Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển và vấn đề hoàn thiện (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 27 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

HÀ VIỆT HƯNG

HỢP ĐỒNG VẬN CHUYỂN HÀNG HOÁ QUỐC TẾ
BẰNG ĐƯỜNG BIỂN VÀ VẤN ĐỀ HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Quốc tế
Mã số: 62380108

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2017


Công trình được hoàn thành tại:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

Người hướng dẫn khoa học:

pgs.ts ®oµn n¨ng
Pgs.ts n«ng quèc b×nh

Phản biện 1: TS. Lê Mai Thanh
Phản biện 2: PGS.TS Tăng Văn Nghĩa
Phản biện 3: PGS. TS Hoàng Phước Hiệp


Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án tiến sĩ cấp trường, họp tại
Trường Đại học Luật Hà Nội, vào hồi

h/

Có thể tìm hiểu luận án tại:
1) Thư viện Quốc gia;
2) Thư viện Trường Đại học Luật Hà Nội.

/ 2017


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây Việt Nam đã đẩy mạnh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế,
tích cực tham gia các cơ chế song phương và đa phương về hợp tác quốc tế, đặc biệt là trong
lĩnh vực thương mại.Việt Nam là một nước có tiềm năng về vận tải biển rất lớn. Đánh giá
được tầm quan trọng của kinh tế vận tải biển, Đảng và Nhà nước ta đã có những chính sách
đúng đắn để khuyến khích các hoạt động kinh tế liên quan đến biển. Nghị quyết số 09 –
NQ/TW ngày 9/2/2007 của Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 4 khóa X về
Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 đã xác định mục tiêu là đưa nước ta trở thành một
quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, với mục tiêu cụ thể là phấn đấu để kinh tế trên biển
và ven biển đóng góp khoảng 53- 55% tổng GDP của cả nước. Điều đó cho thấy, cùng với
tốc độ tăng trưởng nhanh chóng của thương mại quốc tế, kinh tế Việt Nam cũng đang trong
quá trình hội nhập và phát triển, trong đó ngành vận tải biển là một trong những ngành kinh
tế mũi nhọn được đặc biệt chú trọng.
Trong những năm qua, vận chuyển hàng hóa bằng đường biển đã không ngừng phát
triển và đóng vai trò cực kỳ quan trọng đối với nền hàng hải thế giới. Ở Việt Nam, vận tải

đường biển thực sự có ý nghĩa rất quan trọng. Ước tính lượng hàng hóa quốc tế vận chuyển
chiếm tới 80% tổng lưu lượng hàng hóa xuất nhập khẩu của Việt Nam, nhiều công ty vận
chuyển đường biển đã xuất hiện và ngày càng phát triển và cần phải có các qui định pháp
luật điều chỉnh phù hợp. Sự ra đời của Bộ luật hàng hải Việt Nam 2005 đánh dấu bước phát
triển mới trong thị trường vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển ở Việt Nam. Trên
cơ sở đó, các thương nhân Việt Nam đã có cơ sở pháp lý đầy đủ hơn cho việc ký kết các hợp
đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển. Trong thực tế Bộ luật hàng hải Việt
Nam đã được ban hành năm 2015 và có hiệu lực vào ngày 01/7/2017, tuy nhiên pháp luật
Việt Nam trong điều chỉnh hoạt động vận tải hàng hóa quốc tế bằng đường biển vẫn tồn tại
những bất cập, còn có những qui định chưa rõ ràng, thống nhất, chưa phù hợp với tình hình
thực tiễn cũng như chưa phù hợp với các công ước quốc tế về vận tải biển
Hiện nay, khi Việt Nam đã trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới, yêu
cầu đặt ra đối với Việt Nam là cần phải tiếp tục sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các qui định
của pháp luật Việt Nam điều chỉnh hoạt động dịch vụ vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng
đường biển cho phù hợp hơn với các yêu cầu thực tiễn của Việt Nam và thực tiễn thương
mại, hàng hải quốc tế. Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về hợp đồng vận chuyển hàng hoá
quốc tế bằng đường biển nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng cho các bên trong
các giao dịch Hợp đồng vận chuyển hàng hoá quốc tế bằng đường biển, thúc đẩy quan hệ
hợp tác thương mại hàng hải của Việt Nam với các quốc gia trên thế giới. Vì lẽ đó, việc
nghiên cứu các vấn đề pháp lý về hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường


2

biển có ý nghĩa cấp thiết và mang tính thời sự trong giai đọan hiện nay. Chính vì vậy tác
giả đã chọn đề tài “Hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển và vấn đề
hoàn thiện pháp luật Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu sinh của mình.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Luận án
+ Đối tượng nghiên cứu:
- Qui định của pháp luật Việt Nam về hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng

đường biển trong mối tương quan với các qui định của pháp luật quốc tế; So sánh qui định
của pháp luật Việt Nam với pháp luật một số nước trên thế giới về hợp đồng vận chuyển
hàng hóa quốc tế bằng đường biển; Thực tiễn áp dụng các qui định của pháp luật hiện hành
về hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển.
+ Phạm vi nghiên cứu:
Luận án tập trung nghiên cứu các qui định của pháp luật Việt Nam về hợp đồng vận
chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển trong mối tương quan với các công ước quốc tế về
vận tải biển và so sánh, đối chiếu với pháp luật của một số quốc gia về hợp đồng vận chuyển
hàng hóa quốc tế bằng đường biển.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận án
+ Mục đích của luận án: làm rõ những vấn đề lý luận về hợp đồng vận chuyển hàng
hóa quốc tế bằng đường biển, pháp luật về hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng
đường biển cũng như đánh giá được thực tiễn áp dụng pháp luật về hợp đồng vận chuyển
hàng hóa quốc tế bằng đường biển tại Việt Nam. Trên cơ sở đó, xác định quan điểm và giải
pháp hoàn thiện pháp luật về hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển ở Việt
Nam.
+ Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án: Để đạt được mục đích đã nêu trên nhiệm vụ
nghiên cứu của luận án là:
- Làm rõ khái niệm về hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển.
- Phân tích và đánh giá các qui định pháp luật hiện hành của Việt Nam về hợp đồng vận
chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển trong mối tương quan với các quy định của các
công ước quốc tế về vận tải biển và so sánh với qui định pháp luật của một số quốc gia trên
thế giới. Đồng thời, chỉ ra những điểm bất cập, hạn chế của pháp luật Việt Nam về hợp đồng
vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển.
- Trên cơ sở đánh giá thực tiễn áp dụng qui định về hợp đồng vận chuyển hàng hóa
quốc tế bằng đường biển đưa ra quan điểm và đề xuất những giải pháp cụ thể hoàn thiện
pháp luật Việt Nam về hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền, quán triệt đường lối, chủ

trương chính sách của Đảng, nhà nước về cải cách tư pháp và hoàn thiện hệ thống pháp luật


