Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

Báo mạng điện tử tại việt nam hiện nay - thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.42 KB, 41 trang )

Thực trạng báo chí điện tử tại Việt Nam
Theo thống kê mới nhất của Trung tâm Internet Việt Nam (VNNIC),
hiện có khoảng 2 triệu người truy cập Internet, và không ít hơn số đó là độc
giả của các tờ báo điện tử như VietNamNet, VnExpress, TuoitreOnline, Lao
động điện tử...
2003 là năm xuất hiện chóng mặt của các tờ báo điện tử, hầu hết là
những toà soạn báo giấy truyền thống nay nhận rõ tầm quan trọng và vị trí
trong lòng độc giả của báo điện tử, và thế là những Tuổi trẻ Online, Thanh
Niên Online, Hà Nội Mới Online, Thể thao VN Online,... xuất hiện trên Net,
đưa thông tin theo một cách riêng và nhất là trong chiến lược vươn ra để phục
vụ đối tượng bạn đọc nước ngoài.
Sự xuất hiện hàng loạt trang báo điện tử quãng cuối năm 2003 đến nửa
đầu 2004, kéo theo nhu cầu đòi hỏi đội ngũ phóng viên làm báo điện tử phải
đầy tính chuyên nghiệp. Thế nhưng, 75% phóng viên đang hoạt động trong
các tòa soạn báo điện tử hầu hết đều từ báo giấy chuyển sang, 23% từ các
ngành nghề khác và con số ít ỏi còn lại mới được đào tạo thực sự chuyên
nghiệp từ những “cua” học ngắn hạn tại nước ngoài. Còn đó một thị trường
đào tạo “e-reporter” phóng viên điện tử chuyên nghiệp vẫn đang bỏ ngỏ.
Thực tế, cơ cấu phóng viên báo điện tử trong những tòa soạn báo giấy
vẫn chỉ là việc đăng lại những thông tin đã có trên báo giấy. Đỗ Lê Thăng,
biên tập viên Quốc tế báo Lao động điện tử cho biết: “Phóng viên (PV) báo
điện tử của toà soạn Lao động điện tử chỉ có 4 người, thêm một người phụ
trách nữa là 5, mặc dù là phóng viên báo viết cơ cấu sang, xong chúng tôi chủ
yếu làm công việc biên tập nội dung báo giấy rồi đưa lên Internet. Những tin
tự đi làm, hay tin từ các hãng thông tấn chỉ chiểm một tỉ phần nhỏ. Yếu tố kỹ
thuật không phải là thứ yếu, việc đưa lên một bản tin điện tử cực kỳ đơn giản,
PV báo điện tử không cần phải biết nhiều kỹ năng về máy tính, chỉ cần sử
dụng được MS Word thành thạo và biết truy cập Internet là được.”


Đôi khi tính hấp dẫn của trang báo điện tử còn phụ thuộc nhiều vào


yếu tố tâm lý bạn đọc hay cách trình bày màu mè bắt mắt của trang báo.
Trang tintucvietnam là một website “copy i-xì” tin của tất cả các báo nhưng
hàng ngày vẫn thu hút khá đông người xem. Trang TuoitreOnline tuy mới ra
đời nhưng đã chiếm cảm tình của không ít độc giả trên mạng, có phải nó xuất
phát từ yếu tố tâm lý “thương ai thương cả đường đi lối về” của một số lượng
độc giả báo giấy tương đối đông?
Văn hóa đọc-xem bị thay đổi, báo điện tử bị hạn chế bởi khả năng
trình bày so với báo giấy, nhưng những tờ báo điện tử nối tiếng nhất là
Vnexpress và Vietnamnet vẫn khẳng định hướng đi riêng trong việc chinh
phục độc giả của mình. Chị Lương Bích Ngọc, TKTS Vietnamnet khẳng định
“Một bài báo điện tử được để mắt tới thì 99% nằm ở cách rút title hấp dẫn.”
Nhà báo Thu Uyên, nguyên quyền TBT VASC-Orient nhận xét: “Các trang
web của nước ngoài như BBC, CNN, AFP, Reuters,... phong cách viết tất cả
đều viết theo hình chóp ngược, tất cả cái gì hay nhất đều đặt lên đầu và để cho
độc giả có quyền lựa chọn.” Con chữ sử dụng trên báo điện tử cũng là một bí
quyết của thành công, ông Thang Đức Thắng, Tổng Biên tập Vnexpress cho
biết: “Báo điện tử cần phải sử dụng tối thiểu con chữ để thể hiện lượng tối đa
thông tin”.
Tuy cách thể hiện và bùng nổ thông tin trên những trang báo điện tử
của mỗi báo khác nhau, nhưng ta vẫn phải khẳng định độc giả là ưu tiên số
một của báo điện tử. Một thị trường đào tạo những phóng viên báo điện tử
chuyên nghiệp, để hấp dẫn người xem, để định hướng thẩm mỹ và tạo thuận
lợi cho nhu cầu tiếp cận thông tin của độc giả vẫn đang còn bỏ ngỏ! Làm thế
nào là đúng, làm thế nào là hay? Làm thế nào để nâng tính chuyên nghiệp của
những người làm báo điện tử? Rất cần những nghiên cứu và đầu tư nghiêm
túc cho hình thức truyền thông mới mẻ: Báo điện tử./.
Ngành công nghiệp quảng cáo Việt Nam tương đối non trẻ về tuổi đời
so với các nước trong khu vực và thế giới. Nó chỉ mới thực sự phát triển trong



khoảng một thập niên qua, nhưng lại phát triển tự do mà không theo một trình
tự nào. Hoạt động quảng cáo đang diễn ra lộn xộn dù rằng chúng ta đã có đủ
các văn bản pháp quy về lĩnh vực đang sôi động này.
Làm thuê là chính
Hiện nay, cả nước có hơn 3.000 đơn vị chuyên kinh doanh hoặc có
chức năng kinh doanh dịch vụ quảng cáo trên nhiều loại phương tiện, gần 500
cơ quan báo chí với hơn 600 ấn phẩm báo in, hơn 60 đài phát thanh - truyền
hình là công cụ chuyển tải thông tin quảng cáo.
Có những công ty thực hiện đầy đủ chức năng từ tư vấn chiến lược đến
thực hiện các chiến lược quảng cáo. Có công ty chỉ đơn thuần thực hiện một
chức năng hoặc một lĩnh vực dịch vụ cụ thể, như quảng cáo tấm lớn, quảng
cáo ngoài trời, hoặc thiết kế đồ họa, sản xuất phim quảng cáo truyền hình. Có
những doanh nghiệp chỉ chuyên trách dịch vụ quan hệ công chúng, tổ chức sự
kiện hoặc môi giới tài trợ…
Sự đa dạng ấy nhiều lúc làm người ta lầm tưởng về sự trưởng thành của
doanh nghiệp quảng cáo Việt Nam. Trong khi đó, thực chất phần lớn các
doanh nghiệp quảng cáo Việt Nam vẫn chỉ thực thi những công đoạn hết sức
cụ thể hoặc thuần túy kỹ thuật, còn nhường lại phần béo bở nhất là hoạch định
chiến lược và sáng tạo thì nằm gọn trong tay các doanh nghiệp quảng cáo có
yếu tố nước ngoài hoặc của nước ngoài.
Trừ một số rất ít ỏi công ty quảng cáo trong nước có thể hoạch định
chiến lược cho khách hàng, bao gồm cả sáng tạo và tư vấn về truyền thông
như Đất Việt, Vinaxad, D&D, Trẻ, Kim Minh, Việt Mỹ, Sài Gòn, Sao Mai…
còn lại đa số các công ty quảng cáo Việt Nam chỉ là “lính đánh thuê”.
Các công ty quảng cáo nước ngoài thường hoạch định chiến lược do
bản thân họ không đủ nhân lực hoặc do các yếu tố hạn chế về pháp lý, và thuê
lại các công ty quảng cáo Việt Nam thực hiện chương trình quảng cáo. Thế
nhưng họ lại giành được khoản lợi đáng kể, còn công ty quảng cáo nội địa chỉ
thu nhập khiêm tốn.



