Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

Joseph Brodsky Diễn từ Nobel 1987

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (517.72 KB, 64 trang )

_____________________________________________________________
Văn học Nga - Joseph Brodsky

Joseph Brodsky

Diễn từ Nobel 1987
Vũ Tuấn Hoàng dịch
Sau một thời gian dài, trong số các nhà văn thế giới đoạt giải Nobel, chỉ những tác giả ít
nhiều có những điểm gần gũi hoặc không trực tiếp xung đột với tư tưởng và hiện thực của
cách mạng giải phóng dân tộc và chủ nghĩa xã hội được chọn giới thiệu, hiện nay công chúng
văn học tại Việt Nam đã được mở rộng tầm nhìn hơn, có nhiều cơ hội tiếp xúc với những tác
giả khác. Tuy nhiên, việc xuất bản trọn vẹn các diễn từ Nobel bằng bản dịch tiếng Việt cho
đến nay vẫn không thể thực hiện tại Việt Nam, vì không ít tác giả từng đoạt giải thưởng này
và những diễn từ của họ, trong quan niệm của chính sách văn nghệ Việt Nam, tiếp tục thuộc
về vùng cấm. Nhà thơ Nga lưu vong Joseph Brodsky (1940-1996) là một trong số đó.
*

Quả là khiên cưỡng và cũng là một thử thách lớn khi đột nhiên được hiện diện trên
diễn đàn này, đối với một con người mà suốt cả cuộc đời rất đỗi xa lạ với một vai trò
xã hội nào đó, ví dụ như đối với Tổ quốc. Tốt hơn hết là làm một kẻ không gặp may
cuối cùng trong bầu không khí dân chủ còn hơn ở vị trí thống trị hay một kẻ tử vì đạo
trong một quốc gia độc tài.
Cảm giác này càng tăng lên không chỉ bởi ý nghĩ về những người đã đã đứng đây
trước tôi mà còn bởi ký ức về những con người mà vinh dự này đã bỏ qua họ, những
con người không thể phát biểu từ trên diễn đàn này. Sự im lặng của họ như thể đang
tìm kiếm và không tìm được lối ra với công chúng ở đây. Một điều duy nhất có thể hòa
giải các quí vị với tình trạng như vậy là một ý kiến rất đơn giản rằng, vì những nguyên
nhân thuần túy mang tính phong cách - nhà văn không thể nói thay lời nhà văn, đặc
biệt - nhà thơ lại càng không thể nói giúp hộ nhà thơ. Nếu như trên diễn đàn này là
Osip Mandelstam [1] , Marina Tsvetaeva, Robet Frost [2] , Anna Akhmatova [3] , Wystan
Auden, thì chắc họ cũng rất miễn cưỡng nói về chính bản thân mình, rất có thể, cũng


trải qua một cảm giác khiên cưỡng nào đó. Những hình bóng của họ thường làm tôi
bối rối, và còn làm tôi bối rối cho đến ngày hôm nay. Bất cứ trường hợp nào, họ cũng
không khuyến khích tôi nói ra những lời lẽ bóng bẩy, sáo rỗng. Trong những giây phút
tuyệt vời nhất, tôi luôn cảm thấy mình là Tổng số của họ, nhưng luôn luôn nhỏ hơn bất
cứ người nào trong đó riêng lẻ. Vượt được họ trong thơ ca là không thể và cũng không
thể vượt được họ trong cuộc đời. Chính cuộc đời đầy bi kịch và đau khổ của họ đã
buộc tôi phải thường xuyên, rõ ràng là thường xuyên hơn sự cần thiết, nuối tiếc cho sự
chuyển động của thời gian. Nếu như thế giới bên kia có tồn tại - tôi không có khả năng
tước bỏ của họ cuộc sống vĩnh cửu, lại càng không có khả năng quên được sự tồn tại
của họ trên cõi đời này. Nếu như thế giới bên kia có tồn tại, tôi hy vọng rằng họ sẽ tha
thứ cho chất lượng của những điều mà tôi định trình bày ở đây: Cuối cùng, giá trị nghề
nghiệp của chúng ta, đâu phải đo được bằng cách hành xử trên diễn đàn này.
Tôi chỉ đưa ra đây năm đại diện mà sáng tác và số phận của họ rất đỗi quí giá đối với
tôi, nếu không có họ với tư cách một nhà văn cũng như một con người, tôi cũng không
được như bây giờ, hay nói chính xác hơn, tôi sẽ không được đứng ở đây ngày hôm
nay. Những cái bóng này, hay nói chính xác hơn - những nguồn sáng này, hay cũng có
1


_____________________________________________________________
Văn học Nga - Joseph Brodsky
thể là những ngọn đèn? Những vì sao? Tất nhiên nhiều hơn số 5 rất nhiều. Số lượng
những con người đó rất khổng lồ trong cuộc sống của bất cứ một nhà văn nào. Trong
trường hợp của tôi, nó được nhân lên gấp đôi nhờ hai nền văn hóa mà định mệnh đã
bắt tôi phải thuộc về chúng. Thật cũng không cảm thấy dễ chịu hơn khi nghĩ về những
người đương thời, những nghệ sĩ đồng nghiệp ở trong hai nền văn hóa này, về những
nhà thơ, nhà văn mà tài năng của họ tôi đánh giá cao hơn của bản thân mình. Cũng có
thể, họ có nhiều điều đáng nói với thế giới hơn tôi. Bởi vậy, tôi mạn phép đưa ra đây
một loạt các nhận định - cũng có thể, còn rời rạc thiếu cân đối, khiến thính giả phải
khó chịu vì chúng chẳng liên quan gì đến nhau. Tuy nhiên, số lượng thời gian để tập

hợp những suy nghĩ đó và chính nghề nghiệp của tôi đã lên tiếng bảo vệ tôi, dù chỉ
một phần nào đó, khỏi những lời chỉ trích về sự hỗn độn đó. Con người theo nghiệp
văn chương không mấy ai có được tính hệ thống trong tư duy. Nhưng anh ta lại vươn
tới toàn bộ hệ thống. Điều này ở anh ta, đã thành một qui luật, mang tính chất vay
mượn: từ môi trường, từ xã hội, từ những bài học triết học thời trai trẻ. Không có gì
thuyết phục được người nghệ sĩ hơn là sự ngẫu hứng của những phương tiện mà anh ta
sử dụng để đạt đến mục đích này hay mục đích khác - ngay cả đối với một mục đích
thường xuyên nhất, đó là quá trình sáng tạo, quá trình tạo thành các tác phẩm. Các vần
thơ, theo lời của Akhmatova, được “mọc” lên từ đống rác. Còn cội rễ của văn xuôi cũng không thánh thiện gì hơn.
Nếu như nghệ thuật có dạy được điều gì đó (mà người nghệ sĩ là đầu tiên) thì chính là
sự độc lập của sự tồn tại của con người. Vốn là một hình thức cổ xưa nhất, hay nói
chính xác hơn - hình thức tư nhân hóa, Nghệ thuật, muốn hay không muốn, cũng khơi
dậy trong con người cái bản ngã của anh ta, tính độc nhất vô nhị, tính cá thể - biến anh
ta từ một sinh vật mang tính xã hội thành một nhân cách. Nhiều cái có thể chia sẻ được
như bánh mì, nơi ở, ý kiến, người yêu - song, không thể chia sẻ thơ ca được, Rainer
Maria Rilke đã nói như vậy. Một tác phẩm nghệ thuật, đặc biệt là văn học, đặc biệt
hơn nữa là thơ, đối thoại với con người một cách trực diện, tête-à-tête, không cần trung
gian. Chính vì điều này mà những kẻ ghen tỵ với những giá trị cao cả, những kẻ thống
trị không mấy có thiện cảm với nó nói chung và đặc biệt đối với văn học và thơ ca nói
riêng. Ở đâu mà nghệ thuật tồn tại, ở đâu mà tiếng thơ vang lên, những kẻ đó đều nhận
thấy rằng thay vào sự đồng tình, thống nhất mong đợi là sự thờ ơ và bất đồng, thay vào
sự kiên quyết hành động lại là sự sao nhãng và ghê tởm. Hay nói một cách khác,
những kẻ thống trị, những kẻ thù địch với những giá trị cao cả, rắp tâm biến con người
thành những số không nhỏ bé, thì Nghệ Thuật lại vẽ lên số không đó “hai con mắt mũi - mồm”, biến mỗi số không dù có thể không phải bao giờ cũng duyên dáng thành
một cây lúa mì mang tính người
Nhà thơ vĩ đại Baratynski khi nói về Nàng thơ, đã khắc họa chân dung Nàng với vẻ
mặt rất “đặc trưng riêng biệt”. Trong khi tìm kiếm cái biểu hiện đặc trưng riêng biệt
đó, rõ ràng, nảy sinh ý nghĩa của sự tồn tại của mỗi cá thể, và chúng ta hình như về
mặt bản năng đã được chuẩn bị kỹ càng cho quá trình này. Dù bất kể con người đó là
ai, là nhà văn hay độc giả, thì nhiệm vụ tối cao nhất vẫn là phải sống hết cuộc đời của

chính mình chứ không phải cuộc đời được định trước, được xếp đặt trước từ bên
ngoài, thậm chí ngay cả cuộc đời đó trông có vẻ hào nhoáng, cao thượng. Bởi vì, mỗi
con người chỉ một lần sống mà thôi, hơn nữa chúng ta biết rõ cái đích cuối cùng phải
tới. Thật đáng buồn khi phải sử dụng cái cơ hội duy nhất này để lặp lại dung mạo của
2


_____________________________________________________________
Văn học Nga - Joseph Brodsky
ai đó, kinh nghiệm của ai đó, và cũng thật đáng giận những người nào sẵn sàng đồng ý
với sự trùng lặp này theo mệnh lệnh của những kẻ thống trị. Không ai nằm chung quan
tài với họ và cũng chẳng ai hé môi nói một lời cảm ơn.
Tôi thiết nghĩ, Ngôn ngữ và Văn học - đó là những phạm trù cổ điển, tất yếu và trường
tồn hơn bất cứ hình thái tổ chức xã hội nào. Sự bất bình căm phẫn, sự mỉa mai chua
cay hay là sự thờ ơ bất cần đối với xã hội được thể hiện trong văn học, về thực chất, là
sự phản ứng của cái vĩnh cửu đối với những cái tạm thời, cái hạn chế. Nếu một khi nhà
nước cho phép mình can thiệp vào hoạt động văn học, thì văn học cũng có quyền can
thiệp vào công việc của nhà nước. Hệ thống chính trị, hình thái xã hội, cũng như bất kể
các hệ thống nào nói chung đều là biểu hiện của thời quá khứ, muốn níu kéo hiện tại
(và đôi khi vươn tới cả tương lai). Đối với con người mà nghề nghiệp là Ngôn ngữ anh ta là người cuối cùng có thể cho phép mình quên đi điều này. Mối nguy hiểm thực
sự đối với nhà văn không chỉ là sự truy đuổi từ phía chính quyền mà còn nguy cơ bị nó
thôi miên. Nhà nước với những biến động khủng khiếp của nó luôn hướng tới cái tốt
hơn, song luôn luôn chỉ là những hình thức tạm thời mà thôi.
Dưới phạm trù triết học, nhà nước và các chuẩn mực đạo lý của nó, chưa tính đến các
giá trị thẩm mỹ của nó - luôn thuộc về cái “ngày hôm qua”. Ngôn ngữ, văn học - luôn
thuộc về cái “ngày hôm nay”. Đặc biệt, trên quan điểm chính thống của hệ thống chính
trị này hay khác - nó thậm chí thuộc về cả cái “tương lai” nữa. Một trong những công
lao to lớn của văn chương là giúp con người xác định được thời gian tồn tại của anh ta,
phân biệt anh ta trong đám đông, tránh sự trùng lặp hay còn gọi dưới một cái tên rất
vinh dự là “nạn nhân của lịch sử”. Nghệ thuật nói chung và văn học nói riêng càng

tuyệt vời bao nhiêu thì càng khác biệt với đời sống bấy nhiêu và luôn luôn thúc đẩy sự
lặp lại. Trong cuộc sống đời thường, bạn có thể kể một câu chuyện tiếu lâm đến ba lần
và cả ba lần đều gây tiếng cười. Câu chuyện đó đã trở thành thành viên của xã hội.
Trong nghệ thuật, hình thức tương tự như vậy được gọi dưới cái tên “bản sao”. Nghệ
thuật là một loại súng đại bác không giật. Sự phát triển của nó được xác định không
phải bằng tính cách cá nhân của người nghệ sĩ mà bằng tính năng động và lô gích của
chính chất liệu, bằng số phận trước đó của các phương tiện đang đòi hỏi tìm ra một
giải pháp thẩm mỹ mới về chất lượng. Bản chất vốn dĩ mang tính di truyền, năng động,
lại lô gích, Nghệ Thuật không trùng lặp mà tồn tại song song với lịch sử mà phương
thức tồn tại là tạo nên một hiện thực thẩm mỹ mới. Chính vì lẽ đó, Nghệ thuật thường
ở “phía trước sự Tiến Bộ”, ở phía trước lịch sử, mà công cụ cơ bản của nó, chẳng phải
Karl Marx đã từng xác định một cách chính xác cho chúng ta? - chính là sự “nhân
bản”.
Hiện nay, có một ý kiến khá phổ biến cho rằng, nhà văn và đặc biệt là nhà thơ cần phải
sử dụng ngôn ngữ của đường phố, ngôn ngữ của đám đông trong các tác phẩm của
mình. Xét trên quan điểm dân chủ và những lợi thế thực tế cảm nhận được đối với nhà
văn, ý kiến này hoàn toàn nhảm nhí. Nó bao hàm ý định biến Nghệ thuật mà cụ thể ở
đây là văn học, phải lệ thuộc vào lịch sử. Nhưng một khi chúng ta quyết định rằng đã
đến lúc phải dừng lại, văn học cần phải nói tiếng nói của nhân dân. Song cũng nên
hiểu ngược lại, nhân dân cần phải nói ngôn ngữ của văn chương. Bất kể một hiện thực
thẩm mỹ mới nào cũng khiến cho đạo đức của con người ta trở nên tinh tế hơn. Hay
nói ngắn gọn hơn: Thẩm mỹ là người mẹ của đạo đức. Các khái niệm Đẹp và Xấu - là
3


