Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Ô nhiễm môi trường nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (219.75 KB, 23 trang )

I.
1.

Khái quát về tài nguyên nước.
Khái niệm.

Nước là yếu tố chủ yếu của hệ sinh thái, là nhu cầu cơ bản của mọi sự sống trên
trái đất và cần thiết cho mọi hoạt động kinh tế xã hội của con người . Nước là tài
nguyên tái tạo được, là một trong các nhân tố quyết định chất lượng môi trường
sống của con người.
Tài nguyên nước là lượng nước trong các ao, hồ, đầm lầy, biển, đại dương, khí
quyển,..Theo Luật Tài Nguyên Nước thì tại khoản 1 điều 2 Tài nguyên nước bao
gồm nguồn nước mặt, nước dưới đất, nước mưa và nước biển thuộc lãnh thổ của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2.
2.1.

Phân loại và đặc điểm.
Tài nguyên nước mặt.

Nước mặt là do sự bốc hơi nước trong đất, ao, hồ, sông, biển; sự thoát hơi nước ở
thực vật và động vật..., hơi nước vào trong không khí sau đó bị ngưng tụ lại trở về
thể lỏng rơi xuống mặt đất hình thành mưa, nước mưa chảy tràn trên mặt đất từ nơi
cao đến nơi thấp tạo nên các dòng chảy hình thành nên thác, ghềnh, suối, sông và
được tích tụ lại ở những nơi thấp trên lục địa hình thành hồ hoặc được đưa thẳng ra
biển hình thành nên lớp nước trên bề mặt của vỏ trái đất.Có hai loại nước mặt là
nước ngọt hiện diện trong sông, ao, hồ trên các lục địa và nước mặn hiện diện
trong biển, các đại dương mênh mông, trong các hồ nước mặn trên các lục địa.
2.2.

Tài nguyên nước ngầm.



Nước ngầm là một dạng nước dưới đất, tích trữ trong các lớp đất đá trầm tích bở
rời như cặn, sạn, cát bột kết, trong các khe nứt, hang caxtơ dưới bề mặt trái đất, có
thể khai thác cho các hoạt động sống của con người".


Theo độ sâu phân bố, có thể chia nước ngầm thành nước ngầm tầng mặt và nước
ngầm tầng sâu. Ðặc điểm chung của nước ngầm là khả năng di chuyển nhanh trong
các lớp đất xốp, tạo thành dòng chảy ngầm theo địa hình. Nước ngầm tầng mặt
thường không có lớp ngăn cách với địa hình bề mặt. Do vậy, thành phần và mực
nước biến đổi nhiều, phụ thuộc vào trạng thái của nước mặt. Loại nước ngầm tầng
mặt rất dễ bị ô nhiễm. Nước ngầm tầng sâu thường nằm trong lớp đất đá xốp được
ngăn cách bên trên và phía dưới bởi các lớp không thấm nước. Theo không gian
phân bố, một lớp nước ngầm tầng sâu thường có ba vùng chức năng:


Vùng thu nhận nước.



Vùng chuyển tải nước.



Vùng khai thác nước có áp.
3.

Vai trò của tài nguyên nước

Nước là nguồn tài nguyên vô cùng quan trọng cho tất cả các sinh vật trên quả đất.

Nếu không có nước thì chắc chắn không có sự sống xuất hiện trên quả đất, thiếu
nước thì cả nền văn minh hiện nay cũng không tồn tại được. Từ xưa, con người đã
biết đến vai trò quan trọng của nước; các nhà khoa học cổ đại đã coi nước là thành
phần cơ bản của vật chất và trong quá trình phát triển của xã hội loài người thì các
nền văn minh lớn của nhân loại đều xuất hiện và phát triển trên lưu vực của các
con sông lớn như: nền văn minh Lưỡng hà ở Tây Á nằm ở lưu vực hai con sông
lớn là Tigre và Euphrate (thuộc Irak hiện nay); nền văn minh Ai Cập ở hạ lưu sông
Nil; nền văn minh sông Hằng ở Ấn Ðộ; nền văn minh Hoàng hà ở Trung Quốc;
nền văn minh sông Hồng ở Việt Nam ...
II.

Hoạt động khai thác và sử dụng tài nguyên nước trong sản xuất và vai
trò ảnh hưởng của nó đến môi trường.


1.

Hoạt động khai thác và sử dụng tài nguyên nước của con người trong

sản xuất.
1.1.
Nước cho nông nghiệp:
Nước có vai trò chủ đạo trong hoạt động sản xuất nông nghiệp cũng như trong
chăn nuôi. Nước là tài nguyên không thể thiếu trong chăn nuôi thuỷ hải sản cũng
như trồng trọt nhờ đó đã đạt được những thành tựu đáng kể về sản xuất lúa gạo ở
Việt Nam, góp phần quan trọng đưa Việt Nam trở thành nước xuất khẩu gạo đứng
đầu thế giới. Hiện nay, nước phục vụ cho sản xuất nông nghiệp nhiều nhất ở hai
vùng đồng bằng là đồng bằng sông Cửu Long và sông Hồng, chiếm tỷ lệ 70%
lượng nước sử dụng. Nước cũng đóng vai trò quyết định trong sự tăng trưởng các
sản phậm cây công nghiệp, như: chè, cà phê, hồ tiêu, mía đường, cao su...

1.2.

Nước trong Công nghiệp:

Nước cho nhu cầu sản xuất công nghiệp rất lớn. Nước dùng để làm nguội các động
cơ, làm quay các tubin, là dung môi làm tan các hóa chất màu và các phản ứng hóa
học. Để sản xuất 1 tấn gang cần 300 tấn nước, một tấn xút cần 800 tấn nước.
Người ta ước tính rằng 15% sử dụng nước trên toàn thế giới công nghiệp như: các
nhà máy điện, sử dụng nước để làm trong quá trình hóa học, và các nhà máy sản
xuất, sử dụng nước như một mát hoặc như một nguồn năng lượng, quặng và nhà
máy lọc dầu, sử dụng nước dung môi. Mỗi ngành công nghiêp, mỗi loại hình sản
xuất và mỗi công nghệ yêu cầu một lượng nước, loại nước khác nhau. Nước góp
phần làm động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Nếu không có nước thì chắc chắn
toàn bộ các hệ thống sản xuất công nghiệp, nông nghiệp…trên hành tinh này đều
ngừng hoạt động và không tồn tại.
1.3.

