Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

Chính sách quản lý của NHNN đối với hoạt động mua bán vàng miếng của các doanh nghiệp kinh doanh vàng ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (446.55 KB, 60 trang )

Nghiên cứu khoa học cấp cơ sở

ThS. Nguyễn Thanh Huyền

Page 1


Nghiên cứu khoa học cấp cơ sở

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở mỗi quốc gia, trong nền KTTT, sự hình thành và phát triển thị trường vàng
có vai trò quan trọng, góp phần hình thanh một thị trường tài chính hoàn chỉnh, làm gia
tăng các kênh đầu tư và kinh doanh cho các nhà đầu tư và kinh doanh tài chính….
Thực tế phát triển thị trường vàng của một số quốc gia cho thấy, để có một thị trường
vàng năng động, hiệu quả, rất cần có một cơ chế quản lý, giám sát hữu hiệu của Nhà
nước và sự tham gia của các tổ chức kinh doanh vàng.
Ở Việt Nam, những năm gần đây,cùng với sự phát triển của thị trường chứng
khoán, thị trường bất động sản, thị trường vàng ngày càng trở nên sôi động. Cùng với
sự gia tăng của số lượng nhà đầu tư và nhu cầu mua bán vàng, số lượng các sàn giao
dịch vàng cũng tăng lên đáng kể . Ngoài các giao dịch mua bán vàng dưới hình thái
vật chất, loại hình kinh doanh vàng phi vật chất, kinh doanh vàng trên tài khoản cũng
bắt đầu được triển khai. Các nghiệp vụ kinh doanh vàng cũng ngày một đa dạng hơn.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành công, hoạt động của thị trường vàng nói chung, hoạt
động kinh doanh vàng miếng của các doanh nghiệp kinh doanh vàng nói riêng vẫn còn
chứa đựng nhiều bất cập, tiềm ẩn nhiều rủi ro và gây bất ổn cho nền kinh tế xã hội.
Chất lượng vàng chưa đạt tới độ chuẩn hóa; việc giao dịch mua bán,chuyển nhượng
vàng chưa thuận tiện. Quy chế hoạt động kinh doanh vàng không nhất quán, thị trường
vàng trong nước và quốc tế chưa liên thông. Điều này do nhiều nguyên nhân, trong đó
một số nguyên nhân chính là: Cơ chế,chính sách quản lý kinh doanh vàng chậm đổi
mới, không theo kịp sự phát triển của thị trường. Cơ chế quản lý đối với một số mảng


hoạt động kinh doanh còn bị bỏ ngỏ (đặc biệt là mảng kinh doanh vàng trên tài khoản),

Xuất phát từ những lí do nêu trên, việc nghiên cứu chính sách quản lý Nhà nước
đối với hoạt động kinh doanh vàng ở Việt Nam giai đoạn hiện nay là hết sức cần thiết
và có ý nghĩa thực tiễn cấp bách. Tuy nhiên, trong đề tài nghiên cứu này, tác giả chỉ tập
trung nghiên cứu thực trạng chính sách quản lý của Ngân hàng Nhà nước đối với hoạt
ThS. Nguyễn Thanh Huyền

Page 2


Nghiên cứu khoa học cấp cơ sở
động mua bán vàng miếng của các doanh nghiệp kinh doanh vàng ở Việt Nam hiện nay
nhằm tìm ra giải pháp hoàn thiện chính sách quản lý của Ngân hàng Nhà nước đối với
hoạt động mua bán vàng miếng của các doanh nghiệp kinh doanh vàng ở Việt Nam đến
năm 2020.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
2.1.1. Mục tiêu chung
Qua nghiên cứu đề tài đưa ra được những luận cứ khoa học (bao gồm cả lí luận,
thực tiễn) để đánh giá thực trạng chính sách quản lý của Ngân hàng Nhà nước đối với
hoạt động mua bán vàng miếng của các công ty kinh doanh vàng ở Việt Nam giai
đoạn hiện nay đồng thời nghiên cứu hướng hoàn thiện chính sách quản lý của Ngân
hàng Nhà nước đối với hoạt động mua bán vàng miếng của các công ty kinh doanh
vàng đến năm 2020.
2.1.2. Mục tiêu cụ thể
 Về mặt lý luận: Hệ thống hóa các cơ sở lý luận về chính sách quản lý của Ngân hàng Nhà nước
đối với hoạt động mua bán vàng miếng của các doanh nghiệp kinh doanh vàng trong nền KTTT.
 Về mặt thực tiễn:


- Trên cơ sở lý luận, phân tích thực trạng chính sách quản lý của Ngân hàng Nhà
nước đối với hoạt động mua bán vàng miếng của các doanh nghiệp kinh doanh vàng ở
Việt Nam trong thời gian qua (Từ năm 2007 đến năm 2013). Từ đó làm cơ sở để đánh
giá những thành tựu và chỉ ra những điểm còn bất cập trong chính sách quản lý của
Ngân hàng Nhà nước đối với hoạt động mua bán vàng miếng của các doanh nghiệp
kinh doanh vàng trong giai đoạn hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện chính sách quản lý của Ngân
hàng Nhà nước đối với hoạt động mua bán vàng miếng của các doanh nghiệp kinh
doanh vàng ở Việt Nam đến năm 2020.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
ThS. Nguyễn Thanh Huyền

Page 3


Nghiên cứu khoa học cấp cơ sở
Đối tượng nghiên cứu của đề tài tập trung vào chính sách quản lý của Ngân
hàng Nhà nước đối với hoạt động mua bán vàng miếng của các doanh nghiệp kinh
doanh vàng.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
 Không gian nghiên cứu: Đề tài tiến hành khảo sát thực trạng chính sách quản lý của Ngân
hàng Nhà nước đối với hoạt động mua bán vàng miếng của các doanh nghiệp kinh doanh vàng ở Việt
Nam.
 Thời gian nghiên cứu:
+ Thời gian khảo sát thực tế: từ năm 2007 đến năm 03/2014.

+ Thời gian ứng dụng đề xuất giải pháp: đến năm 2020.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, tác giả dự kiến sử dụng phương pháp nghiên cứu thống kê,

tổng hợp, so sánh, phân tích: khảo sát hoạt động kinh doanh vàng miếng trong nước và
quốc tế để phân tích, đánh giá, so sánh, tham chiếu; đánh giá chính sách quản lý hoạt
động mua bán vàng miếng của NHNN đối với các doanh nghiệp kinh doanh vàng
nhằm rút ra các giải pháp hoàn thiện chính sách.
5. Kết cấu đề tài
Ngoài lời mở đầu và kết luận, đề tài được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Một số lý luận về chính sách quản lý của Ngân hàng Nhà nước đối
với hoạt động mua bán vàng miếng của các doanh nghiệp kinh doanh vàng trong nền
KTTT.
Chương 2: Thực trạng chính sách quản lý của NHNN đối với hoạt động mua
bán vàng miếng của các doanh nghiệp kinh doanh vàng ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách quản lý của NHNN đối
với hoạt động mua bán vàng miếng của các doanh nghiệp kinh doanh vàng ở Việt Nam
đến năm 2020.