3

trong thời kỳ hội nhập.
Các phương pháp nghiên cứu: phân tích, thống kê, so sánh, đối chiếu, lịch sử, chứng
minh, tổng hợp, qui nạp, kết hợp nghiên cứu lý luận và thực tiễn... Trong đó, phân tích,
thống kê, so sánh và chứng minh được xác định là những phương pháp nghiên cứu chủ yếu
của luận án. Cụ thể như sau:
- Phương pháp diễn giải được áp dụng để nghiên cứu các vấn đề lý luận cơ bản của
hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển. Thông qua việc phân tích các vấn
đề lý luận cơ bản như khái niệm, đặc điểm, lịch sử hình và phát triển của pháp luật về hợp
đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển nhằm luận giải ý nghĩa, sự cần thiết của
việc nghiên cứu.
- Phương pháp phân tích, bình luận được áp dụng để trình bày các quy định cụ thể của
hệ thống pháp luật quốc tế cũng như pháp luật Việt Nam về hợp đồng vận chuyển hàng hóa
quốc tế bằng đường biển nhằm làm rõ các ưu, nhược điểm của các quy định này trong pháp
luật thực định. Qua đó đưa ra các bình luận, đánh giá sự bất cập hay khiếm khuyết của pháp
luật Việt Nam so với các quy định của luật pháp quốc tế.
- Phương pháp so sánh luật học cũng được sử dụng để nghiên cứu các quy định của pháp
luật quốc tế, nghiên cứu các án lệ quốc tế, pháp luật một số nước và so sánh với các quy định
của pháp luật Việt Nam về hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển nhằm đánh
giá sự tương thích, phù hợp, trên cơ sở đó đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về
vấn đề này.
- Phương pháp hệ thống hóa, tổng hợp, kết hợp nghiên cứu lý luận và thực tiễn cũng
được sử dụng nhằm khái quát hóa và rút ra các kết luận, đề xuất cơ bản về những đóng góp
mới của luận án với việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam về hợp đồng vận chuyển hàng hóa
quốc tế bằng đường biển.
- Phương pháp tổng hợp, qui nạp được sử dụng chủ yếu trong việc đưa ra những kết

luận của từng chương và kết luận chung của luận án.
5 . Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
Luận án là công trình nghiên cứu một cách cơ bản và chuyên sâu có hệ thống các quy định
của pháp luật Việt Nam và các công ước quốc tế về hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng
đường biển và vấn đề hoàn thiện pháp luật Việt Nam. Xuất phát từ mục tiêu, nhiệm vụ đề ra,
luận án có những đóng góp khoa học thể hiện qua các điểm mới của luận án, cụ thể như sau:
Thứ nhất, Luận án là công trình khoa học độc lập đã đánh giá đúng, khách quan tình
hình nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước có liên quan đến đề tài luận án. Trên cơ
sở đó đề ra được mục đích và phạm vi nghiên cứu hợp lý nhằm giải quyết tiếp những vấn đề
pháp lý về hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển mà các công trình đó
chưa nghiên cứu hoặc nghiên cứu chưa sâu.
Thứ hai, luận án làm rõ cơ sở khoa học cả về lý luận và thực tiễn về hợp đồng vận


4

chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển và vấn đề hoàn thiện pháp luật Việt Nam. Luận án
rút ra các kết luận khoa học xác định rõ các vấn đề: khái niệm hợp đồng vận chuyển hàng
hóa quốc tế bằng đường biển, đặc điểm của hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng
đường biển. Luận án cũng phân tích một cách có hệ thống các loại nguồn luật có thể được áp
dụng điều chỉnh về hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển; mối quan hệ giữa
các loại nguồn luật, đặc biệt là việc nghiên cứu các xu thế phát triển hiện nay của pháp luật
về hợp đồng vận chuyển hàng hoá quốc tế bằng đường biển là xu thế hiện đại hoá, thống
nhất hoá các quy định pháp luật liên quan đến hợp đồng vận chuyển hàng hoá quốc tế bằng
đường biển.
Thứ ba, luận án tập trung nghiên cứu tổng thể và đưa ra các phân tích, so sánh, đánh giá
về thực trạng các quy định của pháp luật Việt Nam và công ước quốc tế về hợp đồng vận
chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển. Trên cơ sở đó chỉ ra những ưu điểm và hạn chế
các quy định trong pháp luật Việt Nam về hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng
đường biển.

Thứ tư, Luận án phân tích, đánh giá một số vụ việc thực tế. Qua đó rút ra một số bài
học kinh nghiệm cho các doanh nghiệp trong quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng vận
chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển, góp phần nâng cao ý thức của cộng đồng doanh
nghiệp trong các vụ việc giải quyết tranh chấp nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình.
Thứ năm, luận án cũng phân tích các yêu cầu, sự cần thiết phải hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam về hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển. Trên cơ sở
đó luận án đã phân tích, đề xuất các giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật về hợp
đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển ở Việt Nam.
6. Kết cấu của luận án
Luận án gồm phần mở đầu, nội dung, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo. Tên của
các chương cụ thể như sau:
Chương 1 Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án.
Chương 2 Những vấn đề lý luận về hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường
biển.
Chương 3 Quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế về hợp đồng vận
chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển.
Chương 4 Quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về hợp đồng vận
chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển.


