Tải bản đầy đủ (.doc) (73 trang)

Đánh Giá Ảnh Hưởng Của Hoạt Động Sản Xuất Thuốc Lào Đến Môi Trường Tại Địa Bàn Xã Quảng Thạch, Quảng Xương, Thanh Hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.17 MB, 73 trang )

HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

KHOA MÔI TRƯỜNG

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI:
“ĐÁNH GIÁ ẢNH HƯỞNG CỦA HOẠT ĐỘNG SẢN
XUẤT THUỐC LÀO ĐẾN MÔI TRƯỜNG TẠI ĐỊA BÀN
XÃ QUẢNG THẠCH, HUYỆN QUẢNG XƯƠNG
TỈNH THANH HÓA”

Sinh viên thực hiện

: NGUYỄN THỊ HẠNH

Lớp

: MTA - K57

Khóa

: 57

Chuyên ngành

: KHOA HỌC MÔI TRƯỜNG

Giảng viên hướng dẫn

: THS. TRẦN THANH VÂN


Hà Nội - 2016


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
TÊN ĐỀ TÀI : Đánh giá ảnh hưởng của hoạt động sản xuất thuốc lào đến môi
trường tại xã Quảng Thạch, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa
Người thực hiện : Nguyễn Thị Hạnh
Lớp : K57MTA
Khóa : 57
Chuyên ngành : Khoa học môi trường
Giáo viên hướng dẫn : Ths.Trần Thanh Vân
Địa điểm thực tập : xã Quảng Thạch, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa

i


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu bài báo cáo này
là kết quả nghiên cứu của chính tôi, hoàn toàn trung thực với những gì mà t
điều tra được chưa sử dụng cho một bài khóa luận nào trước đó.
Các thông tin, tài liệu trích dẫn trong bài báo cáo này đều đã được chỉ
rõ nguồn gốc. Mọi sự giúp đỡ đều đã được cảm ơn.
Sinh viên

Nguyễn Thị Hạnh

ii


LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành quá trình học tập và thực hiện Đề tài này, em xin được
bày tỏ lòng biết ơn tới các Thầy, các Cô trong bộ môn Sinh thái nông nghiệp,
Học Viện Nông Nghiệp Việt Nam đã tạo mọi điều kiện và giúp đỡ tận tình
cho em. Đặc biệt em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới cô Trần Thanh Vân người
trực tiếp hướng dẫn em hoàn thành Đề tài này.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong Ban giám hiệu nhà trường,
các thầy cô trực tiếp giảng dạy em trong suốt những năm học qua truyền đạt
cho em kiến thức để thực hiện đề tài.
Sự giúp đỡ, tạo điều kiện của UBND xã Quảng Thạch và Phòng Tài
nguyên môi trường huyện Quảng Xương đã cung cấp tài liệu trong suốt quá
trình em thực hiện Đề tài, sự giúp đỡ động viên từ gia đình, bạn bè cũng là
nguồn động viên hết sức quý báu để em hoàn thành tốt đề tài tốt nghiệp của
mình. Qua đây em xin trân trọng cảm ơn những tình cảm quý báu đó.
Và em xin cảm ơn đến bà con nhân dân trong xã đã giúp đỡ em rất nhiệt tình
trong công tác điều tra và thu thập số liệu
Mặc dù bản thân rất cố gắng nhưng do thời gian có hạn và kinh nghiệm thực tế
còn nhiều hạn chế . nên bài khóa luận của em không tránh khỏi những thiếu
sót. Em kính mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp của Quý Thầy Cô cùng
các bạn sinh viên để em có thể hoàn thiện tốt bản đồ án tốt nghiệp của mình.
Em xin chân thành cảm ơn !
Thanh Hóa, ngày

tháng

Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Hạnh

iii

năm 2016



MỤC LỤC
Chương 2...........................................................................................................................................2
. TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU..............................................................................................2
Chương 2.........................................................................................................................................23
. ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU...............................................................23
Chương 3.........................................................................................................................................25
. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN...............................................................................................................25
KẾT LUẬN.........................................................................................................................................57
TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................................................59

iv


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BVTV: bảo vệ thực vật
UBND: Ủy ban nhân dân
GTSX : giá trị sản xuất
ĐVT: Đơn vị tính
WHO: ( World Health Organization) : Tổ chức y tế thế giới

v


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1. Diện tích thuốc lào tại Việt Nam (ha)....Error: Reference source not
found
Bảng 1.2. Sản lượng thuốc lào tại Việt Nam (tấn)..Error: Reference source not
found

Bảng 3.1: Hiện trạng giá trị sản xuất và cơ cấu kinh tế xã Quảng Thạch Error:
Reference source not found
Bảng 3.2: Tình hình phát triển một số cây trồng chính.Error: Reference source
not found
Bảng 3.3. Các loại phân bón thường sử dụng cho thuốc lào tại Quảng Thạch
...................................................................... Error: Reference source not found
Bảng 3.4 : Mức bón phân của nông hộ cho lúa đất 2 lúa, rau trên đất chuyên
rau và lúa, rau màu trên đất thuốc lào...........Error: Reference source not found
Bảng 3.5. Mức phân bón của các cây trồng theo khuyến cáo và mức bón hiện
tại của nông hộ..............................................Error: Reference source not found
Bảng 3.6: lượng phân bón và thời gian bón phân cho cây thuốc lào của các
nông hộ......................................................... Error: Reference source not found
Bảng 3.7 : các loại thuốc BVTV trừ sâu bệnh hại thuốc lào các nông hộ
thường dùng..................................................Error: Reference source not found
Bảng 3.8 bảng thống kê vấn đề sức khỏe nông hộ của 30 hộ được điều tra
...................................................................... Error: Reference source not found

vi


DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1. Cấu trúc phân tử nicotin...............Error: Reference source not found
Hình 1.2. Cấu tạo phân tử của Nicotin........Error: Reference source not found
Hình 1.3. ảnh hưởng của nicotin đến các cơ quan trong cơ thểError: Reference
source not found
Hình 3. 1: Sơ đồ vị trí xã Quảng Thạch trong huyện Quảng Xương.........Error:
Reference source not found
Hình 3.2 : thân thuốc lào được nhổ và phơi ngay tại đồng ruộng sau thu hoạch
...................................................................... Error: Reference source not found
Hình 3.3 : sống lá thuốc được tách khỏi lá bằng công cụ sợi cước đơn giản