ThS. Nguyễn Thanh Huyền

Page 4


Nghiên cứu khoa học cấp cơ sở

MỤC LỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ HÌNH VẼ

Tên bảng biểu, sơ đồ, hình vẽ

Trang

Biểu đồ 2.1. Giá vàng miếng giai đoạn từ 2000 đến 3/2014


27

Biểu đồ 2.2. Tỷ giá hối đoái từ 11/2012 đến 03/2014

31

ThS. Nguyễn Thanh Huyền

Page 5


Nghiên cứu khoa học cấp cơ sở

KẾT LUẬN
Thị trường vàng Việt Nam đang có những bước phát triển và hội nhập mạnh mẽ,
mở ra nhiều cơ hội mới và đa dạng hóa các công cụ đầu tư. Song kinh doanh vàng nói
chung và kinh doanh vàng miếng nói riêng luôn ẩn chứa những rủi ro khó dự báo, đòi
hỏi Nhà nước phải có chính sách quản lý phù hợp. Vì vậy, nghiên cứu kỹ, đánh giá
đúng tác động của chính sách quản lý của NHNN đối với hoạt động mua bán vàng
miếng của các doanh nghiệp kinh doanh vàng, từ đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện
chính sách quản lý Nhà nước đối với hoat động kinh doanh vàng miếng của các doanh
nghiệp đến năm 2020 để đảm bảo cho thị trường vàng Việt Nam từng bước phát triển
ổn định và bền vững, sánh vai với thị trường vàng quốc tế là một việc hết sức cần thiết.
Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu, mặc dù đã hết sức cố gắng song vì kinh
doanh vàng miếng là một lĩnh vực kinh doanh có điều kiện và rất nhạy cảm với những
biến động của nền kinh tế - xã hội; việc thu thập các thông tin, số liệu chi tiết về thị
trường vàng miếng và các hoạt động kinh doanh vàng miếng của các doanh nghiệp rất
khó khăn, thời gian nghiên cứu lại hạn chế nên đề tài chắc chắn không tránh khỏi
những hạn chế và sai sót nhất định. Tác giả rất mong nhận được sự đóng góp chân
thành của các nhà khoa học và bạn đọc để đề tài được hoàn thiện hơn.


ThS. Nguyễn Thanh Huyền

Page 6


Nghiên cứu khoa học cấp cơ sở

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đinh Nho Bảng (2001), “Đổi mới cơ chế quản lý hoạt động kinh doanh vàng ở Việt
Nam”, Đề tài nghiên cứu khoa học, ngành Ngân hàng.
2. PGS.TS. Nguyễn Thị Phương Liên (2009), “Hoạt động kinh doanh vàng của các
NHTM Việt Nam”, Đề tài nghiên cứu khoa học, Bộ giáo dục và đào tạo.
3. Đặng Thị Tường Vân (2008), “Các giải pháp phát triển kinh doanh vàng tại Việt
Nam”, Luận văn thạc sỹ kinh tế Tài chính Ngân hàng, Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ
Chí Minh.
4. Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam - Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam (2011),
Kỷ yếu hội thảo khoa học “Thị trường vàng Việt Nam - Những vấn đề đặt ra”.
5. Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam số 01/1997/QH 10 và Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam số 10/2003/QH 11.
6. Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam số 46/2010/QH 12 ngày 16/6/2010.
7. Pháp lý ngoại hối năm 2005
8. Nghị định số 174/1999/NĐ-CP ngày 9/12/1999, Nghị định của Chính Phủ về quản lý
hoạt động kinh doanh vàng.
9. Nghị định số 64/2003/NĐ-CP ngày 11/6/2003, Nghị định của Chính phủ về việc sửa
đổi, bổ sung Nghị định số 174/1999/NĐ-CP của Chính Phủ về quản lý hoạt động kinh
doanh vàng.
10. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Thông tư số 10/2003/TT-NHNN ngày 16/9/2003,
Thông tư hướng dẫn thi hành Nghị định số 174/1999/NĐ-CP ngày 9/12/1999, Nghị
định của Chính phủ về quản lý hoạt động kinh doanh vàng và Nghị định số

64/2003/NĐ-CP ngày 11/6/2003, Nghị định của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung
Nghị định số 174/1999/NĐ-CP.

ThS. Nguyễn Thanh Huyền

Page 7


Nghiên cứu khoa học cấp cơ sở
11. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Quyết định số 1703/2004/QĐ-NHNN ngày
28/12/2004, Quyết định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc sửa đổi, bổ sung
Thông tư số 10/2003/TT-NHNN ngày 16/9/2003 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước
hướng dẫn thi hành Nghị định số 174/1999/NĐ-CP ngày 9/12/1999, Nghị định của
Chính phủ về quản lý hoạt động kinh doanh vàng và Nghị định số 64/2003/NĐ-CP
ngày 11/6/2003, Nghị định của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung Nghị định số
174/1999/NĐ-CP.
12. Nghị định số 24/2012/NĐ-CP ngày 25/5/2012, Nghị định của Chính phủ về quản
lý hoạt động kinh doanh vàng thay thế Nghị định số 174/1999/NĐ-CP ngày 09 tháng
12 năm 1999 của Chính phủ về quản lý hoạt động kinh doanh vàng và Nghị định số
64/2003/NĐ-CP ngày 11 tháng 6 năm 2003 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định
số 174/1999/NĐ-CP ngày 09 tháng 12 năm 1999.
13. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Thông tư số 16/2012/TT-NHNN ngày 25/5/2012,
Thông tư hướng dẫn thi hành Nghị định số 24/2012/NĐ-CP ngày 25/5/2012, Nghị định
của Chính phủ về quản lý hoạt động kinh doanh vàng.
14. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Thông tư 06/2013/TT-NHNN ngày 12/03/2013,
Thông tư hướng dẫn hoạt động mua bán vàng miếng trên thị trường trong nước của
NHNN Việt Nam.
15. Website của: Ngân hàng Nhà nước, Thời báo kinh tế Việt Nam,….

ThS. Nguyễn Thanh Huyền


Page 8


Nghiên cứu khoa học cấp cơ sở

Chương 1
MỘT SỐ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ CỦA NGÂN HÀNG
NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG MUA BÁN VÀNG MIẾNG CỦA
CÁC DOANH NGHIỆP KINH DOANH VÀNG TRONG NỀN KTTT
1.1. Những vấn đề lý luận chung về thị trường vàng miếng và hoạt động kinh
doanh vàng miếng
1.1.1 Khái niệm, đặc điểm, cấu trúc và các chủ thể tham gia thị trường vàng
miếng
a. Khái niệm, đặcđiểm
Vàng là kim loại mềm, dễ uốn, dễ dát mỏng, màu vàng và chiếu sáng, vàng
không phản ứng với hầu hết các hóa chất, có dạng quặng hoặc hạt trong đá và trong các
mỏ bồi tích. Vàng được dùng làm 1 tiêu chuẩn tiền tệ ở nhiều nước, được sử dụng
trong các ngành nha khoa, điện tử, và trang sức.
Vàng miếng - vàng tiền tệ là vàng được dập thành miếng, có đóng chữ, số chỉ
khối lượng, chất lượng và ký mã hiệu của doanh nghiệp và tổ chức tín dụng được Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam (sau đây được gọi là Ngân hàng Nhà nước) cho phép sản
xuất hoặc vàng miếng do Ngân hàng Nhà nước tổ chức sản xuất trong từng thời kỳ
(Nghị định 24/2012/NĐ-CP).
Vàng được khai thác từ rất xa xưa, vào khoảng 4.000 năm trước công nguyên,
kể từ đó cho đến bây giờ, vàng đã và luôn chiếm một vị trí đặc biệt trong đời sống kinh
tế - xã hội. Ở bất kỳ dân tộc nào, khu vực nào,thời đại nào, con người đều sử dụng
vàng, say mê tìm kiếm vàng, chiếm đoạt và cất giữ vàng. Đây chính là đặc điểm quyết
định vai trò của vàng đối với đời sống kinh tế - xã hội của loài người. Vàng mang một
ý nghĩa biểu tượng mạnh mẽ, liên kết chặt chẽ với các giá trị cao nhất trong xã hội. Nó

biểu tượng cho quyền lực, sự giàu có, tâm huyết, hạnh phúc, tình yêu, hy vọng, lạc
quan, thông minh, công lý, cân bằng, sự hoàn hảo,… Có thể khẳng định, vàng là một
trong những giá trị đã liên kết con người với nhau không phân biệt sự khác biệt về
chủng tộc, tôn giáo và lịch sử. Do đó, một câu hỏi lớn đước đặt ra là “Tại sao vàng lại
được con người quý đến vậy? Tại sao vàng lại được sử dụng làm tiền tệ” Để trả lời cho
câu hỏi này, ta đi nghiên cứu các đặc điểm của vàng:
ThS. Nguyễn Thanh Huyền