5

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
Sau một quá trình nghiên cứu công phu, có chọn lọc các công trình nghiên cứu khoa
học trong và ngoài nước liên quan đến đề tài luận án, tác giả đánh giá rằng chưa có một đề
tài nào tiến hành nghiên cứu một cách có hệ thống về hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế
bằng đường biển và vấn đề hoàn thiện pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên trong thực tiễn, hợp

đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển cũng có nhiều công trình khoa học đã
nghiên cứu và đánh giá liên quan đến hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường
biển. Các công trình nghiên cứu khoa học bao gồm: sách tham khảo, luận án, bài viết đăng
trên các tạp chí khoa học và các hội thảo khoa học, v.v..
Có thể thấy ở Việt Nam và trên thế giới trong thời gian qua, mặc dù đã có một số công
trình liên quan đến Hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển, tuy nhiên, số
lượng các công trình bài viết còn hạn chế, chưa đa dạng, chuyên sâu. Các công trình chủ yếu
tồn tại dưới hình thức là các giáo trình, sách chuyên khảo sử dụng chủ yếu trong các trường
đại học, đã có một số bài viết, đề tài nghiên cứu khoa học ở bậc đại học, thạc sĩ, nhưng chưa
có công trình nghiên cứu bậc Tiến sĩ về vấn đề này. Tác giả nhận thấy, vấn đề trên chưa
được nghiên cứu sâu một cách có hệ thống tại Việt Nam, phạm vi nghiên cứu còn mang tính
chất khái quát chung, hoặc một số khía cạnh đơn lẻ mà chưa nghiên cứu tổng hợp các nội
dung cụ thể của vấn đề. Do vậy, mục tiêu của luận án cần chỉ rõ những vấn đề còn tồn tại và
tiếp tục nghiên cứu giải quyết, cụ thể là:
Thứ nhất, luận án tiếp tục tập trung nghiên cứu một cách toàn diện vấn đề lý luận cơ
bản về hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển. Trong phần đầu nội dung
của luận án, tác giả tập trung nghiên cứu và làm rõ khái niệm và các đặc điểm của hợp đồng
vận chuyển hàng hoá quốc tế bằng đường biển. Tác giả sẽ tập trung nghiên cứu các đặc điểm
nổi bật của hợp đồng vận chuyển hàng hoá quốc tế bằng đường biển, những điểm khác biệt
cơ bản so với các loại hợp đồng khác.
Thứ hai, luận án phân tích các nguồn luật điều chỉnh các phương thức vận chuyển
hàng hoá quốc tế bằng đường biển, phân tích và chỉ rõ sự khác biệt về nguồn luật điều chỉnh
giữa hai loại hợp đồng thuê tàu chợ và hợp đồng thuê tàu tàu chuyến trong hàng hải quốc tế.
Đồng thời tác giả phân tích xu hướng phát triển của pháp luật về hợp đồng vận chuyển hàng
hoá quốc tế bằng đường biển trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Đây là cơ sở để Việt
Nam gia nhập và tham gia ký kết các công ước quốc tế về vận chuyển hàng hoá bằng đường
biển.
Thứ ba, luận án tập trung nghiên cứu chuyên sâu các vấn đề pháp lý cơ bản của hợp
đồng vận chuyển hàng hoá quốc tế bằng đường biển như: Đối tượng của hợp đồng, chủ thể



6

của hợp đồng, nội dung của hợp đồng, các quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của các bên trong
hợp đồng. Tác giả sẽ phân tích, so sánh và chỉ ra những điểm còn bất cập về thực trạng qui
định cũng như trong thực tiễn áp dụng hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường
biển ở Việt Nam. Đây cũng là cơ sở để tác giả đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp
luật Việt Nam về hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển.
Thứ tư, tác giả phân tích đặc thù của việc giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực
vận chuyển hàng hoá quốc tế bằng đường biển, thông qua việc phân tích các phương
thức giải quyết tranh chấp như thương lượng, hòa giải, toà án và trọng tài. Tác giả cũng
phân tích rõ ở một số nước phát triển có nền hàng hải phát triển đã có những cơ quan
toà án và trọng tài chuyên trách để giải quyết tranh chấp hàng hải quốc tế. Trên cơ sở
phân tích thực trạng giải quyết tranh chấp, tác giả chỉ ra những khó khăn, khúc mắc và
những điểm qui định của pháp luật chưa phù hợp nhằm giúp các chủ thể xem xét kinh
nghiệm trong quá trình đàm phán ký kết và thực hiện hợp đồng vận chuyển hàng hoá
quốc tế bằng đường biển. Đồng thời đây cũng là cơ sở để tác giả kiến nghị hoàn thiện
pháp luật trong lĩnh vực chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển.
Thứ năm, từ những vấn đề được giải quyết, tác giả luận án sẽ trình bày giải pháp
hoàn thiện pháp luật Việt Nam về hợp đồng vận chuyển hàng hoá quốc tế bằng đường biển.
Cụ thể là hoàn thiện các qui định của Bộ luật hàng hải Việt Nam liên quan đến hợp đồng vận
chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển để phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn của Việt Nam
trước yêu cầu của hội nhập quốc tế và một số giải pháp khác góp phần đẩy mạnh và bảo đảm
hiệu quả thực thi pháp luật vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển ở Việt Nam.
Thứ sáu, tác giả phân tích, đánh giá tác động của các công ước quốc tế về vận
chuyển hàng hoá bằng đường biển đến việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam
về hợp đồng vận chuyển hàng hoá quốc tế bằng đường biển. Trên cơ sở phân tích vai trò,
tầm quan trọng của các công ước quốc tế về vận tải hàng hóa bằng đường biển trong hàng
hải quốc tế nhằm hướng tới sự cần thiết để Việt Nam ký và gia nhập công ước quốc tế về
vận tải hàng hóa bằng đường biển và nội luật hoá các qui định của công ước trong quá

trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam.
CHƯƠNG 2
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG
VẬN CHUYỂN HÀNG HÓA QUỐC TẾ BẰNG ĐƯỜNG BIỂN
2.1 Tổng quan về hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển
2.1.1. Khái niệm hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển
Theo pháp luật quốc tế, một hợp đồng được coi là có tính chất quốc tế nếu các bên có
trụ sở thương mại ở các nước khác nhau và có liên quan đến hai hay nhiều hệ thống pháp


7

luật khác nhau. Cách đánh giá tính chất “quốc tế” của hợp đồng dựa trên các tiêu chí này
được coi là hợp lý và có mối quan hệ gắn bó với nhau vì chỉ các hợp đồng được giao kết giữa
các bên có “trụ sở” thương mại ở các nước khác nhau sẽ liên quan đến hai hoặc nhiều hệ
thống pháp luật khác nhau có thể được áp dụng. Trong thực tiễn hợp đồng có tính chất quốc
tế được thừa nhận rộng rãi hiện nay là hợp đồng được ký kết giữa các thương nhân có trụ sở
thương mại nằm trên lãnh thổ các quốc gia khác nhau. Do tính chất đặc thù của hàng hóa
được vận chuyển trong hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển quốc tế nên hàng
hóa được vận chuyển từ các cảng biển của quốc gia hay vùng lãnh thổ này tới các cảng biển
của quốc gia hay vùng lãnh thổ khác.
Hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển được hiểu là sự thỏa thuận
giữa bên vận chuyển hàng hóa và bên thuê vận chuyển hàng hóa, theo đó, bên vận chuyển
thu phí dịch vụ vận chuyển do người thuê vận chuyển trả và dùng tàu biển để vận chuyển
hàng hoá từ cảng nhận hàng đến cảng trả hàng nằm ở những quốc gia hay vùng lãnh thổ
khác nhau.
2.1.2 Đặc điểm của hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển
Từ khái niệm hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển, có thể nhận thấy,
loại hợp đồng này có một số đặc điểm nổi bật sau đây :
Thứ nhất, hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển là một loại hợp

