Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

SKKN Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 12 nắm vững cách làm bài văn Nghị luận xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.34 KB, 16 trang )

SKKN: Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 12 nắm vững cách làm bài văn Nghị luận xã hội_ kiểu bài:
Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí và Nghị luận về một hiện tượng đời sống.

PHẦN I

ĐẶT VẤN ĐỀ
Làm văn nghị luận nói chung và làm văn nghị luận xã hội nói riêng không
phải là vấn đề mới mẽ đối với học sinh đặc biệt là học sinh THPT. Trong chương
trình THCS học sinh đã được làm quen với kiểu bài nghị luận xã hội, đến THPT
theo chương trình giáo dục hiện hành Làm văn nghị luận xã hội đã được giảng dạy
ở cả ba khối lớp 10, 11, 12. Ở lớp 10 và 11, làm văn nghị luận xã hội chưa được
gọi tên như một thể loại văn nghị luận phổ biến mà chỉ được giảng dạy như một bài
thực hành không có hướng dẫn lí thuyết riêng. Đến lớp 12, kiểu bài này được thể
hiện rõ bằng tên gọi Nghị luận xã hội_ một thể loại của văn nghị luận, để phân biệt
với Nghị luận văn học.
Làm văn nghị luận xã hội là một kiểu bài không mới nhưng cũng không dễ
đối với học sinh bởi nghị luận xã hội là một vấn đề rất phong phú và đa dạng, có
vô số đề tài được đặt ra từ xã hội nhưng rất thiết thực đối với học sinh đặc biệt là
học sinh THPT. Nó giúp các em có cái nhìn toàn diện hơn về xã hội, có sự trải
nghiệm, và kĩ năng vận dụng sự hiểu biết của mình vào trong cuộc sống một cách
linh hoạt nhằm hướng các em trở thành những con người năng động, sáng tạo có
khả năng thích ứng kịp thời trước sự thay đổi của xã hội. Nhưng trong thực tế giữa
dạy và học giáo viên có giải quyết được các vấn đề đặt ra không, có đạt được mục
tiêu giáo dục của môn học chưa. Đây là một vấn đề rất nan giải.
Hơn nữa, tâm lí chung của học sinh và của cả một số giáo viên đều cho rằng
Làm văn nghị luận xã hội rất khó dạy và khó học vì kiến thức không có cái gì là
chuẩn, khi đưa ra vấn đề thì ta tự suy nghĩ và tự lí giải. Từ đó, làm cho học sinh có
cái nhìn không thiện cảm đối với văn nghị luận xã hội: một phần học không hiểu
nên làm bài không được; một phần vì thời gian học và luyện tập ở kiểu bài này
không nhiều chỉ 2 tiết lí thuyết và thực hành bằng 2 bài viết số 1 và số 2 trong tổng
số 111 tiết theo phân phối chương trình lớp 12


Vì không được thường xuyên luyện tập nên các em không nhuần nhuyễn
trong các thao tác hoặc các em sẽ quên đi cách thức làm bài và như vậy khi bắt gặp
một vấn đề nào đó mà các các em chưa từng tiếp xúc thì sẽ rất khó cảm thụ, thậm
chí hiểu sai vấn đề và như thế bài làm thường không đạt yêu cầu, thường bị điểm
thấp bởi các em chỉ triển khai được một khía cạnh nào đó của vấn đề theo cái nhìn
chủ quan. Điều này đã dần dần gây cho học sinh sự nhàm chán, thậm chí là rất sợ
kiểu bài nghị luận này và gây áp lực hơn nữa đối với các em là Làm văn nghị luận
xã hội là một câu hỏi chiếm 30% điểm số trong tất cả các đề thi từ thi học kì đến
thi tốt nghiệp và thi đại học .

GV: Trần Thị Ái Loan
Trang 1


SKKN: Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 12 nắm vững cách làm bài văn Nghị luận xã hội_ kiểu bài:
Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí và Nghị luận về một hiện tượng đời sống.

Theo tôi, sỡ dĩ có sự nhàm chán, tâm lí sợ hải như vậy một phần là do trong
quá trình giảng dạy giáo viên chưa giúp học sinh nắm vững cách làm bài, cách thức
triển khai vấn đề theo cái chuẩn chung cho kiểu bài Làm văn nghị luận xã hội,
chưa tự khám phá được cái hay của kiểu bài. Từ đó dẫn đến việc giáo viên hướng
dẫn đề nào thì học sinh chỉ biết được đề đó một cách máy móc, thậm chí là sự áp
đặt kiến thức, như thế học sinh sẽ không hiểu được bản chất của vấn đề và cũng
không có khả năng vận dụng từ một vấn đề để giải quyết được nhiều vấn đề.
Vậy làm thế nào để giảm dần tâm lí "khó học - khó dạy" đối với một bài
Làm văn nghị luận xã hội, làm thế nào để giúp học sinh làm tốt bài văn Nghị luận
xã hội theo đúng yêu cầu. Xuất phát từ thực tế trên, bản thân là giáo viên được
phân công giảng dạy môn Ngữ văn 12 nhiều năm, đặc biệt trong 03 năm gần đây
tôi xin phép được đưa ra một vài ý kiến gọi là kinh nghiệm cá nhân, nhằm giúp học
sinh giải quyết được vấn đề với hi vọng đạt kết quả cao trong kì thi tốt nghiệp năm

nay.

GV: Trần Thị Ái Loan
Trang 2


SKKN: Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 12 nắm vững cách làm bài văn Nghị luận xã hội_ kiểu bài:
Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí và Nghị luận về một hiện tượng đời sống.