Page 9


Nghiên cứu khoa học cấp cơ sở
(1) Vàng là một kim loại quý và tương đối hiếm
Trước hết vàng là một kim loại quý. Vẻ đẹp nội tại, sự ấm áp, giá trị tinh thần
toát ra từ vàng đã đưa vàng trở thành niềm tự hào và là kim loại ưa thích của các nhà
kim hoàn. Vàng có tính bền vững hóa học rất cao, có vẻ đẹp rực rỡ ngay cả khi nung
nóng chảy. Vàng có độ dẻo cao, rất dễ dát mỏng và kéo sợi. Vàng luôn giữ được sắc
mầu trong mọi điều kiện và chỉ cần một ít vàng người ta đã có thể dễ dàng chế tạo ra
những đồ vật đẹp trang điểm cho cuộc sống. Chính những đặc điểm đó làm cho vàng
đã hấp dẫn con người ngay từ đầu.
Vàng không chỉ là kim loại quý mà nó còn là một thứ kim loại tương đối hiếm.
Theo ước tính của Gold Field Mineral Services, tổng lượng vàng khai thác trên thế giới
từ xưa đến nay là khoảng 172.000 tấn (đến năm 2000 là 140.000 tấn và từ đó đến nay
mỗi năm tăng khoảng 2.600 tấn). Theo số liệu thống kê dến năm 2000, khai thác vàng
chủ yếu diễn ra ở các khu vực là Nam Phi (44 nghìn tấn), Liên bang Nga và các nước
thuộc Liên Xô cũ (17 nghìn tấn), Mỹ (6 nghìn tấn), Braxin (2,5 nghìn tấn) và Columbia
(2 nghìn tấn). Trữ lượng vàng đã được thăm dò còn khoảng 75 nghìn tấn. Vì vậy, nếu
so sánh với các loại tài nguyên khoáng sản khác như sắt, dầu lửa có trữ lượng lớn và
sản lượng khai thác đến hàng triệu tấn/năm thì vàng quả là một kim loại hiếm. Bên
cạnh đó, việc khai thác vàng trong trong thực tế cũng không hề dễ dàng. Hiện nay,

nguồn cung vàng chủ yếu không phải được khai thác từ các mỏ quặng mà từ việc sang
lọc đất. Ở Nam Phi, để chiết xuất được sản lượng 500 tấn vàng/năm thì phải xay
khoảng 70 triệu tấn đất.
(2) Vàng có tính chất xã hội đặc biệt vừa là hàng hóa, vừa là tiền tệ đặc biệt
- Tính chất hàng hóa của vàng:
Vàng được coi là hàng hóa vì giống như những loại hàng hóa thông thường
khác, vàng mang trong mình hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị.
+ Giá trị sử dụng: Hầu như ở tất cả các nơi, vàng được sử dụng khá giống nhau.
Nhờ vẻ đẹp rực rỡ, tính bền vững hóa học cao và những tính chất vật lý độc đáo, nên
ban đầu vàng được dùng làm đồ trang sức, mỹ nghệ và các vật dụng phục vụ nghi lễ
tôn giáo thần bí. Sau đó, do có những đặc tính ưu việt, vàng đã được ứng dụng rộng rãi
trong các ngành điêu khắc, trang trí, các ngành công nghệ cao như kỹ thuật công sự,
công nghệ điện tử thông tin, bán dẫn, công nghệ hàng không vũ trụ… Trong tổng khối
ThS. Nguyễn Thanh Huyền

Page 10


Nghiên cứu khoa học cấp cơ sở
lượng vàng hiện nay trên thế giới, người ta ước tính có khoảng 45% được dùng vào
việc chế tác đồ trang sức, 25% vàng do các ngân hàng trung ương và các tổ chức tài
chính -tiền tệ nắm giữ, 18% lượng vàng thuộc về tư nhân và các loại khác chiếm
khoảng 12%.
+ Giá trị: Giá trị của vàng là giá trị lao động kết tinh trong nó phát sinh quá trình khai
thác và sản xuất vàng. Giá trị của vàng được đo bằng thời gian lao động xã hội cần
thiết để khai thác, sản xuất ra vàng.
- Tính chất tiền tệ đặc biệt của vàng
Ngoài những giá trị không thể phủ nhận của vàng trong nghi lê tôn giáo, trong
biểu tượng quyền lực của giai cấp thống trị, trong sự ngưỡng mộ của con người với
những đồ trang sức mỹ nghệ thì trải qua nhiều thế kỷ vàng còn được sử dụng để đúc

tiền. Vậy, vì sao vàng lại trở thành tiền?
Khi lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội phát triển làm cho trao đổi
hàng hóa phát triển mạnh đòi hỏi con người phải sử dụng những hàng hóa đặcbiệt đóng
vai trò vật ngang giá chung. Khi sản xuất và thị trường ngày càng mở rộng thì tình
trạng có nhiều vật ngang giá chung càng làm cho trao đổi khó khăn, đòi hỏi phải dùng
một vật ngang giá chung duy nhất, dẫn đến xuất hiện hình thái tiền tệ. Lúc đầu, tiền là
những thứ quý, hiếm đối với con người thời đó như mũi tên, vỏ sò, lông thú, gia súc,
dần dần chỉ còn là vàng, bạc và cuối cùng là vàng.
Đầu tiên, vàng chỉ là trung gian dự trữ, nhưng qua thời gian, người ta nhận thấy
tính chất quý hiếm của vàng nên vàng được sử dụng làm phương tiện để tích lũy giá trị
của cải rất hiệu quả giữa những rủi ro thường xuyên của cuộc sống.
Theo dòng lịch sử, dù xã hội có những biến động thăng trầm như thế nào thì
vàng vẫn luôn giữ được giá trị và duy trì được thị trường riêng của mình. Mặt khác,
vàng lại còn dễ cất trữ, chưa kể những đồ cổ bằng vàng thì giá trị của nó lại còn cao
gấp nhiều lần so với giá trị của bản thân lượng vàng làm ra nó. Điều này dẫn đến việc
đến một lúc nào đó vàng sẽ được sử dụng làm đại diện của giá trị dưới góc độ là tiềnvật ngang giá chung trong trao đổi hàng hóa.
Khi thương mại lớn mạnh, người ta nhận thấy tiền phải có một số tính chất tiện
lợi tối thiểu như: Phải có giá trị thực tế, dễ sử dụng, dễ vận chuyển, dễ chia nhỏ, tồn tại
ThS. Nguyễn Thanh Huyền

Page 11


Nghiên cứu khoa học cấp cơ sở
lâu mà không hư hại. Vì vậy, ban đầu có nhiều loại hàng hóa quý hiếm đóng vai trò
tiền tệ, nhưng dần dần người ta nhận ra giá trị của vàng, vì ngoài yếu tố hiếm ra, vàng
còn có những đặc tính quý báu khác mà không có một thứ vật chất gì có thể thay thế
được khi thực hiện chức năng tiền tệ: đồng chất, dễ chia nhỏ, khó hư hỏng, giá trị cao,
dễ bảo quản, dễ vận chuyển. Có thể nói vàng có đủ các chức năng của tiền tệ: thước đo
giá trị, phương tiện lưu thông, phương tiện thanh toán, phương tiện cất trữ và tiền tệ thế