đồng dịch vụ có tính chất quốc tế, trong đó đối tượng của hợp đồng là hàng hóa được vận
chuyển qua biên giới của một hay nhiều quốc gia. Khác với hợp đồng mua bán, hợp đồng
chuyên chở không làm thay đổi chủ sở hữu của một hàng hoá mà chỉ làm thay đổi vị trí của
chúng.
Thứ hai, về chủ thể của hợp đồng: hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường
biển được ký kết giữa người vận chuyển hàng hóa và người thuê vận chuyển hàng hóa hay
người gửi hàng.
Thứ ba, về hình thức của hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển, Điều 146
Bộ luật hàng hải Việt Nam 2015 quy định: Hợp đồng vận chuyển theo chứng từ vận chuyển
được giao kết theo hình thức do các bên thỏa thuận; hợp đồng vận chuyển theo chuyến phải
được giao kết bằng văn bản.
Thứ tư, hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển là hợp đồng song vụ
có đền bù. Hai bên trong hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển là bên vận
chuyển và bên thuê vận chuyển đều có các quyền và nghĩa vụ tương ứng với nhau, bên vận
chuyển có nghĩa vụ vận chuyển tài sản đến đúng địa điểm thỏa thuận, bảo quản tài sản đúng
thời hạn và địa điểm đã thỏa thuận. Cước phí mà bên thuê vận chuyển thanh toán cho bên
vận chuyển chính là số tiền đền bù trong hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường
biển.
Thứ năm, hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển là cơ sở pháp lý xác


8

định quan hệ pháp luật giữa các chủ thể hợp đồng. Trong hợp đồng, các bên xác định quyền,
nghĩa vụ của mình thông qua các điều khoản cụ thể, đồng thời đây là căn cứ để giải quyết
tranh chấp khi có mâu thuẫn phát sinh giữa các bên trong hợp đồng.
Thứ sáu, Các tranh chấp về vận tải biển quốc tế thường được giải quyết bằng trọng tài hàng
hải quốc tế. Đây là điểm khác biệt khá quan trọng của vận tải biển quốc tế. Nếu đối với các
phương thức giải quyết tranh chấp khác, trọng tài và tòa án cùng đóng vai trò quan trọng, thì đối
với vận tải biển quốc tế, trọng tài hàng hải quốc tế chiếm vị trí nổi bật.

Thứ bảy, quyền tự do hàng hải thường được nhắc tới trong vận chuyển hàng hóa quốc
tế bằng đường biển. Quyền tự do hàng hải được ghi nhận trong nhiều điều ước, thỏa thuận quốc
tế và trong pháp luật quốc gia, theo đó tàu thuyền của một hay nhiều quốc gia được dễ dàng lưu
thông qua một hay nhiều quốc gia khác. Nguyên tắc này có nguồn gốc từ tập quán quốc tế, theo
đó tàu mang cờ của bất kì quốc gia có chủ quyền nào sẽ không chịu sự can thiệp từ các quốc gia
khác. Tự do hàng hải là một trong những nguyên tắc lâu đời nhất cấu thành trụ cột của luật biển
và luật hàng hải quốc tế.
Thứ tám, có hiện tượng xung đột pháp luật xảy ra trong hợp đồng vận chuyển hàng hóa
quốc tế bằng đường biển: Bộ luật hàng hải Việt Nam năm 2015, tại Điều 3 đã ghi nhận
nguyên tắc áp dụng pháp luật khi có xung đột pháp luật, trong đó có những quy định liên
quan trực tiếp đến hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển, cụ thể là: Trong trường
hợp quan hệ pháp luật liên quan đến hợp đồng vận chuyển hàng hoá thì áp dụng pháp luật
của quốc gia nơi hàng hoá được trả theo hợp đồng.
2.1.3 Phân loại hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng quốc tế đường biển
Trong kinh doanh hàng hải quốc tế hiện nay, có nhiều cách phân loại hợp đồng vận
chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển, có thể căn cứ vào đối tượng của hợp đồng người
ta có thể phân thành hợp đồng chuyên chở hàng khô, hàng lỏng, hợp đồng chuyên chở hàng
hóa nguy hiểm độc hại v.v…
Cách phân loại phổ biến hiện nay là dựa vào phương thức thuê tàu. Thực tiễn hàng hải
quốc tế hiện nay có hai phương thức chủ yếu để các bên có thể thực hiện việc vận chuyển
hàng hóa đó là phương thức chuyên chở hàng hóa bằng tàu chợ, phương thức chuyên chở
hàng hóa bằng tàu chuyến và tương ứng với các phương thức này các bên có thể ràng buộc
trách nhiệm với nhau thông qua hai loại hợp đồng vận chuyển hàng hóa chính là hợp đồng
thuê tàu chợ theo chứng từ vận chuyển và hợp đồng chuyên chở hàng hóa bằng tàu chuyến.
Pháp luật Việt Nam hiện nay cũng phân loại hợp đồng dựa trên cơ sở phương thức thuê
tàu. Bộ luật hàng hải Việt Nam 2015 qui định có hai loại hợp đồng vận chuyển hàng hóa
bằng đường biển là hợp đồng vận chuyển theo chứng từ vận chuyển và hợp đồng thuê tàu
chuyến. Theo khoản 1 Điều 146 qui định: Hợp đồng vận chuyển hàng hóa theo chứng từ vận
chuyển là hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển được giao kết với điều kiện
người vận chuyển không phải dành cho người thuê vận chuyển nguyên tàu hoặc một phần