Nước cho năng lượng:


Nước cũng đã góp phần quan trọng trong việc bảo đảm an ninh năng lượng của
Việt Nam trong điều kiện nhu cầu về năng lượng không ngừng gia tăng. Tiềm năng
thuỷ điện của Việt Nam là khá lớn, tập trung chủ yếu trên lưu vực sông Hồng, sông
Đồng Nai và các lưu vực sông ở miền Trung và Tây nguyên.
Năm 2010, thuỷ điện đã đóng góp khoảng 40% tổng sản lượng điện toàn quốc. Dự
báo tổng công suất thuỷ điện đến năm 2025 là 33.310MW, trong đó trên 80% trong
số này là từ các nhà máy thuỷ điện xây dựng trên các sông của Việt Nam.
Ảnh hưởng của hoạt động khai thác và sử dụng tài nguyên nước đến môi trường
2.


Ảnh hưởng của việc khai thác sử dụng tài nguyên nước trong sản xuất
đối với môi trường:

Nước là tài nguyên thiên nhiên quý giá, là điều kiện tất yếu để tồn tại sự sống trên
trái đất. Hiện nay, cùng với sự phát triển của đời sống kinh tế - xã hội và sự gia
tăng của các hoạt động sản xuất công, nông nghiệp, dịch vụ đã kéo theo nhu cầu sử
dụng nước ngày một gia tăng, cùng với đó là những ảnh hưởng nghiêm trọng đến
môi trường một cách không kiểm soát.
2.1.

Những tác động đến môi trường:

Hoạt động của con người có ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng, trữ lượng nước, việc
sản xuất kinh doanh có đặc thù là sử dụng nguồn nước tập trung với lưu lượng lớn,
điều này dễ gây tình trạng khai thác quá mức dẫn đến suy thoái, can kiệt nguồn
nước ở những khu vực nhất định
2.1.1.

Ô nhiễm môi trường từ nước tải bệnh viện

Nước thải từ bệnh viện cũng là nguồn gây các bệnh truyền nhiễm cho cộng đồng.
Trong nước thải bệnh viện chứa nhiều vi khuẩn, vi trùng gây bệnh thải ra xung
quanh khu dân cư gây nên những bệnh truyền nhiễm, các trận dịch lớn,… ảnh


hưởng đến sức khỏe đời sống của người dân. Hiện nay, cả nước có khoảng 1.000
bệnh viện, mỗi ngày thải ra hàng trăm nghìn m3 nước thải chưa qua xử lý hoặc xử
lý không đạt tiêu chuẩn môi trường.
2.1.2.


Hoạt động công nghiệp:

Công nghiệp là nghành làm ô nhiễm nước quan trọng, mỗi nghành có một loại
nước thải khác nhau. Khu công nghiệp Thái Nguyên thải nước biến sông Cầu
thành màu đen, mặt nước sủi bọt trên chiều dài hàng chục km. Khu công nghiệp
Việt Trì xả mỗi ngày hàng ngàn m3 nước thải của nhà máy hóa chất, thuốc trừ sâu,
giấy, dệt xuống sông Hồng làm cho nước bị ô nhiễm đáng kể. Nước thải Công
nghiệp xâm nhập gây ô nhiễm các tầng chứa nước dưới đất cũng là nguy cơ gây ô
nhiễm kim loại nặng, nitơ và asen... trong nước ngầm. Theo thống kê sơ bộ thì chỉ
khoảng 4,26% lượng nước thải công nghiệp được xử lý đảm bảo tiêu chuẩn môi
trường (năm 2005). Với lượng chất thải khá lớn từ các nhà máy, xí nghiệp, nước
thải công nghiệp chiếm một lượng lớn trong tổng lượng nước thải hằng ngày ở
thành phố lớn, hơn nữa mức độ gây ô nhiễm của nước thải công nghiệp cao hơn
nhiều so với nước thải sinh hoạt do chứa nhiều hóa chất độc hại khó phân hủy . Do
kinh phí còn hạn hẹp, điều kiện chưa cho phép nên hầu hết nước thải thẳng ra hệ
thống kênh rạch, sông ngòi mà chưa qua xử lý gây nên tình trạng ô nhiễm trầm
trọng cho các nguồn này.
2.1.3.

Ô nhiễm từ nghành Nông nghiệp

Trong Nông nghiệp tình trạng sử dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật, các loại chất
kích thích phát triển thực vật, các loại phân bón tổng hợp quá tiêu chuẩn cho phép
gây ra hiện tượng các loại hóa chất theo nước ngấm sâu vào lòng đất, ao, hồ,… gây
nên tình trạng ô nhiễm nguồn nước đồng thời gây nên tình trạng thoái hóa đất.
Lượng hóa chất bảo vệ thực vật, phân bón được sử dụng trong nghành nông nghiệp


mỗi năm khoảng 0,5-3,5kg/ha/vụ gây ra phú dưỡng (nồng độ chất N, P cao; yếm
khí, nước màu xanh đen có mùi khai thối) hoặc nhiễm độc nước.

Ô nhiễm nguồn nước từ các làng nghề truyền thống Các làng nghề thủ công truyền
thống sử dụng nước để sản xuất hàng hóa nhưng cũng thải ra môi trường xung
quanh một lượng nước thải khá lớn chưa quá hệ thống sử lý nước thải. Các làng
nghề truyền thống này không chú trọng đầu tư vào khâu xử lý nước thải hậu quả
gây ô nhiễm cho các thủy vực (ao, hồ,…) xung quanh. Hiện nay, khoảng gần 1.500
làng nghề trên cả nước gây ô nhiễm trầm trọng cho nguồn nước tại nhiều điểm, đặc
biệt là các làng nghề làm giấy, dệt nhuộm,…
a.