giới.
Kể từ khi được sử dụng làm tiền, vàng được coi là một loại tiền tệ đặc biệt bởi
giá trị thực của nó. Khác với các loại tiền tệ quốc gia như USD, GBP, JPY,… đang
được sử dụng rộng rãi trong thanh toán quốc tế hiện nay thường bị kiểm soát bởi
NHTW của nước phát hành ra đồng tiền đó, giá trị của những đồng tiền này chịu sự tác
động trực tiếp bởi sự tăng trưởng hay suy thoái của nền kinh tế quốc gia thì vàng là loại
tiền tệ đặc biệt bởi chúng vừa là hàng hóa, vừa là công cụ trao đổi (tiền), song chúng
không chịu sự kiểm soát hay ảnh hưởng bởi nền kinh tế cụ thể nào. Chính điều này làm
cho giá trị của vàng được đảm bảo lâu dài hơn so với các đồng tiền khác.
Vai trò tiền tệ của vàng được xem là một trong quá trình tự nhiên, là loại tiền tệ
thực đáng tin cậy của con người. Trong đời sống xã hội ngày nay, vàng không còn thực
hiện đầy đủ các chức năng của tiền tệ. Mặc dù vậy, vai trò tiền tệ của vàng không hoàn
toàn mất đi, đặc biệt là chức năng cất trữ giá trị và tiền tệ quốc tế. Vàng là một phần
quan trọng trong dự trữ quốc gia, nó được sử dụng để giải quyết các khó khăn về cán
cân thanh toán quốc tế và đối phó với khủng hoảng hay các sự cố đặc biệt như thiên tai,
chiến tranh,…
Cần chú ý thêm, không phải bất cứ hình thức vàng nào cũng có thể thực hiện
chức năng tiền tệ quốc tế. Theo hướng dẫn, trong cẩm nang thống kê tiền tệ của
IMF,chỉ có vàng đủ tiêu chuẩn quốc tế do NHTW nắm giữ mới được coi là tiền tệ,
thuộc dự trữ ngoại hối của quốc gia, còn vàng được nắm giữ bởi các tổ chức kinh tế
bao gồm cả tổ chức tín dụng, bởi cá nhân được coi là hàng hóa thông thường.
(3) Vàng là công cụ tích trữ truyền thống của con người
Lịch sử phát triển nhân loại cho thấy việc lưu giữ tiền luôn ẩn chứa những bất
trắc, rủi ro, chỉ có vàng là loại tài sản được xem là có giá trị bất biến với thời gian,

ThS. Nguyễn Thanh Huyền

Page 12



Nghiên cứu khoa học cấp cơ sở
thậm chí nó còn được sử dụng làn thước đo giá trị của những tài sản lớn khác. Vì vậy,
từ xưa cho đến nay, nhiều người vẫn thích chọn lưu giữ vàng hơn là lưu giữ tiền giấy.
(4) Vàng là một công cụ đầu tư có khả năng chống lạm phát và các bất ổn xã
hội
Có được lợi thế này là do tính chất đặc thù của vàng như một loại hàng hóa đã
đem lại cho nó một sức hấp dẫn trong vai trò là công cụ đầu tư chống lạm phát. Khi
nền kinh tế càng phát triển, chỉ số lạm phát ngày càng tăng thì vàng sẽ là công cụ đầu
tư giữ được giá trị tốt nhất.
Bên cạnh đó, trong bối cảnh tình hình chính trị bất ổn, vàng cũng là loại tài sản
tích trữ duy nhất bởi giá trị của các đồng tiền có thể thay đổi theo diễn biến chính trị,
còn vàng thì luôn giữ được giá trị trong bất cứ hoàn cảnh nào. Điều đó khiến giá vàng
luôn tăng cao khi chính trị - xã hội thế giới bất ổn, các NHTW của các quốc gia trên
thế giới đã thực hiện việc tăng dự trữ bằng vàng, dần thay thế cho việc dự trữ bằng
USD truyền thống như trước đây.
b. Cấu trúc và các chủ thể tham gia thị trường vàng miếng
Tùy theo tiêu thức phân loại khác nhau, thị trường vàng miếng sẽ được cấu trúc
thành nhiều bộ phận khác nhau.
Căn cứ vào phạm vi hoạt động, thị trường vàng miếng gồm: thị trường vàng
miếng quốc tế và thị trường vàng miếng trong nước.
Căn cứ vào tính chất pháp lý, thị trường vàng miếng gồm: thị trường có tổ chức
(thị trường tập trung/sở giao dịch, thị trường bán tập trung/thị trường OTC) và thị
trường tự do.
Căn cứ vào phương tiện thanh toán và giao nhận, thị trường vàng miếng bao
gồm: Thị trường vàng hữu hình (vàng vật chất) và thị trường “vàng ghi sổ”. Trong đó
trên thị trường vàng miếng hữu hình, vàng miếng được mua bán, chuyển nhượng. Còn
trên thị trường vàng miếng “ghi sổ” diễn ra các hoạt động mua bán các quyền về vàng
miếng hữu hình chứ không phải bản thân vàng miếng.
- Thị trường vàng hữu hình:


ThS. Nguyễn Thanh Huyền

Page 13


Nghiên cứu khoa học cấp cơ sở
Thị trường vàng miếng hữu hình chủ yếu là thị trường mua bán giao ngay,
nhưng được hỗ trợ bằng việc sử dụng các giao dịch có kỳ hạn để phòng ngừa rủi ro với
các trạng thái vàng hữu hình. Việc mua bán được thực hiện với giá được yết bởi từng
nhà giao dịch, trừ trường hợp định giá, khi các nhà giao dịch cùng thỏa thuận về mức
giá.
Chủ thể tham gia thị trường vàng miếng hữu hình là: các nhà giao dịch vàng
miếng hoạt động chấp nhận trạng thái mở (chủ yếu là các ngân hàng thương mại); Các
nhà môi giới cân bằng trạng thái này bằng các giao dịch ngược lại để lấy phí hoặc mua
và bán ăn chênh lệch giá và các ngân hàng vàng tài trợ cho các giao dịch trên. Ngoài
ra, để kết hợp toàn bộ các chức năng trên có các công ty kinh doanh vàng bạc đá quý.
Thông thường, các nhà giao dịch có xưởng tinh luyện vàng riêng hoặc đi thuê.
- Thị trường “vàng ghi sổ”
Thị trường này sử dụng các công cụ chứng từ về vàng miếng. Các bên tham gia
giao dịch mua bán không chuyển giao vàng miếng mà chỉ hạch toán trên tài khoản. Do
vậy, khi tham gia các giao dịch này, nhà đầu tư bắt buộc phải mở tài khoản giao dịch
vàng. Trường hợp mua bán qua Sở/Sàn giao dịch, nhà đầu tư phải đảm bảo các quy
định về ký quỹ ban đầu, ký quỹ bổ sung; khối lượng/quy mô giao dịch, bước giá và
đơnvị giao dịch; các loại lệnh và định chuẩn lệnh… Nhà đầu tư sẽ đặt lệnh mua/bán
qua các thành viên giao dịch của Sở. Nếu lệnh được thực hiện, Phòng/Trung tâm thanh
toán bù trừ sẽ thực hiện thanh toán cho các bên mua, bán.
Công cụ chứng từ về vàng miếng đại diện cho các trái quyền với một khối
lượng và hàm lượng vàng miếng nhất định. Các giao dịch với công cụ này thường
nhằm mục đích đầu cơ và phòng ngừa rủi ro, và hiếm khi liên quan đến việc chuyển
nhượng thực sự vàng hữu hình. Tuy nhiên, các giao dịch này là một phần của thị

trường vàng miếng, đặc biệt do vai trò công cụ đầu tư của vàng miếng. Các công cụ
của thị trường “vàng ghi sổ” gồm: Hợp đồng kỳ hạn (Gold Forward), hợp đồng quyền
chọn (Gold Option), hợp đồng tương lai (Gold Future), giấy chứng nhận vàng (Gold
Warrants), hợp đồng đòn bẩy vàng (Gold Leverage Contract) và các công cụ/chứng từ
giao ngay về vàng. Việc giao dịch các công cụ này chủ yếu nhằm mục đích đầu cơ và
phòng ngừa rủi ro, hiếm khi liên quan đến việc chuyển nhượng thực sự vàng miếng.
Theo thời gian, các giao dịch vàng ghi sổ có xu hướng ngày càng chiếm tỷ trọng lớn
ThS. Nguyễn Thanh Huyền