9

tàu cụ thể mà chỉ căn cứ vào chủng loại, số lượng, kích thước hoặc trọng lượng của hàng hóa
để vận chuyển.
Theo khoản 2 Điều 146 Bộ luật hàng hải 2015 qui định: Hợp đồng vận chuyển theo
chuyến là hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển được giao kết với điều kiện
người vận chuyển dành cho người thuê vận chuyển nguyên tàu hoặc một phần tàu cụ thể để
vận chuyển hàng hóa theo chuyến.
2.2 Pháp luật về hợp dồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển
Do tính chất đặc thù, pháp luật điều chỉnh hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng
đường biển khá phong phú và phức tạp chịu sự điều chỉnh bởi các nguồn pháp luật quốc tế,
pháp luật quốc gia và án lệ. Đó là các điều ước quốc tế về vận chuyển hàng hóa bằng đường
biển, các tập quán thương mại hàng hải quốc và pháp luật quốc gia. Đối với hợp đồng vận
chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển, nguồn luật điều chỉnh có thể được chia theo hai
phương thức là phương thức thuê tàu chợ và phương thức thuê tàu chuyến. Hợp đồng vận
chuyển hàng hóa bằng tàu chợ được điều chỉnh bởi các điều ước quốc tế, pháp luật quốc gia,
án lệ và tập quán thương mại hàng hải quốc tế. Trong khi đó, nguồn luật điều chỉnh hợp
đồng vận chuyển bằng tàu chuyến chủ yếu là luật quốc gia, án lệ và các tập quán thương mại
hàng hải quốc tế.
2.2.1 Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật về hợp đồng vận chuyển hàng hóa
quốc tế bằng đường biển.
Phương thức vận tải bằng đường biển ra đời từ rất sớm so với các phương thức vận
tải quốc tế khác. Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX hàng loạt các đạo luật đã được ban
hành ở các nước có ngành vận tải biển phát triển cùng với việc ra đời của công ước
Brussels 1924.
Giai đoạn từ 1924 đến năm 2009 quan hệ thương mại hàng hải quốc tế phát triển, xu
hướng thống nhất hóa và hiện đại hóa pháp luật vận chuyển hàng hóa bằng đường biển với sự ra
đời của công ước Rotterdam 2009. Công ước Rotterdam 2009 bao hàm được nhiều điểm tích

cực của các công ước trước đây liên quan đến hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường
biển.
* Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về hợp đồng vận chuyển hàng hóa
quốc tế bằng đường biển ở Việt Nam
Sau cách mạng tháng 8 đến trước năm 1990, tại Việt Nam, các hoạt động hàng hải quốc
tế nói chung và hoạt động vận tải biển nói riêng chủ yếu là do các văn bản dưới luật điều
chỉnh. Hệ thống pháp luật của Việt Nam giai đoạn trước năm 1986 chưa phải là một hệ thống
pháp luật hoàn thiện. Có thể nói cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp với sự chi
phối mạnh mẽ của các chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước đã hạn chế sự phát triển của hệ thống
pháp luật Việt Nam. Nhiều ngành luật khác cũng khó có điều kiện để phát triển như: Luật
Tài chính, Luật Thương mại, Luật Đất đai… Do đó, sự kém phát triển của pháp luật vận


10

chuyển hàng hóa bằng đường biển trong hoạt động hàng hải nằm trong xu thế chung của hệ
thống pháp luật Việt Nam giai đoạn này. Sau năm 1986, khi đất nước có nhiều đổi thay
mạnh mẽ về các điều kiện kinh tế - xã hội, hệ thống pháp luật về vận chuyển hàng hóa bằng
đường biển trong hoạt động hàng hải đã dần hình thành và ngày càng phát triển.
Giai đoạn 1990 – 2015, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông
qua và ban hành Bộ luật hàng hải Việt Nam. Nhằm phát huy vai trò của vận tải biển đối với
sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, Việt Nam đã mở rộng phạm vi sửa đổi, bổ sung Bộ
luật hàng hải 2005 và ban hành Bộ luật hàng hải năm 2015.
Bộ luật hàng hải năm 2015 được xây dựng trên cơ sở tham khảo pháp luật một số nước và
tiếp thu có chọn lọc các Công ước quốc tế về vận tải biển, đặc biệt là Công ước Rotterdam 2009.
Việc ban hành Bộ luật hàng hải năm 2015 nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của
đất nước và tạo điều kiện phát triển hội nhập kinh tế quốc tế, thúc đẩy ngành vận tải biển phát
triển.
Như vậy, thông qua việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật hàng hải Việt Nam nói
chung và chế định hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển nói riêng có thể thấy

pháp luật hàng hải Việt Nam đã tiếp thu có chọn lọc nội dung các công ước quốc tế về vận
tải biển nhằm chuyển hóa và thực thi các qui định của các công ước vào pháp luật hàng hải
Việt Nam. Có thể đánh giá một cách tổng quát rằng Việt Nam cũng đã rất tích cực trong việc
hoàn thiện pháp luật hàng hải để hội nhập quốc tế.
2.2.2 Nguồn luật điều chỉnh hợp đồng thuê tàu chợ
Hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng tàu chợ được điều chỉnh bởi các điều ước quốc
tế, pháp luật quốc gia, án lệ và tập quán thương mại hàng hải quốc tế.
- Điều ước quốc tế
Các điều ước trong lĩnh vực hàng hải quốc tế có một vai trò hết sức quan trọng trong
việc xây dựng những luật lệ, nguyên tắc, khuôn khổ và chuẩn mực chung để điều tiết và tạo
ra một môi trường công bằng thuận lợi cho thương mại hàng hải phát triển. Hiện nay, có hai
Công ước quốc tế chính liên quan đến hợp đồng thuê tàu chợ là Công ước quốc tế về thống
nhất một số quy tắc pháp luật về vận đơn đường biển năm 1924 (Công ước Brussels) và
Công ước của Liên Hợp Quốc về vận chuyển hàng hoá bằng đường biển năm 1978 (Công
ước Hamburg). Công ước Brussels đã được sửa đổi bằng Nghị định thư năm 1968 và từ đó
được mang tên Quy tắc Hague -Visby. Ngoài ra, một văn kiện quốc tế quan trọng khác cũng
cần kể đến là Công ước quốc tế về vận chuyển hàng hóa một phần hoặc toàn bộ bằng đường
biển đã được thông qua tại Rotterdam năm 2009. Bên cạnh các điều ước quốc tế điều chỉnh
trực tiếp hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển còn có các điều ước quốc tế
khác có liên quan.
-Các tập quán thương mại hàng hải quốc tế
Ngoài điều ước quốc tế, tập quán hàng hải quốc tế cũng thường xuyên được áp dụng