Một công ty quảng cáo của Nhật thực hiện chương trình ra mắt sản
phẩm cho một hãng xe máy với chi phí nhân đựơc là hơn 100.000 USD. Tất
nhiên công ty Nhật không có chức năng thực hiện chương trình bèn thuê lại
các công ty Việt Nam với chi phí chỉ bằng 30% - 40%.
Phải nhìn nhận thua ngay trên sân nhà là do chúng ta yếu kém! Vì trong
ngành quảng cáo quốc tế, sự sáng tạo, lao động chất xám, kỹ năng quản lý
được đánh giá rất cao. Có điều không thể chấp nhận ở chỗ chất xám của các
công ty nội địa lại không được đánh giá cao như thế.
Ví dụ, đại lý quảng cáo của Vietnam Airlines là hãng D’Acy có trụ sở
tại Hồng Kông. Chi phí mà hãng hàng không phải trả cho D’Acy để thiết kế
một ấn bản quảng cáo trên báo chí lên đến hàng chục ngàn đô la. Trong khi
đó, chi phí để làm một phim quảng cáo truyền hình do hãng thuê một ê-kíp
nội địa thực hiện chỉ tốn trên dưới trăm triệu đồng.
Tương tự vậy, một công ty quảng cáo nhỏ thì không thể tính công thiết
kế một mẫu quảng cáo báo chí quá vài trăm đô la. Một nhiếp ảnh gia Việt
Nam có tiếng, không thể tính quá 500 đô la cho một tấm ảnh quảng cáo, trong
khi một nhà nhiếp ảnh nước ngoài hành nghề tại TPHCM có thể lấy tới vài
ngàn đô la một ngày.
Cụ thể, để sản xuất một phim quảng cáo video 30 giây, khách hàng
nhãn hiệu khoai tây chiên Zonzon trả khoảng 150 triệu đồng, tương đương
với 4 lần phát sóng trong chương trình giải trí buổi tối trên VTV3. Và chúng
ta đã từng choáng váng với những phim quảng cáo bia Tiger với chi phí trên 1
triệu đô la. Trong khi ấy nhiều phim quảng cáo nội địa chỉ có giá trị vài chục
triệu đồng!
Đó là những dẫn chứng cho thấy nền công nghiệp quảng cáo Việt Nam
còn quá nhỏ bé và đang thua thiệt ngay trên thị trường Việt Nam, và dự báo
còn thua đậm hơn nữa khi đất nước hội nhập toàn diện với khu vực và thế
giới. Hiện nay nhiều công ty quảng cáo nước ngoài như: Bates, O&M, Leo
Burnet, JWT, Prakit, Dentsu, LowLintas, Sattchi&Sattchi, McCann… có tổng



doanh số gộp lại tới khoảng 300 triệu USD/năm, trong khi tổng doanh thu của
các công ty quảng cáo Việt Nam chỉ trên dưới 20% số đó.
Một số công ty nước ngoài thành lập công ty con, chi nhánh, văn phòng
đại diện do người Việt Nam điều hành hoặc liên doanh với các công ty quảng
cáo Việt Nam là một trong những cách mà các công ty quảng cáo nước ngoài
hoạt động nhằm đối phó với những luật lệ có nhiều phần ưu tiên cho các
doanh nghiệp Việt Nam. Lợi nhuận sinh ra từ thị trường Việt Nam, phần lớn
lại rơi vào các công ty nước ngoài.
Cạnh tranh, dẫm đạp lên nhau
Thực trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các công ty quảng cáo
trong nước, dẫn đến sự sụt giảm một cách đáng sợ về giá cả dịch vụ. Thế nên
gần đây nhiều công ty quảng cáo nội địa đã phải thu hẹp hoặc hủy bỏ dịch vụ
media.
Trong khi đó các công ty quảng cáo nước ngoài vẫn giữ được tỉ lệ
tương đối cao. Ngay lợi thế nổi trội của các công ty quảng cáo trong nước là
xin phép đặt bảng quảng cáo ngoài trời, hoặc treo băng rôn quảng cáo sản
phẩm thông qua một chương trình từ thiện nào đó, cũng có nhiều vấn đề
khuất tất.
Chuyện băng rôn quảng cáo dẫm đạp lên nhau, hết hạn giấy phép vẫn
không tháo gỡ hiện là chuyện thường ngày tại các ngã tư lớn của thành phố.
Tình trạng khách hàng của công ty này bị công ty khác chào giá rẻ hơn để
giựt mối, chụp giựt xảy ra thường xuyên. Cứ thế, nhiều công ty lao vào con
đường cạnh tranh, chọt gậy bánh xe lẫn nhau, khiến sức lực và vốn đã yếu lại
càng yếu hơn để rồi… cùng nhau làm thuê cho các công ty quảng cáo nước
ngoài.
Bao giờ cất cánh?
Một báo cáo gần đây của công ty nghiên cứu thị trường quảng cáo
Adarco có trụ sở tại Thái Lan cho biết, năm 2003 và 2004 đánh dấu sự trỗi

dậy của các doanh nghiệp quảng cáo Việt Nam. Trong đó thế mạnh của các


công ty quảng cáo trong nước là các hoạt động quan hệ công chúng và tổ chức
sự kiện.
Xu hướng cho thấy một số nhãn hiệu quốc tế đang muốn chuyển toàn
bộ hoặc một phần hoạt động quảng cáo sang các đại lý nội địa như MercedesBenz, Honda, DeBon v.v…
Sẽ có nhiều việc phải làm để khởi động cho sự tăng tốc của nền công
nghiệp quảng cáo non trẻ của Việt Nam. Trước hết phải tháo gỡ sợi dây “trói
buộc” hiện nay là giới hạn tỉ lệ chi phí quảng cáo không cao hơn 10% doanh
số. Đây là rào cản đáng kể để các doanh nghiệp quyết định chiến lược quảng
cáo.
Với kinh phí hạn hẹp, nhiều doanh nghiệp buộc lòng phải tự thực hiện
quảng cáo để tiết kiệm chi phí thay vì thuê các công ty chuyên nghiệp. Ngay
cả khi có được sự tư vấn của các công ty chuyên nghiệp, không phải chiến
lược nào cũng được thực hiện trọn vẹn do thiếu kinh phí.
Ông Nguyễn Trọng Ngọc, GĐ Công ty quảng cáo D&D nhận định: Các
chính sách, quy định về quảng cáo thay đổi liên tục gây khó khăn cho những
nhà đầu tư chân chính, lâu dài. Ông Nguyễn Quý Cáp, Chủ tịch Hội quảng
cáo TPHCM kiến nghị: “Hãy xem quảng cáo là một hoạt động kinh tế mang
tính văn hóa chứ không nên xem là hoạt động văn hóa mang tính kinh tế; cần
phát huy hội nghề; đào tạo ngành quảng cáo ở bậc đại học…”.
Như tôi biết, television commercial (TVC) chỉ là cách gọi ban đầu, có
tầm nhìn hẹp, còn đến nay, TVC đã được phát triển vô cùng đa dạng.
1. Trong nguyên gốc, thuật ngữ là television commercial, song các bạn
có chức trách hãy đọc giúp mục từ gốc trên en.wiki ở đây [1] và thấy ngày
nay TVC còn phục vụ cả các mục đích phi thương mại (non-commercial)
khác với nguyên gốc hẹp của nó, trừ vài nước cấm (Pháp, Nhật).
2. Tương tự vậy, trong thuật ngữ gốc là television commercial, song
ngày nay TVC không chỉ phát trên truyền hình mà còn phát trên các màn hình

nơi công cộng, trong rạp chiếu phim, v v... nghĩa là tất cả các nơi phát được


nên từ television cũng không còn đúng nữa, khác với nguyên gốc hẹp của nó.
Tổng doanh số phát sóng này không kém trên truyền hình nên việc chỉ gọi nó
là television commercial càng không chính xác, chỉ còn là tập quán và lịch sử
để lại.
Tôi thực sự tìm hiểu về vấn đề này nên có thể nói với các bạn như vậy.
Hơn nữa, khi du nhập vào VN, ngay từ đầu TVC đã được gọi là Phim quảng
cáo. Và với sự giải thích đó, tôi; đồng thời cũng là tác giả đầu tiên của mục từ
này giữ quan điểm và ý kiến riêng với Ban quản trị Wikipedia Tiếng Việt là
phải trả lại tên cho mục từ là Phim quảng cáo. Còn nếu thành viên kia có kiến
thức, xin ra lời, không nên chỉ hùng hục sửa đổi như thế.