PHẦN II

GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. THỰC TRẠNG CHUNG
Giúp học sinh hiểu đúng và làm đúng bài văn nghị luận xã hội ở lớp 12 là
một việc vô cùng vất vả đối với giáo viên và cả học sinh. Muốn giải quyết vấn để
này ngoài kĩ năng đòi hỏi học sinh cần có một vốn kiến thức về xã hội, về đời sống
hằng ngày mà đa số học sinh chúng ta thì ngại tìm tòi, không nhại cảm với các vấn
đề mà xã hội đặt ra, đặc biệt là các em ở vùng sâu, nông thôn thì việc cập nhật kiến
thức mới vả là một điều khó khăn. Mặt khác qua những phiếu thăm dò trong 03
năm gần đây, phần lớn học sinh rất sợ học và làm văn nghị luận xã hội. Các em
cho rằng nó rất khó khai thác đặc biệt là Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí các em
không hiểu vấn đề nói gì, hiểu sai, viết sai, thậm chí hiểu mà cũng không biết gì để
viết.
Những khó khăn trên không phải là không có nguyên nhân. Qua nhiều năm
dạy lớp 12, tôi nhận thấy nó xuất phát từ những lí do sau:
- Học sinh không nắm được cách làm bài theo cái chuẩn chung của 2 kiểu
bài nghị luận xã hội: Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí và Nghị luận về một hiện
tượng đời sống.Học sinh chưa xác định được đâu là nghị về một tư tưởng, đạo lí và
đâu là nghị luận về một hiện tượng đời sống nên không biết triển khai vấn đề một
cách hợp lí.

- Học sinh chúng ta chưa có cái nhìn khái quát từ thực tế để tích lũy kinh
nghiệm sống, các em chưa biết tự học từ xã hội, từ lâu vẫn còn thói quen chờ người
thầy dung nạp, chưa chủ động nắm bắt kiến thức từ đó dẫn đến tình trạng các em
rất nghèo nàn về kiến thức xã hội, thiếu khả năng tư duy thực tế cũng như rất hạn
chế trong kĩ năng giao tiếp.
Trên thực tế, các em còn nghèo nàn về vốn từ ngữ văn học, ít vốn từ vựng,
đặc biệt là khi giải thích nghĩa của các từ Hán Việt các em rất lúng túng chính vì
thế khi gặp đề bài nghị luận thuộc dạng nghị luận về một tư tưởng, đạo lí thì các
em không hiểu hết được ý nghĩa của vấn đề đôi khi hiểu sai và như thế sẽ dẫn đến
việc làm bài lạc đề.
Mặc khác, các em không được luyện tập thường xuyên do thời gian trong
phân phối chương trình rất ít nên các thao tác làm bài không nhuần nhuyễn, chưa
trở thành thói quen và như thế lâu ngày sẽ dễ quên. Trên một đề bài cụ thể, đa số
học sinh chỉ biết triển khai vấn đề theo yêu cầu của đề là “Trình bày suy nghĩ của
anh (chị)….” Thế là dựa vào 4 chữ “Trình bày suy nghĩ” rồi viết ra suy nghĩ của
GV: Trần Thị Ái Loan
Trang 3


SKKN: Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 12 nắm vững cách làm bài văn Nghị luận xã hội_ kiểu bài:
Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí và Nghị luận về một hiện tượng đời sống.

mình một cách chủ quan, cảm tính và như thế là không đạt yêu cầu của bài làm văn
nghị luận xã hội.
Học sinh chưa tự khai thác các vấn đề chủ yếu là giáo viên dung nạp kiến
thức. Từ đó hình thành cho học sinh thói quen ỉ lại, trông chờ và như vậy người
giáo viên rất vất vả trong việc truyền thụ kiến thức đặc biệt là kiến thức xã hội mà
học sinh cũng bị hạn chế trong khâu tiếp nhận kiến thức dẫn đến khả năng tư duy
cũng rất chậm và thực tế này là chưa phù hợp với mục tiêu đổi mới phương pháp
giáo dục.

II. CÁCH HƯỚNG DẪN CỦA BẢN THÂN
Qua 03 năm trải nghiệm khi giảng dạy làm văn nghị luận xã hội ở lớp 12, tôi
suy nghĩ và tìm cách khắc phục tình trạng trên với hi vọng giúp học sinh yêu thích
dần kiểu bài nghị luận xã hội, biết chủ động giải quyết vấn đề, tích lũy ngày càng
nhiều kiến thức xã hội làm vốn sống cho bản thân, nâng cao kĩ năng sống và đặc
biệt là có khả năng làm tốt bài văn nghị luận xã hội.
1. HƯỚNG DẪN CHUNG
Để dạy tốt một bài làm văn nghị luận xã hội trước hết người giáo viên phải
giúp học sinh xác định được mục đích của nghị luận xã hội. Nghị luận xã hội lấy
đề tài từ các lĩnh vực xã hội, chính trị, đạo đức làm một nội dung bàn bạc nhằm
làm sáng rõ cái đúng, sai, tốt, xấu, phải trái của vấn đề được nêu ra.
Làm văn nghị luận xã hội ở lớp 12, học sinh phải phân biệt được thế nào là
Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí ; thế nào là Nghị luận về một hiện tượng đời
sống.
- Với học sinh phổ thông, đề tài nghị luận về một tư tưởng, đạo lí vô cùng
phong phú và thường xoáy sâu vào các vấn đề như:
+ Nhận thức: lí tưởng, mục đích…
+ Tâm hồn, tính cách: lòng yêu nước, nhân ái, vị tha, bao dung độ lượng,
tính trung thực, hòa nhã khiêm tốn, dũng cảm, ích kỉ, ba hoa, vụ lợi…
+ Các quan hệ gia đình: Tình mẫu tử, anh em…
+Quan hệ xã hội: đồng bào, thầy trò tình bạn…
+ Cách ứng xử, những hành động của mỗi người trong cuộc sống….
- Đối với kiểu bài nghị luận về một hiện tượng đời sống là lấy những hiện
tượng xảy ra trong đời sống để bàn bạc. Nội dung bàn bạc của nó gần gũi với đời
sống và tập trung vào các khía cạnh như: tai nạn giao thông, hiện tượng môi trường
bị ô nhiễm, những tiêu cực trong thi cử, nạn bạo hành trong gia đình, cuộc vận
động giúp đỡ đồng bào bị lũ lụt, cuộc đấu tranh chống nạn phá rừng, phong trào
tiếp sức mùa thi.
Tất cả những vấn đề trên giáo viên cần chủ động giới thiệu và dẫn chứng
bằng một số đề bài cụ thể để học sinh phân biệt. Đây là khâu đầu tiên, nếu học sinh

không hiểu được đề tất yếu sẽ viết sai vấn đề cần nghị luận vì nó liên quan đến việc
xác định cách làm bài_ trong nghị luận xã hội mỗi kiểu bài đều có cách làm bài
riêng.
GV: Trần Thị Ái Loan
Trang 4


SKKN: Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 12 nắm vững cách làm bài văn Nghị luận xã hội_ kiểu bài:
Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí và Nghị luận về một hiện tượng đời sống.