...................................................................... Error: Reference source not found
Hình 3.4 : sống lá sau tuốt và được người dân thải bỏ ngay tại kênh, mương
gần đồng ruộng............................................. Error: Reference source not found
Hình 3.5 : thuốc lào được ủ qua đêm ngay khu vực sinh hoạt của các hộ gia
đình............................................................... Error: Reference source not found
Hình 3.6 : thuốc lào được phơi trên mên tre và hong ngoài trời nắng.......Error:
Reference source not found
Hình 3.7 : công đoạn sấy thuốc khi gặp trời mưa hay không có nắng.......Error:
Reference source not found

vii


viii


MỞ ĐẦU
Đặt vấn đề
Quảng Thạch là môt xã nông nghiệp thuộc huyện quảng xương tỉnh
Thanh Hóa. Với hệ sinh thái đa dạng. Một xã thuộc bãi ngang ven biển, ngoài
việc khai thác nuôi trồng thủy sản. Nơi đây đẩy mạnh hoạt động sản xuất
nông nghiệp với hệ thống cây trồng phong phú , các cây trông ngắn ngày, dài
ngày cùng với hệ thống vật nuôi ( nhỏ lẻ, quy mô hộ gia đình) .khiến nơi đây
trở thành một xã có hệ sinh thái nông nghiệp điển hình. . Mặt khác nơi này
nổi tiếng với chân đất trồng thuốc lào, một loại cây mang lại nguồn thu nhập
cao và được coi là cây trồng chủ lực trong hoạt động sản xuất nông nghiệp
của người dân nơi đây mặc dù yêu cầu nhiều công chăm sóc và cần cung cấp
lượng chất dinh dưỡng từ bên ngoài lớn hơn so với các loại cây trồng
khác.Tuy nhiên đi cùng với sự phát triển kinh tế xã hội, với nhu cầu ngày
càng cao trong việc nâng cao thu nhập và gia tăng sản xuất, con người đặt lợi

ích kinh tế lên hàng đầu đã làm mọi cách khai thác quá mức khả năng sản
xuất của hệ sinh, chính điều này làm cho hệ sinh thái nơi đây mất đi sự đa
dạng và xuất hiện những hiện tương tiêu cực. Mặc dù hóa chất bảo vệ thực
vật cũng như các loại phân bón được sử dụng ngày càng nhiều, với đa dạng
các chủng loại nhưng lương sâu bọ vẫn không thuyên giảm, có dấu hiệu
kháng thuốc, hơn nữa chất lượng đất cũng mất dần tính phì nhiêu, bạc màu
thậm chí chai cứng, nứt nẻ khô cằn... do quá phụ thuộc vào phân bón hóa học
và khai thác khả năng sản xuất của đất quá mức mà quên trả lại nguồn dinh
dưỡng cũng như tàn dư thực vật sau mỗi vụ thu hoạch... điều đó làm mất dần
đi sự cân bằng vật chất. cùng với sự tác động của con người tới môi trường
và môi trường cũng tác động lại đối với con người theo như những gì mà con
người đã tác động đến nó.
Xuất phát từ điều đó tôi tiến hành thực hiện đề tài nghiên cứu: “ Đánh
giá ảnh hưởng của hoạt động sản xuất thuốc lào đến môi trường tại xã
Quảng Thạch, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa”

1


Mục đích và yêu cầu của nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Đề tài tiến hành nghiên cứu về hoạt động sản xuất thuốc lào tại xã
Quảng Thạch và đánh giá các ảnh hưởng của sản xuất thuốc lào tới môi
trường và con người
Yêu cầu của đề tài
- Tìm hiểu hoạt động sản xuất cây thuốc lào tại địa phương
- Tìm hiểu tác động của việc trông cây thuốc lào đến môi trường và con
người ở xã Quảng Thạch, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa

Chương 2

. TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1 Các khái niệm liên quan
 Khái niệm về ảnh hưởng:
Ảnh hưởng là một danh từ chỉ sự tác động ( từ người, sự vật hoặc hiện
tượng) có thể làm dần dần có những biến đổi nhất định trong tư tưởng, hành
vi, hoặc trong quá trình phát triển ở một sự vật hoặc người nào đó.
 Khái niệm về hoạt động sản xuất.
2


Là hoạt động chủ yếu trong các hoạt động kinh tế của con người. sản
xuất là quá trình làm ra sản phẩm để sử dụng, hay để trao đổi trong thương
mại.
 Khái niệm về thuốc lào.
Thuốc lào là một loài thực vật thuộc chi thuốc lá (Nicotiana). Loài này
có hàm lượng nicotin rất cao. Lá của nó ngoài việc dùng để hút còn sử dụng
rộng rãi trong việc sản xuất các thuốc trừ dịch hại hữu cơ. Thuốc lào có hàm
lượng nicotine khoảng 9%, cao hơn nhiều so với thuốc lá thông thường
(khoảng 1-3%), (Đào Duy Anh 2002)
 Khái niệm về môi trường.
Môi trường là tổng hợp các yếu tố vật chất tự nhiên và nhân tạo có tác
động đối với sự tồn tại, phát triển của con người và sinh vật. theo ( luật bảo vệ
môi trường 2014)
1.2 Giới thiệu chung về cây thuốc lào.
1.2.1 Đặc điểm thực vật học của thuốc lào
Cây thuốc lào còn có tên khoa học là Nicotianarustical, họ cà
Solanaceae. Cây thân thảo mọc hàng năm, cao chừng 1m, thấp hơn cây thuốc
lá. Toàn cây có lông dính, lá mọc sole, có cuống dầy, phiến lá hình trứng đầu
nhọn. to và dầy hơn lá của cây thuốc lá. Cụm hoa là một cờ ở ngọn thân hay
cành, cánh hoa màu vàng hay lục sẫm đính liền nhau thành ống ở dưới, phía

trên chia 5 thùy, tròn, ngắn quả mang hình trứng hoặc gần hình cầu có đài còn
lại bọc ở ngoài, chứa nhiều hạt nhỏ màu đen
 Rễ thuốc lào
Rễ thuốc lào là một hệ thống bao gồm: rễ cái( rễ trụ), rễ nhánh ( rễ
bên), rễ hấp thụ. ngoài ra thuốc lào còn có rễ bất định nằm ở cổ rễ, phần sát
mặt đất.
Rễ thuốc lào là cơ quan tổng hợp nicotin. Nicotin được vận chuyển từ dễ và
tích tụ trên thân, lá thuốc lào.
 Thân cây
Thuốc lào trồng có dạng thân đứng, tiết diện thân tròn, chiều cao thân
cây đạt trung bình khoảng 1m, chia làm nhiều đốt, mỗi đốt mạng 1 lá. Đường
kính thân đạt từ 2-4 cm, nách lá trên thân có chồi sinh trưởng gọi là chồi nách
 Lá cây
3