Quảng cáo trên truyền hình: Phim quảng cáo ngắn (đôi khi là

dài) để phát trên các kênh truyền hình nói chung. (Television advertisement)


Quảng cáo trên phim: Có hai dạng là phim quảng cáo ngắn phát

trước khi rạp bắt đầu chiếu phim, dạng thứ hai là hình ảnh sản phẩm cần
quảng cáo lồng vào trong phim (Product placement).
Những lời khuyên giúp bạn sử dụng tốt quảng cáo trên truyền hình
Bạn có thể coi vô tuyến là một chiến luỹ cho quảng cáo của các công ty
lớn. Nhưng nhờ có sự phát triển của truyền hình cáp và khả năng truyền sóng
tới các vùng cụ thể, quảng cáo trên truyền hình có thể cũng rất hữu hiệu với
các công ty nhỏ. Cần thận trọng đối với quảng cáo trên truyền hình vì nó có
thể dễ dàng phản tác dụng - một quảng cáo tồi trên truyền hình không những

biến bạn thành trò cười mà còn làm mất khách hàng.


Truyền hình là một phương tiện thông tin bằng hình ảnh. Bạn phải
chuyển thông điệp của bạn bằng hình ảnh - khán giả truyền hình vẫn có thể
biết được quảng cáo về sản phẩm gì khi không có bất kỳ một âm thanh nào.
Chính vì thế, hình ảnh là phần quan trọng nhất trong quảng cáo của bạn. Bản
thảo - những từ ngữ được sử dụng trong phần quảng cáo này - là phần ít quan
trọng nhất.
Một quảng cáo trên truyền hình thành công được đánh giá thông qua
xúc cảm của khán giả. Khán giả truyền hình hiếm khi nhớ chi tiết một quảng
cáo nhưng họ có thể hồi tưởng lại những điều đoạn quảng cáo đó làm họ cảm
nhận được. Đảm bảo rằng khán giả phải được thúc giục mua sản phẩm sau khi
xem quảng cáo của bạn.
Phải chớp lấy thời cơ. Bạn chỉ có khoảng 2 phút để thu hút được sự
quan tâm của khán giả truyền hình, do vậy phải sử dụng hình ảnh mở đầu gây
ấn tượng - hình ảnh gây ấn tượng có hiệu quả phải tương xứng với tiêu đề .
Tiếp đó bạn phải giành tổng cộng khoảng 5 giây để thông tin với khán giả về
sản phẩm được quảng cáo - Nếu thông tin không rõ ràng, bạn sẽ mất khán giả
của toàn bộ phần quảng cáo.
Đưa ra những thông điệp đơn giản. Tập trung vào những lợi ích. Và
nhớ phải tập trung diễn đạt chúng bằng hình ảnh. Bạn có thể thực hiện điều
này bằng cách đưa ra sản phẩm thay vì chỉ nói.
Bạn phải thể hiện bằng hình ảnh tên của công ty và sản phẩm. Đưa tên,
đi kèm với biểu tượng, địa chỉ và số điện thoại của công ty lên trên màn hình.
Tót nhất là là có ai đó đọc to các thông tin đó cùng một lúc.
Không thể bỏ qua lời kêu gọi hành động. Thuyết phục khán giả hành
động - Gọi cho chúng tôi!!!; Hãy tới thăm đại lý bán hàng của chúng tôi trong
khu vực; So sánh chất lượng; Đến với chúng tôi. v.v.
Còn quá đắt?

Bà T.T, khách hàng có quảng cáo trên hệ thống của GFM nói: “Chi phí
quảng cáo thời lượng 30 giây trên truyền hình tốn gần 50 triệu. Cũng với số


tiền này, có thể tồn tại nội dung cần quảng cáo tại 300 địa điểm với tần suất
60 lần/ngày và kéo dài trong suốt hai tuần”. Theo một nguồn tin riêng từ một
công ty nghiên cứu thị trường cho biết, tính trên bình quân người xem, chi phí
trên truyền hình rẻ hơn, chỉ có 300đ; còn chi phí trên ti vi LCD lên đến
1.200đ. So với quảng cáo trên truyền hình, quảng cáo trên ti vi LCD có điểm
mạnh là tập trung vào từng nhóm người tiêu dùng theo định vị của từng sản
phẩm, người xem tiếp nhận một cách thụ động trong khoảng “thời gian chết”
khi chờ lên máy bay, chờ mua hàng hoặc chờ thang máy...
Nhiều khách hàng tham gia quảng cáo trên ti vi LCD nhận xét, hình
thức quảng cáo này sở dĩ chưa thu hút được nhiều doanh nghiệp tham gia là vì
nhiều lý do. Nguồn vốn đầu tư còn hạn chế nên số lượng màn hình chưa phủ
rộng. Thông tin quảng cáo trên phương tiện này còn nghèo nàn cả về nội dung
lẫn cách biểu đạt.
Qua quan sát của chúng tôi, vì mục đích chính là quảng cáo theo yêu
cầu của khách hàng nên có nơi thời lượng chính chỉ hiển thị những nội dung
quảng cáo. Thời gian còn lại (chỉ khoảng 20%) xen vào những chương trình
thời sự, ca nhạc của VTV. Nội dung quảng cáo lại không hấp dẫn được người
xem. Cũng có nơi hấp dẫn hơn nhờ thời lượng quảng cáo chỉ chiếm 40%, tỷ lệ
còn lại được chia đều cho hai chương trình: thông tin sức khoẻ và giải trí vì vị
trí của nó là các phòng khám bệnh.
Một chuyên gia về quảng cáo cho rằng hiện đang có tình trạng các
doanh nghiệp đang “xí phần” những vị trí đẹp như sân bay, khách sạn cao
cấp, chung cư sang trọng, nhà ga, bến xe... Họ chấp nhận chi tiền để giữ được
những vị trí đó để sau này nhượng lại cho các nhà khai thác nước ngoài.
Chính vì vậy, họ chưa tập trung khai thác khách hàng cũng như thiết kế nội
dung hấp dẫn để thu hút người xem.