Mặc khác, giáo viên cũng cần lưu ý với học sinh về một số dạng đề tài của
thể loại văn nghị luận xã hội để khi tiếp nhận đề bài học sinh có cách cảm thụ tốt
và thể hiện đúng quan điểm. Cùng thuộc thể loại văn nghị luận xã hội, có các dạng
đề khác nhau như sau:
- Đề bài trực tiếp yêu cầu nghị luận về một vấn đề thuộc lĩnh vực xã hội.
Ví dụ: Như một thứ a-xít vô hình, thói vô trách nhiệm ở mỗi cá nhân có
thể ăn mòn cả một xã hội.
Từ ý kiến trên, anh/chị hãy viết một bài văn ngắn trình bày suy nghĩ của
mình về tinh thần trách nhiệm và thói vô trách nhiệm của con người trong cuộc
sống hiện nay.
- Đề bài yêu cầu nghị luận về một vấn đề thuộc lĩnh vực xã hội được thể
hiện qua một câu tục ngữ, một câu danh ngôn, qua một ý thơ, ý văn,...
Ví dụ 1: Bằng câu danh ngôn yêu cầu nghị luận xã hội
Trình bày trong một bài văn ngắn (không quá 400 từ) suy nghĩ của anh/chị
về ý kiến của Gi.Nê-ru, lãnh tụ cách mạng Ấn độ: Một trí tuệ có văn hóa, có cội
nguồn từ chính nó, cần phải có những cánh cửa mở rộng
Ví dụ 2: Bằng một ý thơ yêu cầu nghị luận xã hội
Em ơi đất nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở

Làm nên đất nước muôn đời …
(Đất nước -trích Mặt đường khát vọng -Nguyễn Khoa Điềm, Ngữ văn 12
nâng cao, tập một NXB giáo dục, 2008)
Dựa vào những câu thơ trên, anh/chị phát biểu trong một bài văn ngắn (không quá
400 từ ) ý kiến cá nhân về trách nhiệm của thế hệ thanh niên hiện nay với đất nước
- Đề bài yêu cầu nghị luận về một vấn đề thuộc lĩnh vực xã hội nhưng xuất
phát từ sự thể hiện của vấn đề đó trong văn học.
Ví dụ: Viết bài văn nghị luận bàn về một bài học đạo đức hoặc cách sống
mà anh (chị) rút ra được từ một tác phẩm văn chương:
a. Sự chiến thắng của cái thiện (từ truyện Tấm Cám)
b. Thái độ khiêm tốn, không giấu dốt ( từ truyện Tam đại con gà)
Cuối cùng để làm đúng, đủ các nội dung theo yêu cầu của bài làm văn nghị
luận xã hội ở lớp 12, giáo viên phải hướng dẫn thật kĩ cách làm bài của từng kiểu
bài để học sinh nắm vững. Đây là khâu rất quan trọng khi dạy bài làm văn nghi
luận xã hội, cụ thể như sau:
* Cách làm bài nghị luận về một tư tưởng, đạo lí
Mở bài: giới thiệu vấn đề cần nghị luận và giới thiệu được đề bài
Thân bài: sử dụng các thao tác lập luận cơ bản để giải quyết
+ Giải thích vấn đề: là làm rõ ý nghĩa vấn đề, các nghĩa tường minh, nghĩa
hàm ẩn (nếu có). Lưu ý cách giải thích: Nếu đề có từ ngữ cần giải thích thì giải

GV: Trần Thị Ái Loan
Trang 5


SKKN: Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 12 nắm vững cách làm bài văn Nghị luận xã hội_ kiểu bài:
Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí và Nghị luận về một hiện tượng đời sống.

thích bằng khái niệm, nếu không có từ ngữ trọng tâm thì giải thích vấn đề chung
theo nội dung của đề.

+ Phân tích biểu hiện của vấn đề ở các khía cạnh có dẫn chứng kèm theo để
chứng minh (dẫn chứng từ thực tế, dẫn chứng có thể lấy từ trong văn học nhưng
cần hạn chế)
+ Bình luận, đánh giá hai mặt của vấn đề (mặt đúng - sai, tốt - xấu, lợi - hại,
tích cực- tiêu cực); nêu ý nghĩa của vấn đề và bàn bạc tìm ra phương hướng giải
quyết.
+ Nêu suy nghĩ, hành động, phương hướng phấn đấu của bản thân thông qua
vấn đề đang nghị luận.
Kết bài: Đánh giá chung về vấn đề
* Cách làm bài nghị luận về một hiện tượng đời sống
Mở bài: giới thiệu vấn đề cần nghị luận và giới thiệu được yêu cầu của đề
bài
Thân bài:
+ Nêu thực trạng, hiện tượng (tóm tắt vấn đề) liên quan đến vấn đề cần nghị
luận
+ Phân tích thực trạng (hiện tượng) bằng các dẫn chứng cụ thể; chỉ rõ
nguyên nhân của vấn đề
+ Bình luận, đánh giá hai mặt của vấn đề; đề ra các giải pháp mang tính khả
thi để giải quyết thực trạng (nếu có)
+ Nêu suy nghĩ, phương hướng phấn đấu, hành động đúng đắn của bản thân
Kết bài: Đánh giá chung về vấn đề
Khi hướng dẫn cách làm bài cho học sinh, giáo viên cần nhắc nhở: mỗi kiểu bài có
cách làm bài riêng bắt buộc các em phải theo định hướng đó để triển khai vấn đề.
Cách thao tác lập luận trong cách làm bài của từng kiểu bài có thể xem là các luận
điểm, học sinh phải dựa vào đó để giải quyết vấn đề theo đề bài,có như vậy thì bài
viết mới thực sự đạt hiệu quả.
Tóm lại: Giáo viên hướng dẫn cho học sinh cách làm bài chứ không làm
thay cho các em những đề bài có sẵn tức là hướng dẫn phương pháp chứ không
dung nạp nội dung vì khi các em nắm vững phương pháp thì tất yếu sẽ khai thác
được nội dung. Lúc ấy, giáo viên chỉ cần hướng dẫn một hoặc hai đề bài thực hành