_____________________________________________________________
Văn học Nga - Joseph Brodsky
các khái niệm mang tính thẩm mỹ, sơ bộ ban đầu của phạm trù cái Thiện, cái Ác.
Trong đạo đức không phải “mọi cái đều có thể cho phép” bởi vì trong thẩm mỹ cũng
không phải “mọi cái đều có thể cho phép”. Số lượng màu trong quang phổ cũng giới

hạn. Một đứa trẻ con khóc đẩy người lạ ra, hay ngược lại, bám riết lấy anh ta. Sự đẩy
ra hay là theo đó, về mặt bản năng, đứa trẻ đã thực hiện một sự lựa chọn thẩm mỹ chứ
không phải về mặt đạo đức.
Sự lựa chọn thẩm mỹ luôn luôn mang tính cá nhân, những day dứt, trăn trở thẩm mỹ
cũng lại hết sức riêng tư. Bất kể một hiện thực thẩm mỹ mới nào cũng làm cho con
người trở nên cá biệt hơn. Sự cá biệt này mang cả sắc thái thẩm mỹ văn học (hoặc một
sắc thái gì đó khác) và tự bản thân nếu không phải là bảo hiểm thì cũng là một hình
thức bảo vệ khỏi sự nô lệ. Con người có thẩm mỹ, đặc biệt là thẩm mỹ văn chương ít
bị tác động của sự lặp lại nhàm chán vốn là đặc điểm của bất cứ hình thái chính trị mị
dân nào. Vấn đề không phải là ở chỗ, đức hạnh không đảm bảo cho việc tạo nên một
kiệt tác, mà điều ác đặc biệt trong chính trị luôn luôn là một nhà phong cách tồi. Tài
sản về mỹ học của cá nhân càng giàu có bao nhiêu, thì khiếu thẩm mỹ càng vững chắc
bấy nhiêu và quan điểm đạo lý càng rõ ràng hơn. Do đó anh ta càng có tự do hơn, mặc
dù cũng có thể, chưa chắc đã hạnh phúc hơn.
Chính trong ý nghĩa thực dụng, cần phải hiểu câu nói nổi tiếng của nhà văn
Dostoïevski “Cái đẹp cứu rỗi nhân loại” hay lời phát ngôn của Matthew Arnold [4]
“Thơ ca cứu chúng ta”. Chắc hẳn, khó mà cứu nổi cả nhân loại. Song, hoàn toàn có thể
cứu được những con người cụ thể. Sự nhạy cảm thẩm mỹ trong con người phát triển
rất mạnh, thậm chí anh ta cũng chưa cần biết anh ta là ai, anh ta cần cái gì, nhưng đã
thành một qui luật gần như bản năng, con người biết được mình không thích gì và cái
gì làm cho anh ta khó chịu. Tôi xin nhắc lại, con người là một sinh vật thẩm mỹ trước
khi mang tính đạo đức. Bởi vậy, nghệ thuật đặc biệt là văn chương không phải là một
thứ phụ gia cho sự phát triển nòi giống mà hoàn toàn ngược lại. Nếu như cái gì đó làm
chúng ta khác biệt với các đại diện khác của thế giới động vật, thì đó chính là lời nói.
Văn học và đặc biệt là thơ ca là hình thức cao nhất của ngôn ngữ, hay nói một cách thô
thiển, nó là đặc trưng cho giống người chúng ta.
Tôi rất đỗi xa lạ với ý tưởng phổ cập việc dạy làm thơ cho tất cả mọi người. Hơn nữa,
tôi cũng không chấp nhận được việc phân chia xã hội ra giới trí thức và các thành phần
khác. Về mặt đạo lý, việc phân chia này cũng giống như việc phân chia xã hội thành
người giàu và người nghèo. Song, sự bất bình đẳng trong xã hội về mặt vật chất ở

chừng mực nào đó còn có thể hiểu được, nhưng đối với sự bất bình đẳng về trí tuệ thì
không thể chấp nhận được. Nếu nói chính xác ra, sự bình đẳng đối với chúng ta đã
được tạo hóa đảm bảo rồi. Vấn đề ở đây không phải là học vấn mà là sự hình thành lời
nói. Sự tồn tại của văn chương ở đây tất nhiên là nói đến sự tồn tại trên cả bình diện
đạo đức lẫn ngôn ngữ. Nếu một khi tác phẩm âm nhạc còn đặt con người ta trước sự
lựa chọn giữa vai trò thụ động của người nghe và tính tích cực của người biểu diễn, thì
một tác phẩm văn học - nghệ thuật, theo như cách diễn giải của Montale [5] , chỉ thuần
túy ngữ nghĩa và chỉ đóng vai trò người biểu diễn.
Trong vai diễn này, tôi có cảm giác, con người cần phải phát biểu nhiều hơn bất cứ vai
diễn nào khác. Hơn thế nữa, vai trò này là kết quả của sự bùng nổ lan tỏa và liên quan
4


_____________________________________________________________
Văn học Nga - Joseph Brodsky
tới quá trình ngày càng “nguyên tử hóa” toàn xã hội, điều này có nghĩa là sự phân ly
ngày càng tăng của các cá thể càng trở nên cấp bách, khó tránh khỏi. Tôi không nghĩ
rằng, tôi hiểu đời hơn bất cứ ai đó cùng lứa tuổi, song tôi cảm thấy rằng, trên phương
diện một người đối thoại, cuốn sách còn có ích hơn một người bạn hay một người tình.
Tiểu thuyết hay thơ ca - đấy không phải là độc thoại, mà là cuộc trò chuyện giữa nhà
văn và độc giả. Cuộc trò chuyện - tôi xin nhắc lại - hoàn toàn mang tính cá nhân.
Trong thời điểm trò chuyện này, nhà văn ngang bằng với độc giả, không phụ thuộc
vào việc đây là nhà văn vĩ đại hay tầm thường. Sự ngang bằng này là sự ngang bằng về
nhận thức và nó sẽ còn lại với người đọc suốt cả cuộc đời dưới dạng ký ức, có thể là
mù mờ hay rõ ràng, sớm sủa hay muộn màng, và nó sẽ xác định hành vi của cá nhân
đó. Chính điều mà tôi muốn nói là khi nhắc đến vai người biểu diễn, thì tiểu thuyết hay
thơ ca đều là sản phẩm của mối cô đơn đồng điệu của nhà văn và độc giả.
Trong lịch sử loài người, sách là một phát minh vĩ đại mang tính nhân chủng học, xét
về bản chất giống với sự phát minh ra bánh xe. Sách không chỉ cho chúng ta khái niệm
về nguồn gốc tổ tiên mà còn là phương tiện di chuyển trong không gian của kinh

nghiệm với tốc độ lật giở một trang sách. Riêng nói về sự dịch chuyển, cũng giống
như bất cứ sự chuyển động nào khác, cuối cùng phải được xem như một cuộc chạy
trốn khỏi một cái mẫu số chung, chạy trốn khỏi những ý đồ muốn trói buộc cái mẫu số
chung này những đặc tính không cao quá thắt lưng, trói buộc trái tim của chúng ta,
nhận thức của chúng ta và cả óc tưởng tượng của chúng ta. Cuộc trốn chạy này là cuộc
trốn chạy về phía tử số, về phía biểu hiện của một khuôn mặt riêng biệt, về phía một cá
tính. Chúng ta được cấu tạo bởi theo mẫu nào đây, khi dân số của thế giới đã là 5 tỷ
người. Con người ta chẳng có một tương lai nào khác ngoài cái tương lai mà nghệ
thuật đã phác họa ra. Trong trường hợp ngược lại, quá khứ đang chờ đón chúng ta trước tiên, là quá khứ chính trị với tất cả các sắc thái đại chúng, cảnh sát của nó.
Trong bất kể trường hợp nào, vị thế mà trong đó nghệ thuật nói chung và văn chương
nói riêng chỉ là sở hữu của thiểu số, đối với tôi, có điều gì đó không lành mạnh, ẩn
chứa nhiều mối đe dọa. Tôi không kêu gọi thay nhà nước bằng thư viện, mặc dù ý nghĩ
này đã xuất hiện nhiều lần trong đầu tôi. Song, tôi không nghi ngờ rằng khi chúng ta
chọn những người thống trị chúng ta trên cơ sở kinh nghiệm sách vở của họ, hơn là
trên cơ sở những chương trình chính trị, thì trên trái đất này nỗi đau khổ đã ít đi rất
nhiều. Tôi trộm nghĩ rằng, đối với những người nắm giữ số phận của chúng ta, trước
hết cần phải tự hỏi xem không phải là chính sách đối ngoại ra làm sao mà là họ nghĩ gì
về Stendhal, Dickens, Dostoïevski.
Thức ăn không thể thiếu được của văn chương chính là sự phong phú đa dạng và
những mặt xấu của cuộc đời. Chính văn học là thuốc giải độc hữu hiệu nhất cho những
mưu toan giải quyết các vấn đề của con người một cách tập thể, đồng nhất. Như một
hệ thống bảo hiểm về đạo đức, văn chương còn có ích hơn bất cứ hệ thống tín ngưỡng
cũng như các học thuyết triết lý nào khác. Bởi vì, chẳng có một thứ luật pháp nào bảo
vệ chúng ta khỏi chính bản thân chúng ta. Không có một bộ luật hình sự nào đề cập tới
việc cần phải trừng phạt những tội ác chống lại văn chương. Trong các lọai tội ác, thì
ghê tởm nhất lại không phải là truy đuổi tác giả, không phải là kiểm duyệt khắt khe,
không phải là đốt sách mà là sự khinh bỉ đối với sách và không đọc sách. Con người
5



_____________________________________________________________
Văn học Nga - Joseph Brodsky
phải trả giá bằng cả cuộc đời mình cho tội ác này. Nếu một dân tộc phạm phải tội này,
thì dân tộc đó phải trả giá bằng cả lịch sử của mình.
Chỉ khi sống trong một đất nước như hiện nay tôi đang sống, lần đầu tiên tôi mới tin
rằng có tồn tại một tỷ lệ nào đó giữa sự phồn thịnh về vật chất và sự dốt nát về văn
chương của con người. Lịch sử của đất nước mà tôi sinh ra và lớn lên đã ngăn cản tôi
tin vào điều này. Bi kịch Nga - đó là bi kịch của một xã hội mà ở đó văn chương là đặc
quyền của thiểu số: giới trí thức Nga.
Tôi không muốn lan man sâu quá về đề tài này, không muốn làm u ám buổi lễ bằng
những ý nghĩ về hàng chục triệu số phận bị đày đọa, vùi dập. Những gì xảy ra ở nước
Nga trong nửa đầu thế kỷ XX, đã từng xảy ra trước khi vũ khí tiểu liên tự động được
đưa vào sử dụng - vì sự toàn thắng của một học thuyết chính trị, mà sự phá sản của nó
nằm ngay ở chỗ nó cần được nuôi sống bằng máu người. Tôi xin nói rằng, đây không
phải xuất phát từ kinh nghiệm, mà thuần túy lý thuyết, đối với một người đã đọc kỹ
Dickens, tự hủy hoại bản thân như vậy chỉ vì một lý tưởng sẽ khó khăn hơn một người
chưa từng đọc ông. Tôi nhấn mạnh đó là Dickens, Stendhal, Dostoïevski, Flaubert,
Balzac, Melville, Proust, Musil [6] ... là văn học chứ không nói tới trình độ học vấn.
Một người có trình độ học vấn, có thể lên lớp đựợc những bài diễn văn chính trị,
nhưng hoàn toàn có thể hủy hoại bản thân theo kiểu tương tự thậm chí còn cảm thấy
sung sướng, tự hào. Lenin là người có học, Stalin cũng vậy, Hitler không kém, Mao
Trạch Đông còn sáng tác thơ ca. Song, danh sách những nạn nhân của các lãnh tụ trên
vượt quá xa danh sách những trang sách họ đã đọc.
Trước khi chuyển sang bàn về thơ ca, tôi những muốn được thêm rằng kinh nghiệm
của nước Nga cần được xem xét một cách thông minh như một sự cảnh báo, mặc dù
cấu trúc xã hội của Phương Tây nói chung cho đến nay là giống nước Nga trước năm
1917 (Điều này còn được giải thích tại sao các tiểu thuyết tâm lý xã hội của Nga thế kỷ
XIX lại rất nổi tiếng ở Phương Tây còn văn học hiện đại lại không được chú ý mấy).
Chỉ nói riêng số lượng các đảng phái chính trị, trước cuộc đảo chính tháng Mười năm
1917, không ít hơn tại Mỹ và Anh ngày nay. Hay nói một cách khác, một con người

thờ ơ với thời cuộc cũng có thể nhận thấy rằng, thế kỷ XIX ở Tây Âu vẫn còn đáng
tiếp diễn trên một bình diện nào đó. Còn ở Nga, nó đã chấm dứt. Nếu như tôi có nói
rằng, nó chấm dứt một cách bi đát trước hết là vì số lượng khổng lồ các nạn nhân mà
sự thay đổi xã hội gây nên. Trong một bi kịch thực sự - nguời chết không phải là nhân
vật chính mà là cả dàn diễn viên.
Đối với một người mà tiếng mẹ đẻ là tiếng Nga thì các câu chuyện bàn về những tội ác
chính trị cũng tự nhiên như việc tiêu hóa vậy. Tôi muốn thay đổi đề tài. Sự không đầy
đủ về những câu chuyện đó dễ làm sa đọa nhận thức của chúng ta bởi sự dễ dãi và cảm
giác đạt tới sự thật quá dễ dàng. Ở đây ẩn chứa sự quyến rũ, về mặt bản chất nó cũng
giống sự quyến rũ của một nhà cải cách xã hội. Điều ác ở đây mang bộ dạng của người
khai sinh. Nhận thức được sự quyến rũ này và tránh nó ra trong một chừng mực nhất
định nào đó bao hàm cả trách nhiệm đối với số phận của rất nhiều người đương thời
của tôi, đấy là còn chưa nói đến những bạn bè văn chương. Đó cũng là trách nhiệm đối
với văn học. Nhưng văn học này không phải là thứ văn học trốn chạy khỏi lịch sử,
không phải loại văn học làm lu mờ trí nhớ như người ngoài vẫn tưởng. “Làm sao có
thể sáng tác nhạc sau vụ thảm sát Auschwitz?”, Adorno [7] đã từng đặt câu hỏi như vậy.
6