Nhiều công nghệ mới phục vụ cho loại hình quảng cáo này như thay
đổi nội dung quảng cáo tuỳ theo từng vị trí, kiểm soát nội dung quảng cáo từ
xa... chưa có mặt tại Việt Nam vì các nhà khai thác chưa muốn chi thêm tiền.
Phim Quảng cáo từ năm 2010 sẽ phải có độ dài từ 2.30 giây trở lên đến
7 phút và phải là một đoạn phim đề cao hàng đầu về yếu tố giải trí, mới mang
lại hiệu quả tiếp thị tốt nhất"... Sẽ xuất hiện nhiều phim quảng cáo có độ dài
từ 2 -7 phút, mang yếu tố giải trí hàng đầu

Có thể nói phim Quảng cáo là một phương tiện quảng cáo hiệu quả
nhất hiện nay. Nó được ví như một phương tiện quảng cáo mang tính áp đảo
các phương tiện khác. Cùng một lúc, ngay tức khắc, trên diện rộng và chuyển
tại một cách sinh động nhất các thông điệp.
Tác phẩm điện ảnh = phim quảng cáo
Phim quảng cáo ( TVC) mà các doanh nghiệp đang sử dụng một cách
hiệu quả, thậm chí còn gọi là "xài sang" của nhưng thương hiệu mạnh. Bỗng
nhiên gần đây có người dự đoán rằng " phim quảng cáo sẽ chết" và thay thế
bằng một loại hình quảng cáo khác. Dự đoán này xuất hiện dựa trên cơ sở:
công nghệ ngày càng phát triển vượt bậc, thực tế đã xuất hiện những phương
tiện truyền thông mới. Và có thể nhưng phương tiện truyền thông " chưa sinh
" này sẽ thay thế phim quảng cáo trong tương lai gần.
Có hay không sự "chết" của phim quảng cáo?
Có thể khẳng định điều này gần như không thể xảy ra, bởi loại hình
nghệ thuật thứ 7 nói chung, vẫn chưa đạt đến đích cuối cùng và chưa biết đích
cuối cùng của nó ra sao, thế nào, nghĩa là vẫn chưa thai nghén hay xuất hiện


một loại hình nào có sự tổng hợp tốt hơn điện ảnh, mà "hậu sinh" của điện
ảnh chính là phim quảng cáo hiện nay

Những lý do thuyết phục
Bạn thử hình dung một đoạn phim sau, bạn có thể gọi phim ngắn cũng
được, phim quảng cáo cũng xong:
Mở đầu phim là hình ảnh một đứa bé trai khoảng 1 tuổi đang cầm con
dao INOX to bản, sắc lẹm để chơi, đứa bé cầm con dao đưa lên đưa xuống,
như thể lưỡi dao sắp cắt vào da đứa bé... Phim chỉ có 30 giây mà khán giả thót
tim đến mấy lần, đặc biệt khi đứa bé thả con dao rơi tự do cắm vào giữa hay
khe chân nó với gianh giới mỏng manh tột cùng.. có khán giả mắt nhắm
không dám nhìn.
Nếu để câu Slogan "Đừng đùa với ma túy" ở cuối đoạn phim thì nó
được coi như đoạn phim quảng cáo để tuyên truyền chống ma túy, là "chơi ma
túy giống như để trẻ em chơi dao sắc".
Nhưng giả dụ, đặt cho nó một cái tên, kiểu tên của phim truyện ngắn,
cuối phim lại ghi tên đầy đủ các thành phần thực hiện như tác giả kịch bản,
đạo diễn, quay phim, họa sỹ... thì nó đúng là một phim ngắn " Cảnh báo về sự
nguy hiểm của ma túy" hết sức cô đọng, mang tính giáo dục cao.
Phim quảng cáo được người ta ghép vào mục đích quảng cáo để bán
sản phẩm hay truyền tải thông tin liên quan đến doanh nghiệp và thế là cụm từ
" phim quảng cáo" này được ghép vào đằng sau tác phẩm điện ảnh " ngắn" và
nó mang tên phim quảng cáo.
Khi bạn xem một bộ phim về võ thuật Thiếu Lâm Tự với nội dung
mang tính nghệ thuật cao. Nếu nhìn dưới góc độ truyền thông thì nghĩa là " họ


đang quảng cáo về võ thuật tinh hoa của Thiếu Lâm Tự" hay bạn xem một bộ
phim truyện về lịch sử của Hàn Quốc, thì yếu tố văn hóa Hàn cũng vô hình
được truyền vào người xem.
Xu hướng tồn tại
Càng ngày, phim quảng cáo càng đòi hỏi tính sáng tạo cực cao trong ý
tưởng. Một chuyên gia về phim quảng cáo thuộc Hãng Truyền Thông Tứ Vân

dự đoán rằng: "Phim quảng cáo từ năm 2010 sẽ phải có độ dài từ 2.30 phút
trở lên đến 7 phút và phải là một đoạn phim đề cao hàng đầu về yếu tố giải trí,
mới mang lại hiệu quả tiếp thị tốt nhất"
Sẽ xuất hiện nhiều phim quảng cáo có độ dài từ 2-7 phút, mang yếu tố
giải trí hàng đầu từ năm 2010 là rất có cơ sở, với tốc độ phát triển như hiện
nay thì vào năm 2010 trung bình mỗi gia đình Việt Nam sẽ có 1 hoặc 2 tivi,
cùng đó là nhu cầu giải trí tăng cao, người xem có thể không đến rạp thưởng
thức 1 phim ngắn với thời lượng 5 phút, 10 phút, nhưng lại có nhu cầu thư
giãn tại nhà với những tác phẩm phim ngắn là chuyện hoàn toàn có thể. Lúc
đó, phim quảng cáo sẽ biến thành phương tiện giải trí tại nhà khá thú vị.
Trong tương lai gần phim quảng cáo 30 giây thiếu yếu tố giải trí, sẽ rất khó
tồn tại vì nó chỉ " nhăm nhăm quảng cáo 1 chiều". Các nhà chuyên môn còn
gọi thể loại phim quảng cáo ngắn này là phim anh chàng " nói một mình".
Đương nhiên là phim quảng cáo dài hấp dẫn sẽ lên ngôi. Đòi hỏi các nhà làm
quảng cáo không chỉ suy nghĩ trong giây lát và phải có những chuỗi suy nghĩ
dài sáng tạo hơn, chuyên nghiệp hơn mới có cơ may thích ứng. Cũng theo dự
đoán từ chuyên gia đó, sẽ xuất hiện phim quảng cáo dài tập ( mỗi tập khoảng
3-5 phút). Nếu đủ sức sáng tạo, đủ tiền để phim phát sóng trên truyền hình
đến vài tháng thì hiệu quả quảng bá rất tuyệt vời. Với những lý do đó, có thể
khẳng định phim quảng cáo không thể chết, thậm chí ngày càng khẳng định
giá trị.
Theo


Phim Quảng cáo từ năm 2010 sẽ phải có độ dài từ 2.30 giây trở lên đến
7 phút và phải là một đoạn phim đề cao hàng đầu về yếu tố giải trí, mới mang
lại hiệu quả tiếp thị tốt nhất"... Sẽ xuất hiện nhiều phim quảng cáo có độ dài
từ 2 -7 phút, mang yếu tố giải trí hàng đầu

Có thể nói phim Quảng cáo là một phương tiện quảng cáo hiệu quả

nhất hiện nay. Nó được ví như một phương tiện quảng cáo mang tính áp đảo
các phương tiện khác. Cùng một lúc, ngay tức khắc, trên diện rộng và chuyển
tại một cách sinh động nhất các thông điệp.
Tác phẩm điện ảnh = phim quảng cáo
Phim quảng cáo ( TVC) mà các doanh nghiệp đang sử dụng một cách
hiệu quả, thậm chí còn gọi là "xài sang" của nhưng thương hiệu mạnh. Bỗng
nhiên gần đây có người dự đoán rằng " phim quảng cáo sẽ chết" và thay thế
bằng một loại hình quảng cáo khác. Dự đoán này xuất hiện dựa trên cơ sở:
công nghệ ngày càng phát triển vượt bậc, thực tế đã xuất hiện những phương
tiện truyền thông mới. Và có thể nhưng phương tiện truyền thông " chưa sinh
" này sẽ thay thế phim quảng cáo trong tương lai gần.
Có hay không sự "chết" của phim quảng cáo?
Có thể khẳng định điều này gần như không thể xảy ra, bởi loại hình
nghệ thuật thứ 7 nói chung, vẫn chưa đạt đến đích cuối cùng và chưa biết đích
cuối cùng của nó ra sao, thế nào, nghĩa là vẫn chưa thai nghén hay xuất hiện
một loại hình nào có sự tổng hợp tốt hơn điện ảnh, mà "hậu sinh" của điện
ảnh chính là phim quảng cáo hiện nay