11

với tư cách là nguồn luật để điều chỉnh những mối quan hệ thương mại hàng hải cụ thể. Tập
quán hàng hải quốc tế điều chỉnh hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển là
những tập quán liên quan đến hoạt động hàng hải quốc tế, đó là các tập quán hàng hải cụ thể
ở các cảng trong khu vực và quốc tế. Ngoài ra còn bao gồm cả các tập quán thương mại hàng

hải quốc tế.
Tập quán thương mại hàng hải quốc tế là những thói quen trong thương mại hàng hải
được lặp đi lặp lại nhiều lần, được nhiều nước công nhận, áp dụng liên tục đến mức trở thành
một qui tắc mà các bên mặc nhiên tuân theo. Tập quán thương mại hàng hải quốc tế giúp giải
thích, bổ sung và hướng dẫn thực hiện các điều kiện có liên quan của hợp đồng vận chuyển
hàng hóa bằng đường biển mà các điều khoản đó chưa quy định hoặc quy định chưa cụ thể.
- Luật quốc gia
Trong thực tiễn ký kết và thực hiện hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường
biển, bên cạnh các điều ước quốc tế, tập quán thương mại hàng hải quốc tế và án lệ, luật
quốc gia có vai trò quan trọng và trong nhiều trường hợp là nguồn điều chỉnh trong quan hệ
hợp đồng. Luật quốc gia trở thành luật áp dụng cho hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế
bằng đường biển trong các trường hợp:
Khi các bên ký kết hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển thỏa thuận
trong điều khoản luật áp dụng của hợp đồng về việc chọn luật của một bên hoặc bên thứ ba
để điều chỉnh hợp đồng; Khi điều khoản về luật áp dụng cho hợp đồng vận chuyển hàng hóa
quốc tế bằng đường biển được qui định trong các điều ước quốc tế có liên quan, luật quốc gia
đương nhiên trở thành luật áp dụng cho các hợp đồng đó; Khi có qui định của pháp luật quốc
gia, với tư cách là nguồn luật điều chỉnh hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường
biển, pháp luật quốc gia tham gia điều chỉnh các hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường
biển của quốc gia đó.
Luật quốc gia là nguồn luật quan trọng được áp dụng để điều chỉnh hợp đồng vận
chuyển hàng hóa bằng đường biển. Ở Việt Nam xuất phát từ yêu cầu thực tiễn, ngày
14/6/2005 tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khóa XI
đã thông qua BLHH Việt Nam sửa đổi (BLHH Việt Nam 2005), có hiệu lực thi hành từ
01/01/2006. Nhằm phát huy vai trò của vận tải biển đối với sự phát triển kinh tế xã hội của
đất nước đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, Việt Nam đã mở rộng phạm vi sửa đổi bổ sung
Bộ luật hàng hải 2005 và ban hành Bộ luật hàng hải năm 2015. Bộ luật hàng hải năm 2015
được xây dựng trên cơ sở tham khảo pháp luật một số nước và tiếp thu có chọn lọc các
công ước quốc tế về vận tải biển.
Ngoài các loại nguồn cơ bản nêu trên, luật áp dụng điều chỉnh hợp đồng vận chuyển

hàng hóa quốc tế bằng đường biển còn tồn tại dưới hình thức khác như án lệ của các cơ quan
tài phán. Án lệ là bản án hoặc quyết định của toà án nó tạo lập qui tắc hoặc căn cứ pháp lý
đáng tin cậy cho việc quyết định của các vụ việc trong tương lai.


12

Nhằm đáp ứng với xu thế hội nhập quốc tế, ngày 28/10/2015 Hội đồng Thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP về quy trình lựa chọn,
công bố và áp dụng án lệ tại Việt Nam. Đây là một trong những chuyển biến quan trọng
không chỉ về nhận thức mà cả về thực tiễn nhằm mở rộng phạm vi áp dụng pháp luật nói
chung đặc biệt trong lĩnh vực hợp đồng quốc tế nói riêng. Việc tìm hiểu và biết vận dụng các
kiến thức về học thuyết án lệ ở tầm nhìn quốc tế sẽ nâng cao hiểu biết của đội ngũ luật sư và
thẩm phán của Việt Nam khi giải quyết các vấn đề liên quan đến luật quốc tế.
2.2.3 Nguồn luật điều chỉnh hợp đồng thuê tàu chuyến
Nguồn luật điều chỉnh hợp đồng vận chuyển bằng tàu chuyến chủ yếu là luật quốc gia,
án lệ và các tập quán thương mại hàng hải quốc tế, bởi vì cho đến nay, chưa có một điều ước
quốc tế nào được ký kết để điều chỉnh trực tiếp hợp đồng chuyên chở hàng hoá xuất nhập
khẩu bằng tàu chuyến. Do vậy luật quốc gia vẫn là nguồn luật quan trọng nhất, chủ yếu nhất
điều chỉnh mối quan hệ giữa người vận chuyển và người thuê vận chuyển trong hợp đồng
thuê tàu chuyến.
Luật quốc gia: đây là nguồn luật quan trọng được áp dụng để điều chỉnh hợp đồng
chuyên chở hàng hoá quốc tế bằng đường biển. Trong lĩnh vực vận chuyển hàng hóa quốc tế
bằng đường biển, luật quốc gia là một trong những lựa chọn của các bên khi giao kết hợp
đồng vận chuyển hàng hóa bởi tính dễ hiểu và không gây nhầm lẫn trong cách giải thích
pháp luật. Luật quốc gia được các bên lựa chọn làm luật điều chỉnh trong hợp đồng vận
chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển có thể là luật của nước người cho thuê tàu, hoặc
luật của nước người đi thuê tàu, hoặc luật của nước thứ ba mà cả hai bên chủ thể đồng ý dẫn
chiếu tới. Luật của quốc gia nào sẽ được áp dụng là do chính hợp đồng quy định. Trong
trường hợp hợp đồng không có điều khoản về luật áp dụng thì hai bên có thể thoả thuận chọn

luật áp dụng bằng một văn bản riêng. Ở Việt Nam, Bộ luật hàng hải năm 2005 và Bộ luật
hàng hải 2015 ra đời đã điều chỉnh hầu hết các mối quan hệ liên quan đến hợp đồng vận
chuyển hàng hóa bằng tàu chuyến.
Tập quán thương mại hàng hải quốc tế: ngoài pháp luật quốc gia, tập quán thương mại
hàng hải quốc tế cũng thường xuyên được áp dụng với tư cách là nguồn luật để giải quyết
các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển khi các
bên trong hợp đồng dẫn chiếu tới. Tập quán thương mại hàng hải quốc tế giúp giải thích, bổ
sung và hướng dẫn thực hiện các điều kiện có liên quan của hợp đồng vận tải biển mà các
điều khoản đó chưa quy định hoặc quy định chưa cụ thể.
Nhiều văn bản trong hệ thống pháp luật Việt Nam đều có quy định thừa nhận cho phép
các bên trong hợp đồng được thỏa thuận áp dụng tập quán quốc tế là luật áp dụng điều chỉnh
quan hệ hợp đồng. Nhìn chung, các quy định về việc áp dụng tập quán quốc tế đều thống
nhất việc áp dụng tập quán quốc tế với điều kiện không trái với các nguyên tắc cơ bản của
pháp luật Việt Nam. Tại Khoản 2 Điều 5 Bộ luật hàng hải 2015 qui định: Các bên tham gia