cụ thể thì học sinh có thể từ đó mà giải quyết được tất cả các vấn đề đặt ra từ xã
hội. Làm như thế sẽ tránh được cách dạy áp đặt kiến thức, tạo điều kiện cho các em
cơ hội phát huy khả năng tư duy, đặc biệt là tư duy thực tế, tức là để các em tự tìm
hiểu, khám phá cái mới, cái hay từ xã hội và cũng từ đó phát hiện ra cái hay của
chính bản thân mình. Đó mới là động lực thúc đẩy các em yêu thích và có hứng thú
với bài làm văn nghị luận xã hội.
2. NHỮNG KINH NGHIỆM HƯỚNG DẪN CỤ THỂ
Xuất phát từ những hướng dẫn chung gọi là kinh nghiệm của bản thân, giới
hạn trong phạm vi nghiên của mình, tôi xin đưa ra đây một số bài cụ thể đã áp
GV: Trần Thị Ái Loan
Trang 6


SKKN: Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 12 nắm vững cách làm bài văn Nghị luận xã hội_ kiểu bài:
Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí và Nghị luận về một hiện tượng đời sống.

dụng theo cách dạy đã trình bày ở trên với mục tiêu: “ Giúp học sinh nắm được
cách làm bài văn nghị luận xã hội”.
a. Đối với bài Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí
G. hướng dẫn H. giải quyết 2 đề bài
* Đề bài 1: Anh (chị) hãy trả lời câu hỏi sau của nhà thơ Tố Hữu:
“Ôi ! sống đẹp là thế nào, hỡi bạn ?”
(Một khúc ca)
(Sách giáo khoa, Ngữ văn 12(cơ bản), tập một, Nxb Giáo dục, trang 20)
Trên cơ sở học sinh chuẩn bị bài ở nhà đã đọc hết nội dung của bài Nghị luận về
một tư tưởng, đạo lí trong sách giáo khoa
Lên lớp, giáo viên hướng dẫn học sinh:
+ Phần tìm hiểu đề (Sgk)
+ Phần lập dàn ý: dựa vào các câu hỏi G. định hướng để H. triển khai vấn đề theo
trình tự như sau:

- Đặt vấn đề : Giới thiệu ngắn gọn về vấn đề sống đẹp của con người và
trích dẫn câu thơ của Tố Hữu.
- Giải quyết vấn đề:
G. hướng dẫn học sinh triển khai vấn đề bằng một số các thao tác lập luận theo yêu
cầu của kiểu bài nghị luận về một tư tưởng, đạo lí như: giải thích, phân tích, chứng
minh, bình luận, bác bỏ.
+ Giải thích câu thơ của Tố Hữu: Thế nào là sống đẹp ?
H.giải thích: Sống đẹp là sống có văn hóa, có lí tưởng, có đạo đức, có nhân cách,
biết cống hiến, sống giàu tình yêu thương , lòng nhân ái, không ích kỉ, có hành
động thiết thực đúng đắn, …
+ Phân tích biểu hiện của sống đẹp kèm theo dẫn chứng.
G. hướng dẫn học sinh tìm một số biểu hiện của sống đẹp.
H. tìm_ Sống đẹp được biểu hiện qua các mặt như: Lí tưởng đúng đắn, tâm hồn
cao đẹp, tình cảm trong sáng, trí tuệ sáng suốt, hành động tích cực.
Từ việc nắm vững các biểu hiện trên G. hướng dẫn H. hiểu thế nào là Lí
tưởng đúng đắn, tâm hồn cao đẹp, tình cảm trong sáng, trí tuệ sáng suốt, hành
động tích cực. Sau đó gợi ý để H. tìm được dẫn chứng thiết thực, phù hợp với đề
bài. Có thể tìm dẫn chứng trong giao tiếp, trong công việc, quan hệ, lối sống…
+ Bình luận, đánh giá vấn đề:
G. gợi ý một số nội dung để H. bình luận vấn đề
Ca ngợi, biểu dương những người có lối sống đẹp, nhiều tấm gương sống đẹp
đã được điển hình trong cuộc sống
Phê phán lối sống không đẹp: là biểu hiện của lối sống ích kỉ, vô trách nhiệm,
thiếu ý thức, độc ác, không có lí tưởng…
Từ đó kêu gọi mọi người cần có ý thức sống đẹp, rèn luyện thói quen sống đẹp
để cuộc đời ngày một có ý nghĩa hơn
+ Nêu suy nghĩ, hành động, phương hướng phấn đấu của bản thân
GV: Trần Thị Ái Loan
Trang 7



SKKN: Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 12 nắm vững cách làm bài văn Nghị luận xã hội_ kiểu bài:
Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí và Nghị luận về một hiện tượng đời sống.

