bộ ba yếu tố này, hoặc thiếu một
trong ba yếu tố, giáo dục thế hệ trẻ sẽ không đạt được kết quả như mong muốn.
Ngày 31.10.1955, khi miền Bắc được giải phóng, Hồ Chí Minh yêu cầu mọi gia đình
và các bậc cha mẹ: “tôi mong các gia đình liên lạc chặt chẽ với nhà trường, giúp nhà
trường giáo dục và khuyến khích con em chăm chỉ học tập, sinh hoạt lành mạnh và
hăng hái giúp ích nhân dân”[38]. Có thể nói, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đầu tiên
đưa ra công thức giáo dục này. Giai đoạn cách mạng hiện nay Đảng ta cũng đang thực
hiện phương châm của Người, là phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội để giáo

dục thanh, thiếu niên và nhi đồng.
Nói về mối quan hệ tác động giữa ba yếu tố, nhà trường, gia đình và xã hội
trong nhiệm vụ giáo dục thế hệ trẻ, Hồ Chí Minh cho rằng: Giáo dục trong trường
chỉ là một phần, cần có giáo dục ngoài xã hội, trong gia đình để giáo dục trong nhà
trường được tốt hơn. Đối với ngoài xã hội, theo Người các đoàn thể, nhất là đoàn
thanh niên có vai trò quan trọng trong việc đào tạo bồi dưỡng thế hệ trẻ: “trường học,
gia đình và đoàn thể thanh niên phải liên hệ chặt chẽ với nhau trong việc giáo dục
thanh niên” [39].
16


Thực hiện dân chủ, bình đẳng trong giáo dục, bồi dưỡng thế hệ cách mạng
cho đời sau.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến việc tạo ra môi trường dân chủ, bình
đẳng trong nhiệm vụ bồi dưỡng giáo dục thế hệ trẻ. Có bình đẳng trong giáo dục
thì các vấn đề mới được đem ra thảo luận một cách dân chủ, để mọi người cùng
tìm ra chân lý, giúp thế hệ trẻ hiểu nội dung một cách đúng đắn và sâu sắc. Người
dạy: “trong trường cần có dân chủ. Đối với mọi vấn đề, thầy trò cùng nhau thảo
luận, ai có ý kiến gì đều thật thà phát biểu. Điều gì chưa thông suốt, thì hỏi, bàn
cho thông suốt”[40]. Dân chủ và bình đẳng trong giáo dục thế hệ trẻ, nhằm không
ngừng nâng cao chất lượng giáo dục, nó khác về bản chất so với kiểu dạy học
“gõ đầu trẻ” dưới chế độ thực dân phong kiến. Tuy nhiên, Hồ Chí Minh cũng
cho rằng, dân chủ bình đẳng nghĩa là thầy giáo phải xứng đáng với danh hiệu
người thầy, “phải thật thà yêu nghề”, có đạo đức cách mạng, “có trí khí cao
thượng”, thương yêu học trò như con em ruột thịt của mình. Học trò phải kính
trọng, nghe theo những lời dạy bảo của thầy giáo, chịu khó rèn luyện và học tập.
Dân chủ và bình đẳng giữa thầy và trò, không phải là quan hệ theo kiểu “cá đối
bằng đầu”. Hồ Chí Minh nói: “Dân chủ nhưng trò phải kính thầy, thầy phải quý
trò, chứ không phải là “cá đối bằng đầu” [41].
Giáo dục bồi dưỡng thế hệ trẻ cần phải phát huy dân chủ, nêu cao trách nhiệm

của mọi người, các ngành, các cấp, nhất là ngành giáo dục, tham gia một cách tích
cực nhất cho sự nghiệp đào tạo ra những chủ nhân tương lai của đất nước. Hồ Chí
Minh nói: “giáo dục là sự nghiệp của quần chúng. Cần phải phát huy đầy đủ dân
chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng quan hệ thật tốt...giữa thầy với thầy, giữa thầy với
trò, giữa học trò với nhau, giữa cán bộ các cấp, giữa nhà trường và nhân dân để
hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ đó”[42].
b. Phương pháp giáo dục, bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau

17


Từ nội dung bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau, trên cơ sở các phương
châm giáo dục cơ bản, Hồ Chí Minh đã chỉ ra những phương pháp đúng đắn, khoa
học, để bồi dưỡng giáo dục thế hệ trẻ, làm cho họ có khả năng hoàn thành tốt nhiệm
vụ được giao trong tương lai.
Giáo dục, bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau phải thực hiện "Uốn cây
từ lúc còn non".
Giáo dục thế hệ trẻ không phải là tuỳ tiện, thiếu tính khoa học, mà Hồ Chí
Minh coi đây là công việc rất công phu, qua nhiều giai đoạn, song trước tiên phải
thực hiện quan điểm: “Uốn cây từ lúc còn non”. Người đặt vấn đề này vì thấy một
số em ở độ tuổi thanh niên, ngại học tập, rèn luyện, lười biếng trong lao động, hoặc
không có động cơ đúng đắn khi phấn đấu vào đoàn, vào Đảng. Nên, “uốn cây từ
lúc còn non” là việc làm đương nhiên và vô cùng quan trọng, để hình thành suy
nghĩ, hành động, đúng đắn cho mọi người khi ở độ tuổi chập chững. Hồ Chí Minh
cho rằng : Hôm nay các em là thiếu niên, nhi đồng, ít lâu sau các em là thanh niên,
là công dân, là cán bộ.
"Uốn cây từ lúc còn non", không chỉ là công việc của các bậc cha mẹ, mà còn
là trách nhiệm của nhà trường, cũng như toàn xã hội, thực hiện nghiêm túc chủ
trương đường lối của Đảng, pháp luật của nhà nước về chăm lo giáo dục thế hệ trẻ.
Nhằm đào tạo ra một thế hệ có lý tưởng cách mạng, có nhận thức chính trị sâu sắc,

có tình yêu quê hương đất nước, có kiến thức văn hoá, khoa học kỹ thuật, năng
động và sáng tạo trong lao động sản xuất, xứng đáng là lớp người kế tục sự nghiệp
trong tương lai.
"Uốn cây từ lúc còn non", nhưng phải kết hợp chặt chẽ giữa vui chơi, học tập
và lao động để giáo dục các em. Hồ Chí Minh cho rằng, nên giữ tính vui vẻ, hồn
nhiên của các em, chớ gò ép thiếu nhi vào khuôn khổ của người lớn. Bác nói : "Có
nhiều bức thư của các cháu nhi đồng gửi cho Bác có “triệu trứng già sớm nên
18


tránh”[43]. Dạy thế hệ trẻ nên căn cứ vào điều kiện, hoàn cảnh, lứa tuổi, để hướng
dẫn các em từng bước, từ việc dễ đến việc khó, từ việc nhỏ đến việc lớn. Người
căn dặn: Việc gì cũng phải từ nhỏ dần đến to, từ dễ dần đến khó, từ thấp đến cao.
Một chương trình nhỏ mà thực hành hẳn hoi, hơn là một chương trình to tát mà
không làm được.
Giáo dục, bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau phải thực hiện phương
pháp nêu gương.
Bồi dưỡng giáo dục thế hệ cách mạng cho đời sau, có nhiều phương pháp
nhưng trong đó phương pháp nêu gương là một phương pháp hữu hiệu nhất. Chủ
tịch Hồ Chí Minh có nhiều bài nói, bài viết, về vận dụng phương pháp nêu gương
trong việc chăm lo bồi dưỡng thế hệ trẻ. Người khẳng định: Lấy gương người tốt,
việc tốt hàng ngày để giáo dục lẫn nhau là cách tốt nhất để xây dựng tổ chức, xây
dựng con người mới, cuộc sống mới.
Thế hệ trẻ có nhiều điểm mạnh, song cũng không ít những mặt hạn chế, họ
vốn chưa từng chải, còn thiếu kinh nghiệm trong cuộc sống và trong công tác, chưa
có nhận thức đầy đủ và chưa hoàn chỉnh về nhân cách, song luôn mong muốn vươn
đến cái mới, cái tốt hơn. Vì vậy, Hồ Chí Minh cho rằng phải tạo ra môi trường
sống, giao tiếp, thật trong sạch, lành mạnh để hình thành đầy đủ nhân cách của các
em. Trong gia đình, ở nơi học tập, công tác, những người lớn tuổi phải là những
tấm gương sáng để thế hệ trẻ học tập .

Hồ Chí Minh luôn yêu cầu đội ngũ giáo viên phải là những tấm gương về tri
thức và đạo đức cách mạng để thế hệ trẻ noi theo. Người dạy: “là lực lượng cốt cán
của sự nghiệp giáo dục, từng cá nhân cũng như tập thể các nhà giáo dục phải là
kiểu mẫu mọi mặt: tư tưởng, đạo đức, lối làm việc”[44].
Thanh niên muốn tu dưỡng và rèn luyện trở thành người có ích cho đất nước,
nên noi theo những tấm gương sáng trong học tập, lao động sản xuất và trong
19