Trên thân chính của cây thuốc lào có nhiều lá, lá thuốc lào có hình dạng
chính là hình mũi mác. Độ dày, màu sắc lá có thể thay đổi
Lớp ngoài của biểu bì có tầng cutin trong suốt và có lớp phấn sáp khi bắt đầu
chín kỹ thuật. lớp tế bào mô dậu và tế bào mô khuyết trong cấu trúc là quyết
định độ dày, mỏng, độ đàn hồi của lá thuốc lào.
ở trên măt lá có nhiều tuyến lông đa bào, có hình dạng, kích thước khác nhau.
Các tuyến này chưa nhựa, hợp chất thơm tự nhiên và được tích lũy nhiều khi
lá chín kỹ thuật. trên mặt lá có gân chính và nhiều gân phụ.
 Hoa thuốc lào.
Hoa thuốc lào là hoa đơn, lưỡng tính, có 5 cánh. Nhị cái ở giữa, xung
quanh có 5 nhị đực thường moc cao hơn nhị cái, thuộc loại hoa tự hữu hạn,
được hình thành do sự phân hóa của đỉnh sinh trưởng thân. Chính gữa chùm
hoa có hoa trung tâm và các nhành hoa mọc từ trục chính của chum hoa.
Phương thức thụ phấn của thuốc lào là tự phối (97-98%), còn lại có thể là thụ

phấn chéo do gió hoặc côn trùng…
 Quả và hạt thuốc lào.
Quả thuốc lào được hình thành trên đài hoa. Mỗi cây có 100 đến 150
quả trên mỗi chum hoa, mỗi quả có 2 ngăn, khi chin nó thường tách ra
Hạt thuốc lào rất nhỏ, khối lượng 1000 hạt sấy lò là 0,07 – 0,1 gam,
trong mỗi gam hạt có từ 10.000 – 15.000 hạt.
1.2.2 Nguồn gốc và phân bố
Cây thuốc lào được phát hiện đầu tiên vào năm 1492 bởi đoàn thám
hiểm của Christophe Columbus và thủy thủ đoàn tại Châu Mỹ. Cây thuốc
lào được trồng lần đầu tiên ở Bồ Đào Nha và được trồng ở Cu Ba năm 1580
sau đó nhanh chóng mở rộng ra các nước châu Mỹ. Thuốc lào được đưa vào
châu Âu, Á, Phi vào nửa cuối thế kỷ XVI (Bandner et al., 1987). Tuy nhiên,
lịch sử xuất hiện cây thuốc lào ở Việt Nam còn có một số tài liệu khác nhau.
Cây thuốc lào có tên khoa học là Nicotiana tabacum L (Trần Đăng
Kiên, 2011), có nguồn gốc ở Nam và Bắc châu Mỹ, Mexico vào khoảng
10.000 năm trước đây. Sau này thuốc lào được trồng và sử dụng rộng rãi, phổ
biến ở hầu hết các quốc gia trên thế giới như Mỹ, Ấn Độ, Trung Quốc,
Philipin, Malaysia, các quốc gia châu Phi, các quốc gia theo đạo hồi như Thổ
Nhĩ Kỳ, Iran, Irắc… (Đào Duy Anh, 2002). Thuốc lào được trồng ở Việt Nam
4


từ năm Canh Tí, tức niên hiệu Vĩnh Thọ thứ 3 (1660) đời vua Lê Thần Tông.
Theo Vân Đài loại ngữ của Lê Quý Đôn, cây thuốc lào được gọi là “Tương tư
thảo”, cây thuốc lào có lẽ được nhập từ Lào (Ai Lao) vào Việt Nam nên mới
gọi là thuốc lào (Nguyễn Văn Biếu, 2005). Theo Viện Sử học (1998), trong
sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi năm 1438 đã ghi rằng: “Tại Thuận Hóa, một
vùng đất đen, mầu mỡ, hợp với trồng thuốc hút và thứ tiêu hạt to, ruộng thì
vào hạng trung bình. Điện Bàn có Trĩ Vàng. Sa Bôi có Chè Lưỡi Chim Sẻ.
Hải Lăng có Thỏ Lông Trắng. Thuốc hút là thứ cây lá cuộn vào giấy rồi châm

lửa hút” Một số thông tin khác cho rằng tại Trung Quốc, ngay giáp với phía
Bắc nước ta, người ta đã tìm thấy dấu tích thuốc lào trong một số ngôi mộ đã
có tuổi cách đây trên 2000 năm. Lịch sử Việt Nam lại có tới trên 1000 năm
Bắc thuộc, có thể những giao lưu văn hóa đã đem thuốc lào tới Việt Nam
nhưng đáng tiếc là cho đến nay, chưa tìm được các dẫn liệu lịch sử minh
chứng cho điều này. Ngay cả những dẫn liệu về lịch sử thuốc lào tại Trung
Quốc cũng chưa được thế giới chấp nhận (Nguyễn Văn Biếu, 2005). Tóm lại,
có nhiều thông tin về nguồn gốc thuốc lào trồng ở nước ta, song quan điểm
thuốc lào được trồng ở Việt Nam từ năm Canh Tí (1660) đời vua Lê Thần
Tông theo Vân Đài loại ngữ của Lê Quý Đôn được nhiều nhà nghiên cứu
trích dẫn và coi là thời điểm bắt đầu trồng cây thuốc lào đầu tiên ở nước ta.
1.2.3 Giá trị kinh tế của cây thuốc lào
Thuốc lào là sản phẩm mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người sản
xuất. đặc biệt Thuốc lào Vĩnh Bảo, Tiên Lãng (Hải Phòng), Quảng Xương
(Thanh Hóa) được cả nước biết đến do chất lượng đặc thù nổi tiếng của sản
phẩm ở từng vùng. Năng suất thuốc lào trung bình dao động từ 8 đến 10
tạ/ha . Với giá thương phẩm hiện nay, thấp nhất 100.000đ/kg( với thuốc lào
chất lượng kém về sợi, màu , độ ngon) , cao nhất là 500.000 đ/kg (với thuốc
lào đạt ngon, sợi đẹp) tùy từng thời điểm và mùa vụ. với giá trung bình
khoảng 250.000đ/kg thì 1 ha thuốc lào trong vòng 4 tháng cho thu nhập bình
quân 225.000.000đ/ha ( chưa trừ chi phí sản xuất). Đây là hiệu quả kinh tế rất
cao trong sản xuất nông nghiệp hiện nay.
5


1.3 Tình hình sản xuất và tiêu thụ thuốc lào trên thế giới và Việt Nam
1.3.1 Tình hình sản xuất và tiêu thụ thuốc lào trên thế giới
Thuốc lào là cách gọi truyền thống có từ lâu ở nước ta và đây là cách
sử dụng khói thuốc một cách rất riêng biệt: qua điếu cày, điếu bát (và đôi khi
qua vấn sâu kèn tự tạo khi không có điếu) hay ăn trực tiếp trong tục ăn trầu.