Ô nhiễm nguồn nước từ chăn nuôi gia súc, gia cầm

Việc chăn nuôi gia súc, gia cầm ở hộ gia đình vùng nông thôn chưa có ý thức tiết
kiệm nguồn nước trong việc vệ sinh chuồng trại chưa có hệ thống xử lí chất thải đã
thải vào ao hồ , bể tự hoại để thấm vào đất gây ô nhiễm môi trường đặc biệt là
nguồn nước ngầm .Nước dưới đất xung quanh khu vực chôn lấp gia cầm nhiễm
bệnh bị ô nhiễm do nguyên nhân chủ yếu là nước thải sinh ra trong quá trình phân
hủy gia cầm phát tán ra bên ngoài hố chôn lấp do lót đáy không kỹ thuật hoặc
không lót đáy. Ngoài ra, do không được đầu tư đúng mức nên hệ thống cống thoát
nước chưa được xây dựng hoàn chỉnh, hầu hết các cống không có nắp nên ô nhiễm
môi trường là không thể tránh khỏi. Mỗi gia đình có trung bình từ 4 – 5 người;
chuồng lợn có từ 2 – 4 con; chuồng trâu, bò có từ 1 – 2 con; chuồng gà với khoảng
10 – 15 con, 10 – 20 con ngan vịt. Có một đến hai ao nhỏ để thả cá. Nồng độ các
chất ô nhiễm trong nước thải này rất cao, tương đương với nước rác rò rỉ trong thời
gian phân hủy của gà trong hố sẽ kéo dài có thể tới một vài năm.


Ngoài ra, do không được đầu tư đúng mức nên hệ thống cống thoát nước chưa
được xây dựng hoàn chỉnh, hầu hết các cống không có nắp nên ô nhiễm môi trường
là không thể tránh khỏi
b.


Việc nuôi các bè cá, bè tôm trực tiếp trên các dòng nước mặt sông rạch đã
làm ô nhiễm nguồn nước do một số nguyên nhân: thức ăn của cá dư thừa, sự

c.

khuấy động nguồn nước, sự cản trở lưu thông dòng mặt.
Trồng trọt:

Nhiều giếng khoan ngoài ruộng vườn để tưới tiêu không đảm bảo kỹ thuật gây
nhiễm bẫn, nhiễm các hóa chất và thuốc trừ sâu …Với tình trạng sử dụng bừa bãi,
tùy tiện các loại hóa chất trong phân bón, các loại thuốc kích hoạt phát triển cây…
Nhiều hệ thống kênh mương tưới tiêu nội đồng đã bị ô nhiễm nguồn nước và phát
tán rộng.
Hệ thống tưới tiêu và hình thức tưới tiêu không hợp lý là nguyên nhân gây thất
thoát lưu lượng nước lớn trong ngành trồng trọt.
2.2.

Biểu hiện ô nhiễm môi trường từ hoạt động sản xuất:
a)

Nguồn nước ngầm (nước dưới đất)

Nước dưới đất (NDĐ) được coi là nguồn tài nguyên thiên nhiên sử dụng đơn giản
nhất, nó có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong đời sống tự nhiên và xã hội con
người. Nước dưới đất thực chất là một loại khoáng sản lỏng, cung cấp cho các
ngành công nghiệp, cho sinh hoạt dân dụng, phục vụ cho nông nghiệp.
Nước dưới đất có ảnh hưởng rất lớn đến môi trường sống của con người. Trong
nhiều trường hợp NDĐ sạch hơn nước mặt. NDĐ thường được bảo vệ chống lại ô
nhiễm từ bề mặt bởi đất và các tầng đá. Điều này giải thích tại sao hầu hết nước

sinh hoạt ở nhiều nơi trên thế giới là NDĐ.


Hiện nay, do tốc độ phát triển kinh tế xã hội, công nghiệp hoá nhanh chóng, dân số
ngày càng tăng, trong điều kiện nhận thức của cộng đồng còn hạn chế, tình trạng
khai thác NDĐ để phục vụ cho nhiều nhu cầu ngày càng gia tăng, ở nhiều nơi đã
diễn ra tình trạng khai thác trái phép, khai thác không tuân thủ đúng quy trình quy
phạm dẫn đến NDĐ đang đứng trước nguy cơ bị ảnh hưởng nghiêm trọng, tác
động ngược trở lại đến môi trường sống của chúng ta.Những tác động môi trường
chínhthường có thể xảy ra đối với các dự án khai thác NDĐ gồm:


Hiện tượng sụt lún mặt đất:

Khai thác nước dưới đất tạo biến động môi trường tiềm ẩn là làm biến dạng mặt
đất trong khu vực khai thác. Nguy cơ này thường xảy ra ở những vùng khai thác
tập trung kéo dài khi không có lượng bổ cập từ các nguồn khác, từ đó mực nước hạ
thấp tạo thành phễu hạ thấp mực nước lớn và sâu, gây ra hiện tượng sụt lún.



Hiện tượng suy giảm lưu lượng và mực nước trong các lỗ khoan khai thác:

Nguyên nhân của việc suy giảm chất lượng, mực nước còn đang là vấn đề phức
tạp. Tuy nhiên, một hiện tượng dễ nhận thấy nhất là số lượng lỗ khoan khai thác
tăng lên rất nhiều nhưng không được bố trí thích hợp và không quản lý được lưu
lượng khai thác. Hiện tượng này làm hạ thấp mực nước ở các lỗ khoan đang khai
thác. Sự suy giảm này còn do các nguyên nhân khác như ống lọc bị tắc, do hiện
tương ôxít sắt hoặc hiện tượng sét hoá vách lỗ khoan....
Hiện tượng suy giảm chất lượng nước dưới đất từ các công trình khai thác, do kém

hiểu biết về đối tượng khai thác còn làm suy giảm chất và lượng nước khai thác.
Việc khai thác nước dưới đất trong tầng Pleistocen đã làm cho lượng nước ở tầng
trên thấm xuyên qua tầng chứa nước đó làm thay đổi thành phần hoá học của nước
chứa trong tầng này. ở một số nơi, việc khai thác nước đã thu hút nước từ tầng


chứa nước có tổng lượng khoáng hoá lớn đến công trình khai thác nước, gây nhiễm
mặn nước trong lỗ khoan.
Hạ thấp mực nước do hút ra một lượng nước từ lòng đất nên đã tạo ra phễu hạ
thấp mực nước quanh vùng khai thác. Lượng nước khai thác càng nhiều thì mực
nước mặt hạ thấp càng lớn, thời gian khai thác càng lâu thì phạm vi hạ thấp mực
nước càng lớn. Dẫn đến nhiễm mặn trong tầng chứa nước: Trong trường hợp khai
thác nước dưới đất quá mức gần các biển mặn nước dưới đất có thể bị mặn do
nước mặn ở xung quanh thâm nhập vào, gây ô nhiễm nước của tầng chứa nước.
Nước ở tầng chứa nước bị ô nhiễm do lôi cuốn nước bẩn từ nơi khác đến, từ các
tầng chứa nước bị ô nhiễm đến tầng khai thác qua các lỗ khoan không được xử lý,
trám lấp đúng quy trình kỹ thuật.
Do hệ thống cung cấp nước tập trung hiện nay chưa đáp ứng được nhu cầu sử dụng
nước sạch cho các hoạt động sản xuất, sinh hoạt nên việc khoan giếng để khai thác
nước ngầm đang diễn ra phổ biến và không có sự quản lý chặt chẽ của các cơ quan
quản lý đã dẫn tới nguy cơ suy thoái chất lượng, trữ lượng nước ngầm.