G. gợi ý, H. cần có cái nhìn chung về quan niệm sống của thanh niên hiện nay từ
đó xác định quan niệm sống của bản thân cho đúng đắn: Định hướng phấn đấu của
bản thân để sống đẹp. Cần rèn luyện bản thân nâng cao ý thức sống đẹp. Sống đẹp
mang ý nghĩa nhân văn cao cả, nhiều tấm gương sống đẹp đã được điển hình trong
cuộc sống.
- Kết thúc vấn đề: Nhận định chung về câu thơ và tác dụng của nó đối với
bản thân và mọi người.
* Với đề bài này G. hướng dẫn H. triển khai vấn đề theo hướng quy nạp, khi đã
thực hành xong một dàn bài chi tiết G. yêu cầu H. rút ra cách làm bài chung của
kiểu bài này
H. trả lời theo cách hiểu phần còn lại G. gợi ý bổ sung và rút ra cách làm
bài theo bố cục ba phần của bài nghị luận (Cách làm bài như đã nêu trong phần
hướng dẫn chung).
Từ đó, G. nhấn mạnh trong phần Giải quyết vấn đề H.phải làm rõ 4 vấn đề bằng
một số thao tác lập luận: giải thích, phân tích- chứng minh, bình luận- bác bỏ để
lập luận và trình bày được suy nghĩ, hành động của bản thân một cách chân thực.
G. cần lưu ý đây là cách làm bài chung, là định hướng đúng nhất để làm được
bài Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí; buộc các em phải học thuộc vì khi nắm được
cách làm bài tức là nắm được phương pháp các em sẽ dễ dàng tư duy và như thế sẽ
tránh được tình trạng H. bị lạc đề hoặc thiếu luận điểm của bài viết vì khi sử dụng
một thao tác lập luận chính là chúng ta đang giải quyết một luận điểm của bài viết.
Làm theo cách này sẽ rất vất vả đối với người học cũng như người dạy
nhưng tôi nghĩ nó sẽ giúp học sinh hình dung được Cách làm bài một cách cụ thể,
chính xác và chi tiết hơn so với phần giới thiệu về Cách làm bài trong phần Ghi
nhớ_ Sgk, trang 21 chỉ nêu chung chung tên các thao tác lập luận như vậy đối với
học sinh yếu - kém sẽ rất khó vận dụng.

* Đề bài 2: “Mọi phẩm chất của đức hạnh là ở trong hành động”
Ý kiến của M.Xi-xê-rông (nhà triết học La Mã cổ đại) gợi cho anh (chị) những
suy nghĩ gì về việc tư dưỡng và học tập của bản thân
(Sách giáo khoa, Ngữ văn 12(cơ bản), tập một, Nxb Giáo dục, trang 35)
Yêu cầu: lập dàn ý chi tiết cho đề bài
Với đề bài này việc đầu tiên là H. phải xác định được đây là kiểu bài nghị luận về
một tư tưởng, đạo lí. Từ đó dựa vào cách làm bài mà triển khai một dàn bài chi tiết
như sau:
G. gợi ý, hướng dẫn các em thực hành
- Đặt vấn đề: Giới thiệu vấn đề xoay quanh nội dung đức hạnh và hành
động; trích dẫn ý kiến
- Giải quyết vấn đề:
+ Giải thích khái niệm:
H. giải thích: Đức hạnh là gì ? Hành động là gì ? Mối quan hệ giữa đức hạnh và
hành động ? Tại sao nói mọi phẩm chất của đức hạnh là ở trong hành động ?
GV: Trần Thị Ái Loan
Trang 8


SKKN: Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 12 nắm vững cách làm bài văn Nghị luận xã hội_ kiểu bài:
Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí và Nghị luận về một hiện tượng đời sống.

+ Phân tích biểu hiện của vấn đề: Biểu hiện của đức hạnh chính là đạo đức,
trí tuệ, tâm hồn…; tất cả mọi phẩm chất không thể thuyết phục mọi người bằng lời
nói suông vô căn cứ, không minh chứng mà phải chứng minh qua hành động.
H. lí giải, phân tích vấn đề này có dẫn chứng kèm.
+ Bình luận, đánh giá vấn đề:
Nêu trường hợp có đức hạnh mà không có hành động; có hành động mà
không có đức hạnh điều khiển thì sẽ như thế nào
Sự cần thiết phải tồn tại thống nhất giữa đức hạnh và hành động trong một

cá nhân con người: Đức hạnh là cội nguồn tạo ra hành động và hành động là biểu
hiện cụ thể của đức hạnh
+ Suy nghĩ, hành động của bản thân: Bản thân cần bày tỏ ý kiến về vấn đề
trên, rèn luyện tu dưỡng đạo đức, nhân cách để có suy nghĩ hành động đúng đắn.
- Kết thúc vấn đề: Ý kiến trên có tác dụng thiết thực, giúp ta thấy được bản
chất của vấn đề về mối quan hệ giữa tính cách và hành động, nâng cao kĩ năng
sống cho bản thân.
* Ở đề bài 2 là đề để H. luyện tập, vận dụng khắc sâu hơn kiến thức, nhuần
nhuyễn hơn các thao tác lập luận, đặc biệt là nắm vững hơn cách làm bài.
G. không trực tiếp giải quyết vấn đề như ở đề 1 mà chỉ gợi ý, lí giải và định hướng
những vấn đề H. chưa rõ.
Để làm được vấn đề này chúng ta phải có thời gian. Nhưng yếu tố thời gian là
do chúng ta chủ động trong phân phối chương trình, trong tiết bám sát hoặc trong
giờ phụ đạo (nếu có)
b. Đối với bài Nghị luận về một hiện tượng đời sống
Khi dạy lí thuyết bài Nghị luận về một hiện tượng đời sống, trên cơ sở H.
đã chuẩn bị ở nhà G. cần có sự chủ động để H. nắm kiến thức một cách nhanh
nhất, cụ thể như sau:
H. trả lời các câu hỏi trong phần Tìm hiểu đề và giải quyết phần Lập dàn ý
Từ đó G. kết hợp các ý trong phần lập dàn ý của bài với phần Ghi nhớ hình
thành cho H. Cách làm bài cụ thể, đầy đủ theo bố cục ba phần (Cách làm bài như
đã nêu trong phần hướng dẫn chung)
Sau đó G. sẽ cho H. đề bài để luyện tập nhằm khắc sâu kiến thức lí thuyết
* Đề bài:
Tuổi trẻ học đường suy nghĩ và hành động để góp phần giảm
thiểu tai nạn giao thông
(Sách giáo khoa, Ngữ văn 12 (cơ bản), tập một, Nxb Giáo dục, trang 78)
Với đề bài này G. hướng dẫn H. giải quyết vấn đề theo trình tự sau:
- Đặt vấn đề: Giới thiệu tình hình chung về an toàn giao thông, đi sâu vào
bức tranh tai nạn giao thông và trích dẫn đề bài

- Giải quyết vấn đề:
+ Tóm tắt thực trạng:
G. định hướng để H. có cái nhìn đúng đắn về thực trạng Tai nạn giao thông hiện
nay (chú ý đến đối tượng là tuổi trẻ học đường)
GV: Trần Thị Ái Loan
Trang 9


SKKN: Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 12 nắm vững cách làm bài văn Nghị luận xã hội_ kiểu bài:
Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí và Nghị luận về một hiện tượng đời sống.