_____________________________________________________________
Văn học Nga - Joseph Brodsky
Bất kể người nào am hiểu lịch sử nước Nga đều có thể nhắc lại câu hỏi đó, chỉ cần
thay tên trại tập trung khác mà thôi. Hoàn toàn có quyền nhắc lại bởi vì số lượng người
bị đày đọa trong các trại tập trung của Stalin vượt xa số lượng nạn nhân trong các trại
tập trung của phát xít Đức. “Làm sao có thể nuốt trôi miếng cơm sau vụ thảm sát
Auschwitz?”, nhà thơ Mỹ Mark Strand đã từng nhận định như vậy. Thế hệ của tôi hóa
ra lại có khả năng sáng tác thứ âm nhạc này.
Đó là một thế hệ được sinh ra đúng vào thời điểm lò thiêu Auschwitz làm việc hết
công suất, thời điểm Stalin đang đứng trên đỉnh cao nhất của quyền lực như Chúa trời.
Thế hệ này sinh ra, xét về tổng thể, để tiếp tục những cái gì về mặt lý thuyết đáng lẽ

phải bị thiêu hủy trong các lò thiêu xác hay trong các nấm mồ tập thể của các trại tập
trung dưới thời Stalin. Song, một sự thật là không phải mọi cái đều bị thiêu hủy, vùi
dập, ít ra là ở Nga. Ở đây, có công lao đóng góp không nhỏ của thế hệ chúng tôi. Tôi
rất lấy làm tự hào vì mình thuộc thế hệ đó. Niềm tự hào chẳng kém việc tôi đang đứng
ở đây, ngày hôm nay. Việc tôi đang đứng ở đây hôm nay là sự công nhận công lao của
thế hệ này đối với văn hóa, và khi nhớ đến Mandelstam tôi muốn được bổ sung thêm đối với nền văn hóa của nhân loại. Ngoảnh lại nhìn, tôi có thể nói có thể nói rằng
chúng tôi bắt đầu từ một chỗ trống - hay nói chính xác hơn trên một chỗ đầy đe dọa
bởi sự trống rỗng của mình. Bằng bản năng hơn là bằng ý thức, chúng tôi hướng đến
việc tạo dựng tính hiệu quả liên tục của văn hóa, khôi phục lại chân dung cũng như
những lối đi, tạo cho chúng những hình thức hoàn toàn mới bằng các nội dung của
mình, vừa hiện đại vừa đại chúng.
Chắc hẳn, còn tồn tại một con đường khác - con đường của những biến đổi dị dạng, thi
ca của những mảnh vỡ và đổ nát, của hơi thở bị bóp nghẹt. Nếu như chúng ta có chối
bỏ con đường đó thì cũng không phải vì đó là con đường mang đầy bi kịch, cũng
không phải vì chúng ta được cổ súy bởi tư tưởng giữ gìn các hình thức mang tính di
truyền cao thượng của văn hóa. Chúng ta chối bỏ con đường đó bởi vì trên thực tế sự
lựa chọn không phải của chúng ta mà là sự lựa chọn của văn hóa - sự lựa chọn này vẫn
lại là mang tính thẩm mỹ chứ không mang tính đạo lý. Tất nhiên rằng, con người suy
luận một cách tự nhiên về bản thân không phải là công cụ của văn hóa mà ngược lại là
người sáng tạo và gìn giữ văn hóa. Song, nếu như hôm nay tôi có khẳng định một điều
trái ngược lại thì đó cũng không phải do có sự quyến rũ nhất định nào đó trong việc
mô phỏng lại vào những năm đầu của thế kỷ XX các bậc vĩ nhân như Plotinus [8] , Lord
Shaftesbury, Schelling hay Novalis, còn nhà thơ thì luôn luôn hiểu sâu sắc rằng tất cả
những gì trong ngôn ngữ bình dân được gọi dưới cái tên Nàng Thơ, trên thực tế là sự
bức bách của ngôn từ, không phải ngôn ngữ là công cụ của nhà thơ mà nhà thơ sử
dụng phương tiện ngôn ngữ để kéo dài sự tồn tại của bản thân mình. Ngôn ngữ - nếu
như xem nó như một sinh vật sống - thì nó cũng không nằm trong sự phân loại về nhân
chủng học.
Con người ta sáng tác thơ theo những nguyên nhân và ý định khác nhau: hoặc để
chiếm trái tim của người mình yêu, hoặc để bày tỏ thái độ của mình đối với thế giới

xung quanh, có thể là phong cảnh mà cũng có thể là cả quốc gia. Người ta còn sáng tác
thơ để khắc họa lại trạng thái nội tâm ở vào một thời điểm nào đó, hoặc để lại dấu ấn
của mình trên thế gian này như anh ta mong muốn. Con người cầu cứu tới hình thức
thể hiện là thơ ca theo những suy tính mang đậm màu sắc vô thức: một hàng chữ đen
7


_____________________________________________________________
Văn học Nga - Joseph Brodsky
chạy dọc trang giấy trắng, rõ ràng, nó nhắc nhở con người về vị trí của anh ta trên thế
giới, về tỷ lệ không gian đối với cơ thể của anh. Song, cũng chẳng phụ thuộc vào
những suy tính mà vì chúng mà anh ta cầm bút, cũng chẳng phụ thuộc vào hiệu quả
gây ra bởi những gì tuôn ra từ dưới ngòi bút, khán thính giả của anh ta đông đảo hay ít
ỏi – hậu quả nhanh chóng của công việc này - cảm giác tiếp xúc trực tiếp với ngôn
ngữ, hay chính xác hơn - cảm giác nhanh chóng bị lôi cuốn vào sự phụ thuộc đối với
những gì đã được nói ra, được viết ra.
Sự phụ thuộc này vừa tuyệt đối, vừa chuyên quyền những lại có sức giải phóng. Ngôn
ngữ, vốn dĩ “già cỗi” hơn nhà văn, mang trong mình một lực ly tâm khổng lồ, được bồi
đắp thêm bởi những tiềm năng của tất cả những gì nằm trong vòng cương tỏa của Thời
gian. Tiềm năng này không chỉ được xác định bằng số lượng thành phần các dân tộc
nói thứ ngôn ngữ đó mà còn chất lượng nền thi ca được sáng tác bằng thứ ngôn ngữ
đó. Điều này đủ rõ khi nhớ lại các tác giả của La Mã và Hy Lạp cổ đại, hoặc Dante.
Tôi có thể đưa ra một thí dụ, những tác phẩm được tạo dựng trên tiếng Nga và tiếng
Anh ngày hôm nay bảo đảm cho các ngôn ngữ này tồn tại cả nghìn năm sau nữa. Nhà
thơ, tôi xin nhắc lại, chính là phương tiện tồn tại của ngôn ngữ. Hay nói như Auden vĩ
đại: Ngôn ngữ sống được bởi nhà thơ. Sẽ không còn tôi, sẽ không còn các bạn những
độc giả đọc những dòng chữ này, song, ngôn ngữ mà chúng được viết ra sẽ còn tồn tại
mãi mãi, không chỉ bởi vì ngôn ngữ vĩnh cửu hơn con người mà còn bởi vì nó thích
nghi tốt hơn với sự đột biến. Nhà thơ khi sáng tác thơ không chỉ tính toán đến vinh
quang sau khi chết, cho dù anh ta cũng vẫn hy vọng rằng thơ của anh sống lâu hơn dù

không nhiều. Nhà thơ viết thơ bởi vì ngôn ngữ mách bảo anh, hay nói đơn giản hơn, là
đọc cho anh những dòng này. Về nguyên tắc, khi bắt đầu bài thơ nhà thơ không biết nó
sẽ kết thúc ra sao. Và rồi, nhà thơ phải lấy làm ngạc nhiên bởi những vần thơ được viết
ra, lắm khi lại còn hay hơn sự mong muốn. Ở đây, xuất hiện một thời điểm khi mà
tương lai của ngôn ngữ can thiệp vào hiện tại của ngôn ngữ. Như chúng ta đã biết, có
ba phương pháp nhận biết thực tại: phân tích, cảm tính và một phương pháp nữa đã
được các nhà tiên tri trong Kinh thánh sử dụng - các phát kiến. Sự khác biệt của thi ca
đối với các loại hình văn học khác là nó sử dụng đồng thời cùng một lúc cả ba phương
pháp này bởi vì cả ba phương pháp đều có trong ngôn ngữ. Với sự giúp đỡ của một từ,
một âm điệu, người làm thơ có thể đến được nơi mà trước đó chưa ai đặt chân tới, trở
thành cái mà anh mong ước. Nhà thơ sáng tác bởi vì quá trình làm thơ là một quá trình
tăng tốc kinh khủng về nhận thức, tư duy và cảm thụ thế giới. Một khi đã trải qua tâm
trạng này một lần, con người ta không đủ sức để cưỡng lại các lần tiếp theo. Anh ta rơi
vào tình trạng bị cầm tù bởi quá trình này chẳng khác gì nghiện ma túy hay nghiện
rượu vậy. Con người chịu sự chi phối của ngôn từ tương tự như vậy, tôi xin mạn phép
được gọi là Nhà Thơ.
------------------[1]

Osip Mandelstam (1891-1938), nhà thơ, nhà viết tiểu luận Xô Viết
Robert Lee Frost (1874-1963), nhà thơ người Mỹ
[3]
Anna Akhmatova (1886-1966), nhà thơ người Nga
[4]
Matthew Arnold (1822-1888), nhà thơ, nhà phê bình người Anh
[5]
Engenio Montale (1896-1981), nhà thơ Italia, giải Nobel Năm 1975
[6]
Herman Melville (1819-1891), nhà thơ, tiểu thuyết gia người Mỹ
[7]
Theodor W. Adorno (1903-1969), triết gia Đức

[2]

8


_____________________________________________________________
Văn học Nga - Joseph Brodsky
[8]

Plotinus (205-270), Triết gia Hy Lạp
© 2004 talawas. Nguồn: Nguyên bản tiếng Nga diễn từ Nobel của J. Brodsky:
/>
Joseph Brodsky

Diễn từ Nobel
Ðoàn Tử Huyến dịch
Trên đây đã giới thiệu diễn từ Nobel của nhà thơ Mỹ gốc Nga Joseph Brodsky qua bản dịch
từ tiếng Nga của dịch giả Vũ Tuấn Hoàng. Nay xin tiếp tục giới thiệu diễn từ này qua bản
dịch cũng từ tiếng Nga của dịch giả Đoàn Tử Huyến.

I.
Ðối với một con người cá nhân và suốt đời coi trọng cái cá nhân này hơn bất kì vai trò
xã hội nào, đối với một con người trong sự coi trọng cá nhân đó đã đi khá xa - nói
riêng là đã xa cả tổ quốc, vì thà làm kẻ thiếu may mắn cuối cùng trong dân chủ còn
hơn làm người tuẫn đạo hay thủ lĩnh tinh thần trong độc tài - thì việc đột nhiên được
hiện diện trên diễn đàn này là một thử thách và khá là khó xử. [1]
Cái cảm giác đó càng tăng lên không chỉ bởi ý nghĩ về những người đã đứng ở đây
trước tôi, mà còn bởi kí ức về những người đã bị vinh dự này bỏ qua, về những người
không thể, như thường nói, từ diễn đàn này nói với urbi et orbi, [2] và sự im lặng chung
của họ dường như đang tìm kiếm và không tìm thấy lối thoát ở nơi quý vị.

Ðiều duy nhất có thể hòa giải quý vị với tình trạng tương tự là một suy diễn đơn giản theo những nguyên do trước hết mang tính phong cách - rằng nhà văn không thể nói
thay nhà văn, đặc biệt là nhà thơ càng không thể nói thay nhà thơ; rằng giá như đứng
trên diễn đàn này là Osip Mandelstam, Marina Svetaeva, Robert Frost, Anna
Akhmatova, Wystan Auden, [3] thì họ cũng chỉ, hoàn toàn không cố ý, nói riêng cho
chính họ mà thôi, và chắc hẳn là họ cũng sẽ cảm thấy ít nhiều khó xử như tôi.
Những cái bóng của họ thường xuyên khiến tôi cảm thấy bối rối, họ khiến tôi bối rối
cả trong ngày hôm nay. Trong bất kì trường hợp nào, họ cũng không khuyến khích tôi
hùng biện. Vào những giờ phút đẹp nhất của mình, tôi cảm thấy mình dường như là
tổng số của họ - nhưng bao giờ cũng nhỏ hơn bất kì một ai trong số họ nói riêng. Bởi
vì tốt hơn họ trên trang giấy là không thể; không thể tốt hơn họ cả trong cuộc đời, và
chính cuộc đời của họ, cho dù có bi thảm và cay đắng đến đâu, đã buộc tôi thường
xuyên - có thể là thường xuyên hơn cần thiết - nuối tiếc về sự chuyển động của thời
gian. Nếu như có tồn tại thế giới bên kia, mà việc chối bỏ khả năng có cuộc sống vĩnh
hằng của họ đối với tôi còn khó hơn là quên về sự tồn tại của họ ở cuộc đời này, nếu
như có tồn tại thế giới bên kia, thì tôi hi vọng là họ sẽ tha thứ cho tôi và cho chất lượng
những gì tôi sắp trình bày: nói cho cùng, tư cách nghề nghiệp của chúng tôi đâu phải
đo bằng cách hành xử ở trên diễn đàn.
Tôi chỉ gọi tên năm người - những người mà sáng tác và số phận của họ gần gũi đối
với tôi dù là chỉ vì rằng nếu không có họ thì với tư cách là một con người cũng như
9