Làm thấp mực nước dưới đất:

Việc khai thác nước ngầm tràn lan, không có quy hoạch sẽ làm cho mực nước
ngầm tại khu vực cạn kiệt dần và làm thấp mực nước ngầm, ảnh hưởng tới công
trình khai thác nước ngầm:
Khi một công trình khai thác nước ngầm đi vào hoạt động thì ảnh hưởng của nó sẽ
lan rộng khá nhanh tới khu vực xung quanh, tác động tới các công trình khai thác

lân cận làm cho mực nước trong các công trình này bị hạ thấp, do vậy sẽ làm tăng
chi phí và giảm hiệu suất khai thác của công trình. Khoảng cách giữa các công
trình khai thác càng gần nhau thì mực nước hạ thấp càng nhiều gây sụt lún công
trình xung quanh: Hiện tượng sụt lún do khai thác nước ngầm.Việc hạ thấp mực


nước sẽ dẫn tới hiện tượng sụt lún các lớp đất đá trong tầng chứa nước. Tại tầng
đất chứa nước, có một lực đẩy Ascimet để nâng các khối đất đá lên; khi khai thác
nước làm mực nước hạ thấp thì tầng đất này không còn lực đẩy Ascimet nữa và tạo
ra lỗ hổng lớn, dẫn tới sụt lún các công trình, gây thiệt hại về kinh tế cũng như tính
mạng con người.


Biến đổi chất lượng nước:

Xâm nhập của nước bẩn và làm biến đổi chất lượng nước. So với nước mặt, nước
ngầm ít bị ô nhiễm hơn. Nhưng đối với các vùng mà lớp phủ trên tầng chứa nước
mỏng hoặc có tính thấm lớn, nước mặt thấm xuống cũng rất dễ gây nhiễm bẩn tầng
chứa nước. Ngoài ra, ở các lỗ khoan có kết cấu cách ly kém, nước bẩn có thể theo
thành lỗ khoan thâm nhập vào tầng chứa nước làm ô nhiễm nước dưới đất; quá
trình khai thác nước làm cho mực nước hạ thấp sẽ làm tăng độ dốc thuỷ lực của
dòng thấm cũng có thể làm tăng quá trình ô nhiễm … Khi nước dưới đất đã bị ô
nhiễm thì việc khắc phục rất khó khăn và phức tạp, không những tốn kém kinh phí
xử lý mà còn đòi hỏi thời gian khắc phục lâu dài.
b)

Nguồn nước mặt:

Ngành nông nghiệp là ngành sử dụng nhiều nước nhất, dùng để tưới tiêu hoa màu
và lúa chủ yếu là ở vùng đồng bằng. Việc sử dụng nông dược và phân bón hoá học

ngày càng góp thêm phần ô nhiễm môi trường nước nông thôn.
Ngành công nghiệp là ngành làm ô nhiễm nguồn nước mặt cũng rất nhiều, mỗi
ngành có một loại nước thải khác nhau.
Khu công nghiệp Việt Trì xả mỗi ngày hàng ngàn mét khối nước thải của nhà máy
hoá chất, giấy, dệt, bia, nhà máy nhuộm, nhà máy mì chính MIWON… xuống Sông
Hồng làm nước bị nhiễm bẩn đáng kể. Các Khu công nghiệp lớn và các thành phố


lớn đông người đã tạo ra nguồn nước thải công nghiệp và sinh hoạt rất lớn, làm
nhiễm bẩn tất cả các sông rạch ở đây và cả vùng phụ cận.
Nước thải của các cơ sở tiểu thủ công nghiệp trong khu dân cư là đặc trưng của sự
ô nhiễm, của các đô thị ở nước ta. Các loại nước thải đều được trực tiếp thải ra môi
trường, chưa qua xử lý.
Ô nhiễm nước sinh học do các nguồn thải đô thị hay công nghiệp bao gồm các
chất thải sinh hoạt, phân, nước rửa của các nhà máy đường, giấy, nhà máy chế biến
thực phẩm…Nguồn ô nhiễm về mặt sinh học chủ yếu là do các chất thải, các chất
hữu cơ có thể lên men được, chất thải sinh hoạt hoặc công nghiệp có chứa chất cặn
bã sinh hoạt, phân tiêu, nước rửa của các nhà máy đường, giấy, lò mổ nhà máy chế
biến thực phẩm gây ra. Sự ô nhiễm sinh học thể hiện bằng sự nhiễm bẩn do vi
khuẩn rất nặng. Các bệnh cầu trùng, viêm gan do siêu vi khuẩn tăng lên liên tục ở
nhiều quốc gia chưa kể đến các trận dịch tả. Các nước thải từ lò sát sinh chứa một
lượng lớn mầm bệnh. Các nhà máy giấy thải ra nước có chứa nhiều glucid dễ lên
men.
Tất cả các nhà máy chế biến thực phẩm, sản xuất đồ hộp, thuộc da, lò mổ, đều có
nước thải chứa protein. Khi được thải ra dòng chảy, protein nhanh chóng bị phân
hủy bốc mùi hôi thối. Mùi hôi của phân và nước cống chủ yếu là do indol và dẫn
xuất chứa methyl của nó là skatol.
Ô nhiễm hoá học do chất vô cơ đã thải vào nước các chất nitrat, phosphat dùng
trong nông nghiệp và các chất thải do luyện kim và các công nghệ khác như Mn,
Cu, Hg… là những chất độc cho thuỷ sinh vật.