H. có thể nêu được vấn đề này bằng sự quan sát, hiểu biết từ thực tế hay trên các
phương tiện thông tin đại chúng (G. cần lưu ý nếu các em nêu được số liệu hoặc
ngày tháng thì phải chính xác để tăng thêm sức thuyết phục)
+ Phân tích biểu hiện của vấn đề có dẫn chứng kèm theo
H. nêu một số biểu hiện của tai nạn giao thông (tai nạn do bản thân tự gây ra, tai
nạn do người khác gây ra)
Chỉ rõ nguyên nhân gây tai nạn giao thông chủ yếu xuất phát từ việc thiếu ý thức
chấp hành luật lệ giao thông: đua xe trái phép, uống rượu- bia quá nồng độ cho
phép, chạy xe lạng lách, đánh võng, tham gia giao thông không đúng phần đường
của mình, chở hàng hóa vượt quá giới hạn cho phép đặc biệt là xe mô tô, …
+ Bình luận, đánh giá vấn đề
G. gợi ý H. bình luận vấn đề:
Ca ngợi, biểu dương những người có biểu hiện tốt trong việc chấp hành luật
lệ giao thông
Lên án phê phán những ai thiếu ý thức trách nhiệm, không chấp hành luật lệ
giao thông gây nhiều hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh,
trật tự an toàn xã hội.
Nêu ý nghĩa của vấn đề: Tai nạn giao thông hiện nay đã và đang trở thành
quốc nạn, gây nhiều cái chết thương tâm, gây hậu quả nặng nề cho gia đình và xã

hội. Kêu gọi tuổi trẻ học đường cần có những giải pháp tích cực để góp phần giảm
thiểu tai nạn giao thông
H. có thể nêu một số giải pháp thực hiện cụ thể
+ Suy nghĩ và hành động của bản thân
G. gợi ý
H. cần thể hiện rõ thái độ của mình đối với vấn đề này từ đó nêu ra hành động của
bản thân nhằm khắc phục tình tai nạn giao thông đã và đang ở mức báo động
- Kết thúc vấn đề: Nêu trách nhiệm chung của mọi người đặc biệt là của
tuổi trẻ học đường trong thời đại ngày nay.
* Qua bài tập trên G. một lần nữa củng cố cho H. về cách làm bài Nghị luận về một
hiện tượng đời sống, đặc biệt nhấn mạnh đến trình tự lập luận để triển khai vấn đề
đảm bảo đầy đủ nội dung.
** Tóm lại: Từ việc hướng dẫn lí thuyết để đi đến thực hành - vận dụng ở hai kiểu
bài nghị luận nói trên một mặt để H. khắc sâu thêm kiến thức; mặt khác, em sẽ
nhận ra rằng làm bài Nghị luận xã hội không phải là không có kiến thức làm chuẩn,
mà tất cả các vấn đề đặt ra của Nghị luận xã hội đều lấy cái chuẩn mực của xã hội
để lí giải, đánh giá không phải là ta tự suy nghĩ và tự lí giải. Như vậy sẽ giúp các
em tự tin hơn, chủ động hơn trong lập luận của mình để triển khai vấn đề, không
phải mang tâm lí lo lắng khi làm bài mà không biết cái nào đúng, cái nào sai hay
làm sao để đáp ứng đúng chủ ý của người ra đề …
Được luyện tập, vận dụng thường xuyên giúp các em nâng cao kĩ năng lập
luận, tích lũy ngày càng nhiều kiến thức xã hội, bài làm đạt hiệu quả cao. Đây cũng
GV: Trần Thị Ái Loan
Trang 10


SKKN: Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 12 nắm vững cách làm bài văn Nghị luận xã hội_ kiểu bài:
Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí và Nghị luận về một hiện tượng đời sống.

là một trong những yếu tố kích thích các em hứng thú hơn trong học tập, an tâm

hơn trong thi cử; đồng thời từng bước nâng cao chất lượng của môn học. Đây
chính là yêu cầu cần đạt của bài làm văn Nghị luận xã hội.
3. TÁC DỤNG CỦA CÁCH DẠY
Cách dạy trên đã thực hiện được 2/3 năm thay sách lớp 12, bản thân nhận
thấy từng bước đã mang lại tác dụng.
* Về phía học sinh:
- Nắm vững phương pháp làm bài từ đó mà phát huy khả năng tư duy, có tác
động tích cực trong các hoạt động trên lớp, học sinh có thói quen tìm kiếm thông
tin khi G. yêu cầu chuẩn bị bài ở nhà. Điều đó đã giúp các nâng cao dẫn kiến thức
xã hội.
- Học sinh có hứng thú hơn trong học tập, yêu thích bộ môn bởi tự có thể
khám phá, nhận thức được vấn đề, đặc biệt là nhận ra được tính hai mặt của xã hội
từ đó mà hình thành ý thức, kĩ năng sống tốt hơn.
- Các em chủ động phát biểu, biết suy luận, biết tư duy, biết làm việc tập thể,
theo nhóm thậm chí dám nói ra những suy nghĩ của riêng mình về một vấn đề nào
đó. Không còn thụ động trong tâm thế chờ đợi giáo viên dung nạp kiến thức, các
em đã từng bước biết vận dụng các thao tác lập để làm bài.
- Giảm dần áp lực lo lắng khi đến lớp hay khi làm bài kiểm tra, thi cử; chất
lượng bài viết từng bước được nâng lên. Mặt khác, còn giúp học sinh nâng cao khả
năng tự học, tự rèn, mở rộng kiến thức đặc biệt là kiến thức xã hội.
* Về phía giáo viên:
- Giữ đúng vai trò G. là người hướng dẫn ( H. là trung tâm ) từng bước thực
hiện giảng dạy theo phương pháp mới một cách có hiệu quả.
- Không còn chịu áp lực bởi yếu tố thời gian, thi cử và điểm số.
- Đến nay có thể nói, cả giáo viên và học sinh đã xóa dần tâm lí " khó học khó dạy" đối với môn làm văn Nghị luận xã hội.
4. HIỆU QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Một số kinh nghiệm nêu trên cũng chỉ mới là thử nghiệm nhưng tôi nhận
thấy từng bước mang lại hiệu quả thiết thực.
- Học sinh yêu thích, hứng thú với môn học, luôn có thói quen tự học – tự tin
hơn với mãn kiến thức xã hội, không còn thụ động, lúng túng như trước kia.