_____________________________________________________________
Văn học Nga - Joseph Brodsky
một nhà văn tôi đáng giá không nhiều lắm: ít ra, tôi cũng không đứng ở đây ngày hôm
nay. Họ, những cái bóng này - hay diễn đạt đúng hơn: những nguồn sáng - những ngọn
đèn? những ngôi sao? - tất nhiên là nhiều hơn con số năm đó, và bất kì ai trong số họ
đều có thể buộc tôi phải im lặng tuyệt đối. Số lượng những người như vậy rất lớn
trong đời bất kì một nhà văn có ý thức nào; trong trường hợp của tôi số lượng đó còn
tăng gấp đôi nhờ hai nền văn hóa mà do ý chí của số phận tôi được thuộc về. Và sự bối

rối cũng không ít hơn khi nghĩ về những người đương thời, những đồng nghiệp cầm
bút ở cả hai nền văn hóa này, những nhà thơ và những nhà văn mà tài năng của họ tôi
đánh giá cao hơn của chính bản thân tôi, và nếu như họ có mặt trên diễn đàn này, chắc
họ đã nói được một cái gì đó rồi, bởi vì họ có nhiều điều để nói với thế giới hơn tôi.
Vì vậy, tôi mạn phép đưa ra ở đây một số nhận xét - có thể là thiếu cân đối, lộn xộn, và
có thể khiến quý vị phân vân vì sự rời rạc của chúng. Tuy nhiên, tôi hi vọng rằng
lượng thời gian ít ỏi dành cho tôi suy nghĩ về vấn đề này và chính bản thân nghề
nghiệp của tôi sẽ bào chữa hộ tôi, để dù là phần nào tránh khỏi những lời trách móc về
sự hỗn độn đó. Những người thuộc nghề nghiệp của tôi ít khi hướng tới tính hệ thống
của tư duy; trong trường hợp tệ nhất, họ cố hướng tới hệ thống. Nhưng cả điều này ở
họ cũng thường là vay mượn: vay mượn từ môi trường, từ cơ cấu xã hội, từ những bài
triết học trong thời trẻ êm đềm. Không có gì thuyết phục người nghệ sĩ tin vào tính
ngẫu nhiên của những phương tiện mà anh ta sử dụng để đạt đến mục đích này hay
mục đích khác, thậm chí cả mục đích thường xuyên, bằng chính quá trình sáng tạo,
quá trình làm nên tác phẩm. Thơ, theo lời của Akhmatova, quả thật mọc lên từ rác; cội
rễ của văn xuôi - cũng không tốt đẹp hơn.
II.
Nếu như nghệ thuật có dạy được một điều gì đó (và trước hết là cho người nghệ sĩ), thì
đấy là tính cá nhân của sự tồn tại của con người. Là hình thái cũ xưa nhất - và đúng
nghĩa gốc nhất - của doanh lợi cá nhân, nó (nghệ thuật) vô tình hay không vô tình,
khuyến khích trong con người chính cái cảm thức cá thể, duy biệt, riêng tư - biến anh
ta từ một động vật xã hội thành một nhân cách. Nhiều thứ có thể đem chia sẻ: bánh mì,
chỗ nằm, quan điểm, người tình - nhưng không thể đem chia, nói thí dụ, một bài thơ
của Rainer Maria Rilke. [4] Tác phẩm nghệ thuật, đặc biệt là văn học, và một bài thơ
nói riêng, đối thoại với con người tête-à-tête, [5] thiết lập quan hệ trực tiếp với con
người, không cần trung gian. Chính vì thế mà những kẻ nhiệt thành ủng hộ quyền lợi
đại đồng, những kẻ dẫn dắt quần chúng, những kẻ rao giảng tính tất yếu lịch sử không
thiện cảm với nghệ thuật nói chung, đặc biệt là với văn học và thơ ca nói riêng. Bởi vì
nơi nào nghệ thuật đã đi qua, nơi nào một bài thơ đã được đọc lên, thì họ tìm thấy thay
vào chỗ của sự đồng tình và thống nhất họ mong đợi là sự bàng quan và bất đồng; thay

vào quyết tâm hành động là thái độ thờ ơ, khinh thị. Nói cách khác, vào những con số
không, mà những kẻ nhiệt thành ủng hộ quyền lợi đại đồng và những kẻ dẫn dắt quần
chúng cứ lăm le tìm cách điều khiển, thì nghệ thuật lại điểm lên "chấm-chấm-phẩy với
dấu trừ", [6] biến mỗi con số không thành một gương mặt dù không phải bao giờ cũng
quyến rũ nhưng là của con người.
Nhà thơ Baratynsky [7] vĩ đại khi nói về Nàng Thơ của mình đã nói rằng nàng có "vẻ
mặt rất riêng". Có lẽ chính sự tìm kiếm cái "vẻ rất riêng" ấy là ý nghĩa của tồn tại cá
thể, bởi vì hình như về mặt di truyền chúng ta đã được chuẩn bị cho cái vẻ riêng ấy.
10


_____________________________________________________________
Văn học Nga - Joseph Brodsky
Không phụ thuộc vào việc con người là nhà văn hay độc giả, thì nhiệm vụ của anh ta
vẫn cứ là sống hết cuộc đời của chính mình chứ không phải cuộc đời được sắp xếp, bị
áp đặt từ bên ngoài, cho dù nó trông có vẻ hết sức tốt đẹp. Bởi vì mỗi người chúng ta
chỉ có một cuộc đời, và chúng ta biết rất rõ tất cả cái đó sẽ kết thúc như thế nào. Thật
đáng buồn khi đem cái cơ hội duy nhất này tiêu phí cho sự lặp lại vẻ ngoài của người
khác, kinh nghiệm của người khác, sống lặp - và càng đáng hận khi những kẻ rao
giảng tính tất yếu của lịch sử (mà theo lời họ, con người sẵn sàng đồng ý với sự sống
lặp đó) lại không cùng nằm vào quan tài với anh ta và không nói lời cám ơn anh ta.
Ngôn ngữ và, thiết nghĩ, cả văn học, là những thứ cổ xưa, tất yếu và trường tồn hơn
bất cứ một hình thái tổ chức xã hội nào. Sự bất bình, mỉa mai hay thờ ơ mà văn học
nhiều khi thể hiện đối với nhà nước thực chất là phản ứng của cái trường tồn, nói đúng
hơn là cái vô biên, đối với cái nhất thời, cái hữu hạn. ít nhất có thể nói rằng, chừng nào
nhà nước cho phép mình can thiệp vào công việc của văn học, thì văn học cũng có
quyền can thiệp vào công việc của nhà nước. Hệ thống chính trị, hình thái cấu trúc xã
hội, cũng như bất kì hệ thống nào nói chung, theo định nghĩa đều là hình thái của thời
quá khứ lăm le áp đặt mình cho hiện tại (và nhiều khi cả cho tương lai), và con người
lấy ngôn ngữ làm nghề nghiệp sẽ là kẻ cuối cùng có thể cho phép mình quên về điều

đó. Mối nguy hiểm thật sự đối với nhà văn không chỉ là khả năng (nhiều khi hiện thực)
bị truy bức từ phía nhà nước, mà còn là khả năng trở thành kẻ bị thôi miên bởi những
dáng dấp hùng vĩ hoặc hứa hẹn những thay đổi tốt hơn - nhưng bao giờ cũng chỉ là
nhất thời - của nhà nước.
Triết lí của nhà nước, đạo lí của nó, chưa nói đến thẩm mĩ của nó - luôn luôn là "hôm
qua"; ngôn ngữ, văn học - luôn luôn là "hôm nay" và nhiều khi - đặc biệt là trong một
hệ thống chính trị bảo thủ chính thống nào đó - thậm chí là "ngày mai". Một trong
những công lao của văn học là ở chỗ nó giúp con người xác định thời gian tồn tại của
mình, phân biệt mình trong đám đông những người sống trước cũng như những người
cùng thời, tránh sự lặp lại, tức là tránh cái số phận được tôn vinh bằng một tên gọi
khác là "nạn nhân của lịch sử". Cái tuyệt vời, và cũng là cái khác với cuộc sống, của
nghệ thuật nói chung và văn học nói riêng là nó luôn luôn tránh sự lặp lại. Trong cuộc
sống thường nhật, anh có thể kể ba lần cùng một câu chuyện tiếu lâm và cả ba lần vẫn
gây cười và trở thành tâm điểm của đám đông. Trong nghệ thuật, cách thức hành động
như vậy được gọi là cliché. [8] Nghệ thuật là loại vũ khí không giật, và sự phát triển của
nó được xác định không phải bởi tính cá nhân người nghệ sĩ, mà bởi động thái và logic
của chính bản thân chất liệu, bởi số phận trước đó của các phương tiện đòi hỏi lần nào
cũng phải tìm ra (hoặc gợi ý) một giải pháp thẩm mĩ mới về chất lượng. Mang sẵn tính
di truyền riêng, động thái, logic và tương lai riêng, nghệ thuật không đồng nghĩa lịch
sử, mà song hành với lịch sử, và phương thức tồn tại của nó là tạo nên mỗi lần một
hiện thực thẩm mĩ mới. Chính vì thế nhiều khi nó "đi trước sự tiến bộ", đi trước lịch
sử, cái lịch sử với công cụ cơ bản - chúng ta có cần hiệu chỉnh lại lời của Marx? chính là cliché.
Hiện nay hết sức phổ biến ý kiến cho rằng nhà văn, đặc biệt là nhà thơ, cần phải sử
dụng trong các tác phẩm của mình ngôn ngữ đường phố, ngôn ngữ của đám đông. Với
toàn bộ cái vẻ ngoài dân chủ của nó và những lợi ích thực dụng cảm thấy được đối với
nhà văn, ý kiến đó là nhảm nhí và là một ý đồ bắt nghệ thuật - mà ở đây là văn học phụ thuộc vào lịch sử. Nếu như chúng ta chỉ cần cho rằng đã đến lúc Homo Sapiens [9]
11


_____________________________________________________________

Văn học Nga - Joseph Brodsky
phải dừng lại trong sự phát triển của mình, thì văn học nên nói bằng ngôn ngữ của
nhân dân. Trong trường hợp ngược lại, thì nhân dân nên nói bằng ngôn ngữ của văn
học. Bất kì một hiện thực thẩm mĩ mới nào cũng làm cho con người sáng tỏ thêm cái
hiện thực luân lí của anh ta. Bởi vì thẩm mĩ là mẹ của luân lí; khái niệm "tốt" và "xấu"
trước hết là những khái niệm thẩm mĩ đi trước các phạm trù "cái thiện" và "cái ác".
Trong luân lí học, không phải "tất cả đều được phép" chính là vì số lượng màu sắc
trong phổ màu có hạn. Một đứa trẻ chưa có ý thức vừa khóc vừa chạy trốn một người
lạ hay ngược lại, đòi đến với người đó, chạy trốn hay đòi đến thì nó đều thực hiện sự
lựa chọn thẩm mĩ chứ không phải lựa chọn đạo đức.
Sự lựa chọn thẩm mĩ bao giờ cũng cá nhân, và những kinh nghiệm thẩm mĩ bao giờ
cũng riêng tư. Bất kì một hiện thực thẩm mĩ mới nào cũng làm con người trải nghiệm
cái hiện thực đó trở nên cá nhân hơn; và cái cá nhân đó, đôi khi dưới hình thức thị hiếu
văn chương (hay một thị hiếu nào khác), tự mình đã là nếu không phải một sự bảo đảm
thì ít ra cũng là một hình thức tự vệ chống lại sự nô dịch. Bởi vì con người có thẩm mĩ,
nói riêng là thẩm mĩ văn chương, ít chịu tác động trước sự lặp đi lặp lại và những câu
thần chú đầy nhịp điệu đặc trưng của tất cả các hình thức chính trị mị dân. Vấn đề
không phải ở chỗ lòng tốt không phải là sự bảo đảm cho việc tạo nên kiệt tác, mà còn
ở chỗ cái ác, đặc biệt là cái ác chính trị, luôn luôn là một nhà phong cách học tồi tệ.
Kinh nghiệm thẩm mĩ của một cá nhân càng phong phú thì thị hiếu của anh ta càng
chắc chắn, sự lựa chọn đạo đức của anh ta càng rõ ràng, và anh ta càng tự do hơn mặc dù, có thể là không hạnh phúc hơn.
Chính trong cái ý nghĩa thực dụng này, chứ không phải ý nghĩa lí tưởng, cần phải hiểu
nhận xét của Dostoevsky "Cái đẹp sẽ cứu rỗi thế giới", hoặc là ý của Matthew Arnold
[10]
nói rằng "thơ ca sẽ cứu chúng ta". Thế giới thì chắc không còn cứu được nữa rồi,
nhưng từng con người riêng lẻ thì bao giờ cũng có thể. Sự nhạy cảm thẩm mĩ trong
con người phát triển khá nhanh, bởi vì thậm chí chưa hình dung đầy đủ mình là cái gì
và thực sự cần gì, con người thường đã biết một cách bản năng cái gì anh ta không
thích và cái gì khiến anh ta không hài lòng. Trong ý nghĩa nhân chủng học, tôi xin
nhắc lại, con người là sinh thể thẩm mĩ trước khi trở thành sinh thể luân lí. Nghệ thuật

và văn học nói riêng vì vậy không phải là sản phẩm phụ của sự phát triển của loài, mà
là ngược lại. Nếu như cái làm chúng ta khác với các đại diện còn lại của thế giới động
vật là lời nói, thì văn học, và thi ca nói riêng, với tư cách là hình thái cao nhất của
ngôn từ, nói một cách thô thiển, là mục đích của loài chúng ta.
Tôi xa lạ với ý tưởng phổ cập phép làm thơ và soạn nhạc cho tất cả mọi người; nhưng
tuy nhiên cách phân chia xã hội thành trí thức và những loại người khác đối với tôi
cũng là không chấp nhận được. Trong quan hệ đạo đức, sự phân chia này cũng giống
như phân chia xã hội thành kẻ giàu và người nghèo; nhưng nếu như còn có thể tìm
thấy những cơ sở thuần túy thể chất và vật chất nào đó có nghĩa đối với sự tồn tại tình
trạng bất bình đẳng xã hội, thì đối với sự bất bình đẳng trí tuệ chúng là vô nghĩa. ở đâu
không biết, chứ ở trong ý nghĩa này sự bình đẳng của chúng ta được bảo đảm bởi tự
nhiên. Tôi không nói về sự giáo dục (nói chung), mà về sự giáo dục lời nói; một sự
thiếu chính xác nhỏ nhất trong lời nói cũng hàm chứa khả năng thâm nhập của sự lựa
chọn giả vào đời sống con người. Sự tồn tại của văn học hàm nghĩa là sự tồn tại ở cấp
độ văn học - và không chỉ về mặt đạo đức, mà cả về mặt từ ngữ. Nếu tác phẩm âm
nhạc còn tạo cho con người có khả năng lựa chọn giữa vai trò thụ động của người
12