Sự ô nhiễm do các chất khoáng là do sự thải vào nước các chất như nitrat, phosphat
và các chất khác dùng trong nông nghiệp và các chất thải từ các ngành công
nghiệp. Nhiễm độc Chì đó là Chì được sử dụng làm chất phụ gia trong xăng và các


chất kim loại khác như đồng, kẽm… rất độc đối với sinh vật thủy sinh. Thủy ngân
dưới dạng hợp chất rất độc đối với sinh vật và người. cá và các động vật biển khác
đã bị nhiễm Thủy ngân do nhà máy thải ra. Sự ô nhiễm nước do phân hoá học cũng
đáng lo ngại. Phân bón làm tăng năng suất cây trồng và chất lượng của sản phẩm.
Nhưng các cây trồng chỉ sử dụng được khoảng 30 - 40% lượng phân bón, lượng dư
thừa sẽ vào các dòng nước mặt hoặc nước ngầm, sẽ gây hiện tượng phì nhiêu hoá
sông hồ, gây yếm khí ở các lớp nước ở dưới.
2.3.

Thực trạng:

Việt nam hiện bị xếp vào nhóm quốc gia thiếu nước do lượng nước mặt bình quân
đầu người ở nước ta đạt khoảng 3.840m3/người/năm.Theo tiêu chí của Hội Tài
nguyên nước quốc tế (IWRA). Thì ở thời điểm hiện nay Việt Nam đã thuộc số
quốc gia thiếu nước trong tương lai gần. Suy thoái tài nguyên nước trên các lưu
vực sông sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới hàng chục triệu người dân và hoạt động
sản xuất.
Những hộ dân cư sống bằng nước giếng khoan và những thành phố sử dụng nước
ngầm như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh…sẽ phải đối mặt nguy cơ thiếu nước sinh hoạt
trầm trọng. Điều này không chỉ ảnh hưởng lớn tới mục tiêu phát triển kinh tế bền
vững của Việt Nam. Tài nuyên nước ở nước ta phân bố không đều và biến đổi
mạnh theo thời gian. Theo khảo sát của UNICEF và Bộ Y Tế, chỉ có 70% cư dân
đô thị được sử dụng nước sạch và con số này ở nông thôn còn đáng báo động hơn,
rõ ràng câu chuyện an ninh nguồn nước vẫn luôn là nỗi lo của mọi người. Vì vậy
cộng đồng chung tay trong công tác bảo vệ môi trường để bảo vệ nguồn tài nguyên

nước.
Thực trạng khai thác nước ngầm tại TPHCM đã và đang khiến mực nước dưới
đất tiếp tục giảm nhanh chóng. Hiện mực nước ngầm đo đạc được ở độ sâu -34,5m
tại quận 12, -26,85m tại huyện Bình Chánh và -19,63m đến -21,5m tại huyện Hóc


Môn… Theo ông Nguyễn Thanh Hùng, Viện Môi trường và Tài nguyên, cho biết
kết quả nghiên cứu từ năm 2009 đến nay cho thấy, toàn thành phố không còn khu
vực nào có nguồn nước ngọt sạch. Nồng độ các chất ô xy hóa, vi sinh, kim loại
nặng, chất thải lơ lửng … luôn vượt tiêu chuẩn loại B từ vài lần đến vài chục lần.
Đáng lo ngại hơn , tình trạng khai thác nước ngầm nhưng thiếu sự quản lý, kiểm
soát đã và đang tạo cơ hội cho nguồn nước ô nhiễm xâm nhập sâu vào trong hệ
thống nước ngầm trên toàn thành phố. Kết quả quan trắc chất lượng nước ngầm
của thành phố do sở Tài nguyên và Môi trường thực hiện cho thấy, toàn bộ nguồn
nước ngầm tầng nông cách mặt đất khoảng 50m đều có dấu hiệu ô nhiễm.
Hiện ở TPHCM mỗi ngày có hơn 600.000m3 nước ngầm bị mất đi do khai thác
quá mức. Đây là con số dựa trên những doanh nghiệp có đăng ký xin phép khai
thác. Còn số doanh nghiệp đang khai thác nhưng không xin phép và hộ gia đình tự
ý khoan giếng nước ngầm rất nhiều không có cơ sở nào để thống kê.
Nước ngầm ngoại thành Hà Nội ô nhiễm nặng theo Trung tâm Nước sinh hoạt và
vệ sinh môi trường “ Sở NN & PTNT Hà Nội ” đã lấy 1.640 mẫu nước từ các
giếng khoan hộ gia đình, trường mầm non, trạm y tế và 187 trạm cấp nước tập
trung tại 420 xã, thị trấn khu vực ngoại thành. Qua phân tích, kết hợp với các tài
liệu quan trắc cho thấy nguồn nước ngầm bị nhiễm bẩn và đang lan rộng ở nhiều
nơi. Tại xã chàng sơn, huyện Thạch Thất, Trung tâm Nước sinh hoạt và Vệ sinh
môi trường lấy 123 mẫu nước ngầm để phân tích, kết quả có 86 mẫu bị nhiễm bẩn,
trong đó có 4 mẫu có độ đục cao gấp 5 lần quy định cho phép, 28 mẫu có hàm
lượng amoni cao gấp 8,33 lần cho phép, 44 mẫu có chỉ số coliforms, cao gấp 2,68
lần, 3 mẫu có chỉ số ecoli cao gấp 1,3 lần cho phép.



Toàn vùng Đồng bằng sông Cửu Long hiện có hàng trăm nghìn giếng khoan khai
thác nước ngầm do người dân tự đầu tư và hàng trăm trạm cấp nước tập trung. Ước
tính, tổng lượng nước ngầm khai thác toàn vùng trên dưới 1 triệu m3/ngày.
Tình trạng khai thác nước ngầm tràn lan trong sản xuất nông nghiệp thời gian qua
ở khu vực này đã khiến nguồn nước bị suy giảm nghiêm trọng. Trong khi đó, tình
trạng xâm nhập mặn, hạn hán kéo dài đã làm suy kiệt nguồn nước ngọt trong hệ
thống các sông ngòi, kênh rạch, hồ chứa… ở Đồng bằng sông Cửu Long, điều này
dẫn đến nguy cơ thiếu nước ngọt cho sản xuất và sinh hoạt.
Những năm gần đây, nhu cầu sử dụng nước ngầm gia tăng mạnh mẽ do tình trạng
bùng nổ các hoạt động nuôi trồng thủy sản không theo quy hoạch, nhất là nuôi tôm
tại các địa phương ven biển của Đồng bằng sông Cửu Long như Cà Mau, Bạc Liêu,
Sóc Trăng, Trà Vinh, Tiền Giang, Kiên Giang. Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh
Cà Mau cho biết, tổng số giếng khoan trong tỉnh đã lên đến hơn trên 138 nghìn,
lưu lượng nước khai thác khoảng 400.000m3/ngày đêm. Theo thống kê chưa đầy
đủ, toàn tỉnh Sóc Trăng cũng hiện có hơn 80.000 giếng khoan, trong đó chỉ riêng
thị xã Vĩnh Châu đã có hơn 22.000 giếng các loại…, điều này cho thấy số lượng
giếng khoan ở các địa phương Đồng bằng sông Cửu Long đang ngày càng tăng
nhanh chóng. Qua khảo sát, người dân ở khu vực này mới chỉ khai thác được ở các
tầng chứa nước có độ sâu không lớn. Mặt khác, do chưa có quy hoạch tài nguyên
nước nên việc khai thác phần lớn tự phát, nhiều khu vực phân bố mật độ giếng quá
dày, lưu lượng vượt quá khả năng bổ cập của tầng chứa nước nên đã xảy ra hàng
loạt các tác động tiêu cực do khai thác như cạn kiệt cục bộ, gia tăng quá trình ô
nhiễm trên bề mặt, gia tăng quá trình nhiễm mặn, sụt lún nền đất.
Ông Nguyễn Thành Lâm, Phó trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre cho biết, do hạn hán, xâm nhập mặn kéo dài từ đầu
năm đến nay, Ba Tri là một trong những huyện thiếu nước ngọt nghiêm trọng,