Thuốc lá mới chỉ xuất hiện khoảng 200 năm nay nhờ những tiến bộ về công
nghệ cuốn điếu, phối chế và nhờ đó, thói quen hút thuốc lá điếu đã nhanh
chóng phổ biến khắp thế giới và giành được một phần người hút thuốc lào
trước đây Thói quen hút thuốc lào không phải chỉ có riêng ở Việt Nam mà có
ở khá nhiều nước trên thế giới. Theo Vân đài loại ngữ (Trần Văn Giáp, 2006),
năm Mậu Dần, đời vua Càn Long (1758) Trung Quốc, sách Bản thảo tòng tân,
liệt thuốc hút vào các loại cỏ độc: “tính nó cay, nóng, trị các chứng phong
hàn, tê thấp, trệ khí, đọng đờm, sơn lam chướng khí. Khói thuốc vào mồm
không theo thường độ, một lúc nó chạy khắp người, làm cho khắp các cơ thể
trong người đều thông khoái, thay được cả rượu, chè, cả đời không chán. Cho
nên người ta gọi thuốc hút là Tương tư thảo”. Như vậy, thuốc lào đã được sử
dụng phổ biến ở Trung Quốc vào thế kỷ XVIII.
Hiện nay, do cách sơ chế đơn giản, sản xuất nhỏ theo kiểu tự cung tự
cấp nên hầu như không có thống kê riêng cho thuốc lào. Mặt khác, tên gọi
thuốc lào hay tên các loại điếu hút lại thường gắn với tên địa phương nên rất
khó có thông tin chung (Nguyễn Văn Biếu, 2005).
Thuốc lào ngày nay thường được xếp vào nhóm thuốc lá đen phơi
nắng cùng nhóm với xì gà và chiếm 1/2 sản lượng thuốc lá toàn thế giới
(khoảng 1,4 triệu tấn/năm) và trong số này, chỉ có 20% được trao đổi buôn
bán trên thế giới. Thuốc lào được trồng ở rất nhiều nước với đặc trưng sản
phẩm là hàm lượng nicotin khá cao (5-8%), hàm lượng đường rất thấp (<3%),
hàm lượng protein cao (16-18%) và do vậy, lượng phân bón sử dụng rất cao
(cả phân chuồng và phân hóa học), bón nhiều lần và thậm chí bón liên tục đến
trước khi thu hoạch (Nguyễn Văn Biếu, 2005). Như vậy, thuốc lào được trồng
và sản phẩm thuốc lào đã được tiêu dùng từ rất lâu ở các châu lục và cách sử
6


dụng cũng như dụng cụ để hút thuốc cũng khác nhau. Các tài liệu cũng như
các công trình nghiên cứu về thuốc lào trên thế giới còn rất hạn chế nên công

tác nghiên cứu trên cây thuốc lào còn gặp nhiều khó khan.
1.3.2 Tình hình sản xuất và tiêu thụ thuốc lào ở việt nam
1.3.2.1 Tình hình sản xuất thuốc lào tại việt nam
Ở Việt Nam, thuốc lào được trồng vùng đồng bằng, trung du Bắc Bộ
đến Đèo Ngang (tỉnh Quảng Bình) và các dân tộc thiểu số từ miền núi phía
bắc đến miền tây Quảng Bình, Nghệ An, nhưng tập trung tại một số
tỉnh/thành như: Hải Phòng, Thái Bình, Thanh Hoá, Bắc Ninh. Ngoài ra, thuốc
lào còn được trồng rải rác trên diện tích nhỏ, không ổn định và mang tính tự
cung tự cấp ở nhiều vùng khác. Mục tiêu trồng thuốc lào để hút là chính,
ngoài ra còn dùng ăn cùng ăn trầu
- Diện tích, sản lượng trồng thuốc lào tại Việt Nam hiện nay: diện tích
trồng thuốc lào ở nước ta khoảng 4000 ha; trong đó Hải Phòng là địa phương
có diện tích trồng lớn nhất (2300 ha); Thanh Hóa, 900ha; Thái Bình 500ha;
Bắc Ninh 300ha và một số diện tích nhỏ lẻ ở các địa phương khác. Năng suất
thuốc lào phụ thuộc vào giống, kỹ thuật canh tác, đất trồng của từng địa
phương. Ở các vùng trồng Hải Phòng, năng suất thuốc lào thương phẩm đạt
khoảng 10-12 tạ/ha; trong khi đó ở Quảng Xương – Thanh Hóa dao động
trong khoảng từ 8-10 tạ/ha. và cũng có một vài chân đất ở Hải Phòng, năng
suất chỉ đạt khoảng 6-9 tạ/ha song chất lượng thuốc được đánh giá rất cao.
Bảng 1.1. Diện tích thuốc lào tại Việt Nam (ha)
STT
1
2
3
4
5

Năm
2010
2011

2012
2013
2014

Hải Phòng
2096
2150
2245
2250
2310

Thanh Hóa
610
680
795
850
898

Thái Bình
470
462
485
492
495

Bắc Ninh
301
295
298
302

299

Nơi khác
250
201
245
210
205

Nguồn: Cục Thống kê Hải Phòng (2013, 2014, 2015); Sở Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn các tỉnh: Thanh Hoá, Bắc Ninh, Thái Bình (2015)

Bảng1.2. Sản lượng thuốc lào tại Việt Nam (tấn)
stt Năm

Hải

Thanh

Thái
7

Bắc

Nơi

Tổng


1

2
3
4
5

2010
2011
2012
2013
2014

phòng

Hóa

Bình

Ninh

khác

1886

488

376

211

175


3136

2150

612

416

207

141

3526

2694

795

436

238

221

4384

2475

850


492

272

168

4257

2541

809

446

239

144

4179

Nguồn: Cục Thống kê Hải Phòng (2013, 2014, 2015); Sở Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn các tỉnh: Thanh Hoá, Bắc Ninh, Thái Bình (2015)