chiến đấu. ở bài nói chuyện với sinh viên Trường đại học nhân dân, Người căn dặn :
“trường này là trường đại học nhân dân, các cháu học với các thầy giáo, đồng thời
phải học nhân dân. Trong bộ đội ta, trong dân công và những ngành hoạt động khác
có nhiều thanh niên gương mẫu... Cho các cháu noi theo những thanh niên kiểu mẫu
ấy”[45].
Giáo dục, bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau phải thông qua với các
phong trào thi đua.
Để bồi dưỡng giáo dục thế hệ cách mạng cho đời sau, theo Hồ Chí Minh phải
phát động các phong trào thi đua, đây là một trong những phương pháp giáo dục không
thể thiếu, trong hệ thống các phương pháp giáo dục thế hệ trẻ. Thông qua các phong
trào thi đua sẽ tạo nên không khí sôi nổi, phấn khởi vươn lên khẳng định mình của lớp
trẻ, trong quá trình học tập, công tác, lao động sản xuất.
Phát động những phong trào thi đua ở các trường học, nhằm làm cho thế hệ trẻ
hăng say trong học tập và rèn luyện, nhất là trong điều kiện đất nước có chiến tranh.
Người nói: Đồng bào ta đang có phong trào thi đua sôi nổi: Vậy các nhà trường cũng
nên phát động phong trào thi đua “2 tốt” tức là dậy thật tốt, học thật tốt.
Với phương châm, người nhỏ làm việc nhỏ, Hồ Chí Minh cho rằng đối với các
cháu nhi đồng cũng phải thực hiện các phong trào thi đua trong học tập, rèn luyện
để sau này trở thành những người có ích cho đất nước. Người khuyên “các cháu
nên thi đua, thi đua học tập, thi đua trong mọi việc để trở thành những nhi đồng có
tổ chức, có kỷ luật, có sáng kiến, có lực lượng”[46] .

Hồ Chí Minh yêu cầu các ngành, các cấp, các địa phương, luôn luôn phát
động các phong trào thi đua trong thanh niên. Không chỉ nêu ra về mặt lý luận, mà
trong những năm kháng chiến chống Mỹ ác liệt, Người còn phát động các phong
trào thi đua sôi nổi trong thanh niên, như: “thanh niên 3 sẵn sàng”, “tay cầy tay

20


súng”, “tay búa tay súng”, “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một
người”, “hậu phương thi đua với tiền phương”...

[1] Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, Tr12, tr. 510
[2] Sđd, Tập 9, tr. 222.
[3] Sđd, Tập 6, tr.46
[4] Sđd, Tập 6, tr.46
[5] Sđd, Tập 10, tr. 310.
[6] Sđd, Tập 2, tr. 97
[7] Sdd, Tập 7, tr 454
[8] Sdd , Tập 8, tr 80
[9] Sdd , Tập 2, tr 133
[10] Sđd , Tập 4, tr 167
[11] Sđd , Tập 5, tr 462
[12] Sđd , Tập 4, tr 167
[13] Sđd , Tập 12, tr 402
[14] Sđd , Tập 10, tr 458
[15] Sđd , Tập 12, tr 510
[16] Sđd , Tập 5, tr 185
[17] Sđd , Tập 5, tr 185
[18] Sđd , Tập 8, tr 80
[19] Sđd , Tập 8, tr 80

21


[20] Sđd , Tập 4, tr 467
[21] Sđd, Tập 10, tr. 190.
[22] Sđd , Tập 9, tr 292
[23] Sđd , Tập 9, tr 310
[24] Sđd , Tập 11, tr 329
[25] Sđd , Tập 10, tr 485
[26] Sđd , Tập 10, tr 621
[27] Sđd , Tập 5, tr 379
[28] Sđd , Tập 4, tr 36
[29] Sđd , Tập 5, tr 235
[30] Hồ Chí Minh với lực lượng vũ trang, NXB,QĐND, H.1975, tr176
[31] Hồ Chí Minh toàn tập, NXB, CTQG, H. 2002, Tập 8 tr263
[32] Sđd, Tập 8, tr. 80.
[33] Sđd, Tập 10, tr. 488.
[34] Sđd , Tập 4, tr 33
[35] Sđd , Tập 10, tr 190
[36] Sđd , Tập 12, tr 554
[37] Sđd , Tập 12, tr 664
[38] Sđd , Tập 8, tr 81
[39] Sđd , Tập 7, tr 456
22


[40] Sđd , Tập 7, tr 456
[41] Sđd , Tập 7, tr 456
[42] Sđd , Tập 12, tr 403
[43] Sđd, Tập 5, tr. 712.

[44] Sđd , Tập 6, tr 40
[45] Sđd , Tập 7, tr 456
[46] Sđd , Tập 7, tr 561

23



×