người dân đã phải khoan giếng để lấy nước sinh hoạt, tuy nhiên các giếng khoan

đều bị nhiễm mặn, không thể sử dụng được. Ngay cả Nhà máy nước Tân Mỹ, cung
cấp nước cho các xã, thị trấn ở Ba Tri, nước cũng bị nhiễm mặn, khiến cho việc sử
dụng nước của người dân gặp rất nhiều khó khăn.
2.4.

Thực trạng tại quê hương sinh viên- TP Huế

Sự phát triển của cá đô thị mới, Khu công nghiệp, khu tái định cư với quy mô hàng
năm ha đã làm cho hệ thống sông, kênh hồ ở HUế vừa có chức năng làm đẹp cảnh
quan vừa có chức năng tiêu thoát nước đang bị tiêu hẹp dần
Tại khu vực nội thành và một số cửa ra vào thuộc kinh thành Huế , ngang qua các
khúc sông cảnh tượng bèo lục bình với đủ các loại rác thải phủ kín mặt nước. Lâu
ngày nước ở đây trở nên đen đục, bốc mùi hôi và rười muỗi phát sinh dày đặc
Theo Trung Tâm BTDT Cố Đô Huế ngoài hồ Tịnh Tâm và hồ Học Hải thì còn 33
hồ nằm trong khu vực kinh thành Huế xảy ra tình trạng ô nhiễm và bị người dân
lấn chiếm để xây dựng nhà cửa.. Nếu đi một vòng các dòng sông ở Huế, điều dễ
dàng nhận thấy là tình trạng ô nhiễm của các dòng sông nhiều nơi đã đến mức báo
động. Sông Hương nhìn trong xanh là thế nhưng càng vào gần bờ, càng thấy nhiều
rác và bao nilon nổi lềnh bềnh. Tại đoạn sông Hương gần bờ phía chợ Đông Ba,
nước trở nên đen ngòm như nước cống và đầy rác rưởi. Tuy vậy, so với các con
sông khác trong thành phố thì sông Hương vẫn còn vào hạng khá bởi vì lượng rác
và độ bẩn của nước ở các sông Bạch Yến, sông Đông Ba, sông An Cựu... còn
khủng khiếp hơn nhiều. Đoạn sông An Cựu phía chân cầu An Cựu đã ở mức độ ô
nhiễm "báo động đỏ" vì nơi đây đã trở thành chỗ đổ rác lý tưởng của khu chợ và
các hộ dân sống bên bờ.
2.5.

Giải pháp



Để ngăn chặn, khắc phục và xử lí có hiệu quả những hành vi gây ô nhiễm môi
trường, cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp chủ yếu sau đây:



Nâng cao công tác tuyên truyền, giáo dục về bảo vệ môi trường trong xã hội
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường, trong đó
những chế tài xử phạt (cưỡng chế hành chính và xử lí hình) phải thực sự đủ
mạnh để đủ sức răn đe các đối tượng vi phạm. Bên cạnh đó, cần xây dựng
đồng bộ hệ thống quản lí môi trường trong các nhà máy, các khu công
nghiệp theo các tiêu chuẩn quốc tế, đồng thời tổ chức giám sát chặt chẽ



nhằm hướng tới một môi trường tốt đẹp và thân thiện hơn với con người.
Tăng cường công tác nắm tình hình, thanh tra, kiểm tra, giám sát về môi
trường (thường xuyên, định kỳ, đột xuất); phối hợp chặt chẽ giữa các cơ
quan chuyên môn, nhất là giữa lực lượng thanh tra môi trường với lực lượng
cảnh sát môi trường các cấp, nhằm phát hiện, ngăn chặn và xử lí kịp thời,
triệt để những hành vi gây ô nhiễm môi trường của các tổ chức, cá nhân.
Đồng thời, nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ
chuyên trách công tác môi trường; trang bị các phương tiện kỹ thuật hiện đại



để phục vụ có hiệu quả hoạt động của các lực lượng này.
Chú trọng công tác quy hoạch phát triển các khu, cụm, điểm công nghiệp,
các làng nghề, các đô thị, đảm bảo tính khoa học cao, trên cơ sở tính toán kỹ
lưỡng, toàn diện các xu thế phát triển, từ đó có chính sách phù hợp; tránh
tình trạng quy hoạch tràn lan, thiếu đồng bộ, chồng chéo như ở nhiều địa

phương thời gian vừa qua, gây khó khăn cho công tác quản lí nói chung,
quản lí môi trường nói riêng. Đối với các khu công nghiệp, cần có quy định
bắt buộc các công ty đầu tư hạ tầng phải xây dựng hệ thống thu gom, xử lí
nước thải tập trung hoàn chỉnh mới được phép hoạt động, đồng thời thường



xuyên có báo cáo định kỳ về hoạt động xử lí nước thải, rác thải tại đó.
Cần chú trọng và tổ chức thực hiện nghiêm túc việc thẩm định, đánh giá tác
động môi trường đối với các dự án đầu tư, trên cơ sở đó, cơ quan chuyên