Page 14


Nghiên cứu khoa học cấp cơ sở
trong tổng giá trị giao dịch của thị trường vàng miếng, đặc biệt là giao dịch mang tính
đầu cơ.
Thị trường vàng miếng hữu hình và thị trường “vàng ghi sổ” có mối quan hệ
mật thiết với nhau, hỗ trợ và bổ sung cho nhau. Thị trường vàng hữu hình chủ yếu thực
hiện các nghiệp vụ mua bán giao ngay, tuy nhiên nó vẫn cần sử dụng các nghiệp vụ của
thị trường vàng “ghi sổ” để phòng ngừa rủi ro với các trạng thái vàng miếng. Có hai
điểm bất lợi trong hoạt động đầu tư và nắm giữ vàng miếng là chi phí an toàn và lưu
giữ lớn; Và khi nắm giữ vàng miếng thì vàng miếng sẽ không sinh lợi. Chính vì lí do
này mà nhiều nhà nắm giữ một số lượng vàng miếng không muốn bán vàng miếng của
mình đi mà muốn sử dụng các nghiệp vụ trên thị trường vàng “ghi sổ” để tạm thời từ
bỏ vàng của họ. Tạm thời, những người đang nắm giữ vàng miếng có thể sử dụng
nguồn vốn có được từ vàng để mua các công cụ tài chính có khả năng sinh lời. Để thực
hiện điều này, một trong những phương pháp mà họ có thể sử dụng là bán vàng miếng
trên thị trường giao ngay và sẽ mua lại vào một thời điểm trong tương lai. Đây được
đánh giá là một phương pháp tương đối mạo hiểm vì nó phụ thuộc vào giá vàng miếng
tại thời điểm trong tương lai. Vì vậy, người ta còn có thể sử dụng phương pháp thứ hai
là bán vàng miếng trên thị trường giao ngay và mua vàng kỳ hạn (giá đã được xác định

vào thời điểm trong tương lai). Phương pháp này có ưu điểm là tránh được rủi ro về giá
vàng, tuy nhiên lại có nhược điểm là nó không cho phép kiếm lợi trong trường hợp giá
sụt giảm.
Thực tế mô hình tổ chức thị trường ở nhiều nước cho thấy, thị trường vàng
miếng là một bộ phận cấu thành của thị trường hàng hóa tập trung. Hầu hết các Sàn
giao dịch hàng hóa trên thế giới hiện nay đều giao dịch nhiều loại hàng hóa khác nhau
như dầu (dầu thô, xăng, dầu cặn), nông sản (đường, cà phê, cacao), các loại kim loại
quý (vàng, bạc, bạch kim…) và các kim loại màu khác (nhôm, kẽm, thiếc, uranium…).
Một số sàn giao dịch hàng hóa nổi tiếng hiện nay trên thế giới là: Sàn giao dịch hàng
hóa Chicago, NewYork, Tokyo…
1.1.2. Hoạt động kinh doanh vàng miếng - Mô hình tổ chức và các nghiệp vụ
kinh doanh
a. Mô hình tổ chức của thị trường vàng miếng
Hiện nay, ở hầu hết các nước trên thế giới, hoạt động của thị trường vàng miếng
đều do ngân hàng trung ương trực tiếp quản lý. Hoạt động kinh doanh vàng miếng trên
ThS. Nguyễn Thanh Huyền

Page 15


Nghiên cứu khoa học cấp cơ sở
thị trường do các nhà giao dịch vàng thực hiện (gồm các NHTM và các công ty kinh
doanh vàng bạc đá quý). Trên thị trường còn có các nhà môi giới thực hiện giao dịch
để lấy phí hoặc mua bán vàng miếng để hưởng chênh lệch giá. Hoạt động kinh doanh
vàng miếng của các chủ thể hiện nay gồm có 2 mảng chính là kinh doanh vàng trên thị
trường quốc tế và kinh doanh vàng trên thị trường nội địa.
Ngoài hoạt động kinh doanh, mua bán vàng miếng trên thị trường các NHTM và
các công ty kinh doanh vàng bạc đá quý còn cung cấp các dịch vụ khác liên quan đến
giao dịch vàng miếng vừa để đa dạng hóa dịch vụ vừa nhằm hỗ trợ cho nghiệp vụ kinh
doanh vàng miếng trên trị trường. Các dịch vụ mà các ngân hàng thương mại và các

công ty kinh doanh vàng bạc đá quý được cung cấp có liên quan đến giao dịch vàng
miếng gồm: dịch vụ giữ hộ vàng, dịch vụ ngân quỹ vàng, dịch vụ tiết kiệm vàng, cho
vay vàng.
(1) Dịch vụ giữ hộ vàng: NHTM và các công ty kinh doanh vàng bạc đá quý
nhận giữ hộ vàng cho khách hàng nhằm mục đích an toàn. Đây là dịch vụ đơn giản, các
NHTM có thể sử dụng uy tín và kho quỹ an toàn của mình để cung cấp dịch vụ này cho
khách hàng và hưởng một mức phí giữ hộ vàng nhất định.
(2) Dịch vụ ngân quỹ vàng: NHTM và các công ty kinh doanh vàng bạc đá quý
nhận thu và chi vàng hộ cho khách hàng. Bằng cách tận dụng kỹ năng chuyên môn của
nhân viên ngân hàng trong việc thực hiện khâu kiểm đếm vàng và uy tín của ngân hàng
(như làm trung gian giữa các bên giao dịch, địa điểm an toàn thực hiện giao dịch vàng),
các NHTM có thể cung cấp dịch vụ này cho khách hàng với một mức phí nhất định.
(3) Dịch vụ tiết kiệm vàng: NHTM và các công ty kinh doanh vàng bạc đá quý
mở tài khoản tiết kiệm vàng cho khách hàng gửi vàng nhằm mục đích an toàn và sinh
lợi. Dịch vụ tương tự như tiền gửi tiết kiệm. Do vậy, thông qua dịch vụ này NHTM có
thêm một kênh huy động vốn bằng vàng lãi suất thấp hơn nhiều so với huy động bằng
tiền mặt, các quy định cũng gắt gao hơn, như khách hàng muốn rút vàng trước hạn sẽ
không được hưởng lãi; ngân hàng chỉ nhận loại vàng có đảm bảo về quy cách.
(4) Cho vay vàng: NHTM và các công ty kinh doanh vàng bạc đá quý sử dụng
nguồn vốn bằng vàng huy động được từ các dịch vụ giữ hộ, tiết kiệm và chuyển ngân
vàng để cung cấp tín dụng bằng vàng cho khách hàng.
Cho vay vàng được thực hiện trong một số trường hợp sau:
ThS. Nguyễn Thanh Huyền

Page 16


Nghiên cứu khoa học cấp cơ sở
- Nhà đầu tư có khoản phải thu bằng vàng trong tương lai dự đoán giá vàng
giảm nên vay vàng của ngân hàng để bán ra theo nghiệp vụ giao ngay. Khi nhận được

khoản phải thu bằng vàng sẽ trả lại ngân hàng.
- Ngân hàng cho nhà đầu tư vay vàng để thực hiện nghiệp vụ bán khống (số
vàng chênh lệch giữa khối lượng bán và tỷ lệ ký quỹ theo yêu cầu).
Mặt khác, trong các hoạt động mua/bán vàng trên tài khoản của khách hàng
(giao ngay hoặc kỳ hạn), ngân hàng và các công ty kinh doanh vàng bạc, đá quý chỉ
yêu cầu khách hàng phải ký quỹ 1 tỷ lệ nhất định, số thiếu còn lại được ngân hàng và
các công ty kinh doanh vàng bạc, đá quý cho vay. Số tiền/vàng cho vay này được đảm
bảo bằng tài sản (tiền/vàng) trên tài khoản của khách hàng.
Ngoài ra, riêng các NHTM còn được phép cung cấp thêm các dịch vụ ngân hàng
liên quan đến giao dịch vàng miếng như: dịch vụ thanh toán vàng, dịch vụ chuyển ngân
vàng.
(1) Dịch vụ thanh toán vàng: để thực hiện dịch vụ, trước hết NHTM nhận mở
tài khoản tiền gửi vàng cho khách hàng ký gửi hoặc thu vàng ghi Có vào tài khoản. Sau
đó, từ tài khoản này, NHTM có thể ghi Nợ để trích tài khoản chi trả vàng theo yêu cầu
của khách hàng. Thực chất dịch vụ này tương tự như dịch vụ thanh toán trong nước,
chỉ khác là tài khoản này là tài khoản vàng.
(2) Dịch vụ chuyển ngân vàng: NHTM thực hiện việc chuyển ngân vàng từ nơi
này sang nơi khác cho khách hàng nhằm mục tiêu di chuyển tài sản một cách an toàn,
thuận lợi và nhanh chóng. Khách hàng thực hiện mở tài khoản tiền gửi vàng tại chi
nhánh của ngân hàng nơi khách hàng chuyển đi và ký gửi lượng vàng cần chuyển vào
đó, hoặc có thể kết hợp với dịch vụ thanh toán vàng để nhập vàng từ đối tác thanh toán
trực tiếp vào tài khoản. Sau đó, khách hàng lập lệnh chuyển ngân vàng từ tài khoản của
mình vào tài khoản chỉ định của ngân hàng mở tại địa điểm đến. Với lệnh chuyển ngân
vàng, ngân hàng tiến hành ghi Nợ vào tài khoản tiền gửi vàng của khách hàng mở tại
ngân hàng nơi vàng chuyển đi và ghi Có vào tài khoản chỉ định tại ngân hàng nơi vàng
chuyển đến.