- Học sinh biết cách học bài và làm bài, biết vận dụng kiến thức và kỹ năng
để làm bài văn nghị luận xã hội, thành thạo hơn trong các thao tác lập luận.
- Kết hợp cả kiến thức văn học và xã hội các em có khả năng mở rộng tầm
hiểu biết cho bản thân. Từ đó mà tự rèn luyện cho mình tư tưởng, tình cảm tốt đẹp.
- Điều quan trọng là chất lượng học tập của học sinh từng bước được nâng
lên. Ở lớp 12 trong ba năm dạy học theo sách giáo khoa mới, tôi áp dụng kinh
nghiệm này được 02 năm học: 2009-2010 và 2010-2011

GV: Trần Thị Ái Loan
Trang 11


SKKN: Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 12 nắm vững cách làm bài văn Nghị luận xã hội_ kiểu bài:
Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí và Nghị luận về một hiện tượng đời sống.

So sánh 2/3 năm học được áp dụng với đối tượng học sinh Trung bình- Yếu
tính riêng phần làm văn Nghị luận xã hội theo thang điểm 3/10 trong tổng điểm
của môn Ngữ văn tôi thu được kết quả như sau:

Năm học
2008-2009
2009-2010
2010-2011

Số học sinh
73
71
78

0

0 (0%)
0 (0%)
0 (0%)

Loại điểm
0,5→ 1
1,5→ 2
50 (68,5%) 22 (30,1%)
34 (47,9%) 31 (43,7%)
19 (24,4%) 48 (61,5%)

2,5→ 3
1 (1,4%)
6 (8,4%)
11 (14,1%)

Kết quả trên với tôi có thể nói là chưa thật khả quan. Nhưng bước đầu đã
thể hiện tính khả thi trong phương pháp giảng dạy của mình. Tuy các em làm bài
đạt điểm giỏi chưa nhiều nhưng điểm yếu-kém từng bước được khắc phục đặc biệt
là điểm khá đã tăng lên rõ rệt. Theo tôi, bước tiến bộ nêu trên vả là dấu hiệu đáng
mừng bởi vì với học sinh trường THPT Phú Tâm - một trường vùng nông thôn và
đối tượng là Trung bình - Yếu_ khả năng có hạn, đời sống các em còn nhiều khó
khăn và thời gian cũng như điều kiện tự học ở nhà không phải em nào cũng có nên
việc năng cao chất lượng không phải là chuyện của một sớm một chiều.
Tuy nhiên trong từng môn học ở nhà trường phổ thông, chất lượng không
chỉ hoàn toàn biểu hiện bằng điểm số mà còn biểu hiện trong những tiết học khi
học sinh hứng thú, chủ động, tích cực, yêu thích môn học thì nhất định sẽ đạt được
kết quả tốt. Vì vậy, tôi tin rằng trong những năm tới bằng sự cố gắng của cả thầy
và trò chất lượng môn Ngữ văn nói chung và làm văn Nghị luận xã hội nói riêng
nhất định sẽ được nâng lên.

5. NHỮNG ĐIỀU CẦN LƯU Ý
Có được kết quả như trên không phải là việc làm của ngày một, ngày hai mà
đó là cả một quá trình dạy và học rèn luyện, tích lũy. Tuy nhiên để không ngừng
nâng cao chất lượng thì cả giáo viên và học sinh cần lưu ý một số vấn đề sau:
* Đối với giáo viên: người đóng vai trò chủ đạo trong việc hướng dẫn học
sinh học tập cần lưu ý:
+ Phải chuẩn bị chu đáo các nội dung trước khi lên lớp, hướng dẫn học sinh
làm việc ở nhà, tỏ ra thông hiểu tất cả các vấn đề có liên quan, đặc biệt là vốn kiến
thức xã hội.
+ Trong phần cung cấp kiến thức phải rèn cho học sinh kĩ năng vận dụng,
hình thành cho các em khả năng tư duy đặc biệt là tư duy thực tiễn.
+ Trong việc hướng dẫn thực hành, giáo viên phải chú ý đến từng đối tượng
học sinh phát hiện các em còn yếu ở thao tác lập luận nào lúc ấy sẽ tập trung sửa
chữa, rèn luyện thao tác đó (thông thường các em còn hạn chế trong thao tác bình

GV: Trần Thị Ái Loan
Trang 12


SKKN: Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 12 nắm vững cách làm bài văn Nghị luận xã hội_ kiểu bài:
Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí và Nghị luận về một hiện tượng đời sống.

luận đánh giá, phân tích biểu hiện của vấn đề thường nói chung chung không có
dẫn chứng thực tế như thế bài làm chưa có tính thuyết phục cao)
+ Trong tất cả các giờ học làm văn Nghị luận xã hội G. và H. phải thường
xuyên nhắc đi nhắc lại phương pháp nghị luận (Cách làm bài) để khắc sâu kiến
thức.
* Đối với học sinh:
+ Bắt buộc phải chuẩn bị ở nhà, đọc sách giáo khoa, tìm hiểu những vấn đề
có liên quan đến bài học mà giáo viên đã dặn dò chuẩn bị.