Những lý do thuyết phục
Bạn thử hình dung một đoạn phim sau, bạn có thể gọi phim ngắn cũng
được, phim quảng cáo cũng xong:
Mở đầu phim là hình ảnh một đứa bé trai khoảng 1 tuổi đang cầm con
dao INOX to bản, sắc lẹm để chơi, đứa bé cầm con dao đưa lên đưa xuống,
như thể lưỡi dao sắp cắt vào da đứa bé... Phim chỉ có 30 giây mà khán giả thót
tim đến mấy lần, đặc biệt khi đứa bé thả con dao rơi tự do cắm vào giữa hay
khe chân nó với gianh giới mỏng manh tột cùng.. có khán giả mắt nhắm
không dám nhìn.
Nếu để câu Slogan "Đừng đùa với ma túy" ở cuối đoạn phim thì nó
được coi như đoạn phim quảng cáo để tuyên truyền chống ma túy, là "chơi ma

túy giống như để trẻ em chơi dao sắc".
Nhưng giả dụ, đặt cho nó một cái tên, kiểu tên của phim truyện ngắn,
cuối phim lại ghi tên đầy đủ các thành phần thực hiện như tác giả kịch bản,
đạo diễn, quay phim, họa sỹ... thì nó đúng là một phim ngắn " Cảnh báo về sự
nguy hiểm của ma túy" hết sức cô đọng, mang tính giáo dục cao.
Phim quảng cáo được người ta ghép vào mục đích quảng cáo để bán
sản phẩm hay truyền tải thông tin liên quan đến doanh nghiệp và thế là cụm từ
" phim quảng cáo" này được ghép vào đằng sau tác phẩm điện ảnh " ngắn" và
nó mang tên phim quảng cáo.
Khi bạn xem một bộ phim về võ thuật Thiếu Lâm Tự với nội dung
mang tính nghệ thuật cao. Nếu nhìn dưới góc độ truyền thông thì nghĩa là " họ
đang quảng cáo về võ thuật tinh hoa của Thiếu Lâm Tự" hay bạn xem một bộ
phim truyện về lịch sử của Hàn Quốc, thì yếu tố văn hóa Hàn cũng vô hình
được truyền vào người xem.


Xu hướng tồn tại
Càng ngày, phim quảng cáo càng đòi hỏi tính sáng tạo cực cao trong ý
tưởng. Một chuyên gia về phim quảng cáo thuộc Hãng Truyền Thông Tứ Vân
dự đoán rằng: "Phim quảng cáo từ năm 2010 sẽ phải có độ dài từ 2.30 phút
trở lên đến 7 phút và phải là một đoạn phim đề cao hàng đầu về yếu tố giải trí,
mới mang lại hiệu quả tiếp thị tốt nhất"
Sẽ xuất hiện nhiều phim quảng cáo có độ dài từ 2-7 phút, mang yếu tố
giải trí hàng đầu từ năm 2010 là rất có cơ sở, với tốc độ phát triển như hiện
nay thì vào năm 2010 trung bình mỗi gia đình Việt Nam sẽ có 1 hoặc 2 tivi,
cùng đó là nhu cầu giải trí tăng cao, người xem có thể không đến rạp thưởng
thức 1 phim ngắn với thời lượng 5 phút, 10 phút, nhưng lại có nhu cầu thư
giãn tại nhà với những tác phẩm phim ngắn là chuyện hoàn toàn có thể. Lúc
đó, phim quảng cáo sẽ biến thành phương tiện giải trí tại nhà khá thú vị.
Trong tương lai gần phim quảng cáo 30 giây thiếu yếu tố giải trí, sẽ rất khó

tồn tại vì nó chỉ " nhăm nhăm quảng cáo 1 chiều". Các nhà chuyên môn còn
gọi thể loại phim quảng cáo ngắn này là phim anh chàng " nói một mình".
Đương nhiên là phim quảng cáo dài hấp dẫn sẽ lên ngôi. Đòi hỏi các nhà làm
quảng cáo không chỉ suy nghĩ trong giây lát và phải có những chuỗi suy nghĩ
dài sáng tạo hơn, chuyên nghiệp hơn mới có cơ may thích ứng. Cũng theo dự
đoán từ chuyên gia đó, sẽ xuất hiện phim quảng cáo dài tập ( mỗi tập khoảng
3-5 phút). Nếu đủ sức sáng tạo, đủ tiền để phim phát sóng trên truyền hình
đến vài tháng thì hiệu quả quảng bá rất tuyệt vời. Với những lý do đó, có thể
khẳng định phim quảng cáo không thể chết, thậm chí ngày càng khẳng định
giá trị.
Theo
TƯƠNG LAI CỦA QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH
KIỂM ĐIỂM VÀ ĐỀ NGHỊ


Chúng ta đã xem qua những khía cạnh của quảng cáo truyền hình trong
kinh tế thị trường. Người viết chưa thực hiện được tham vọng khảo sát hiện
tượng này qua đủ mọi khía cạnh " học tế " hay " biên cảnh "
(interdisciplinary) của nó nhưng có cảm tưởng đã trình bày được một số chi
tiết đủ cho phép dẫn đến hai câu hỏi sau cùng mà hỏi tức là giải đáp :


Quảng cáo thương mại truyền hình có thể bị mai một đi trước sự

ra đời của quảng cáo trên mạng hay không?


Quảng cáo truyền hình trong kinh tế thị trường hiện tại có thể

nào áp dụng hay áp dụng đến mức nào trong một quốc gia chấp nhận kinh tế

thị trường mà vẫn giữ những nguyên tắc căn bản của đường lối chính trị xã
hội chủ nghĩa.
I. QUẢNG CÁO THƯƠNG MẠI TRUYỀN HÌNH SẼ MAI MỘT ĐI
CHĂNG ?
Trước hết, đã có rất nhiều người tỏ ra hoài nghi về hiệu năng và tương
lai của quảng cáo truyền hình. Họ đề nghị một hình thức quảng cáo đồng
phục. Ishimine (trong Manabe, 1987) đã nhắc đến thí nghiệm của P&G
(Procter and Gamble) mà họ nghĩ là rẻ tiền và có hiệu quả hơn. Thí nghiệm
này nhằm tạo ra một loại thương điệp tạm gọi là một khuôn, một khổ (One
Format CM Frame) và sẽ được đem phát sóng một lượt trong nhiều quốc gia
(trong thí nghiệm của P&G, những nước nói trên là Nhật, Thái, Hương Cảng,
Đài Loan, In-đô-nê-xia, Úc, Mễ, Trung Quốc, Phi luật tân và Thổ Nhĩ Kỳ).
Giửa màn ảnh, họ đặt một người xướng ngôn (spokeperson). Người này đối
diện và nhìn thẳng (eye to eye) vào khán thính giả rồi giải thích về thương
phẩm bằng một giọng trầm tĩnh. Sau đó, màn ảnh sẽ chiếu cận ảnh (gros plan)
thương phẩm với tất cả những chi tiết về đặc tính của nó cùng với tên tuổi
P&G và biểu tượng (logo) của hảng.
Người xướng ngôn được định nghĩa như một phụ nữ chuyên nghiệp,
thông minh, hiếu động, khỏe mạnh, chính chắn, hơi lấn lướt một chút và
tượng trưng cho lớp người tiền vệ (avant-garde) của thế hệ mình. Người phụ