môn tham mưu chính xác cho cấp có thẩm quyền xem xét quyết định việc
cấp hay không cấp giấy phép đầu tư. Việc quyết định các dự án đầu tư cần
được cân nhắc kỹ lưỡng giữa lợi ích đem lại trước mắt với những ảnh hưởng
của nó đến môi trường về lâu dài. Thực hiện công khai, minh bạch các quy
hoạch, các dự án đầu tư và tạo điều kiện để mọi tổ chức và công dân có thể
tham gia phản biện xã hội về tác động môi trường của những quy hoạch và
dự án đó.
Hiện nay, giải pháp khai thác nước mặt thay thế nước ngầm đang được triển khai.
Một nhà máy nước mặt có công suất lớn đã được đầu tư xây dựng tại Hòa Bình.
Nước từ sông Đà, sau khi thành nước sạch, được đưa về cung cấp cho Hà Nội và
chuỗi đô thị Xuân Mai, Hà Đông, Sơn Tây... Tuy nhiên, tại Hà Nội, mới có khu vực
Tây Nam thành phố có thể sử dụng nguồn nước này. Số hộ gia đình sử dụng tăng
dần trong những năm tới chứ không thể thay thế cùng lúc do thiếu hệ thống truyền
dẫn, phân phối. Do đó nước ngầm vẫn là nguồn cung cấp chủ yếu. Điều đó cũng
có nghĩa nếu không có biện pháp quản lý, tình trạng lún bề mặt vẫn sẽ xảy ra.
III.
1.


Pháp luật về ô nhiễm môi trường nước:
Quy định của pháp luật:

Các quan hệ xã hội phat sinh trong quá trình khai thác, sử dụng và bảo vệ, phát
triển tài nguyên nước được điều chỉnh bởi nhiều văn bản luật và văn bản dưới luật
như:
Hiến pháp 2013
Luật bảo vệ môi trường 2014 (điều 52- 58)
Luật Tài nguyên nước 2012
Nghị định 201/2013/NĐ-CP hướng dẫn luật tài nguyên nước
Thông Tư 94/2016/TT-BTC

Bộ Tài Chính Sửa đổi, bổ sung Quyết định số

59/2006/QĐ-BTC ngày 25 tháng 10 năm 2006 về việc quy định mức thu, chế độ


thu, nộp, quản lý và sử dụng phí thẩm định, lệ phí cấp phép thăm dò, khai thác, sử
dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước và hành nghề khoan nước
dưới đất; THông tư số 02/2014/TT-BTC ngày 02 tháng 01 năm 2014 hướng dẫn về
phí và lệ phí thuộc thẩm quyền quyết định của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương.
Thông tư liên tịch số 50/2014/TTLT-BTNMT-BNV hướng dẫn chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của của Sở Tài nguyên và Môi trường thuộc Ủy
ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Phòng Tài nguyên và Môi
trường thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.

Công tác quản lý tài nguyên nước không ngừng được tăng cường và đã có những
bước tiến quan trọng trong cơ cấu tổ chức ngành nước từ trung ương đến địa
phương với việc thành lập Bộ Tài nguyên và Môi trường để thực hiện chức năng

quản lý nhà nước về tài nguyên nước, tách chức năng quản lý khỏi chức năng cung
cấp các dịch vụ về nước là một bước đột phá hết sức quan trọng, đặc biệt là trong
năm 2014 đã ban hành Thông tư liên tịch số 50/2014/TTLT-BTNMT-BNV hướng
dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của của Sở Tài nguyên và
Môi trường thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Phòng
Tài nguyên và Môi trường thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh.
Đồng thời, thể chế về tài nguyên nước cũng không ngừng được hoàn thiện và kiện
toàn để đáp ứng yêu cầu quản lý trong tình hình mới: nhiều văn bản quy phạm
pháp luật về tài nguyên nước đã được ban hành, tạo hành lang pháp lý cho việc
thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tài nguyên nước trên phạm vi cả nước;
đầu tiên phải nói đến là luật bảo vệ môi trương 2014 quy định chung về vấn đề này


Đặc biệt, gần đây quan điểm quản lý tổng hợp, toàn diện tài nguyên nước đã được
luật hóa và được quy định trong Luật tài nguyên nước số 17/2012/QH13 - văn
bản pháp lý cao nhất về lĩnh vực tài nguyên nước. Theo đó, một trong những
nguyên tắc quản lý tài nguyên nước đã được quy định trong Luật là: ”Việc quản lý
tài nguyên nước phải bảo đảm thống nhất theo lưu vực sông, theo nguồn nước, kết
hợp với quản lý theo địa bàn hành chính.” và ” Tài nguyên nước phải được quản
lý tổng hợp, thống nhất về số lượng và chất lượng nước; giữa nước mặt và nước
dưới đất; nước trên đất liền và nước vùng cửa sông, nội thủy, lãnh hải; giữa
thượng lưu và hạ lưu, kết hợp với quản lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác”.
Cùng với nguyên tắc này, Luật cũng đã thể chế các quy định, biện pháp cụ thể để
thực hiện phương thức quản lý tổng hợp tài nguyên nước trong các hoạt động quy
hoạch, bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên nước và phòng, chống tác hại do nước
gây ra,...
Trong đó nêu rõ nghĩa vụ của nhà nước trong kiểm soát ô nhiễm nguồn nước:
1.
2.


Đánh giá hiện trạng tài nguyên nước:
Xây dựng và tổ chức thực hiện hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về

3.

tài nguyên nước
Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, kế hoạch quy hoạch về khai thác

4.

sử dụng bảo vệ, phát triển tài nguyên nước.
Xây dựng và sử dụng nguôn tài chính cho hoạt động bảo về và phát triển tài

5.
6.

nguyên nước.
Cấp thu hồi giấy phép tài nguyên nước
Tổ chức và thức hiện các hoạt động phòng chông, khắc phục sự cố môi

7.

trương do sự vận động bất thường của nước gây ra
Thanh tra thực hiện pháp luật về bảo vệ tài nguyên nước, giải quyết khiếu
nại tố cáo, Xử lý vi phạm về bảo về tài nguyên nước

Đối với cá nhân tổ chức:
1.


Bảo vệ chất lượng và trữ lượng nguồn nước


2.