Sản lượng thuốc lào toàn quốc hiện nay khoảng 4179 tấn trong đó: Hải
Phòng2541 tấn; Thanh Hóa 809 tấn; Thái Bình 446 tấn; Bắc Ninh 239 tấn...
-Hiệu quả kinh tế thuốc lào có thời gian sinh trưởng từ 160-180 ngày, trong
quá trình cây sinh trưởng phát triển, nông dân tốn rất nhiều công chăm sóc và
lượng phân bón cho cây cũng cao hơn các cây trồng khác. Sau khi thu hoạch,
phải tiến hành sơ chế, thái, phơi... rất công phu mới thành sản phẩm

thương phẩm trên thị trường. Tuy nhiên, giá bán của thuốc lào cũng cao hơn
các loại cây trồng khác và ổn định.
Hiện nay, bình quân giá thuốc lào có chất lượng trung bình là
150.000đ/kg; thuốc lào ngon lên tới 300.000 – 400.000 đ/kg có vụ lên tới
450.000 -500.000đ/kg. Nếu tính bình quân 1 sào Bắc Bộ thu được từ 40-50 kg
thuốc lào thương phẩm thì tổng doanh thu 1 sào đạt 12.000.00015.000.000đ/sào, Đây là khoản thu nhập rất cao so với các cây trồng khác.
Vì vậy, mặc dù trồng thuốc lào rất vất vả song diện tích thuốc lào vẫn ổn
định và có chiều hướng tăng lên trong những năm gần đây do sản phẩm có thể
bảo quản lâu dài; có thị trường đầu ra ổn định.
1.3.2.2 Tình hình sử dụng, tiêu thụ thuốc lào ở Việt Nam
Ở Việt Nam, thuốc lào được sử dụng hút từ năm 1660. Do thấy tác hại
của hút thuốc lào, đến thế kỷ thứ XVIII, Vua Lê Huyền Tông đã hai lần ra
lệnh cấm hút thuốc, song rồi phải bãi bỏ (Trần Văn Giáp, 2006).
Từ đó đến nay, thuốc lào đã là sản phẩm truyền thống mang đậm nét bản sắc
văn hóa dân tộc. Nó đã đi vào trong ca dao tục ngữ của người dân ta hàng đời
đời nay, nhất là người dân vùng đồng bằng Bắc Bộ .
“nhớ ai như nhớ thuốc lào
8


Đã chôn điếu xuống lại đào điếu lên”….
Hiện nay, thuốc lào có thị trường tiêu thụ rộng khắp trên cả nước, và
đối tượng hút thuốc lào đa dạng, không phân biệt trình độ, nghề nghiệp, giới
tính, tuổi tác, vùng miền... vì thế , hàng trăm năm nay diện tích trồng thuốc
lào ở Thanh Hóa nói riêng và cả nước nói chung không gảm. Cây thuốc lào đã
và đang là cây trồng mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người dân địa phương.
Góp 1 phần đắc lực trong đảm bảo an sinh xã hội. Thuốc lào tiêu thụ thường
qua kênh bán trực tiếp cho người thu gom, một số ít bán lẽ cho người tiêu
dùng. Chủ yếu
được tiêu thụ qua hai kênh như vậy nên người dân thường bị ép giá cả từ lái

buôn.
1.4 Tình hình nghiên cứu về cây thuốc lào trên thế giới và Việt Nam
Thuốc lào và thuốc lá cùng loài N. tabacum. L, sản phẩm thu hoạch là
sợi sấy khô với mục đích sử dụng cho việc hút. Vì vậy, chất lượng của thuốc
lào và thuốc lá được đánh giá như nhau, chỉ khác nhau ở độ nặng nhẹ tức hàm
lượng nicotin cao hay thấp. Hiện nay các nghiên cứu về chất lượng thuốc lá
và các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng thuốc lá được nhiều công trình
nghiên cứu đề cập, nhưng chất lượng đặc thù của thuốc lào thì rất ít công trình
nghiên cứu. Vì vậy trong phần này, ngoài những nghiên cứu về thuốc lào
chúng tôi tổng hợp một số nghiên cứu về chất lượng thuốc lá và các yếu tố
ảnh hưởng đến chất lượng thuốc lá trong nước và thế giới có liên quan trực
tiếp đến nội dung nghiên cứu để làm cơ sở cho việc đánh giá ảnh hưởng của
hoạt đông sản xuất thuốc lào đến môi trường và sức khỏe cộng đồng trong nội
dung khóa luận.
1.4.1 Trên Thế Giới
Thuốc lào là cây trồng bản địa nên các nghiên cứu của thế giới trên cây
thuốc lào là hầu như không có và tôi chỉ tổng hợp một số nghiên cứu liên
quan đến đất trồng, phân bón, dinh dưỡng, bấm ngọn, tỉa chồi… trên cây
thuốc lá có liên quan đến nội dung khóa luận.

9


Theo Hawks (1970) thì mỗi giống thuốc lá có nhu cầu dinh dưỡng
khoáng khác nhau; có một tương quan nhất định giữa lượng chất khoáng hút
và năng suất của thuốc lá. Lá từ đỉnh sinh trưởng khá nhạy cảm với dinh
dưỡng N, đó là bộ phận phân chia tế bào mạnh mẽ của lá, do vậy đây là giai
đoạn nguyên tố N ảnh hưởng lớn nhất đến diện tích cuối cùng của lá.
Akehurst (1991), cho rằng N là nguyên tố dinh dưỡng quan trọng nhất
trong quá trình sinh trưởng, phát triển của cây thuốc lá. Do vậy N ảnh hưởng