_____________________________________________________________
Văn học Nga - Joseph Brodsky
nghe và chủ động của người thể hiện, thì tác phẩm văn học - theo lời của Montale [11]
là nghệ thuật ngữ nghĩa một cách vô vọng - dành cho anh ta chỉ mỗi vai trò của người
thể hiện.
Theo tôi, đáng ra con người phải đóng vai trò này thường xuyên hơn bất cứ vai trò nào
khác. Hơn thế nữa, tôi nghĩ rằng do sự bùng nổ dân số và gắn với nó là quá trình phân
hóa xã hội ngày một tăng, có nghĩa là với sự phân lập ngày một tăng của cá thể, vai trò
đó trở nên càng tất yếu hơn. Tôi không nghĩ rằng tôi hiểu biết cuộc sống hơn bất kì
một người nào thuộc lứa tuổi của tôi, nhưng tôi cảm thấy ở tư cách người đối thoại thì
một cuốn sách đáng tin cậy hơn một người bạn hay một người tình. Cuốn tiểu thuyết

hay bài thơ không phải là lời độc thoại, mà là cuộc nói chuyện của nhà văn với người
đọc - cuộc nói chuyện, tôi xin nhắc lại, hết sức cá nhân, loại trừ tất cả những người
khác, có thể nói - cuộc đối thoại yếm thế chung cho cả hai phía. Trong thời điểm cuộc
nói chuyện này, nhà văn ngang bằng với người đọc, và ngược lại cũng thế, không phụ
thuộc vào việc nhà văn đó có vĩ đại hay không. Sự bình đẳng này là sự bình đẳng của
ý thức, và nó sẽ còn lại với con người suốt cuộc đời dưới dạng kí ức, mơ hồ hay sáng
tỏ; và sớm hay muộn, đúng lúc hay không đúng lúc, nó xác định hành vi của cá thể.
Ðó chính là điều tôi muốn nhấn mạnh khi nói về vai trò của người thể hiện, vai trò đó
lại càng hiển nhiên vì một cuốn tiểu thuyết hay bài thơ là sản phẩm của nỗi cô đơn
tương đồng giữa nhà văn và người đọc.
Trong lịch sử loài chúng ta, trong lịch sử của Homo Sapiens, sách là một hiện tượng
nhân chủng học, về bản chất giống như sự phát minh ra bánh xe. Sinh ra để trao cho
chúng ta hình dung không chỉ về nguồn gốc của chúng ta, mà còn về việc cái loài
Sapiens này có thể làm được những gì, sách là phương tiện di chuyển trong không gian
kinh nghiệm với tốc độ của trang giấy được lật giở. Sự di chuyển này, đến lượt mình,
như mọi sự di chuyển khác, lại biến thành sự trốn chạy khỏi mẫu số chung, khỏi ý đồ
gán cái đường kẻ của mẫu số này, trước đây không lên cao quá thắt lưng, cho trái tim
của chúng ta, cho ý thức của chúng ta, sự tưởng tượng của chúng ta. Sự trốn chạy này
là sự trốn chạy về phía cái "vẻ mặt rất riêng", về phía tử số, về phía nhân cách, về phía
cá thể. Dù chúng ta được tạo ra theo mẫu hình của ai, thì chúng ta đã là năm tỉ [12] , và
con người không có một tương lai nào khác ngoài tương lai do nghệ thuật phác thảo ra.
Trong trường hợp ngược lại, cái chờ đợi chúng ta là quá khứ - trước hết là quá khứ
chính trị, với toàn bộ những điều tốt đẹp mang màu sắc hiến binh và đại chúng của nó.
Trong bất luận trường hợp nào, tình trạng nghệ thuật nói chung và văn học nói riêng là
tài sản (đặc quyền) của thiểu số trong xã hội đối với tôi là không lành mạnh và đầy
nguy cơ. Tôi không kêu gọi thay thế nhà nước bằng thư viện - mặc dù ý nghĩ đó đã
nảy sinh trong đầu tôi không chỉ một lần - nhưng tôi không nghi ngờ rằng nếu chúng ta
lựa chọn những người cầm quyền dựa trên cơ sở kinh nghiệm đọc của họ chứ không
phải trên cơ sở các chương trình chính trị, thì trên trái đất sẽ ít đau khổ hơn nhiều. Tôi
nghĩ rằng điều đầu tiên cần hỏi kẻ ứng cử nắm giữ số phận chúng ta không phải là ông

ta hình dung chính sách đối ngoại ra sao, mà ông ta có thái độ như thế nào đối với
Stendhal, Dickens, Dostoevsky [13] . Nếu dù chỉ vì rằng nguồn nuôi dưỡng văn học
chính là sự đa dạng của cuộc sống con người và những điều xấu xa của nó, thì văn học
hiện diện như một liều thuốc giải độc hữu hiệu chống lại bất kì mưu toan nào - đã
được biết đến hoặc sẽ có - của phương thức giải quyết các vấn đề tồn tại của con người
13


_____________________________________________________________
Văn học Nga - Joseph Brodsky
một cách toàn thể, đại trà. ít ra, như một hệ thống bảo hiểm đạo đức, nó (văn học)
đáng tin hơn nhiều so với hệ thống tín ngưỡng này nọ hay một triết thuyết.
Bởi vì không thể có những điều luật bảo vệ chúng ta khỏi chính bản thân chúng ta, nên
không có một bộ luật hình sự nào đưa ra những hình phạt đối với tội ác chống lại văn
học. Và trong số những tội ác này, tội nặng nhất lại không phải là những cấm đoán của
kiểm duyệt và những điều tương tự, không phải là đốt sách. Có một tội ác nặng hơn
nhiều - đó là coi thường sách, không đọc sách. Vì tội ác đó con người trả giá bằng cả
cuộc đời mình; còn nếu một dân tộc mắc phải tội ác đó thì nó phải trả giá bằng lịch sử
của mình. Sống trong đất nước hiện nay tôi đang sống, có lẽ tôi là người đầu tiên sẵn
sàng tin rằng có tồn tại một tỉ lệ nào đó giữa sự đầy đủ vật chất và sự dốt nát văn
chương của con người; nhưng lịch sử của đất nước tôi sinh ra và lớn lên đã ngăn tôi
lại. Bởi vì nếu đưa về một công thức thô thiển, một tối thiểu nhân-quả, thì bi kịch Nga
chính là bi kịch của một xã hội mà trong đó văn học là đặc quyền của thiểu số: giới trí
thức Nga danh tiếng.
Tôi không muốn mở rộng đề tài này, không muốn làm u ám buổi lễ bằng những suy
nghĩ về hàng chục triệu cuộc đời con người bị hủy diệt bởi hàng triệu - vì rằng những
gì xảy ra ở nước Nga nửa đầu thế kỉ XX cũng đã xảy ra trước khi hỏa khí tự động
được đưa vào sử dụng - nhân danh sự toàn thắng của một học thuyết chính trị mà sự
bất dung của nó đã ở ngay chỗ nó đòi hỏi hi sinh con người để thực hiện nó. Tôi chỉ
xin nói rằng - không phải theo kinh nghiệm, mà than ôi, chỉ là lí thuyết - tôi cho rằng

đối với một người đọc kĩ Dickens thì việc nổ súng bắn vào đồng loại dù nhân danh bất
kì một tư tưởng nào cũng khó khăn hơn nhiều so với người không đọc Dickens. Tôi
nói cụ thể là đọc Dickens, Stendhal, Dostoevsky, Flaubert, Balzac, Melville [14] và
v.v..., tức là về văn học, chứ không phải về chữ viết, không phải về học vấn. Người
biết đọc, người có học vấn hoàn toàn có thể đọc xong một luận văn chính trị nào đó
vẫn giết chết đồng loại của mình và thậm chí còn cảm thấy sự hưng phấn của lí tưởng.
Lenin là người có học, Stalin cũng là người có học, Hitler cũng vậy; Mao Trạch Ðông
thậm chí còn viết thơ; tuy nhiên danh sách nạn nhân của họ dài hơn rất nhiều danh
sách những người họ đã đọc.
Nhưng trước khi chuyển sang bàn về thơ ca, tôi muốn nói thêm rằng sẽ là khôn ngoan
nếu xem xét kinh nghiệm nước Nga như một sự cảnh báo, ít ra là vì cấu trúc xã hội
phương Tây nhìn chung cho đến nay giống với những gì đã tồn tại ở nước Nga trước
năm 1917. (Chính điều này góp phần giải thích tại sao tiểu thuyết tâm lí Nga thế kỉ
XIX lại được phổ biến ở phương Tây và văn xuôi hiện đại Nga thì không được mấy
chú ý. Ðối với người đọc, những quan hệ xã hội hình thành ở Nga trong thế kỉ XX có
lẽ cũng xa lạ không kém tên của các nhân vật, và điều này ngăn cản anh ta đồng nhất
mình với họ). Chẳng hạn, chỉ riêng những đảng phái chính trị tồn tại trước Cách mạng
tháng Mười năm 1917 đã không thể nào ít hơn tại Hoa Kỳ và Anh ngày nay. Nói cách
khác, một người khách quan có thể nhận thấy rằng trong một ý nghĩa nào đó thế kỉ
XIX hiện vẫn đang tiếp diễn ở phương Tây. Ở nước Nga nó đã kết thúc; và nếu như tôi
nói rằng nó đã kết thúc một cách bi kịch, thì điều đó trước hết là vì số lượng các nạn
nhân mà sự thay đổi xã hội và niên đại đã kéo theo. Trong bi kịch thực tế, không phải
nhân vật chết - mà dàn đồng ca chết.

14


_____________________________________________________________
Văn học Nga - Joseph Brodsky
III.

Mặc dù đối với người ngôn ngữ mẹ đẻ là tiếng Nga thì nói chuyện về cái ác chính trị
cũng tự nhiên như việc tiêu hóa vậy, bây giờ tôi vẫn muốn thay đổi đề tài. Khiếm
khuyết của các câu chuyện về những điều hiển nhiên là ở chỗ chúng làm hỏng ý thức
bởi sự dễ dãi của chúng và bởi cái cảm giác lẽ phải đạt được một cách dễ dàng của
chúng. Ðó là sức cuốn hút của chúng, về bản chất nó giống sức cuốn hút của nhà cải
cách xã hội sinh ra cái ác đó. Nhận biết được sức cuốn hút này và xa tránh nó, trong
một chừng mực nhất định là trách nhiệm đối với số phận của nhiều người đương thời
của tôi, chưa nói đến của các bạn đồng nghiệp cầm bút, trách nhiệm đối với văn học
nảy sinh ra từ ngòi bút của họ. Văn học đó không phải là sự trốn chạy khỏi lịch sử,
không phải là sự khỏa lấp kí ức như những người đứng ngoài có thể lầm tưởng. "Làm
sao có thể sáng tác nhạc sau Auschwitz?" [15] – Adorno [16] hỏi, và một người am hiểu
lịch sử Nga cũng có thể lặp lại câu hỏi đó, chỉ cần thay tên gọi trại tập trung, - thậm
chí có thẩm quyền lặp lại nhiều hơn, bởi vì số lượng nạn nhân trong các trại tập trung
của Stalin vượt xa số lượng người chết trong các trại tập trung của Hitler. "Còn sau
Auschwitz làm sao có thể ăn?" - nhà thơ Mỹ Mark Strand có lần nhận xét như vậy.
Thế hệ mà tôi thuộc về, dẫu vậy, hóa ra lại có khả năng sáng tác thứ âm nhạc đó.
Thế hệ này - được sinh ra đúng vào lúc các lò thiêu xác ở Auschwitz làm việc hết công
suất, khi Stalin đang ở đỉnh điểm của quyền lực thần thánh, tuyệt đối, cái quyền lực
dường như được chính tự nhiên phê chuẩn - thế hệ đó đã đến thế giới này, xét về mọi
phương diện, để tiếp tục những gì theo lí thuyết đã bị cắt ngang trong các lò thiêu xác
và trong các nấm mồ chung vô danh của quần đảo Stalin. Cái thực tế là không phải tất
cả đã bị cắt ngang - ít ra ở nước Nga - trong một chừng mực không nhỏ có công lao
của thế hệ chúng tôi, và tôi tự hào vì mình thuộc thế hệ đó không ít hơn việc tôi đứng
đây ngày hôm nay. Việc tôi đứng ở đây ngày hôm nay là sự thừa nhận công lao của thế
hệ đó đối với văn hóa; nhớ đến một câu nói của Maldelstam, tôi muốn nói thêm - đối
với văn hóa thế giới. Ngoảnh nhìn lại, tôi có thể nói rằng chúng tôi đã bắt đầu từ chỗ
trống - nói đúng hơn, từ một chỗ thật đáng sợ bởi sự hoang tàn của nó; và bằng trực
giác hơn là bằng ý thức, chúng tôi đã cố gắng chính là để tạo dựng lại hiệu quả của
tính liên tục của văn hóa, khôi phục những hình thái và những ẩn dụ của văn hóa, làm
đầy các hình thái còn sót lại không nhiều và phần lớn đã hoàn toàn bị hư hại của nó

bằng nội dung hiện đại của chính chúng tôi, mới mẻ hoặc chúng tôi có cảm giác là mới
mẻ.
Có thể đã tồn tại một con đường khác - con đường của sự băng hoại tiếp theo, của thơ
ca những mảnh vỡ và đổ nát, của chủ nghĩa tối thiểu nghẹt thở. Nếu chúng tôi đã từ
chối con đường đó thì hoàn toàn không phải vì đối với chúng tôi đó là con đường tự bi
kịch hóa, hay là vì chúng tôi được cổ vũ đặc biệt bởi ý tưởng bảo toàn sự thanh cao
được truyền lại của những hình thái văn hóa chúng tôi được biết mà trong ý thức của
chúng tôi, chúng được coi là ngang bằng những hình thái của tư cách con người.
Chúng tôi chối bỏ con đường đó bởi vì sự lựa chọn trong thực tế không phải là của
chúng tôi, mà của văn hóa - và sự lựa chọn đó lại vẫn là sự lựa chọn thẩm mĩ chứ
không phải đạo đức. Tất nhiên, đối với con người sẽ là tự nhiên hơn khi nói về mình
không như công cụ của văn hóa, mà ngược lại, như người sáng tạo và gìn giữ văn hóa.
Nhưng nếu như ngày hôm nay tôi khẳng định điều ngược lại, thì đó không phải là vì
15