ThS. Nguyễn Thanh Huyền

Page 17



Nghiên cứu khoa học cấp cơ sở
b. Các nghiệp vụ kinh doanh trên thị trường vàng miếng
Hoạt động kinh doanh vàng miếng trên thị trường bao gồm nhiều loại khác nhau
tùy theo tiêu thức phân chia. Nếu căn cứ vào nghiệp vụ kinh doanh, hoạt động kinh
doanh vàng miếng gồm: giao dịch vàng giao ngay, giao dịch kỳ hạn, giao dịch hoán
đổi, giao dịch quyền chọn và giao dịch hợp đồng tương lai. Nếu căn cứ vào hình thái
vật chất của vàng khi thanh toán, hoạt động kinh doanh vàng miếng gồm: kinh doanh
vàng vật chất (xuất, nhập khẩu vàng, mua bán vàng trong nước) và kinh doanh vàng
trên tài khoản.
Các nghiệp vụ kinh doanh vàng vật chất
Tham hoạt động kinh doanh này các nhà giao dịch vàng miếng (chủ yếu là
cácNHTM và các công ty kinh doanh vàng bạc đá quý) đóng vai trò quan trọng trong
hoạt động xuất, nhập khẩu và mua bán vàng trong nước. Tại thị trường nội địa, các nhà
giao dịch mua vàng miếng từ khách hàng có nhu cầu bán để bán lại cho khách hàng có
nhu cầu mua và kiếm lợi từ chênh lệch giữa giá bán ra và giá mua vào. Hoạt động này
tương tự như hoạt động kinh doanh ngoại tệ tiền mặt.
Các nghiệp vụ kinh doanh vàng tài khoản
Kinh doanh vàng tài khoản là hoạt động kinh doanh vàng vô hình, diễn ra trên
tài khoản của nhà đầu tư kinh doanh vàng. Hoạt động này được thực hiện giữa các
NHTM, các công ty kinh doanh vàng bạc đá quý với khách hàng ở trong nước, hoặc
ngân hàng và các công ty kinh doanh vàng bạc, đá quý làm môi giới đại lý nhận lệnh
mua, bán vàng cho khách hàng trên thị trường nước ngoài, hoặc bản thân ngân hàng và
các công ty kinh doanh vàng bạc đá quý thực hiện kinh doanh vàng qua tài khoản trên
thị trường quốc tế. Kinh doanh vàng qua tài khoản có một số thuận lợi hơn trong giao
dịch như: nơi nào có Internet là nơi đó có giao dịch được; thị trường liên thông toàn
cầu (giao dịch 24/24 giờ trong ngày); khối lượng giao dịch lớn; sử dụng lực đòn bẩy
(nhà đầu tư thường chỉ phải ký quỹ một tỷ lệ phần trăm nhất định trên tổng giá trị giao
dịch, số còn lại do người cung cấp dịch vụ cho vay)… Do vậy, kinh doanh vàng trên tài

khoản giúp các tổ chức và cá nhân sử dụng vàng có hiệu quả, có thể phòng ngừa, kiểm
soát được rủi ro và tiết kiệm được chi phí vốn trong kinh doanh vàng, đồng thời giúp
các tổ chức tín dụng huy động có hiệu quả nguồn vốn bằng vàng trong nước, góp phần
làm giảm bớt nhu cầu kinh doanh vàng vật chất…. Tuy nhiên, nếu thiếu kiến thức,
ThS. Nguyễn Thanh Huyền

Page 18


Nghiên cứu khoa học cấp cơ sở
thiếu hệ thống pháp lý hoặc hệ thống pháp lý không đầy đủ và đồng bộ, cơ sở hạ tầng
của hệ thống giao dịch yếu kém… thì hoạt động kinh doanh này cũng có thể gây nên
những hậu quả không lường cho cả nhà đầu tư, người cung cấp dịch vụ và nền kinh tế.
Các nghiệp vụ kinh doanh vàng trên tài khoản bao gồm: hợp đồng giao ngay,
hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng quyền chọn và hợp đòng tương lai.
- Hợp đồng giao ngay vàng (Gold Spot)
Là nghiệp vụ mua bán vàng trong đó việc giao nhận vàng được thực hiện ngay
trong ngày giao dịch hoặc vào ngày thanh toán theo quy định của Sở giao dịch (T+1,
hoặc T+2, hoặc T+3). Nghiệp vụ mua bán này được thực hiện theo giá giao ngay trên
thị trường.
- Hợp đồng kỳ hạn vàng (Gold Forward)
Giao dịch vàng kỳ hạn là giao dịch mua hoặc bán vàng giữa hai bên mua - bán,
theo đó hai bên cam kết mua bán với nhau một lượng vàng nhất định, theo một mức giá
xác định tại thời điểm ký kết hợp đồng nhưng việc chuyển giao và thanh toán được tiến
hành tại một thời điểm xác định trong tương lai.
Mục đích của việc sử dụng giao dịch này là nhằm:
(i) Phòng ngừa rủi ro (do cố định được giá trị các khoản thu hoặc chi trong
tương lai nhằm tránh những tổn thất khi giá vàng biến động mạnh);
(ii) Đầu cơ kiếm lợi nhuận (thực hiện giao dịch mang tính cá cược trên giá vàng
để thu lợi nhuận dựa trên sự phán đoán về xu hướng biến động giá trong tương lai).

- Hợp đồng hoán đổi vàng (Gold Swap)
Hoán đổi vàng là cam kết mua bán vàng tại một mức giá được xác định trước,
trong đó việc mua và bán được thực hiện tại các thời điểm khác nhau. Thực chất các
giao dịch hoán đổi vàng là một nghiệp vụ kép của hai nghiệp vụ: giao ngay và kỳ hạn
hoặc kỳ hạn và kỳ hạn với cùng một lượng vàng nhưng theo hai hướng ngược nhau.
- Hợp đồng quyền chọn vàng (Gold Options): Là loại hợp đồng khác với hợp
đồng kỳ hạn ở chỗ người mua có quyền thực hiện hợp đồng chứ không phải có nghĩa
vụ thực hiện hợp đồng. Hợp đồng quyền chọn mua/bán vàng là một hợp đồng tùy
ThS. Nguyễn Thanh Huyền