nữ ấy sẽ phát biểu với giọng cương nghị nhưng không áp đảo quá, vẫn đầy đủ
nữ tính nhưng không quá ơ hờ, dịu dàng và xinh xắn nhưng biết giữ khoảng
cách với khán thính giả.
Thí nghiệm của P&G e rằng sẽ mãi mãi ở trong trạng thái thí nghiệm vì
nó đã cướp mất đi cái súc tích và thơ mộng của quảng cáo truyền hình, làm
tràn ngập màn ảnh những tin tức tuy thực tiễn và cần thiết nhưng nhàm chán.
Quảng cáo truyền hình như "Một cõi đi về" cùa con người sau những giây
phút nhọc nhằn trong hãng xưởng và là điểm cộng thông giửa họ và những

thành viên trong gia đình, ngoài xã hội.
Một số nhà nghiên cứu cũng cho rằng quảng cáo truyền hình đã đến lúc
cáo chung và sẽ được thay thế bởi quảng cáo trên mạng. A.Yazawa (1994) đã
khuyến cáo điều đó khi ông thấy ở Nhật, kể từ 1992, các hãng quảng cáo lớn
đã bắt đầu thua lỗ và thải người. Geoge Gilder (Life After Television, 1993)
tự hỏi truyền hình sẽ trở thành một bộ phận của máy vi tính mà thôi
(telecomputer) chăng ?
Thế thì quảng cáo trên mạng và quảng cáo truyền hình có xung khắc
với nhau và cái mới có đuổi cái cũ đi không ? Câu hỏi này có thể trả lời một
cách khẳng định trong trường hợp ta nghĩ rằng khi sử dụng máy điện toán để
xem quảng cáo trên mạng thì ta buộc lòng phải tắt truyền hình. Tuy nhiên, ta
cũng có thể trả lời một cách phủ định vì nhiều lý do:
1) Những người thích sử dụng mạng Internet (Netsurfer) thường cũng
là người thích xem truyền hình. Như đã chứng minh, người yêu thích điện
toán, được coi như những người dẫn đầu dư luận đối với quần chúng trong
tương lai (New Opinion Leaders) thường cắt bớt thời giờ sinh hoạt để tìm đến
với truyền hình cũng như các phương tiện truyền thông khác.
2) Trong thời điểm hiện tại, hình thức và nội dung của quảng cáo trên
mạng chưa được phong phú và giúp ta tiêu khiển bằng nội dung quảng cáo
trên truyền hình. Quảng cáo trên mạng hãy còn dùng nhiều hình ảnh tĩnh hay
ít biến hóa, chưa lồng tiếng nói và âm thanh. Quảng cáo trên truyền hình đa


dạng hơn và kèm theo những chương trình phim ảnh, ca nhạc, thể thao, thời
sự, đố vui...
3) Xem quảng cáo trên mạng là một hành động có tính cách đơn lẻ,
trong khi xem quảng cáo truyền hình vừa là hành động cá nhân vừa là hành
động tập đoàn (với gia đình, với bạn bè, với đoàn thể) và sự giao lưu với
những người cùng xem một chương trình gây nên hiệu qủa tập thể lớn gấp bội
hiệu qủa cá nhân.Khi xé lẻ ra, cá nhân có nhiều khả năng "động vật

hóa"(Animalization) vì sống thui thủi với môi thể truyền thông cá nhân (vi
tính, điện thoại cầm tay, mạng Net...) vô danh, lạnh lẽo, không có chút hơi ấm
của sự "mắt trong mắt, tay trong tay", và như thế, thụt lùi lại so với tiến trình
xã hội.
4) Khả năng dung hợp giữa mạng và truyền hình có thể thực hiện được.
Người ta đã từng dung hợp phát truyền thanh và máy ghi âm (RadioTaperecorder), điện thoại di động với máy chụp ảnh, với mạng Internet vv...
và đã thực hiện được máy truyền hình kết hợp với kho dữ liệu (database...) ví
dụ trong lúc xem một trận bóng đá có thể dùng những cửa sổ (windows) để
tra cứu về số liệu cá nhân như chiều cao, số cân, tuổi tác,thành tích...của một
tuyển thủ. Như thế, truyền hình và mạng không đối chọi với nhau mà còn có
thể hoà hợp với nhau (theo Yukawa) giúp đỡ lẫn nhau (theo M.Nishi).
5) Mỗi môi thể đều có nhiệm vụ riêng của nó. Trong một xã hội mà
thành phần khách hàng đã phân hóa (segmented) thành những tầng lớp nhỏ và
hàng hóa lại đa dạng, quảng cáo trên truyền hình tuy tiến nhanh và tiến mạnh
đã không làm biến mất quảng cáo trên báo chí, quảng cáo ngoài trời hay trên
các phương tiện giao thông.Cùng một lý do đó, quảng cáo truyền hình sẽ tiếp
tục sống, tuy rằng, với những điều kiện sinh hoạt mới và kỹ thuật mới, nó bắt
buộc phải đuổi kịp để đáp ứng nhu cầu thời đại.
6) Kỹ thuật mạng giúp đở quảng cáo truyền hình rất đắc lực trong việc
quản lý.H.Ogawa và S. Sato (2000) đã nói về kỹ thuật khai thác thông tin
(Data Mining Techniques) của giới làm quảng cáo ở Nhật khi họ muốn điều


tra phản ánh của khán thính giả về một tài tử diễn xuất hay một đoạn phim
quảng cáo truyền hình. Sự giao lưu qua điện thư và sự quảng cáo các mặt
hàng liên quan tới tài tử đó trên mạng đến cá nhân hay cho các hội đoàn
Người Hâm Mộ (Fan Club) ...cũng tăng cường sự hiểu biết của người làm
quảng cáo về thị hiếu của đám đông.
Quả thật có một sự phi đại chúng hóa (Demassification) kèm theo
khuynh hướng cá nhân hóa và tự do tuyển chọn như Francis Balle đã có lý khi

nhắc đến.Truyền hình đại chúng (Broadcasting) cùng với sự trưởng thành của
các môi thể mới và môi thể điện tử, đã thu nhỏ lại thành truyền hình giới hạn
(Narrowcasting) và ở một cực đoan, sẽ cá nhân hóa hoàn toàn (Pointcasting).
Tuy có giao lưu trên mạng (Webcasting) những con người sống với môi thể
cá nhân e sẽ sống trong một không gian giả tưởng (Virtual Space), lạnh lẽo và
thiếu tình người. Lúc ấy, họ sẽ đi tìm sự quân bình tinh thần cho mình và tất
nhiên, đề kháng lại khuynh hướng đó. Francis Balle còn nhận xét thêm rằng
cho dù con số đài nhờ vệ tinh và dây cáp có thể tăng lên rất nhiều nhưng sau
một thời gian hồ hởi, người ta sẽ đi thụt lùi và giữ cho mình một số đài thích
nhất. Hạn chế về sức khỏe và thời giờ không cho phép họ ôm đồm.Hơn nữa,
truyền hình tự nó cũng đã có bao cố gắng để sửa đổi. Nào là tiêu chuẩn hóa,
nào là chế ra màn ảnh phẳng, đường nét rõ (HDTV), nào là thu nhỏ thành
truyền hình xách tay.
II. QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH CÓ XUNG KHẮC VỚI ĐƯỜNG
LỐI XÃ HỘI CHỦ NGHIÃ KHÔNG ?
Karl Marx ( Tư Bản Luận, quyển I, dẫn bởi John Sinclair) và các nhà
kinh tế theo chũ nghĩa Mác cỗ điển và ngay những nhà lý thuyết hiện đại thừa
kế di sản đó (Louis Althusser, Herbert Marcuse...) đều phê phán vai trò ý thức
hệ của quảng cáo nói chung và xem đó như cộng cụ để truyền bá chũ nghiã tư
bản và hô hào cho lối sống tư bản. Không riêng gì họ, các nhà kinh tế tư bản
như JK Galbraith trong tác phẩm Xã Hội Phú Túc (The Affluent Society,
1958) cùng phê phán quảng cáo đã tạo ra những nhu cầu giả tạo...và a tòng