13

trong hợp đồng liên quan đến hoạt động hàng hải mà trong đó có ít nhất một bên là tổ chức
hoặc cá nhân nước ngoài thì có quyền thỏa thuận áp dụng luật nước ngoài hoặc tập quán
hàng hải quốc tế trong các quan hệ hợp đồng.
Tóm lại, có thể thấy các loại nguồn điều chỉnh Hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng
đường biển khá đa dạng, đặc thù vì vậy cần nghiên cứu hệ thống các loại nguồn này để hoàn thiện
thêm cho hệ thống pháp luật Việt Nam về hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển trong
xu thế hội nhập quốc tế.
CHƯƠNG 3
QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ ĐIỀU ƯỚC
QUỐC TẾ VỀ HỢP ĐỒNG VẬN CHUYỂN HÀNG HÓA
QUỐC TẾ BẰNG ĐƯỜNG BIỂN
Nội dung chương tập trung nghiên cứu các vấn đề pháp lý cơ bản của hợp đồng vận

chuyển hàng hoá quốc tế bằng đường biển như: Đối tượng của hợp đồng, chủ thể của hợp
đồng. Do hợp đồng thuê tàu chuyến được xây dựng trên cơ sở các hợp đồng mẫu và sự thỏa
thuận của các bên nên Luận án trình bày nội dung pháp lý quan trọng của hợp đồng thuê tàu
chuyến. Đối với hợp đồng theo chứng từ vận chuyển hiện nay đã được qui định thống nhất
hóa trong các công ước quốc tế về vận tải biển nên tác giả đi sâu phân tích những vấn đề
pháp lý quan trọng liên quan đến trách nhiệm của người vận chuyển và người thuê vận
chuyển được qui định trong các công ước quốc tế về vận tải biển và các qui định của pháp
luật Việt Nam về hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển trên cơ sở có sự
so sánh, để thấy được những điểm bất cập còn tồn tại trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
Đồng thời tác giả phân tích đặc thù của việc giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực vận chuyển
hàng hoá quốc tế bằng đường biển, thông qua việc phân tích các phương thức giải quyết
tranh chấp như thương lượng, hòa giải, toà án và trọng tài. Đây cũng là cơ sở để tác giả kiến
nghị hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển.
3.1 Đối tượng của hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển
Đối tượng của hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển là hàng hóa mà
bên vận chuyển phải di chuyển hàng hóa từ nơi này tới nơi khác. Đặc trưng của hợp đồng
vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển là không làm thay đổi chủ sở hữu của hàng
hóa mà chỉ làm thay đổi vị trí của chúng.
3.2 Chủ thể của hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển
Chủ thể của hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển là: bên vận chuyển và bên
thuê vận chuyển hàng hóa. Bên cạnh đó, không thể không kể tới các bên liên quan đến hợp
đồng vận chuyển: người đại lý hoặc người vận chuyển ủy thác, người giao hàng, người nhận
hàng và những người làm công của người vận chuyển. Trong trường hợp những người đại


14

diện hoặc người môi giới được ủy quyền để ký hợp đồng, tư cách ủy quyền của họ cần được
ghi rõ trong hợp đồng. Điều này tránh được những rắc rối về sau khi có tranh chấp xảy ra
giữa các bên.

Việc xác định được chủ thể của hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường
biển có vai trò đặc biệt quan trọng đối với khả năng thực hiện hợp đồng vận chuyển. Trước
khi kí kết hợp đồng thuê tàu, người thuê tàu cần phải tìm hiểu cặn kẽ về đối tác kể cả địa chỉ,
số điện thoại, số fax... vì nhiều khi dấu hiệu của sự lừa đảo, bắt đầu từ những chi tiết nhỏ
nhặt này, người thuê tàu cũng cần có được những chi tiết đăng kí rõ ràng và vị trí thực sự của
công ty, tình trạng tài chính của đối tác... Hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng
đường biển được thực hiện hay không phụ thuộc rất nhiều vào các chủ thể tham gia kí kết.
3.3. Nội dung của hợp đồng thuê tàu chuyến trong vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng
đường biển
Hợp đồng thuê tàu chuyến là kết quả của một quá trình đàm phán, thương lượng trên cơ
sở thỏa thuận bình đẳng giữa hai bên nhằm qui định rõ quyền và nghĩa vụ của các bên trong
hợp đồng. Hợp đồng thuê tàu chuyến gồm nhiều loại, là hợp đồng phức tạp và có nhiều điều
khoản khác nhau để xác định rõ quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của các bên. Nội dung của
hợp đồng thuê tàu chuyến trong thực tiễn bao gồm các điều khoản cơ bản sau:
- Các thông tin về chủ thể của hợp đồng thuê tàu chuyến.
- Các thông tin về con tàu trong hợp đồng thuê tàu chuyến
- Quy định về thời gian tàu đến cảng xếp hàng
- Quy định về hàng hoá chuyên chở
- Quy định về cảng xếp hàng, cảng dỡ hàng
- Quy định về cước phí thuê tàu và thanh toán
- Quy định về chi phí xếp dỡ
- Quy định về thời gian xếp dỡ và thưởng phạt xếp dỡ
- Quy định về trách nhiệm và miễn trách nhiệm của người chuyên chở
- Điều khoản trọng tài và luật áp dụng
3.4. Nghĩa vụ và trách nhiệm của các bên trong hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế
bằng đường biển theo chứng từ vận chuyển
3.4.1. Nghĩa vụ và trách nhiệm của người gửi hàng
Nghĩa vụ và trách nhiệm liên quan tới cung cấp hàng: Tại khoản 5 Điều 2 của Công
ước Brussels 1924, Điều 12 của Công ước Hamburg 1978 và khoản 1 Điều 81 Bộ luật hàng
hải Việt Nam 2005 quy định người gửi hàng phải bảo đảm hàng hóa được đóng gói và đánh

dấu ký, mã hiệu và cung cấp hàng đúng trong nội dung của hợp đồng.
* Nghĩa vụ thanh toán tiền cước phí vận chuyển
Hợp đồng chuyên chở bằng đường biển là một loại hợp đồng dịch vụ được ký kết giữa
một bên là người cung cấp dịch vụ (bên vận chuyển) và một bên là người thuê dịch vụ (bên