lớn đến thành phần hóa học của các chất có trong lá.
Cũng với thuốc lá, Zhao et al. (2005), Li et al. (2008), khi nghiên cứu
về ảnh hưởng của N và K với chất lượng thuốc lá cho rằng: hàm lượng N và
K, chlorophyl giảm theo quá trình già hóa của lá thuốc, trong lúc đó ABA lại
tăng. Việc bón phân N, K có thể làm tăng dinh dưỡng N và K, tăng diệp lục
dẫn đến làm chậm quá trình già hóa của lá.Với P, cây thuốc lá còn nhỏ hút P
chủ yếu từ phân bón, khi cây trưởng thành lượng hấp thu của cây chủ yếu từ
nguồn sẵn có trong đất (Mc Daniel, 1996). Hiệu quả sử dụng phân lân của cây
thuốc lá từ 15-68%.
Theo kết quả nghiên cứu của Tesenderlo group (2005), cho rằng cây
thuốc lá cần nhiều kali và phân K2SO4 là loại phân tốt nhất để cung cấp kali
cho thuốc lá. Zhao Ping và cộng sự cho rằng K có ảnh hưởng đến sự thay đổi
của hormon nội sinh và hàm lượng chlorophyl trong lá. Đôi khi triệu chứng
thiếu Magiê gây ra do bón nhiều K hay Ca (Man et al, 2009).
Theo Robert (2001): Nhu cầu dinh dưỡng trong từng giai đoạn sinh
trưởng và phát triển cũng có sự khác nhau đáng kể. Sau 20 ngày trồng cây bắt
đầu hút mạnh đạm và ka li, mạnh nhất là sau 40 ngày trồng. Sau ngày thứ 50,
nhu cầu đạm và kali sẽ giảm. Theo Crafts-Bandner et al. (1987), đối với
thuốc lá vàng sấy nên bón đạm sớm và kết thúc trước 5 tuần sau trồng để đảm
bảo năng suất và chất lượng. Cũng theo Crafts-Bandner, việc tăng bón phân P
ở mức cao sẽ làm hàm lượng lân trong lá tăng cao nhưng không ảnh hưởng
đến tích lũy hydratcacbon và hàm lượng đường trong lá không bị ảnh hưởng
bởi lân (Ibiblio, 1997).
Nhóm nghiên cứu Trung Quốc, Gu et al. (2008) cho rằng, việc bón kết
hợp bón giữa phân khoáng với phân chuồng đã tăng lượng lớn số lượng vi
10


sinh vật trong đất, hệ vi sinh vật nitrat hoá trong đất cũng đa dạng hơn so với
công thức chỉ bón phân khoáng. Các kết quả trên cũng tương tự như trong báo

cáo của Li et al. (2008). Ngắt ngọn, diệt chồi là biện pháp quan trọng trong
sản xuất thuốc lá. Thực hiện biện pháp ngắt ngọn diệt chồi thuốc lá cho tăng
kích thước, năng suất và chất lượng thuốc lá (Layten et al., 1999). Tại Việt
Nam, các vùng trồng thuốc hiện nay đều áp dụng biện pháp ngắt ngọn, diệt
chồi và chủ yếu được sử dụng bằng hoá chất Accotab
1.4.2 Tình hình nghiên cứu cây thuốc lào tại Viêt Nam
1.4.2.1 Nghiên cứu chọn tạo giống và giống thuốc lào tại Việt Nam
a) Các nghiên cứu chọn tạo giống tại Việt Nam
Có rất ít các công trình nghiên cứu về thuốc lào. Gần đây thuốc lào
cũng đã được nghiên cứu về thực trạng sản xuất và tiêu dùng, nghiên cứu về
phục tráng, lai tạo giống, lai giữa các dòng thuốc lào và các giống thuốc lá, về
điều tra thành phần sâu bệnh hại, so sánh trồng hàng đôi với hàng đơn, sử
dụng phân NPK cho thuốc lào.
Kết quả nghiên cứu đề tài “Chọn tạo các dòng thuốc lào, hoàn thiện
một số biện pháp kỹ thuật chính gieo ươm, trồng trọt và bảo vệ thực vật nhằm
nâng cao năng suất và chất lượng thuốc lào” sau khi nghiên cứu chọn lọc và
lai tạo các giống thuốc lào tại Ba Vì – Hà Tây, Vĩnh Bảo - Hải Phòng đã có
kết luận: tại Vĩnh Bảo các giống RĐL1, RĐL2, RTL1, RTL2 có năng suất
chất khô cao vượt trội so với giống đối chứng địa phương. Các giống RĐL2,
RTL2 ngoài năng suất cao còn có mức độ nhiễm sâu bệnh thấp đối với các
bệnh hại chính của vùng sản xuất. Ngoài ra, kết quả đề tài còn đề xuất quy
trình kỹ thuật trồng trọt, phòng trừ tổng hợp, thu hái, sơ chế thuốc lào
(Nguyễn Văn Biếu và cộng sự, 2005).Tào Ngọc Tuấn và cộng sự (2007) đã
tiến hành đề tài “Lai tạo giống thuốc lào có năng suất cao, kháng một số bệnh
hại chính phục vụ sản xuất ở các tỉnh phía Bắc”, tại Ba Vì- Hà Tây. Kết quả
đã thu được 3 tổ hợp lai có triển vọng trong vụ Xuân 2006 tại Ba Vì là:
C.176x RĐ8, C.176x RT56, K.326xRT56 có năng suất vượt giống đối chứng
là các dòng thuốc lào đang được trồng phổ biến ở mức >10%. Các tổ hợp lai
này có mức nhiễm thấp đối với các bệnh khảm lá và héo rũ vi khuẩn . Với cây
11



thuốc lá đã chọn tạo được các dòng có khả năng kháng bệnh khảm lá do TMV
gây ra (Đỗ Đình Dũng và cộng sự, 2009)
b, Một số giống thuốc lào hiện nay ở nước ta
Các giống thuốc lào hiện đang được trồng là những giống đã có từ
trước, tên gọi các giống được trồng cũng được nông dân tự đặt tên theo từng
địa phương.
Trong thời kỳ 2001 - 2004, Viện Kinh tế Kỹ thuật Thuốc lá đã thu thập
gần 100 dòng và đã chọn lọc được 20 dòng từ 3 nhóm giống phổ biến ngoài
sản xuất. Các dòng này đều có khả năng sinh trưởng, phát triển tốt; năng suất
và chất lượng bằng hoặc cao hơn các giống đang trồng trong sản xuất. Các
dòng này cũng đã được khảo nghiệm tại xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo vụ
Xuân 2004 và cho kết quả tốt. Hiện nay, Viện đang tiếp tục chọn lọc, so sánh
và tiến hành lai tạo nhằm tạo giống thuốc lào kháng bệnh, có năng suất cao và
chất lượng tốt phục vụ sản xuất trong những năm tới (Nguyễn Văn Biếu và
cộng sự, 2005). Kết quả thí nghiệm giống trên 90 dòng được chia thành 3
nhóm giống: Ré đen, Ré trắng và nhóm Tai voi theo đặc trưng về đặc điểm
giống.
Tại Thanh Hóa và Bắc Ninh, Thái Bình giống thuốc lào do nông dân tự
đặt tên như: giống Lá Tròn, giống Lá Dài. Song thực chất giống lá dài là
giống Ré Đen, giống lá tròn thuộc nhóm giống Tai Voi.
1.4.2.2 Các kết quả nghiên cứu kỹ thuật canh tác và đánh giá phẩm chất
thuốc lá, thuốc lào.
Theo Nguyễn Mạnh Chinh và Nguyễn Đăng Nghĩa (2007), cây thuốc lá
phát triển tốt trên đất nghèo dinh dưỡng đến trung bình, có pH hơi chua (5,86,3), thành phần cơ giới nhẹ là cát pha hoặc thịt nhẹ, thịt trung bình, đất tơi
xốp, thoát nước tốt, độ mùn <2%.
Theo Đào Anh Tuyên và Nguyễn Đình Vang (2009) khi nghiên cứu
chất lượng của thuốc lá nguyên liệu tại các vùng trồng thuốc lá Việt Nam cho
rằng: Thuốc lá nguyên liệu tại vùng Gia Lai, Cao Bằng có độ màu tốt nhất,

vùng Bắc Giang kém nhất. Thuốc lá nguyên liệu vàng sấy tại các tỉnh phía
Nam có tính chất hút khá, độ nặng vừa phải; tại vùng Lạng Sơn thì hơi nhẹ,