Page 19


Nghiên cứu khoa học cấp cơ sở
thuộc đơn phương, với người bảo lãnh (người bán) bắt buộc phải thực hiện theo yêu
cầu của người mua hợp đồng. Nói cách khác, theo hợp đồng này, người mua quyền
chọn có quyền nhưng không bắt buộc mua hoặc bán một số lượng vàng cụ thể trong
một thời gian xác định với mức giá được ấn định ngay tại thời điểm ký kết hợp đồng,
sau khi đã trả một khoản phí (premium) cho người bán quyền chọn vào lúc ký hợp
đồng.
Có 2 loại quyền chọn:
+ Quyền chọn mua vàng (Call Option): cho phép người mua quyền chọn có
quyền mua hoặc không mua một khối lượng vàng trong một khoảng thời gian nhất
định theo mức giá đã thỏa thuận với người bán quyền.
+ Quyền chọn bán vàng (Put Option): cho phép người mua quyền chọn có
quyền bán hoặc không bán vàng trong một khoảng thời gian nhất định theo mức giá đã
thỏa thuận với người bán quyền.
Sự khác biệt cơ bản giữa hợp đồng quyền chọn với hợp đồng kỳ hạn chính là ở
tính bắt buộc của các bên tham gia hợp đồng. Đối với hợp đồng quyền chọn, tính bắt
buộc chỉ áp dụng đối với bên bán quyền chứ không bắt buộc với bên mua quyền. Song

bên mua quyền phải trả một khoản chi phí nhất định cho bên bán quyền để có được
quyền chọn trong một khoảng thời gian nhất định (đây là một khoản tiền mà người bán
quyền chọn được hưởng cho dù người mua quyền thực hiện hoặc không thực hiện hợp
đồng).
Mục đích của việc thực hiện giao dịch này là:
(i) Thỏa mãn nhu cầu phòng ngừa rủi ro biến động giá vàng (Khách hàng có nhu
cầu thanh toán bằng vàng khi dự báo giá vàng có thể tăng lên tại thời điểm thanh toán
trong tương lai thì mua hợp đồng quyền chọn mua; khách hàng có nguồn thu bằng
vàng trong tương lai, khi dự báo giá vàng xuống tại thời điểm thanh toán thì mua hợp
đồng quyền chọn bán để phòng ngừa rủi ro).
(ii) Kiếm tiền nhờ hoạt động đầu cơ dựa trên cơ sở dự đoán giá vàng.
Các kiểu hợp đồng quyền chọn để khách hàng lựa chọn:

ThS. Nguyễn Thanh Huyền

Page 20


Nghiên cứu khoa học cấp cơ sở
+ Hợp đồng quyền chọn kiểu Châu Âu: với kiểu hợp đồng này khách hàng chỉ
có thể thực hiện quyền vào ngày hết hạn hợp đồng, còn những thời gian khác nếu
muốn thanh lý hợp đồng phải bán lại cho ngân hàng.
+ Hợp đồng quyền chọn kiểu Mỹ: với kiểu hợp đồng này khách hàng có thể
thực hiện quyền trước hoặc vào ngày hết hạn hợp đồng.
- Hợp đồng tương lai vàng (Gold Futures)
Hợp đồng tương lai vàng là hợp đồng mua, hoặc bán một khối lượng vàng nào
đó tại một thời điểm xác định trong tương lai. Đây là loại hợp đồng đặc biệt được giao
dịch theo tiêu chuẩn của Sở giao dịch.
Đặc điểm của hợp đồng tương lai
+ Hoạt động mua bán được thực hiện theo các tiêu chuẩn mà Sở giao dịch quy

định.Ví dụ: loại vàng, thời gian đáo hạn, quy mô hợp đồng, mức ký quỹ,…
+ Giá vàng được hình thành theo nguyên tắc đấu giá, hoặc khớp lệnh. Giá này
không cố định như hợp đồng kỳ hạn mà thay đổi hàng ngày theo giá thị trường.
+ Việc thanh toán lỗ, lãi với nhà đầu tư được thực hiện hàng ngày căn cứ vào
quy mô hợp đồng và mức chênh lệch giá giữa giá đóng cửa ngày thanh toán với giá
khớp lệnh (nếu là ngày thanh toán lãi, lỗ đầu tiên), với giá đóng cửa ngày hôm trước
(nếu là các ngày thanh toán lãi, lỗ tiếp theo).
+ Phần lớn các hợp đồng tương lai không giao hàng mà thực hiện bằng một hợp
đồng đảo.
1.2. Chính sách quản lý của Ngân hàng Nhà nước đối với hoạt động mua bán
vàng miếng của các doanh nghiệp kinh doanh vàng
1.2.1. Mục tiêu quản lý của Ngân hàng Nhà nước đối với hoạt động kinh
doanh mua bán vàng miếng
Chính sách quản lý của Ngân hàng Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh
vàng miếng là công cụ đặc thù và không thể thiếu được mà Ngân hàng Nhà nước sử
dụng để quản lý thị trường vàng nói chung và hoạt động mua bán vàng miếng nói
riêng. Chúng có chức năng chung là tạo những kích thích đủ lớn cần thiết để biến
đường lối, chiến lược của Đảng về quản lý thị trường vàng miếng và hoạt động kinh
ThS. Nguyễn Thanh Huyền

Page 21


Nghiên cứu khoa học cấp cơ sở
doanh vàng miếng thành hiện thực, góp phần thống nhất tư tưởng và hành động của
mọi người trong xã hội, từ đó nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý Nhà nước đối với
hoạt động kinh doanh vàng miếng.
Một chính sách quản lý đúng đắn sẽ giúp khắc phục tình trạng giá vàng biến
động khó kiểm soát; chống thất thoát ngoại tệ cho đất nước; tập trung được nguồn vốn
của xã hội cho đầu tư phát triển sản xuất; đảm bảo cho thị trường vàng Việt Nam phát

triển một cách ổn định, bền vững.
1.2.2. Nội dung chính sách quản lý của Ngân hàng Nhà nước đối với
hoạt động mua bán vàng miếng của các doanh nghiệp kinh doanh vàng
Chính sách quản lí của Ngân hàng Nhà nước đối với hoạt động mua bán vàng
miếng của các doanh nghiệp kinh doanh vàng phải đảm bảo một số nội dung chủ yếu
sau:
- Xây dựng và ban hành các cơ sở pháp lí cho hoạt động mua bán vàng miếng
của các doanh nghiệp kinh doanh vàng
Trong phạm vi thẩm quyền của mình, Ngân hàng Nhà nước có thẩm quyền và
trách nhiệm triển khai việc xây dựng và ban hành các văn bản pháp luật cần thiết cho
lĩnh vực mua bán vàng miếng của các doanh nghiệp kinh doanh vàng như các quy định
về các nghiệp vụ kinh doanh và hành vi kinh doanh bị cấm, cơ quan quản lý thị trường,
mô hình tổ chức thị trường, công bố thông tin, thanh tra và xử lý vi phạm, giải quyết
tranh chấp, khiếu nại, tố cáo và bồi thường thiệt hại, ... Đây là những nội dung hết sức
quan trọng, bởi nó chính là nền tảng pháp lí để triển khai và quản lí các hoạt động mua
bán của thị trường vàng miếng. Không có cơ sở pháp lí, các cơ quan quản lí Nhà nước
về hoạt động mua bán vàng miếng sẽ không thể triển khai thực hiện các chức năng và
nhiệm vụ của mình. Bởi vậy, trước khi một văn bản pháp lí được phê duyệt và ban
hành, Ngân hàng Nhà nước thường tranh thủ sự đóng góp ý kiến của đông đảo các nhà
khoa học, nhà nghiên cứu, nhà tổ chức quản lí thị trường và các chủ thể khác có liên
quan đến thị trường vàng để đảm bảo một số yêu cầu cơ bản của việc ban hành các
chính sách pháp luật, đó là: tính đồng bộ, tính ổn định, tính khả thi, phù hợp với điều
kiện thực tế của mỗi quốc gia và các thông lệ, chuẩn mực quốc tế...
- Quản lí các chủ thể tham gia và có liên quan đến hoạt động mua bán vàng
miếng của các doanh nghiệp kinh doanh vàng trên thị trường
ThS. Nguyễn Thanh Huyền