với giới bán hàng để giật giây một cách khéo léo người tiêu thụ. Vance
Packard trong Những Thuyết Khách Ẩn Nấp (The Hidden Persuaders, 1957)
cho rằng những người làm quảng cáo đã biết sử dụng khả năng tiêu khiển,
giải trí của quảng cáo để dụ dỗ người tiêu thụ. Đó là chưa kể những lời kết án
của Wilson Brian Key (1973) về sự sử dụng tín hiệu để ám thị tiềm thức con
người (subliminal seduction) hay dùng hình ảnh khêu gợi tình dục trong

quảng cáo (media "sexploitation").
Ngược lại, những kẻ muốn biện minh cho quảng cáo bảo rằng quảng
cáo giúp cho người ta có dân chủ, bởi vì "sự tự do lựa chọn món hàng" cũng
là một hình thức thực hiện dân chủ. Đối với họ, hiện nay hàng hóa không chỉ
là những sản vật (commodities) như thời của Marx mà còn là những dịch vụ
(services). Còn như bảo rằng sản vật hay dịch vụ đều do lao động tạo ra thì
những người bào chữa cho quảng cáo lại dẩn ra khái niệm giá trị gia tăng
(added values) nhiều khi được tạo ra không phải do người sản xuất mà do
khách tiêu thụ đem lại ( giá trị liên quan đến nhãn hiệu chẳng hạn). Hơn nữa,
ngày nay, ngành quảng cáo đã được kiểm soát chặt chẽ và đồng loạt bởi nhiều
thế lực canh chừng (watchers) từ khắp mọi phía như ta thấy trong đồ biểu sau
đây:
Đồ biểu 20.1 : Những lực lượng có khả năng điều chỉnh quảng cáo
Nền kinh tế của thời đại mới còn đẻ ra những giá trị tinh thần ngoài lợi
nhuận khi môn tiếp thị tự tạo và đặt cho mình mục đích phụng sự xã hội
(Societal Marketing), mục đích tối thượng là đạt được giá trị tinh thần hoặc
luân lý. Những lời phê phán của các nhà lý luận theo chủ nghĩa xã hội và các
nhà lý luận cấp tiến đã giúp cho xã hội tư bản xét lại những khiếm khuyết của
mình mà chấn chỉnh đường lối. Trong nền kinh tế thị trường ngày nay, lợi
nhuận không còn là giá trị độc tôn. Những đoàn thể vô vụ lợi (NPO = Non
Profit Organization) đã ra đời trong chiều hướng đó và quãng cáo vì công ích


(APU = Advertising for Public Utility) lại là một khái niệm mới khác nữa. Nó
nhằm giáo dục và cải thiện cuộc sống hơn là thu huê lợi.
Chúng ta thâu nhận rất nhiều tin tức tốt đẹp về những phát triển trong
lãnh vực kinh tế và cùng lúc, sự phát triển về ngành quảng cáo ở các quốc gia
đã từng hay vẫn còn đang ở trong trận doanh xã hội chủ nghĩa. Quảng cáo nói
chung và quảng cáo truyền hình nói riêng đã phát triển một cách kinh dị ở
nước Nga cũng như ở Trung Quốc.

Liên Xô cũ cũng như các quốc gia trong khối Comecon đã để cho
quảng cáo có cơ hội phát triển và điều này đánh đỗ lập luận cho rằng quảng
cáo chỉ là công cụ của chủ nghĩa tư bản. Nước Nga tiền cách mạng từng biết
đến quảng cáo từ năm 1878 khi người Nga Mestl sáng lập là một "tổ chức
quảng cáo" đầu tiên với chiêu bài "Quảng Cáo là đầu tàu của mậu dịch" (theo
Gricenko Wells, L. trong Jones, 2000), có lẽ còn trước cả hai người Mỹ
Calkins và Holden (1890).. Theo John Sinclair, Cách mạng tháng mười năm
1917 không bãi bỏ những chỉ quốc hữu hóa quảng cáo cho đến 1928, lúc kế
hoạch kỹ nghệ hóa đầu tiên ra đời. Lúc đó, quảng cáo mới không còn nữa và
chỉ bắt đầu lại từ sau thế chiến.Do đó, xã hội chủ nghĩa và quảng cáo thật ra
không mâu thuẫn với nhau tuy nó đã bị kiểm soát chặt chẽ. Từ năm 1973, cơ
quan nhà nước Liên Xô Vneshtorgreklama, một đơn vị trực thuộc bộ ngoại
thương và phụ trách quảng cáo với nước ngoài, đã hợp tác với các hãng ngoại
quốc Young & Rubicam và Havas Conseil. Vào thời điểm đó Liên Xô đã thiết
lập quan hệ ngoại thương vời trên 100 quốc gia. Dĩ nhiên ở quốc nội, thời đó,
chỉ có phim trình bày sản phẩm chứ chưa có phim quảng cáo (spot
commercial) như các nước Tây Phương. Quảng cáo do đó chỉ có mục đích
thông tin về kỹ thuật trong một hệ thống phân phối hàng hóa của nền kinh tế
kế hoạch.Theo Lumilla Gricenko Wells (sđd), tháng 2/1988 đánh dấu chuyển
hướng lớn lao của ngành quảng cáo ở Nga khi nước này cho phép thiết lập
những hãng liên kết (joint-venture) giữa họ và Tây Phương để du nhập
phương pháp làm việc và lề lối tổ chức trong quảng cáo. Năm 1991, Avrora,


hãng quảng cáo đa năng đã ra đời và tính đến 1997, ở Mát-cơ-va, đã có trên
1500 đại lý quảng cáo (vẫn theo Gricenko Wells., sđd). Quảng cáo ở Nga
không còn dừng lại ở thông tin về kỹ thuật và giáo dục quần chúng mà đã tiến
qua lĩnh vực văn hóa. Nhưng để có thể áp dụng phương pháp Âu Mỹ, công
việc bức thiết từ sau 1988 ở Nga là tổ chức những đoàn thể ngành nghề thật
chuyên nghiệp, đạt qui chuẩn luân lý, đạo đức và tự quản cho ngành này.

Ở những quốc gia Đông Âu như Yu-go-x-la-vi và Hung, một thời
quảng cáo chỉ giới hạn trong phạm vi quảng cáo kỹ thuật. Nó chỉ có mục đích
thuần lý là để nâng cao mục tiêu dùng các mặt hàng lúc cần thiết. Đồng thời
với chuyển hướng ở Nga, nó cũng đã đi theo chiều hướng thị trường nếu
không nói là có phần phát triển mạnh hơn nữa.
Thập niên 1930 là thời đại hoàng kim của quảng cáo thương mại Trung
Quốc (Hong Cheng, trong Jones).Năm 1930, ở Thượng Hải đã có khoảng hai
mươi đại lý quảng cáo.Trong những năm sau 1949, chính phủ Trung Quốc
vẫn cho phép ngành quảng cáo hoạt động nhưng nó không vượt ra khỏi qui
mô của nền kinh tế kế hoạch.Bị chà đạp suốt 10 năm thời Cách Mạng Văn
Hóa, nó chỉ sống lại từ 1979.
Từ quyết nghị của Đảng Cộng Sản Trung Quốc trong kỳ họp thứ ba của
đại hội lần thứ 11 tháng 12/1978, tư tưởng "Cải Cách, Khai Phóng" và "Bốn
Hiện Đại Hóa" đã đóng vai trò chủ đạo trong lĩnh vực kinh tế. Cuối năm
1999, đã có hơn 160 nghìn hãng ngoại quốc thu dụng 20 triệu nhân công hay
10% tổng số nhân lực của Trung Quốc và nguồn gốc của 21% tổng sản lượng
quốc nội.Tính ra hai mươi năm sau ngày " khai phóng ", sức mạnh kinh tế
Trung Quốc đã tăng gấp 20 lần . Sản lượng bình quân đầu người là 800 đô la
Mỹ, trong đó, Thượng Hải đạt cao nhất với con số 4000 đô la Mỹ trên mỗi
đầu người. Người ta dự tưởng năm 2015, tổng sản lượng Trung Quốc sẽ đứng
thứ nhì thế giới và vượt cả toàn thể Thị Trường Chung Âu Châu. Sau 15 năm
liên tục thương lượng, vào tháng 11/2002, họ chính thức trở thành thành viên
WTO. Trung Quốc đang thực hiện hai kế hoạch lớn: "Tây Khí Đông Luân"