_____________________________________________________________
Văn học Nga - Joseph Brodsky
có một sự quyến rũ nào đấy ở việc vào cuối thế kỉ XX bắt chước Plotinus, huân tước
Shaftesbury, Schelling hay Novalis [17] , mà vì rằng với ai không biết, còn nhà thơ thì
luôn luôn biết rằng cái mà trong ngôn ngữ bình dân gọi là tiếng nói của Nàng Thơ thực
ra chính là sự bức chế của ngôn ngữ, rằng không phải ngôn ngữ là công cụ của nhà
thơ, mà nhà thơ là phương tiện để ngôn ngữ kéo dài sự tồn tại của mình. Còn ngôn ngữ
- thậm chí nếu hình dung nó là một sinh thể có linh hồn (mà điều này hoàn toàn công
bằng) - cũng không có khả năng đối với sự lựa chọn luân lí.
Con người bắt tay vào sáng tác một bài thơ do nhiều nguyên nhân khác nhau: để chiếm
trái tim của người mình yêu, để bày tỏ thái độ của mình đối với hiện thực xung quanh,
có thể đó là phong cảnh hay nhà nước, để ghi lại trạng thái tâm hồn vào thời điểm đó
của anh ta, để lưu giữ - như anh ta nghĩ vào lúc đó - dấu ấn của mình trên mặt đất. Anh
ta đến với hình thức này - bài thơ - bởi những thôi thúc có lẽ phần nhiều là theo vẻ

ngoài một cách vô thức: cột đen những con chữ giữa trang giấy trắng hình như gợi cho
anh ta hình dạng về tư thế của bản thân anh ta trong thế giới, về tỉ lệ của không gian
đối với cơ thể anh ta. Nhưng không phụ thuộc vào những nguyên do khiến anh ta cầm
bút, và không phụ thuộc vào hiệu ứng của những gì xuất hiện từ ngòi bút của anh ta
đối với khán thính giả, bất kể là đông đảo hay ít ỏi, thì hậu quả tức thì của thao tác này
là cái cảm giác tiếp xúc trực tiếp với ngôn ngữ, đúng hơn là cảm giác ngay lập tức rơi
vào sự phụ thuộc đối với ngôn ngữ, đối với tất cả những gì trước đó đã được nói, được
viết, được thực hiện bằng ngôn ngữ.
Sự phụ thuộc này là tuyệt đối, chuyên quyền, nhưng chính nó lại giải phóng. Bởi vì,
bao giờ cũng già hơn nhà văn, ngôn ngữ còn mang trong mình một khối năng lượng li
tâm khổng lồ do tiềm lực thời gian của nó - tức là toàn bộ thời gian còn ở phía trước mang lại. Và cái tiềm lực này được xác định không chỉ bởi số lượng cư dân của dân
tộc nói thứ ngôn ngữ đó, mặc dù có cả điều này, mà còn bởi chất lượng bài thơ được
viết bằng ngôn ngữ đó. Chỉ cần nhắc đến các tác giả Hy Lạp hoặc La Mã cổ đại, chỉ
cần nhắc đến Dante [18] là đủ. Chẳng hạn, những gì được sáng tạo hôm nay bằng tiếng
Nga hoặc bằng tiếng Anh sẽ bảo đảm cho các ngôn ngữ này tồn tại suốt cả nghìn năm
tiếp sau. Nhà thơ, tôi xin nhắc lại, là phương tiện tồn tại của ngôn ngữ. Hay như
Auden vĩ đại đã nói, ngôn ngữ sống bằng nhà thơ. Sẽ không còn tôi, người viết những
dòng này; sẽ không còn quý vị, người đọc những dòng này; nhưng ngôn ngữ mà
những dòng này được viết ra và được đọc sẽ còn lại không chỉ vì ngôn ngữ bền lâu
hơn con người, mà vì nó thích ứng tốt hơn với đột biến.
Tuy nhiên, người viết thơ viết thơ không phải vì người đó tính đến vinh quang sau khi
chết, mặc dù anh ta lắm lúc cũng hi vọng rằng bài thơ sẽ sống lâu hơn anh ta, cho dù là
không nhiều cũng được. Người viết thơ viết thơ bởi vì ngôn ngữ thôi thúc anh ta, hay
đơn giản là đọc cho anh ta chép dòng tiếp theo. Bắt đầu bài thơ, nhà thơ, như thường
thấy, không biết nó sẽ kết thúc ra sao, và lắm lúc anh ta ngạc nhiên với cái mình viết
được, bởi vì nhiều khi nó tốt hơn là anh ta nghĩ trước đó, nhiều khi ý nghĩ của anh ta đi
xa hơn là anh ta mong đợi. Ðó chính là thời điểm tương lai của ngôn ngữ can thiệp vào
hiện tại của nó. Như chúng ta đã biết, tồn tại ba phương thức nhận thức: phân tích, trực
cảm và phương thức mà các nhà tiên tri trong Kinh Thánh sử dụng: mặc khải. Ðiểm
khiến thơ ca khác biệt với các loại hình văn học khác là ở chỗ nó ngay lập tức sử dụng

cả ba phương thức (thiên chủ yếu về phương thức thứ hai và thứ ba), bởi vì cả ba đều
có trong ngôn ngữ; và không hiếm khi chỉ bằng một từ, một vần, người viết bài thơ có
16


_____________________________________________________________
Văn học Nga - Joseph Brodsky
thể đến được nơi mà trước đó chưa ai từng đến, - và có thể còn xa hơn cả nơi chính
anh ta mong ước. Người viết thơ viết thơ trước hết vì bài thơ là một lực thúc đẩy phi
thường đối với nhận thức, tư duy, cảm nhận thế giới. Một lần trải qua lực thúc này,
con người không thể từ chối việc lặp lại cái kinh nghiệm đó, anh ta rơi vào sự phụ
thuộc đối với quá trình đó chẳng khác gì phụ thuộc vào ma túy và rượu. Con người ở
trong một sự phụ thuộc như vậy đối với ngôn ngữ, tôi nghĩ, được gọi là nhà thơ.
© 2005 talawas
-------------------[1]

Trong đoạn văn này, và nói chung cả toàn bài, Brodsky có những hình thức chơi chữ rất khó
dịch. Tôi cố gắng chuyển ngữ thật sát nhưng có chỗ phải lấy ý, và có chú thích (N.D).
[2]
Urbi et orbi (tiếng Latinh): với cả thành phố và thế giới, nghĩa là với tất cả mọi người (thành
ngữ các giáo hoàng hay dùng khi nói với công chúng La Mã).
[3]
Osip Mandelstam (1891-1938): nhà thơ, nhà văn Nga. Marina Svetaeva (1892-1941): nữ
nhà thơ Nga. Robert Frost (1874-1963): nhà thơ Mỹ. Anna Akhmatova (1889-1966): nữ nhà
thơ Nga. Wystan Auden (1907-1973): nhà thơ, nhà phê bình văn học, nhà viết kịch Anh - Mỹ.
[4]

Rainer Maria Rilke (1875-1926): nhà thơ Áo.
Tête-à-tête (tiếng Pháp): mặt đối mặt, trực tiếp.
[6]

Một cách nói: điểm hình "mắt-mắt-mũi-mồm" lên vòng tròn (số không) để thành mặt người.
[7]
Abramovich Baratynsky (1800-1844): nhà thơ Nga.
[8]
Cliché (tiếng Pháp): thuật ngữ in ấn, cờ-li-sê, bản kẽm, nghĩa bóng là dập khuôn.
[9]
Homo Sapiens: người khôn ngoan, người thông minh, chỉ loài người.
[10]
Matthew Arnold (1822-1888): nhà thơ, nhà phê bình Anh.
[11]
Eugenio Montale (1896-1981): nhà thơ Italia, giải Nobel Văn học năm 1975.
[12]
Ðây là nói số dân trên thế giới ở thời điểm Brodsky đọc diễn từ (1987).
[13]
Stendhall (1783-1842): tên thật Henri Mary Beyle, nhà văn Pháp.
[14]
Gustav Flaubert (1821-1880): nhà văn Pháp. Honoré de Balzac (1799-1850): nhà văn
Pháp. Herman Melville (1819-1891): nhà văn Mỹ.
[15]
Auschwitz: tên trại tập trung lớn nhất của phát xít Ðức nằm ở miền Nam Ba Lan, nơi diễn
ra những vụ thảm sát hàng loạt.
[16]
Theodor Wiesengrund Adorno (1903-1969): nhà triết học, nhà xã hội học, nhà nghiên cứu
âm nhạc, nhạc sĩ Ðức.
[17]
Plotinus (205-270): nhà triết học, nhà sư phạm Hy Lạp cổ. Anthony Ashley Cooper
Shaftesbury (1671-1713): nhà triết học, nhà văn Anh. Friedrich Wilhelm Joseph Schelling
(1775-1854): nhà triết học Ðức. Novalis (1772-1801): tên thật là Georg Philipp Friedrich von
Hardenberg, nhà thơ Ðức.
[18]

Alighieri Dante (1265-1321): nhà thơ Italia.
[5]

17


_____________________________________________________________
Văn học Nga - Joseph Brodsky

Thơ Joseph Brodsky - cuộc đối thoại
giữa các nền văn hoá
(Tiểu luận - Đào Tuấn Ảnh)

Hai thập niên trở lại đây, Joseph Brodsky — nhà thơ Mỹ gốc Nga đoạt giải
Nobel Văn Chương năm 1987 — đã trở thành hiện tượng thơ thế giới và là đối
tượng của hàng loạt công trình nghiên cứu, phê bình ở Nga và nước ngoài. Ít có
nhà thơ nào mà sáng tác lại gây nhiều tranh cãi và nhiều đánh giá, nhận xét
khác nhau tới vậy. Một số nhà nghiên cứu cho rằng “thi pháp Brodsky là sự tiếp
nối và sự phát triển thi pháp ngữ nghĩa của trường phái Akmeist (Đỉnh cao)” (do
L. Gumiliev sáng lập dựa cơ bản trên sáng tác của A. Akhmatova và O.
Mandelstam). Đối với những người khác, “Brodsky không chỉ là nhà thơ của
những năm 1960, mà là nhà thơ hậu hiện đại Nga đầu tiên.” Nhà phê bình Olga
Sedakova, ngược lại, đối lập sáng tác của Brodsky với chủ nghĩa tiên phong và
chủ nghĩa hậu hiện đại, cho rằng những khuynh hướng sáng tác này gắn với
phong trào phản văn hoá diễn ra ở cả Nga lẫn Phương Tây. Theo bà, “Brodsky
nhìn thấy ở văn hoá đối tượng của tình yêu và phương tiện chống lại sự tha hoá
con người” ... Tất nhiên, những đánh giá nêu trên xuất phát từ những quan niệm
nghệ thuật khác nhau, từ góc nhìn, cách đọc Brodsky khác nhau của các nhà
nghiên cứu, song, những đánh giá này, mặt khác, lại bổ sung cho nhau và làm
sáng tỏ hơn tính phức tạp, đa dạng trong thể nghiệm nghệ thuật của nhà thơ —

sự tổng hợp những khuynh hướng cổ điển, hiện đại chủ nghĩa và hậu hiện đại
chủ nghĩa. Quả thật, khi đọc thơ Brodsky, điều gây ấn tượng mạnh cho người đọc
là sự kết hợp tự nhiên của những điều tưởng chừng khó có thể kết hợp: tính chân
thật, cụ thể tới từng chi tiết, “chủ nghĩa đồ vật” của trường phái Akmeist, tính
“cốt truyện,” cú pháp sử thi trong thơ Akhmatova với tính tượng trưng trong thơ
Blok, chất siêu hình của thơ Xvetaieva và thơ Anh theo khuynh hướng Baroque
(John Donne), hiện đại chủ nghĩa (T.S. Eliot), yếu tố hài hước, giễu nhại đặc
trưng cho văn phong hậu hiện đại với cảm quan hiện sinh của trường phái hiện
tượng luận, thi pháp cắt mảng, ngắt quãng và những dòng thơ triền miên, những
khổ và câu “quá cỡ” làm liên tưởng tới văn xuôi của James Joyce... Trong thơ ông
luôn thấy bóng hình của các trường phái nghệ thuật lớn, song không một trường
phái nào có thể “độc tôn” ông. Sáng tác của Brodsky, cũng như sáng tác của
nhiều “đại gia” văn chương khác, vượt ra khỏi khuôn khổ một trường phái. Cũng
chính ở vị thế này ông được thơ Nga thế kỷ XX chọn làm một trong những truyền
nhân của mình, và tinh hoa thi ca thế giới chọn sáng tác của ông làm nơi giao lưu
hội tụ. Vì vậy, để cảm nhận được loại thơ nhiều mảng tầng văn hoá, thấm đẫm
triết lý nhân sinh của Brodsky, thiết nghĩ, nên đặt sáng tác của ông trong dòng
chảy của thơ Nga và thơ thế giới, bởi theo Gadamer, một trong những đại diện
của trường phái tường giải học, tác phẩm nghệ thuật là sự khách thể hoá vật
chất cái truyền thống của kinh nghiệm văn hoá, nên sự lý giải nó chỉ có nghĩa khi
[1]

[2]

[3]

[4]

18



_____________________________________________________________
Văn học Nga - Joseph Brodsky
vạch ra được tính liên tục của truyền thống văn hoá. Tác phẩm nghệ thuật là sự
kiện văn hoá; khi lý giải nó cần phải phác hoạ được nó trong lịch sử tinh thần
nhân loại.
[5]

V. Krivulin, nhà thơ cùng thế hệ với Brodsky cho ta thấy rõ thêm ý thức nghệ
thuật của Brodsky, khi ông nói:
Vấn đề ở chỗ tất cả chúng tôi [6] cùng xuất phát từ quan niệm cơ bản về sự trống rỗng của
tồn tại con người, sự trống rỗng dường như là trung tâm. Sau đó trung tâm này được làm
đầy bằng nhiều cách thức khác nhau. Với một số người đó là những tìm kiếm tôn giáo;
với những người khác, tìm kiếm xã hội, còn Brodsky vẫn còn lại là một nhà thơ, ở lại
trong cái giếng siêu hình đó, nơi con người là sinh thể duy nhất trong toàn bộ hành tinh.
[7]

Brodsky còn lại là nhà thơ theo tinh thần Chutchev, Soloviev, Annenski, Blok,
Akhmatova, Xvetaieva... tinh thần được thể hiện rõ trong lời phát biểu của ông
trong lễ nhận giải Nobel:
Người làm thơ viết thơ trước hết bởi bài thơ là lực thúc đẩy khổng lồ đối với ý thức, tư
duy và cảm nhận thế giới. Một lần trải qua lực thúc ấy, con người không thể từ chối việc
lặp lại cuộc thể nghiệm đó, anh ta rơi vào sự phụ thuộc đối với quá trình đó chẳng khác
gì kẻ nghiện ma tuý và rượu. Con người bị phụ thuộc như vậy vào ngôn ngữ, thiết nghĩ,
được gọi là nhà thơ.