Page 22



Nghiên cứu khoa học cấp cơ sở
Mọi chủ thể tham gia và có liên quan đến hoạt động mua bán vàng miếng của các
doanh nghiệp kinh doanh vàng trên thị trường đều thuộc đối tượng quản lí của Ngân
hàng Nhà nước. Ngân hàng Nhà nước, ngoài việc ban hành các chính sách đối với các
chủ thể tham gia thị trường vàng miếng, còn có trách nhiệm thực hiện những thủ tục
hành chính cần thiết theo quy định của pháp luật (cấp phép hoạt động cho các doanh
nghiệp kinh doanh vàng đủ điều kiện), đồng thời giám sát quá trình tuân thủ pháp luật
của các chủ thể tham gia và có liên quan đến thị trường để đảm bảo tính nghiêm minh
của việc thực thi pháp luật; ngăn ngừa, phát hiện và xử lí kịp thời những trường hợp vi
phạm pháp luật.
- Quản lí các hoạt động mua bán vàng miếng của các doanh nghiệp kinh doanh
vàng trên thị trường.
Ngoài việc xây dựng và ban hành hệ thống các văn bản pháp luật, các chính sách
và biện pháp cụ thể để quản lý hoạt động mua bán vàng miếng của các doanh nghiệp
kinh doanh vàng, các cơ quan quản lí Nhà nước về thị trường vàng nói chung và vàng
miếng nói riêng còn có chức năng thanh tra, giám sát các hoạt động mua bán vàng
miếng của các doanh nghiệp kinh doanh vàng. Đây là hoạt động hết sức cần thiết để
ngăn chặn và phát hiện kịp thời những trường hợp vi phạm, những tình huống có thể
dẫn đến nguy cơ gây khủng hoảng thị trường; để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mọi chủ thể tham gia, đồng thời đảm bảo cho thị trường vận hành trôi chảy. Kết quả
hoạt động thanh tra và giám sát còn là những minh chứng quan trọng để đánh giá tính
đúng, đủ, đồng bộ và hiệu quả của các văn bản pháp lí đã ban hành, làm cơ sở thực tiễn
để điều chỉnh, bổ sung chính sách pháp luật về thị trường vàng miếng.
- Xây dựng chiến lược, kế hoạch, chương trình phát triển hoạt động mua bán
vàng miếng của các doanh nghiệp kinh doanh vàng trên thị trường
Xây dựng chiến lược, kế hoạch, chương trình phát triển hoạt động mua bán vàng
miếng của các doanh nghiệp kinh doanh vàng là một trong những nội dung quan trọng
của quản lí Nhà nước đối với thị trường vàng. Để thực hiện tốt nội dung này, Chính
phủ các nước thường tổ chức những cơ quan, hoặc bộ phận chuyên trách, trong đó có
Ngân hàng Nhà nước, đảm nhiệm chức năng quản lí và phát triển thị trường. Trên cơ

sở chiến lược phát triển thị trường đã được Chính phủ phê duyệt, Ngân hàng Nhà nước
có nhiệm vụ xây dựng kế hoạch với những lộ trình và bước đi thích hợp cho từng giai
ThS. Nguyễn Thanh Huyền

Page 23


Nghiên cứu khoa học cấp cơ sở
đoạn phát triển của thị trường vàng, chủ động chuẩn bị các điều kiện cần thiết để thúc
đẩy thị trường vàng phát triển theo hướng đi đã lựa chọn. Thực hiện tốt nội dung quản
lí này cũng đồng nghĩa với việc Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện tốt chức năng điều
tiết và định hướng phát triển thị trường nói chung, thị trường vàng của mỗi quốc gia
nói riêng.
Chính sách quản lý của Ngân hàng Nhà nước đối với hoạt động mua bán vàng
miếng của các doanh nghiệp kinh doanh vàng thường bao gồm các nội dung chủ yếu
sau:
- Quy định chung về phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng,…
- Quy định về thiết lập quan hệ giao dịch mua, bán vàng miếng giữa cơ quan quản
lý và các doanh nghiệp kinh doanh vàng gồm: Hồ sơ, thủ tục thiết lập quan hệ giao
dịch mua, bán vàng miếng với cơ quan quản lý; Người đại diện giao dịch của doanh
nghiệp; Tạm ngừng giao dịch, hủy quan hệ giao dịch mua, bán vàng miếng,….
- Quy định về giao dịch mua bán vàng, gồm: Loại vàng miếng được giao dịch
mua, bán; Hình thức mua, bán vàng miếng; Phương án mua, bán vàng miếng của Ngân
hàng Nhà nước; Quy trình mua, bán vàng miếng; Sự kiện bất khả kháng, trở ngại
khách quan,….
- Quy định về trách nhiệm của các doanh nghiệp kinh doanh vàng
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chính sách quản lý của Ngân hàng Nhà
nước đối với hoạt động mua bán vàng miếng của các doanh nghiệp kinh
doanh vàng
1.3.1 Nhóm nhân tố khách quan

Chính sách quản lý của Ngân hàng Nhà nước đối với hoạt động mua bán vàng
miếng của các doanh nghiệp kinh doanh vàng được ban hành dựa vào mức độ ảnh
hưởng của vàng đến:
- Sự ổn định của giá trị đồng bản tệ và giá trị hối đoái của đồng bản tệ so với
các loại ngoại tệ mạnh khác. Nếu nước nào có nền tài chính ổn định, lạm phát được
kiểm soát chặt chẽ, sự biến động của giá vàng miếng sẽ không ảnh hưởng đến giá trị
đồng bản tệ thì chính sách quản lý thị trường vàng miếng sẽ được tự do hóa, không có
cản trở trong các giao dịch vàng miếng. Ngược lại, nếu lạm phát gia tăng sẽ khiến các
ThS. Nguyễn Thanh Huyền

Page 24


Nghiên cứu khoa học cấp cơ sở
nhà đầu tư cũng như người dân trong nước và quốc tế đều hướng đến việc mua và tích
trữ vàng, đẩy giá vàng miếng lên cao, tác động trực tiếp đến sự biến động của tỷ giá.
Giá vàng miếng tăng làm cho nhu cầu mua ngoại tệ mạnh để nhập khẩu vàng lớn dẫn
đến tỷ giá của đồng nội tệ so với các đồng ngoại tệ mạnh tăng vọt. Khi đó, Ngân hàng
Nhà nước sẽ phải có chính sách quản lý chặt chẽ các hoạt động giao dịch mua bán vàng
miếng , thị trường vàng miếng sẽ không được tự do hóa.
- Sự ổn định kinh tế xã hội. Một nền kinh tế ổn định hay không được đánh giá
dựa và các chỉ tiêu như: tỷ giá, lạm phát, thâm hụt cán cân thương mại, khả năng huy
động vốn trên TTTC,… Nếu nền kinh tế không ổn định, các chỉ tiêu trên không được
kiểm soát chặt chẽ, đồng nội tệ mất giá thì vai trò của vàng nói chung và vàng miếng
nói riêng sẽ tăng và chi phối mạnh đến việc ổn định nền kinh tế, ổn định tiền tệ và như
vậy chính sách quản lý thị trường vàng miếng sẽ phải quy định chặt chẽ hơn nhằm hỗ
trợ cho chính sách tiền tệ.
- Thói quen tập quán tiêu dùng truyền thống của người dân đối với vàng: Ngày
nay tại nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam, người dân có nhu cầu sử hữu, nắm giữ
vàng (chủ yếu là vàng miếng) do tập quán, thói quen sử dụng vàng làm phương tiện cất

trữ. Xu hướng tích trữ và đầu tư vàng trên thị trường vàng quá lớn sẽ tác động tiêu cực
đến môi trường kinh tế vĩ mô trong nước. Do đó, chính sách quản lý thị trường vàng
miếng phải hướng tới việc kiểm soát được việc kinh doanh, đầu tư vàng miếng của đối
tượng đầu tư, tiêu dùng. Từ đó, Ngân hàng Nhà nước không nhất thiết phải cấm người
dân mua, bán và tích trữ vàng miếng mà vẫn quản lý được nguồn lực tài chính quốc gia
và công cụ để đưa ra các biện pháp cần thiết, kịp thời nhằm ổn định và điều tiết thị
trường khi cần.
1.3.2 Nhóm nhân tố chủ quan
Ngoài các nhân tố khách quan nêu trên, ảnh hưởng đến chính sách quản lý của
Ngân hàng Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh mua bán vàng miếng của các
doanh nghiệp còn có các nhân tố chủ quan, đó là:
- Sự thống nhất trong các quy định về chức năng quản lý của Ngân hàng Nhà
nước đối với hoạt động hoạt động kinh doanh vàng miếng. Nếu các qui định trong
quản lý mà có sự thống nhất thì sẽ giúp nâng cao hiệu quả của các chính sách, tạo
những tác động tích cực để phát triển thị trường theo đúng định hướng của Nhà nước.
ThS. Nguyễn Thanh Huyền

Page 25


×