(dùng dầu khí miền Tây để chạy xe miền Đông) và "Nam Thủy Bắc Điệu"
(lấy nước Dương Tử tưới đồng bằng Hoàng Hà bị khô hạn).Quốc gia 1 tỷ 3
dân số này trong tương lai sẽ là đầu máy kinh tế và thị trường vĩ đại của thế
giới. Y. Inoue (Advertising, 27/8/2001) cho biết để hổ trợ cho sự phát triển
kinh tế ấy, quảng cáo thương mại đã bắt đầu như từ con số không năm 1981

để tăng đến 713 lần vào năm 2000. Hãy xem đồ biểu sau đây:
Đồ biểu 20.2: Sự trưởng thành của quảng cáo thương mại Trung Quốc
(đơn vị RMB: Rimminbi hay Nhân Dân Tệ)
Năm Doanh số (đơn vị 10000 RMB) Chi phí quảng cáo trên đầu
người (RMB)

Số hãng quảng cáo Số nhân viên ngàah quảng cáo

1981 11500,0

0,117 1160 16160

1985 60532,5

0,571 6052 63819

1990 250172,6

2,188 11123131970

1995 2732630,0 2256248082477371
1996 3666502,0 2995752871512087
1997 4619638,0 3736857024545788
1998 5378327,0 4309261730578876
1999 6220372,0 4940464882587474
2000 7126631,7 5482070747641116
Xuất xứ : Y.Inoue (Advertising, dẫn nguồn tin của Trung Quốc Quảng
Cáo Hiệp Hội)
Có thể nói tất cả các hãng quảng cáo nổi tiếng trên thế giới đều có mặt
ở Trung Quốc, phần lớn là các hãng liên doanh. Ví dụ Thịnh Thế Trường

Thành (với Saatchi & Saatchi), Mạch Kiến Quang Minh (Mc Cann), Trung
Kiều Tri Ủy Thang Tôn (JW Thompson) Thượng Hải Áo Mỹ (Ogilvy &
Mather...). Ba hãng đại diện cho thế lực của Nhật là Dentsu, Hakuhodo va
Asatsu-DK. Trong mười hãng đứng đầu về doanh số, đã có 7 hãng Âu-Bắc
Mỹ, 1 hãng Nhật (Dentsu) và hai hãng Trung Quốc.


Theo Advertising Age, Trung Quốc đã bắt đầu duỗi chân ra thế giới
như mở chi nhánh ở Mỹ để nhắm thị trường Hoa Kiều ở đây (ví dụ hãng
quảng cáo Hairun đã liên hệ với một đồng nghiệp Hương Cảng nhằm phổ
biến thuốc gội đầu của Chongqing (Trùng Khánh) Olive Cosmestics Co Ltd
(1997) .Khách hàng của họ còn có VV Soybean Milk Powder (sữa đậu nành),
Flying Pigeon Cycles (xe đạp). Master Kang Instant Noodles (mì ăn liền),
Samsung (cơ khí, điện tử) và Jinro (rượu mạnh).
Ngày nay ở Trung Quốc, bốn loại quảng cáo thông dụng nhất là quảng
cáo bán lẻ & dịch vụ, y dược, vệ sinh hàng ngày và thức uống. Có đến 90%
quảng cáo đến từ các chủ quảng cáo sở tại.Các cơ quan điều tra về truyền
thông như AC Nielsen (Mỹ). SOFRES (Pháp), Dentsu Chuan Mei (Dentsu
Truyền Môi) (Nhật) đều có mặt. Quảng cáo thương mại ở Trung Quốc bao
trùm nhiều lĩnh vực từ nhật báo đến đa môi thể ( năm 2000, ở Trung Quốc đã
có 16,9 triệu người dùng mạng Internet).
Năm 1983, Trung Quốc có 52 đài (station) truyền hình thì cuối thập
niên 1990, con số đó đã lên đến 1000. Truyền hình Trung Quốc phủ sóng trên
80% lãnh thổ. Giữa thập niên 1990, gần 90% nóc gia thành phố đã trang bị
máy nhận hình màu, 80% nông thôn có máy màu hay đen trắng. Năm 1993,
800 triệu người Trung Quốc xem được truyền hình. Quảng cáo được truyền đi
ở Trung Quốc vào năm 1979 do đài Truyền Hình Thượng Hải, 20 năm sau khi
tiết mục truyền hình Trung Quốc đầu tiên được phóng ở Bắc Kinh.
Đồ biểu 20.3: Mười đài truyền hình lớn nhất tính theo doanh thu quảng
cáo, 1995.

Đài Truyền Hình Doanh Số (triệu RMB)
Trung Quốc Trung Ương Điện Thị
Bắc Kinh Điện Thị
Thương Hải Điện Thị
Thượng Hải Đông Phương Điện Thị
Quảng Đông Điện Thị


Sơn Đông Điện Thị
Triết Giang Điện Thị
Quảng Châu Điện Thị
Thiên Tân Điên Thị
Phúc Kiến Điện Thị

2000,00

358,99
310,00
243,26
188,00
150,00
135,90
130,00
115,00
110,00
Từ năm 1995, truyền hình trở thành môi thể quảng cáo số một của
Trung Quốc.Thế nhưng, điều đáng chú ý là sự hưng thịnh của quảng cáo
truyền hình mà Thượng Hải Đông Phương Điện Thị Đài là một bằng chứng.
Thành lập năm 1993, hãng này còn có tên là Shanghai Oriental Television, có
2 đài: một tập trung vào tin tức, giải trí và phóng sự tài liệu, một với thể thao,

kỹ thuật và chương trình dành cho trẻ em. Hiện nay đài có 400 nhân viên, tự
làm lấy một số chương trình và chỉ sống nhờ vàoquảng cáo. Ngoài ra, phải kể
tới Star TV. Tuy truyền hình ngoại quốc chưa được phép vào Trung Quốc
nhưng hãng này (trụ sở ở Hồng-Kông và vốn của tập đoàn Tân Tây Lan
Ruppert Murdoch) đã được phép liên doanh để truyền hình bằng Hoa ngữ và
nay được coi như là hãng truyền thông hàng thứ tư, thứ năm của Trung Quốc.
Chi nhánh của nó, Phoenix TV cùng với Hồ Nam Vệ Tinh Điện Thị Đài chỉ
đứng sau Trung Ương Điện Thị Đài. Phoenix TV sản xuất, phân phối và
quảng cáo. Phoenix không nhằm riêng người Trung Hoa lục địa mà cả ở nước
ngoài, Năm 1999 nó đã mở rộng đến Âu Châu và năm 2001, sang tận Mỹ.


×