Nói về sứ mệnh thi ca và sự tiếp nối văn hoá, Brodsky phát biểu tiếp:
Ngoảnh nhìn lại, tôi có thể nói rằng chúng tôi đã bắt đầu từ chỗ trống — nói đúng hơn, từ
một chỗ thật đáng sợ bởi sự hoang tàn của nó; và bằng trực giác hơn là bằng ý thức,
chúng tôi đã cố gắng chính là để tạo dựng lại hiệu quả tính liên tục của văn hóa, khôi

phục những hình thái và những ẩn dụ của văn hóa, làm đầy các hình thái còn sót lại
không nhiều và phần lớn đã hoàn toàn bị hư hại của nó bằng nội dung hiện đại của chính
chúng tôi, mới mẻ hoặc chúng tôi có cảm giác là mới mẻ.
Có thể đã tồn tại một con đường khác — con đường của sự băng hoại tiếp theo, của thi
pháp những mảnh vỡ và đổ nát, của chủ nghĩa cực tiểu nghẹt thở... Chúng tôi chối bỏ
con đường đó bởi vì sự lựa chọn trong thực tế không phải là của chúng tôi, mà của văn
hóa — và sự lựa chọn đó lại vẫn là sự lựa chọn thẩm mỹ chứ không phải đạo đức.

Vế đầu của lời phát biểu liên quan tới mỹ học của chủ nghĩa hiện đại Nga ba thập
niên đầu thế kỉ XX; vế sau liên quan trực tiếp tới thực tiễn nghệ thuật của chủ
nghĩa hậu hiện đại Nga ba thập niên cuối thế kỉ (từ nhóm thơ Lianozov và sáng
tác của Ven. Erophiev tới sáng tác của Prigov, Sorokin, Rubenstein, Pelevin)
trong đó đối thoại với hỗn độn (chaos) mang tính chiến lược nghệ thuật. Brodsky
nói ông chối từ “thi pháp mảnh vụn, chủ nghĩa cực tiểu” của chủ nghĩa hậu hiện
đại, ông muốn ám chỉ tính cực đoan của những hình thức thể hiện mà một số
nghệ sỹ nhân danh cái mới luôn chạy theo. Trên thực tế, nếu quan niệm văn học
hậu hiện đại là văn học của khủng hoảng, của “bất tín nhận thức” và bất cứ thời
đại nào cũng có giai đoạn hậu hiện đại của mình, thì sáng tác Brodsky được xếp
vào dòng văn học này. Tuy nhiên, qua những phát biểu của ông, đọc những bài
thơ thấm đẫm tinh thần hiện sinh của ông, ta thấy sáng tác của Brodsky là hiện
19


_____________________________________________________________
Văn học Nga - Joseph Brodsky
tượng phức tạp hơn nhiều. Nó vừa tiếp nối, vừa đối thoại với các khuynh hướng
văn học cùng hệ hình trước đó như Baroque, đặc biệt văn học hiện đại chủ
nghĩa thể hiện trong sáng tác của Akhmatova, Mandelstam, Xvetaieva, Eliot,
Auden. Bằng sáng tác của mình, Brodsky làm giàu có thêm cái truyền thống đã
bị đứt đoạn bởi sự độc tôn của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa — sự độc

tôn đã tạo sự trống trải trên mảnh đất văn chương hơn nửa thế kỷ vừa qua.
[8]

Sự kế tục mỹ học Baroque và chủ nghĩa hiện đại trong sáng tác của Brodsky thể
hiện ở quan niệm của ông về những vấn đề ngôn ngữ, quan niệm về thực tại và
sự tồn tại của con người, “thi pháp tổng hợp” đặc trưng cho thơ ông.

Quan niệm về ngôn ngữ và sáng tác thi ca
Trong các nhà thơ Nga, Brodsky nổi bật trước hết bởi trình độ phản xạ của
tư duy lý luận. Ông cùng lúc còn là “lý luận gia” đối với sáng tác của chính bản
thân. Một trong những vấn đề lý thuyết sáng tác được Brodsky quan tâm hàng
đầu là vấn đề ngôn ngữ và mối quan hệ giữa ngôn ngữ và người sáng tác. Ở ông,
ngôn ngữ thơ được nâng lên bình diện triết học và là một trong những đề tài
sáng tác quan trọng. Đây cũng chính là hạt nhân cơ bản trong tiếp cận của ông
với vấn đề tính liên tục của văn hoá.
Cũng trong diễn từ tại lễ nhận giải Nobel, Brodsky đưa ra quan niệm chủ đạo của
mình về bản chất thi ca:
Nhà thơ luôn hiểu rằng cái mà ngôn ngữ bình dân gọi là tiếng nói của Nàng Thơ, trên
thực tế là sự bức chế của ngôn ngữ; rằng không phải ngôn ngữ là công cụ của nhà thơ,
mà bản thân nhà thơ là phương tiện của ngôn ngữ nhờ đó nó kéo dài sự tồn tại của mình.
Còn ngôn ngữ — thậm chí nếu hình dung nó là một sinh thể có hồn (mà điều này hoàn
toàn công bằng) — không có khả năng lựa chọn luân lý.

Quan niệm này của Brodsky xuất phát từ các nhà hình thức chủ nghĩa Nga
[Eikhenbaum cho rằng, việc giải phóng từ ngữ khỏi gông cùm của những xu
hướng tôn giáo và triết học là nhiệm vụ cơ bản của nhóm hình thức chủ nghĩa
đầu tiên, Sklovski đặt tên cho một trong những bài viết đầu tiên của mình: Giải
phóng từ ngữ (1914)] và gần gũi với tư tưởng triết học giải cấu trúc sau này của
Jacques Derrida, một trong những chủ tướng của chủ nghĩa hậu hiện đại. Trong
cuốn Writing and Difference, khi nói về mối quan hệ giữa tác giả và ngôn ngữ,

Derrida viết: “Ngôn từ lựa chọn nhà thơ (...) Nghệ thuật của nhà văn là ở việc
thực hiện quyền năng của ngôn từ... cuốn sách đã kết thúc tôi như thế đấy.”
Xuất phát từ quan niệm nhà thơ là công cụ, phương tiện của ngôn ngữ, và nhờ
nhà thơ ngôn ngữ kéo dài sự tồn tại của mình, Brodsky đã khẳng định trong bài
phát biểu:

[9]

Những gì được sáng tạo hôm nay bằng tiếng Nga hoặc bằng tiếng Anh sẽ bảo đảm cho
các ngôn ngữ này tồn tại suốt cả nghìn năm tiếp sau.

Sự tồn tại của ngôn ngữ đồng nghĩa với sự tồn tại của văn hoá, sự tồn vinh của
một dân tộc. Trước Derrida và Brodsky hơn một thế kỉ, nhà phê bình Nga lừng
danh Belinski, bàng hoàng trước tài thơ Puskin, đã tuyên bố: một nước không có
nhà thơ, nước đó không đáng gọi là dân tộc, vinh dự lắm cũng chỉ được gọi là bộ
20


_____________________________________________________________
Văn học Nga - Joseph Brodsky
lạc mà thôi. Và trước Derrida, Brodsky nửa thế kỷ, nhà văn hoá Phạm Quỳnh ở
Việt Nam, cảm nhận sâu sắc ý nghĩa của kiệt tác Truyện Kiều, đã tự hào tuyên
bố: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; tiếng ta còn, nước ta còn.” Đó là sứ mệnh
vinh quang của nhà thơ, những người được ngôn ngữ lựa chọn làm phương tiện
kéo dài đời sống con người, dân tộc trên trái đất.
Trong thơ Nga, sự lệ thuộc vào ngôn ngữ như vậy có thể nhận thấy khá rõ ở
những nhà thơ thuộc khuynh hướng hiện đại chủ nghĩa như Khlevnikov,
Xvetaieva và sự gần gũi về mặt phong cách của Brodsky với họ, cũng như sự gần
gũi về mặt tinh thần với Akhmatova, khẳng định sự kế tục truyền thống thơ Nga
kỉ nguyên Bạc của ông. Cũng như các bậc tiền bối, Brodsky dường như luôn chạy

theo “tiếng ồn của ngôn ngữ,” âm điệu của những mẫu gốc văn hoá in dấu trong
ngôn từ:
Tôi sinh ra và lớn lên trong những đầm lầy Baltic
ngay bên sóng từng đôi ùa lên cát
tôi tìm ra những âm vận từ đây
và cũng từ đây giọng nói tôi nhàn nhạt
giọng nói như mớ tóc xoăn đẫm ướt
phất phơ giữa những con sóng màu chì.
Trong tiếng sóng, ngồi chống tay lắng nghe
không phân biệt tiếng rì rào
trong tiếng màn vải lanh phần phật
tiếng vỗ những bàn tay, tiếng ấm trà sôi trên bếp
thỉnh thoảng chỉ nghe rõ tiếng hải âu...
(“Từ loại” — Nghiêm Huyền Vũ dịch)

Đối với Brodsky, một nhà thơ, nhập vào cái không gian hỗn loạn những âm thanh
“khởi thuỷ” ấy là điều kiện quan trọng để có thể có được tự do tuyệt đối — tự do
khỏi những “vướng bận” ngoài văn chương theo nghĩa rộng của từ. Như một nhà
nghiên cứu đã nhận xét, ở Brodsky “lần đầu tiên... ngôn ngữ được lựa chọn như
là cái tuyệt đối, trở thành một mô hình thế giới lý tưởng và quan hệ hài hoà với
nó biện minh cho sự tồn tại của nhà thơ, nếu như anh ta sống bên trong, chứ
không phải bên ngoài lĩnh vực đó (...). Đó là sự kiếm tìm điểm tựa vững chắc và
thân thuộc.”
[10]

Cái tuyệt đối của ngôn ngữ trong quan niệm của Brodsky khác với cái tuyệt đối
khách quan, ngoài con người, đặc trưng cho hệ hình nghệ thuật cổ điển. Sự lệ
thuộc của nhà thơ và ngôn ngữ thơ vào lực lượng siêu nhiên, phi cá nhân:
Thượng đế, nhân dân, nhà nước, chân lí, lý tưởng — những định đề quan trọng
của mỹ học cổ điển — được thể hiện đa dạng trong tính lễ nghi trung đại, tính

ước lệ kinh viện, trong tính giễu nhại của chủ nghĩa lãng mạn và điển hình hoá
của chủ nghĩa hiện thực. Ngôn ngữ, theo truyền thống mỹ học cổ điển, không
được tiếp nhận như cái tuyệt đối, mà là phương tiện để đạt tới sự hài hoà nghệ
thuật.
Ngôn ngữ trong sáng tác của Brodsky trở thành sức mạnh tự thân mang tính bản
thể, “một sinh thể có hồn” và với nhà thơ, thế giới được tạo thành từ những “con
21


_____________________________________________________________
Văn học Nga - Joseph Brodsky
chữ.” Cũng như Derrida trong triết học giải cấu trúc của ông, Brodsky đưa ra
cách “tiếp cận siêu kí hiệu đối với thực tại,” theo đó các vật thể của môi trường
vật lý được đánh đồng với các yếu tố thuộc bình diện biểu hiện đóng vai trò
những ẩn số. Nói cách khác, ngược lại với mỹ học cổ điển coi văn bản như thế
giới, ở Brodsky, thế giới được nhìn nhận như văn bản. Trong thơ ông thậm chí
những chữ cái đều mang vị thế bản thể rõ ràng: chẳng hạn, trong trường ca
Isaak và Abraham (1963), những từ như “bụi cây,” “Isaak,” “Abraham.”.. gợi mở
những liên tưởng bất tận. Trong thơ Brodsky, hoàn toàn tự nhiên là những ẩn dụ
kiểu: “Từ Thượng đế tới ngưỡng cửa/ trắng tinh. Không dấu phẩy, không âm
tiết./ Điều đó có nghĩa: tất cả mi đã đọc qua,” hoặc “Những trái núi ấy — câu
chữ của ta/ tiếng vọng vang ra nhân gấp một trăm, hai trăm, nghìn vạn lần”;
“Ngòi bút chẻ nát những từ thành chữ,/ như củi lửa từng khúc chất chồng lên
nhau.” Nếu như thế giới được xây dựng như văn bản, thì cuộc sống cụ thể của
con người trong thơ Brodsky giống như câu chữ, như từ loại, tức những yếu tố
của ngôn ngữ, không có kết thúc, làm mất đi tính hoàn kết, chỉnh thể của văn
bản: “Toàn bộ cuộc sống như một câu chân thực,/ uyển chuyển tiến dần tới dấu
phẩy”; “con người biến thành tiếng sột soạt của ngòi bút cào trên giấy, vào
những vòng tròn, vào từng đoạn dài của những chữ cái và vì rất trơn, thành
những dấu phẩy và những dấu chấm”; “Vây quanh tôi những động từ lặng câm./