+ Nếu học sinh không chuẩn bị sẽ khó nắm bắt vấn đề, tiết học sẽ bị động
nhất là về mặt thời gian và cũng có thể không hoàn thành tiết dạy. Mặt khác, nếu
có hoàn thành tiết dạy thì đó cũng chỉ là dung nạp, áp đặt kiến thức như thế dễ gây
nhàm chán cho các em.

GV: Trần Thị Ái Loan
Trang 13


SKKN: Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 12 nắm vững cách làm bài văn Nghị luận xã hội_ kiểu bài:
Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí và Nghị luận về một hiện tượng đời sống.

PHẦN BA

KẾT LUẬN CHUNG
Dạy và học theo tinh thần chung là phải từng bước nâng cao chất lượng _
một chất lượng thực sự mà học sinh có được cả về kiến thức và kỹ năng. Mục tiêu
của giáo dục- đào tạo hiện nay là đào tạo con người đáp ứng được nhu cầu xã hội,
nhu cầu kinh tế thị trường, muốn thế giáo dục cần gắn với xã hội, lí luận phải gắn
với thực tiễn
Và chất lượng học tập của học sinh là vấn đề được đặt lên hàng đầu.
Muốn nâng cao chất lượng trước hết cần chú ý đến trách nhiệm của người giáo
viên, vì thế những phương pháp dạy học tích cực luôn được tìm tòi, áp dụng và
phát huy sao cho phù hợp với từng đối tượng học sinh pù hợp với mục tiêu giáo
dục, nhằm nâng cao chất lượng.
Bản thân là giáo viên giảng dạy môn Ngữ văn nhiều năm, tôi nhận thấy học
sinh chúng ta còn rất yếu trong kĩ năng làm văn nghị luận đặc biệt là Nghị luận xã
hội, các em không có khả năng tổng hợp các thao tác lập luận để trình bày vấn đề,
kĩ năng sử dụng các phương thức biểu đạt còn hạn chế, vốn kiến thức xã hội chưa
thật phong phú. Đó là những khó khăn trước mắt làm cho người giáo viên như tôi

cảm thấy trăn trở, đặc biệt là ở đối tượng học sinh lớp 12 nghị luận xã hội là phần
thi bắt buộc chiếm 3/10 điểm, nếu học sinh không làm được câu 3 điểm này đương
nhiên sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả thi tốt nghiệp. Xuất phát từ nguyên nhân
này, bản thân suy nghĩ và đã tìm cách để giúp các em làm tốt bài nghị luận xã hội
Vấn đề này, tôi đã thực nghiệm được 2 năm học ( 2009-2010; 2010-2011 )
và rút ra được một số kết luận sau:
- Chất lượng của học sinh bước đầu tăng lên được tính bằng điểm số, chất
lượng bộ môn tăng dần
- Học sinh tích cực, biết tự học, sáng tạo và có kỹ năng vận dụng.
- Học tốt môn làn văn nghị luận học nói chung, nghị luận xã hội nói riêng
chính là cơ sở để các em học tốt các môn học khác, rèn luyện kĩ năng sống tốt hơn,
có khả năng thích ứng kịp thời trước sự đổi mới của xã hội. Vì vậy theo tôi để học
tốt bài làm văn nghị luận xã hội và để thực hiện được cách giảng dạy nêu trên đòi
hỏi người giáo viên và học sinh cần có sự nổ lực:
* Về phía giáo viên:
GV: Trần Thị Ái Loan
Trang 14


SKKN: Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 12 nắm vững cách làm bài văn Nghị luận xã hội_ kiểu bài:
Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí và Nghị luận về một hiện tượng đời sống.

+ Chuẩn bị bài chu đáo, soạn bài cẩn thận, tạo sự hứng thú cho học sinh
trước vấn đề đang đặt ra.
+ Làm chủ mọi tình huống có thể xảy ra trong tiết dạy.
+ Xử lí kịp thời những thông tin từ phía học sinh, kịp thời điều chỉnh uốn
nắn rèn luyện tư tưởng cho các em.
+ Linh hoạt trong việc tổ chức điều khiển học sinh làm việc, hướng dẫn các
em cách chiếm lĩnh kiến thức bằng con đường ngắn nhất, đơn giản nhất mà hiệu
quả nhất.

+ Từng bước rèn luyện cho học sinh thói quen tự học, độc lập tư duy, có kĩ
năng lập luận, sắc bén trước một vấn đề có liên quan đến đời sống xã hội; nâng cao
kĩ năng sống cho các em.
* Về phía học sinh:
+ Xác định được vai trò của mình trong tiết học, có ý thức học tập.
+ Cần chuẩn bị bài ở nhà đầy đủ.
+ Phát huy được tính chủ động, tích cực, có thể tự thâm nhập và chiếm lĩnh
kiến thức.
Tóm lại, kiến thức là một kho tàng vô tận. Chúng ta dù có dùng cách nào
cũng không thể chiếm lĩnh hết được. Trên đây, tôi chỉ đưa ra những khía cạnh nhỏ
của vấn đề theo cách dạy của riêng tôi trong thời gian ngắn tích lũy kinh nghiệm
và đã được kiểm nghiệm thực tế qua hai năm học tôi nghĩ nó vẫn còn nhiều thiếu
xót cần được bổ sung trong những năm học tiếp theo.
Có một biện pháp, một phương pháp dạy học phù hợp, giúp học sinh học tập
tốt, đạt mục tiêu, nâng cao chất lượng là việc làm đúng đắn và hết sức cần thiết, hi
vọng biện pháp ấy sẽ dần dần được hoàn thiện trong những năm học tiếp theo. Tuy
nhiên, tôi rất mong nhận được sự đóng góp của các đồng nghiệp để kinh nghiệm
này ngày một phong phú hơn và kết quả đạt được ngày một cao hơn, góp phần
nâng cao chất lượng dạy và học cho bộ môn.

Phú Tâm, ngày 04 tháng 5 năm 2011
Người viết

Trần Thị Ái Loan

GV: Trần Thị Ái Loan
Trang 15


SKKN: Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 12 nắm vững cách làm bài văn Nghị luận xã hội_ kiểu bài:

Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí và Nghị luận về một hiện tượng đời sống.

GV: Trần Thị Ái Loan
Trang 16



×