Bảo vệ công trình thuỷ lợi, khí tượng thuỷ vanwvaf các công trình
khacslieen quan tới việc bảo vệ, phát triển khai thác sử dụng tài nguyên

3.

nước
Phòng chống khắc phục hậu quả do nước gây ra

Cùng với đó là một số các văn bản dưới luật điêu chỉnh vấn đề naỳ:
-

94/2016/TT-BTC Bộ Tài Chính Sửa đổi, bổ sung Quyết định số
59/2006/QĐ-BTC ngày 25 tháng 10 năm 2006 về việc quy định mức thu,
chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí thẩm định, lệ phí cấp phép thăm dò,
khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước và hành
nghề khoan nước dưới đất; THông tư số 02/2014/TT-BTC ngày 02 tháng 01
năm 2014 hướng dẫn về phí và lệ phí thuộc thẩm quyền quyết định của Hội

2.



đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Nghị định 201/2013/NĐ-CP hướng dẫn luật tài nguyên nước
Hạn chế pháp luật:

Chế tài cho hành vi vi phạm chưa tuong xứng với hậu quả gây ra.
Luật Hình sự 1999 chưa có quy định về tội phạm cho hành vi vi phạm là tổ



chức
Pháp luật về tài nguyên nước hay luật Bảo vệ Môi trường và các văn bản
khác cũng đã đề cập về vấn đề kiểm soát ô nhiêm nước hiện nay chưa đủ để
kiểm soát sự biến đổi mạnh mẽ của ô nhiễm nguồn nước. Luật kiểm soát ô



nhiễm nước rất cần thiết, nếu được ban hành sẽ ngăn chặn xu hướng ô nhiễm
Nhận thức của người dân về vấn đề này còn kém, sự giám sát của cơ quan
còn lỏng lẻo và chồng chéo.

Việt Nam chưa có nhiều chuyên gia, thiếu khoa học kỹ thuật để giải quyết các vấn
đề về môi trường do khai thác sử dụng tai nguyên nước gây ra.
3.

Kiến nghị hoàn thiện:

 Cần có những chế tài thích đáng để trừng trị, răn đe cho những hành vi làm ô

nhiễm, suy thoái, cạn kiệt nguồn nước, cản trở dòng chảy, hư hại công trình


trên sông, gây trở ngại cho giao thông thủy và không được gây nhiễm mặn
nguồn nước.
 BLHS cần quy định tổ chức trong chủ thể của hành vi vi phạm pháp luật


hình sự


Cần ban hành Luật kiểm soát ô nhiễm nước để quản lý kiểm soát một cách
có hiệu quả đồng thời sẽ ngăn chặn xu hướng ô nhiễm. Tuy nhiên, muốn ban
hành Luật cần phải có nghiên cứu kỹ càng để có thể giải quyết ô nhiễm một
cách thực sự. Cụ thể, cần phải nghiên cứu vai trò của các nhà khoa học,



chính sách, công nghệ, tiêu chuẩn xả thải
Luật kiểm soát ô nhiễm nước nếu được ban hành cần đi vào những nội dung
cụ thể nhưng phải thống nhất với pháp luật nói chung và Luật Bảo vệ môi



trường và Luật Tài nguyên nước nói riêng.
cần có sự hợp tác chặt chẽ giữa các ngành sử dụng nước trong cả nước và
quốc tế, để sao cho việc quy hoạch, quản lý tổng hợp tài nguyên nước được



lồng ghép trong các kế hoạch phát triển đô thị và kinh tế-xã hội
nâng cao trình độ nhận thức người dân qua việc ưu đãi hay khuyến khích khi



thực hiện tốt vấn đề này
Bồi dưỡng chuyên gia về môi trường để họ có thể nghiên cuaus giải quyết


IV.

các vấn đề này tốt nhất.
TỔNG KẾT:

Nước là nguồn tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá, không thể thiếu đối với mọi
sự hoạt động trong nghành kinh tế quốc dân. Tuy nguồn nước có nhiều nhưng
trạng thái thiên nhiên không đủ thỏa mãn được nhu cầu nước ngày càng lớn của xã
hội.
Những tài liệu được nêu ra ở trên chỉ là một phần nhỏ trong vô vàn những số liệu
thống kê về thực trạng tài nguyên nước ở Việt Nam mà không thể nêu hết được. Ô
nhiễm nguồn nước, khan hiếm nước ngọt, nước sinh hoạt không đủ tiêu chuẩn,…


đang diễn ra nhiều nơi trên cả nước. Đó là một vấn đề đáng lo ngại đến sức khỏe
cộng đồng, sự phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc gia của đất nước. Vì vậy
nước là một trong những yếu tố quan trọng cần phải được xem xét trong quy hoạch
của các ngành. Trong nông nghiệp, nước là biện pháp hàng đầu, trong công nghiệp
ta khó hình dung được một nhà máy, một công trường nào mà lại không cần đến
nước. Khi nền kinh tế ngày càng phát triển, thì hiện tượng thiếu nước và vấn đề sử
dụng nước một cách có kế hoạch, hợp lý, tiết kiệm đã được đưa ra nghiên cứu, giải
quyết. Và để khai thác những mặt lợi, ngăn chặn các tác hại của nước, con người
đã phải can thiệp vào tự nhiên, làm thay đổi những quy luật tự nhiên của nước.
Nhà nước cần có những chính sách phù hợp, có các biện pháp bảo vệ và khai thác
tài nguyên nước một cách hợp lý có hiệu quả trong hiện tại và tương lai. Nâng cấp,
sửa đổi, bổ sung Luật bảo vệ tài nguyên nước, thi hành nhiều chính sách hợp lý
không những chỉ riêng tài nguyên nước mà còn nhiều loại tài nguyên khác. Bảo vệ
tài nguyên bảo vệ cho chính sự phát triển của Đất nước.



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Giáo trình luật môi trường ĐH luật Hà Nội -2014

2.

Luật tài nguyên 2012

3.
4.

Luật bảo vệ môi trường 2014 (điều 52- 58)
Nghị định 201/2013/NĐ-CP hướng dẫn luật tài nguyên nước

5.

Thông Tư 94/2016/TT-BTC Bộ Tài Chính

6.

Vấn đề môi trường trong lập kế hoạch đầu tư.

7.

Gs.ts. Đặng như toàn – pgs.ts. Nguyễn thế chinh. Một số vấn đề cơ bản
về kinh tế và quản lý môi trường. Nhà xuất bản xây dựng – hà nội 1997.

8.


DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM I
Lê Thị Bé Anh
Đào Hoàng Bảo
Phạm Chí Chiến
Nguyễn Thị Diệp
Lê Thị Hà Đông
Phan Thị Mai Duyên
Trương Thị Giang
9.

1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.

Một số bài báo trên Internet.



×