Những động từ giống những mái đầu xa lạ,/ những động từ đói khát, những động
từ trần truồng,/ những động từ chính/ những động từ câm.” Và cuối cùng: “Tất
cả cái còn lại ở mỗi con người đó là từ loại. Từ loại nói chung. Từ loại.”..
Tuyệt đối hoá ngôn ngữ, xem thế giới như văn bản, triết học ngôn ngữ của
Brodsky mang đậm màu sắc hậu hiện đại. Ở lĩnh vực này sáng tác của Brodsky
tiếp nhận và đối thoại với các bậc tiên khu của mình — văn hoá Baroque và văn
hoá hiện đại chủ nghĩa. Trong văn học Baroque hình thành quan niệm cho rằng
nhà thơ — nghệ nhân ngôn từ — có khả năng thông qua ảo thuật ngôn ngữ cạnh
tranh với Thượng đế: “Giống như ngôn ngữ thần thánh của sáng tạo, ngôn ngữ
thơ với ‘đỉnh cao tượng hình’ có khả năng xuyên qua và biến đổi không gian, vẽ
và vẽ lại những thế giới mới, thế giới ngôn ngữ (...) . Với sự nhấn mạnh bề ngoài
tính ‘hài hoà’, nghệ thuật Baroque hướng tới sự mất cân đối, tới hỗn độn.. Nói
chung, những ẩn dụ Baroque phá vỡ những ranh giới không - thời gian, bẻ gẫy
những kết cấu đứng thẳng và tính lịch đại, giật đổ tính chỉnh thể của cái ‘Tôi’.
Những ẩn dụ làm lộ rõ sự khủng hoảng có trong mỗi hành vi ngôn ngữ, phát hiện
sự đứt quãng giữa ngôn ngữ và sự tiếp nhận.” Tiếp nhận tinh thần Baroque,
chủ nghĩa hiện đại, một mặt đề cao tính “tự trị” của ngôn ngữ, tự do tuyệt đối
của nó, một mặt xem người nghệ sỹ không chỉ là “sự cạnh tranh với Thượng đế,”
mà chính là Thượng đế sáng tạo ra một thế giới riêng — thế giới chủ quan đối lập
lại thực tại hỗn loạn bằng sự hài hoà và cao cả của mình. Brodsky đối thoại với
chủ nghĩa hiện đại ở tính nước đôi này. Theo ông, quyền năng của ngôn ngữ tước
đi của nhà thơ vai trò trung tâm vũ trụ, đấng sáng tạo toàn năng. Trong những
bài thơ giai đoạn chín muồi, ông giễu nhại các nhà thơ hiện đại chủ nghĩa, những
kẻ: “... Thậm chí tưởng mình là trung tâm thế giới/ thế giới mình đẻ ra/ xấu xí và
bất nhã/ khó lòng chịu đựng nổi.” Brodsky cho rằng, chính vì con người không
thể sánh ngang với Thượng đế, trạng thái phi trung tâm, tình thế vô vọng của
nhà thơ trong thế giới thực tại, đã khiến cho lời thơ trở nên “rành mạch” được gìn
giữ qua hàng thế kỉ trong ngôn ngữ:
[11]


22


_____________________________________________________________
Văn học Nga - Joseph Brodsky
Trang viết và ngọn lửa, hạt giống và cối xay,
lưỡi hái sắc và mái tóc cắt cụt —
Chúa gìn giữ hết; đặc biệt — là lời
tha thứ và yêu thương, như giọng nói của mình.

Trong lời ấy đập dồn mạch máu rách bươm,
tiếng xương kêu răng rắc,
tiếng thuổng lạt sạt, đều đều, khô lạnh,
bởi cuộc đời — là nhất thể, từ những cái
miệng người phải chết
những lời ấy vang lên rành mạch
hơn là từ những đám mây trời.
(“Một trăm năm Anna Akhmatova,” 1989 — Thanh Thảo dịch)

Những từ khoá: trang viết, ngọn lửa, hạt giống, Chúa, lời (tiếng nói), tình yêu,
tâm hồn, cuộc sống,.. không chỉ là yếu tố thể hiện phong cách, mà còn là những
“kí hiệu” thể hiện quan niệm nghệ thuật, cách nhìn thế giới ở những bản nguyên
của nó, trong tính thống nhất biện chứng, trong sự vận động và chuyển hoá của
chúng.
Như vậy, trong quan niệm nghệ thuật, Brodsky, một mặt chịu ảnh hưởng của các
nghệ sĩ lớn của chủ nghĩa hiện đại, mặt khác, ông tỏ ra triệt để hơn khi nhấn
mạnh tới quyền năng của ngôn ngữ. Và quyền năng này nhằm ở chỗ tự bản thân
ngôn ngữ không mang nội dung luân lí. Để làm rõ hơn điều này chúng tôi xin
trích đoạn bài thơ “Tượng đài” của Brodsky, đối sánh với “Đài kỉ niệm” của
Puskin.

Nếu Puskin trang trọng, ngạo nghễ ở thế kỉ XIX:
Ta dựng cho ta đài kỉ niệm
Không bởi sức tay người! Đường tới viếng
Cỏ không trùm mất dấu bước thế nhân,
Đỉnh tháp ngang tàng sẽ ngửng cao hơn
Cả trụ thờ Alecxandr Đệ nhất
(...)
Và nhân thế sẽ còn yêu ta mãi
Vì đàn thơ ta thức tỉnh tình thân ái
Vì trong thủa bạo tàn ta ca ngợi tự do
Và gợi từ tâm với kẻ sa cơ
(...)
(“Đài kỉ niệm,” 1836 — Thuý Toàn dịch)

Thì Brodsky hài hước, tự giễu trong thế kỉ XX: “Tôi sẽ dựng tượng đài khác cho
tôi” và hứa hẹn:
23


_____________________________________________________________
Văn học Nga - Joseph Brodsky
Chúng ta sẽ dựng tượng đài
cuối một đường phố dài
hay ở trung tâm quảng trường lớn,
một tượng đài
sẽ hoà nhập vào mọi quần thể kiến trúc,
vì được thiết kế hợp lí và rất hiện thực.
Chúng ta sẽ dựng một tượng đài,
không làm ảnh hưởng đến ai.
(...)

Chúng ta sẽ dựng một tượng đài,
ta vội vã ngang qua, đi làm việc mỗi ngày,
người nước ngoài đến chụp hình kỷ niệm.
Ban đêm từ phía dưới ta bật đèn pha chiếu sáng.
Chúng ta sẽ xây tượng đài của sự dối lừa.
(“Tượng đài” — Huyền Anh dịch)

Ngôn ngữ với quyền năng của mình, hướng nhà thơ bóc tách những nội dung “dối
lừa” của những khái niệm, tiến tới “ngôn ngữ gốc.” Trong sáng tác của Brodsky,
ngôn ngữ gốc — là ngôn ngữ bản nguyên, vô thức, xâm nhập vào văn bản, nhiều
khi phá vỡ logic bên ngoài của văn bản bằng cách chồng chất lên điều mà tác giả
muốn tỏ bầy vô vàn những nghĩa trái ngược nhau. Khám phá “mẫu gốc,” khôi
phục lại ý nghĩa đích thực của “ngôn từ khởi thuỷ” trong quá trình giải cấu trúc
ngôn ngữ, làm cho văn bản nghệ thuật, về nguyên tắc, không đơn nghĩa, thơ
Brodsky có tham vọng cắt nghĩa thực tại và tồn tại của con người, thống nhất
con người với vũ trụ bản nguyên, với Tự Nhiên, điều các thi nhân bao đời nay
thực hiện một cách rốt ráo và đầy tuyệt vọng.

Từ góc độ cái chết suy ngẫm về Thực tại và Tồn tại.
Phân tích những đề tài quan trọng trong thơ Brodsky như cái chết (rộng hơn
— sự mất mát nói chung), thời gian, không gian, sự trống rỗng, ngôn ngữ (cụ
thể hơn — thơ ca, nghệ thuật), ánh sáng - bóng tối, các nhà phê bình nghiên cứu
đều thống nhất khi nói tới tinh thần hiện sinh trong sáng tác của ông. L. V. Losev
xác nhận những nguyên nhân dẫn Brodsky hướng tới kinh nghiệm của thơ
Baroque (trước hết thể hiện ở sáng tác của các nhà thơ siêu hình Anh, đặc biệt là
John Donne): “... Thế giới quan của Brodsky, hiển nhiên, được xác định bởi triết
học hiện sinh của Kierkegaard và Sestov, Dostoievski và liên quan tới chủ nghĩa
hiện sinh những năm 1940-1950 trong không khí văn hoá của thời đại mà ông
được nuôi dưỡng. Tuy nhiên, trong thơ Nga không có những phương tiện, điều
kiện để thể hiện trạng thái tinh thần này. Nó có ở thơ Châu Âu, bởi những vấn đề

của chủ nghĩa hiện sinh và những vấn đề siêu hình thời đại Baroque có nhiều
điểm chung: sự cô độc của con người trong thế giới, sự xung đột giữa con người
và Thượng đế, sự nghi ngờ về bản thân sự tồn tại của Thượng đế.”
[12]

[13]

24


_____________________________________________________________
Văn học Nga - Joseph Brodsky
Đây là một nhận định xác đáng, vì xét theo phương diện loại hình văn hoá,
Baroque gần gũi với văn hoá hậu hiện đại nói chung (văn hoá Baroque, theo
chúng tôi, cũng là văn hoá của khủng hoảng), với quá trình suy sụp của văn hoá
Xô Viết nói riêng mà Brodsky vừa là chứng nhân, vừa là người tham dự. Trong
văn hoá Baroque, cũng như văn hoá hậu hiện đại và văn hoá Xô Viết giai đoạn
cuối, thực tại được tiếp nhận như hệ thống những ngụy tạo (simulacra) hay ảo
tưởng mong manh. Tính nguỵ tạo trong văn hoá Baroque giải thích sự khủng
hoảng triết học sâu sắc, khi “tri thức về thế giới biến mất và xuất hiện đằng sau
vô số những mặt nạ của những hiện tượng ngụy tạo.” Thế giới trong văn hoá
Baroque đánh mất sự quân bình, ổn định, con người bị đặt giữa một thế giới mâu
thuẫn, không xác định, lừa lọc và bất tín. ý thức về khủng hoảng xã hội tạo cảm
giác về sự bất ổn, hỗn loạn sâu sắc.
[14]

Tuy nhiên, muốn hiểu được thơ Brodsky, theo chúng tôi, không thể chỉ dừng ở
luận điểm này, mà cần phải triển khai sâu hơn những đặc điểm của chủ nghĩa
hiện sinh Nga, thấy được sự ảnh hưởng của nó đối với sáng tác của nhà thơ.
Trong hơn nửa thế kỉ tồn tại văn học Xô Viết, chủ nghĩa hiện sinh Nga hầu như

không được nhắc tới, và nếu có nhắc tới người ta cũng coi đó là sự bắt chước văn
hoá Phương Tây yếm thế, suy đồi. Khi phân tích Tội ác và trừng phạt, Lũ người
quỷ ám, Bút kí dưới hầm của Dostoevski hay những sáng tác của L. Tolstoi giai
đoạn cuối, người ta cố tránh dùng cụm từ “hiện sinh.” L. Sestov cùng triết học
hiện sinh của ông chỉ mãi gần đây bạn đọc mới được biết đến. Trên thực tế, chủ
nghĩa hiện sinh Nga đã từng tồn tại. Nó được bắt đầu bằng sáng tác của
Dostoevski và L. Tolstoi giai đoạn cuối, và có những đặc điểm riêng của mình
phân biệt với hiện sinh Phương Tây. Chủ nghĩa hiện sinh Nga ảnh hưởng không ít
tới sáng tác của nhiều nhà văn, nhà thơ Nga.
Đặc điểm cơ bản trước tiên của hiện sinh Nga là xem cái chết như tồn tại khác,
tính phi lý và phản tư của nó. Yếu tố đầu xuất phát trước hết từ sáng tác của L.
Tolstoi, những yếu tố sau từ sáng tác của Dostoevski và các công trình của
Sestov.
Một đặc điểm nữa khiến hiện sinh Nga phân biệt với hiện sinh Phương Tây, đó là
sự tìm kiếm rốt ráo đạo đức và tôn giáo (Poplavski, Ianovski, Berdiaev, Sestov
giai đoạn cuối). Chính vì vậy, tuy Nietzche đặc biệt nổi tiếng ở Nga, có ảnh
hưởng không nhỏ tới Sestov và những nhà văn khác, song triết lý về phi đạo đức
(amoral) của nhà tư tưởng này được tiếp nhận hết sức hạn chế trong văn học
hiện sinh Nga.
Triết học hiện sinh Nga ít mang dạng thức của triết học duy lí, đặc biệt những
công trình của Sestov (trong chừng mực nhất định, những công trình của
Rozanov) mà chủ yếu mang tính trực giác và chất nghệ thuật.
[15]

Một đặc điểm nữa của truyền thống Nga là đề tài hiện sinh — triết lý Phật giáo về
tính hư ảo của thế giới, tính luân hồi và sự giải thoát. Nếu đề tài này chỉ thoáng
qua và đóng vai trò phụ trợ trong văn học hiện sinh Phương Tây, thì ở văn học
hiện sinh Nga (Sarsun, Felzel và đặc biệt ở Gazdanov trở thành đề tài siêu
hình), nó đóng vai trò trung tâm.
[16]


25


×