12


vùng Thái Nguyên có độ nặng trung bình và vùng Bình Định có tính chất hút
khá hơn so với các vùng khác.
Với thuốc lào là cây trồng cạn, từ thời xưa được trồng trên các chân
vàn, vàn cao. Ở Hải Phòng đã từ nhiều năm trồng thuốc lào mang lại hiệu quả
kinh tế cao nhất, hơn nữa hệ thống thủy lợi tưới tiêu nước tốt nên diện tích
trồng thuốc lào tăng, những năm gần đây diện tích thuốc lào đạt khoảng
2.000-2.200 ha/năm. Thuốc lào được trồng ở vụ xuân không chỉ trên đất vàn,
vàn cao mà còn trồng trên đất trước trồng lúa xuân: vàn trũng và trũng. Thuốc
lào ưa thích đất đủ ẩm nhưng đất phải thoát nước tốt và không úng nước, ưa
đất chua, pH từ 5-6,5. Độ chua của đất có tác động nhất định đến năng suất và
chất lượng sản phẩm, kinh nghiệm truyền thống cho thấy những vùng trồng
thuốc lào ngon phải là đất chua, đất phèn (Dương Đức Tùng và cộng sự,
2010). Trong điều kiện ngập nước hoặc đất đủ ẩm, địa hình vàn trũng hoặc
trũng, thì tỷ lệ đạm dễ tiêu NH4+/NO3- cao hơn, đạm NH4+ nhiều hơn so với
trên đất khô hơn hoặc đất thiếu ẩm hơn ở địa hình vàn, vàn cao. Cùng tổng
lượng đạm bón, so sánh 2 dạng đạm bón cho thuốc lá, dạng NH4+ và NO3-,
năng suất thuốc lá không thay đổi nhưng hàm lượng nicotin cao hơn khi được
bón dạng NH4+ (Võ Minh Kha và Nguyễn Xuân Thành, 1994).
Với thuốc lào, theo Dương Đức Tùng và cộng sự (2010): thuốc lào ưa
thích đất có độ phì nhiêu cao, thành phần cơ giới từ trung bình đến nặng, thịt
pha sét. Là cây trồng mà sản phẩm thu hoạch là lá do vậy nhu cầu về N thuốc
lào rất lớn. N trong cây ngoài nhiệm vụ tạo nên các hợp chất như protein, các
peptit, axit amin… còn cần để tạo nicotine. Đất thích hợp cho thuốc lào khi
hàm lượng N trong đất xếp loại trung bình giàu, từ 0,1-0,25%, tương ứng hàm

lượng chất hữu cơ trong đất từ 1,8%-2,5%. Hàm lượng nicotin trong lá thuốc
tăng khi liều lượng N bón tăng. Cùng tổng lượng đạm bón, so sánh 2 dạng
đạm bón cho thuốc lá, dạng NH4+ và NO3-, năng suất thuốc lá không thay
đổi nhưng hàm lượng nicotin cao hơn khi được bón dạng NH4+.
Cây thuốc lào, thuốc lá với sản phẩm thu hoạch là lá; cây thuốc có bộ lá
dày, lớn nên nhu cầu dinh dưỡng cao. Vì vậy việc bón phân đủ và cân đối cho
cây thuốc là hết sức quan trọng.Phân bón là yếu tố quan trọng quyết định đến
13


năng suất và chất lượng thuốc lá (Trần Đăng Kiên và Hoàng Tự Lập, 2001).
Theo Võ Minh Kha và Nguyễn Xuân Thành (1994), Nguyễn Kim Vũ (1994),
Phạm Văn Toản và cộng sự (2005) thì bón phân hữu cơ vi sinh vật có thể thay
thế được 20-30 kg N và góp phần tăng năng suất cây trồng.
Theo Chu Thị Thơm và cộng sự (2006), tùy theo từng vùng trồng và chủng
loại thuốc lá xác định lượng bón phân như sau: Vùng thuốc lá phía Bắc bón
6070kgN, 60-90kg P2O5, 120-160 kg K2O; vùng trồng thuốc lá trung du Bắc
bộ bón 60-80kgN, 80-120kg P2O5, 120-200 kg K2O. Nguyễn Tiết và Phạm
Hoài Hiệp (2001) khi nghiên cứu chế độ bón phân thích hợp cho thuốc lá
vàng sấy tại Tây Ninh cho thấy: vùng đất xám Tây Ninh với đặc điểm đất cát
đến cát pha, độ phì thấp có thể chia thành 2 nhóm đất, đất đồng và đất ruộng.
Đất đồng nên sử dụng công thức phân bón 80kgN, 100kg P2O5, 250 kg K2O.
Nguyễn Thế Bình và Nguyễn Xuân Thành (2009) cho rằng bón kết hợp phân
hữu cơ vi sinh Sông Gianh đã làm tăng quá trình sinh trưởng, phát triển của
cây thuốc lá, tăng năng suất từ 11,3-13,2% khi bón phân ở công thức: 1 tấn
phân vi sinh Sông Gianh+50 N: 140 P2O5: 210 K2O. Đối với thuốc lào, theo
tập quán canh tác của từng địa phương, lượng phân bón cho cây thuốc lào
cũng khác nhau song bình quân hiện nay lượng phân bón cho thuốc lào: từ
10.000 kg phân chuồng, 300kg N, 80kg P2O5/ha. Lượng phân bón kali dao
động mạnh, nhiều hộ không bón kali; song nếu có bón thì lượng bón thông

thường ở huyện Tiên Lãng 65-75kg K2O/ha; một số vùng, tỉnh khác bón từ
50-60kg K2O/ha.
Trước năm 1995, phần lớn số hộ trồng thuốc lào, sản xuất cây giống
thuốc lào bằng bầu song những năm gần đây chủ yếu là gieo trực tiếp trên
luống (Nguyễn Trọng Nhưỡng và cộng sự, 2009). Theo kinh nghiệm truyền
thống, thuốc lào có chất lượng tốt “ngon” khi ruộng trồng được bón nhiều
phân chuồng và đặc biệt là phân bắc; từ năm 1995 trở về trước, bón phân bắc
cho cây thuốc lào là phổ biến tại các vùng trồng thuốc, song những năm gần
đây, ruộng thuốc lào chủ yếu là bón lót bằng phân xanh, phân gà, phân bò…
việc sử dụng phân bắc hầu như không còn.Tuy nhiên, với cây thuốc lá theo
Hoàng Tự Lập và Đinh Văn Năng (2005), trồng thuốc lá nguyên liệu không
14


nên sử dụng phân chuồng tươi vì nó ảnh hưởng xấu đến chất lượng thuốc lá,
do vậy đất trồng thuốc lá hiện nay có xu hướng bị thoái hoá.
1.4.3 Giới thiệu một số nghiên cứu về cây thuốc lào ở quảng xương
Thuốc lào là cây trồng truyền thống ở Quảng Xương song những
nghiên cứu chính thức về thuốc lào còn ít. Kinh nghiệm sản xuất, chế biến
thuốc lào chủ yếu được truyền miệng từ đời này qua đời khác.
Những năm gần đây, khoa học công nghệ phát triển cùng với tốc độ đô
thị hóa ngày càng cao đã tạo động lực cho việc đẩy mạnh nghiên cứu các loại
cây trồng nói chung và thuốc lào nói riêng để tăng hiệu quả kinh tế trong sản
xuất nên đã có một số đề tài nghiên cứu về cây thuốc lào
Năm 2010, nhóm tác giả Dương Dức Tùng và cộng sự đã tiến hành dự
án “Xác lập quyền chỉ dẫn địa lý Tiên Lãng cho sản phẩm thuốc lào”. Dự án
đã tiến hành điều tra về phong tục tập quán sản xuất thuốc lào tại các huyện
trên địa bàn Hải Phòng, huyện Quảng Xương - Thanh Hóa, huyện Yên Phong
- Bắc Ninh và phân tích một số chỉ tiêu về đất và nước tại các vùng trồng
thuốc tại các tỉnh thành trên để đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng

đặc thù của thuốc lào Tiên Lãng.
Kết quả nghiên cứu cho thấy địa hình đất, hàm lượng N, hàm lượng
chất hữu cơ trong đất có ảnh hưởng lớn đến chất lượng sản phẩm thuốc thông
qua ảnh hưởng hàm lượng nicotine có trong sợi thuốc. Theo đó, thuốc lào
Quảng Xương Thanh Hóa có hàm lượng nicotin cao nhất.
Kết quả nghiên cứu xác định rằng: hàm lượng nicotine trung bình của
thuốc lào Tiên Lãng là 6,45%, thuốc lào Quảng Xương 7,65 %, thuốc lào Yên
Phong 3,85%. Tỉ lệ xellulose/nicotin ở thuốc lào Yên Phong là lớn nhất (6,72)
tiếp đến là thuốc lào Tiên Lãng (3,27) và thấp nhất là thuốc lào Thanh Hóa
(2,80). Thuốc lào Tiên Lãng hút êm nhất và thuốc lào Thanh Hóa hút sốc và
nặng nhất.Theo kết quả nghiên cứu, các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng
thuốc lào nhất là đến hàm lượng nicotine bao gồm: hàm lượng N và hàm
lượng mùn trong đất, bên cạnh đó, địa hình đất cũng có ảnh hưởng rõ đến
hàm lượng nicotine và độ dịu, nóng của sản phẩm thuốc lào.

15


1.4.4 Nhận xét chung
Đối với cây thuốc lào, các nghiên cứu khoa học trên thế giới và trong
nước hiện nay đều rất hạn chế. Một số nghiên cứu về cây thuốc lào ở trong
nước mới tập trung vào phục tráng giống, sâu bệnh hại… trên cây mà chưa có
các nghiên cứu khoa học về ảnh hưởng của hoạt động sản xuất thuốc lào đên
môi trường và sức khỏe cộng đồng. Vì vậy, mặc dù thuốc lào là cây được
trồng ở nước ta từ rất lâu song kỹ thuật trồng và biện pháp sản xuất phù hợp,
an toàn cho người dân
Tại Thanh Hóa đã có tập quán sản xuất thuốc lào lâu đời, qua thời gian
các biện pháp kỹ thuật đã được cải tiến phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội
nói chung và của địa phương nói riêng. Các biện pháp kỹ thuật của nông hộ từ
trồng, thu hoạch, chế biến thuốc lào là phù hợp để đạt năng suất cao, chất

lượng tốt. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều điểm chưa hợp lý:
- Về mật độ: Với mật độ trung bình hiện nay là 24.000 cây/ha là cao,
khi cây vào giai đoạn trưởng thành, các tầng lá đan xen rất khó cho chăm sóc,
phòng trừ sâu bệnh và thu hoạch sản phẩm… - Liều lượng phân bón cho
thuốc lào rất nhiều trường hợp còn chưa hợp lý: + Phân đạm bón quá nhiều.
Do bón phân đạm làm tăng năng suất, đồng thời làm tăng độ nặng của thuốc
lào rất rõ rệt do vậy người trồng thuốc lào bón rất nhiều đạm, hiệu quả sử
dụng phân bón thấp, ngoài ra còn làm tăng sâu bệnh, nguy cơ về ô nhiễm môi
trường.
+ Bón phân kali rất cần thiết cho thuốc lào và lượng bón phân kali cần
cân đối với phân đạm. Trong sản xuất đã nhiều nơi xuất hiện triệu chứng thiếu
kali trên lá, đặc biệt ở thời kỳ sinh trưởng mạnh và sau thời kỳ này, ảnh
hưởng đến năng suất và chất lượng thuốc.
+ Phân lân được toàn bộ nông hộ trồng thuốc lào sử dụng bón cho
thuốc lào, tuy nhiên một số bón lượng không đủ và ngược lại bón nhiều.
- Phương pháp và thời kỳ bón phân
+ Nhiều hộ kéo dài đợt bón cuối cho thuốc lào ngay gần khi thu hoạch.
Bón phân cho thuốc lào nên chấm dứt trước khoảng 30 ngày đảm bảo cho lá
thuốc “chín” sinh lý tốt hơn, chất lượng tốt hơn và hiệu quả sử dụng phân bón
cao hơn.
16


×