15

thuê vận chuyển). Điều 145 Bộ luật hàng hải Việt Nam 2015 quy định “người vận chuyển
thu giá dịch vụ vận chuyển do người thuê vận chuyển trả”. Việc thanh toán tiền cước vận
chuyển thuộc về trách nhiệm của bên thuê vận chuyển (người gửi hàng). Do vậy, người gửi
hàng phải trả tiền cước đầy đủ, đúng thời gian, địa điểm, bằng đồng tiền, phương thức thanh
toán do hai bên thoả thuận.
* Nghĩa vụ và trách nhiệm cung cấp chứng từ về hàng hoá
Việc cung cấp chứng từ về hàng hoá là một nghĩa vụ quan trọng của người gửi hàng. Vì
các chứng từ này quy định khối lượng, trọng tải hàng hoá, những chỉ dẫn cần thiết đối với
hàng hoá dễ nổ, dễ cháy, các loại hàng hoá nguy hiểm hoặc các loại hàng hoá cần phải có
biện pháp đặc biệt trong bốc hàng, vận chuyển, tháo dỡ. Nghĩa vụ cung cấp chứng từ về hàng
hoá có thể thực hiện tại thời điểm các bên thoả thuận việc vận chuyển hoặc tại thời điểm
chuyển giao hàng từ người gửi hàng cho người chuyên chở hoặc tại thời điểm trước khi hàng
được xếp lên tàu. Nếu không thực hiện nghĩa vụ này hoặc chậm trễ trong việc chuyển giao
chứng từ về hàng hoá, trường hợp xảy ra tổn thất về hàng hoá thì trách nhiệm thuộc về người
gửi hàng.
3.4.2. Nghĩa vụ và trách nhiệm của người chuyên chở
Hàng hóa chuyên chở trên biển có rất nhiều rủi ro đe dọa do đó có nhiều nguyên nhân
dẫn đến tổn thất, hư hỏng, mất mát đối với hàng hóa. Các quy định pháp lý trong qui tắc
Hague-Visby và qui tắc Hamburg 1978 là cơ sở pháp lý để giúp các bên xác định trách
nhiệm của mình trong quá trình chuyên chở hàng hoá từ khâu nhận hàng và xếp hàng trước
khi vận chuyển, trong quá trình vận chuyển cũng như lúc trả hàng tại cảng đích đối với chủ
tàu đến thủ tục tố tụng giải quyết tranh chấp về hàng hoá ghi trên vận đơn đối với người giao

hàng. Các nội dung này bao gồm:
3.4.2.1. Cơ sở trách nhiệm
Cơ sở trách nhiệm là những trường hợp mà người chuyên chở phải chịu trách nhiệm đối
với hàng hóa và những trường hợp họ được miễn trách nhiệm.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam: liên quan đến trách nhiệm của người
chuyên chở trong việc cung cấp tàu đi biển được quy định tại khoản 1 Điều 75 Bộ luật
hàng hải Việt Nam năm 2005, cụ thể là: Người vận chuyển phải mẫn cán để trước và
khi bắt đầu chuyến đi, tàu biển có đủ khả năng đi biển, có thuyền bộ thích hợp, được
cung ứng đầy đủ trang thiết bị và vật phẩm dự trữ; Các hầm hàng, hầm lạnh và khu vực
khác dùng để vận chuyển hàng hoá có đủ các điều kiện nhận, vận chuyển và bảo quản
hàng hoá phù hợp với tính chất của hàng hoá.
3.4.2.2. Thời hạn trách nhiệm của người chuyên chở
Thời hạn trách nhiệm của người chuyên chở là một khoảng thời gian và không gian mà
người chuyên chở phải chịu trách nhiệm về hư hỏng, mất mát đối với hàng hóa trong chuyên
chở. Theo Điều 74 Bộ luật hàng hải Việt Nam 2005 qui định thời điểm phát sinh trách


16

nhiệm của người chuyên chở từ khi “người vận chuyển nhận hàng tại cảng nhận hàng,
được duy trì trong suốt quá trình vận chuyển và chấm dứt khi kết thúc việc trả hàng tại
cảng trả hàng”. Theo đó, trách nhiệm của người chuyên chở theo pháp luật Việt Nam
được xác định từ lúc nhận hàng cho đến khi giao hàng tại cảng đến. Bộ luật hàng hải Việt
Nam 2005 qui định thời hạn trách nhiệm của người chuyên chở tại Điều 74 giống qui định
trong qui tắc Hamburg 1978 (từ cảng đi đến cảng đến), dài hơp qui định trong qui tắc HagueVisby ( từ móc cẩu đến móc cẩu) và ngắn hơn qui định trong Qui tắc Rotterdam 2009 ( từ
cửa đến cửa).
3.4.2.3. Giới hạn trách nhiệm của người chuyên chở đối với hàng hoá
Giới hạn trách nhiệm của người chuyên chở là mức bồi thường của người chuyên
chở đối với một đơn vị hàng hóa khi hàng hóa bị tổn thất mà giá trị hàng hóa không được
kê khai trên vận đơn hay chứng từ vận tải. Bộ luật hàng hải Việt Nam năm 2005 quy định

giới hạn trách nhiệm của người chuyên chở trong các trường hợp giống Nghị định thư SDR
1979. Cụ thể tại khoản 1 Điều 79 BLHH 2005 qui định: Giới hạn trách nhiệm của người
chuyên chở đối với tổn thất thiệt hại đến với hàng hóa là tương đương với 666,67 đơn vị tính
toán cho mỗi kiện hoặc cho mỗi đơn vị hàng hoá hoặc 2 đơn vị tính toán cho mỗi kilôgam
trọng lượng cả bì của số hàng hoá bị mất mát, hư hỏng tuỳ theo giá trị hàng hoá.
Trong thực tế về giới hạn trách nhiệm, mức giới hạn trách nhiệm của người chuyên chở
theo qui định của pháp luật Việt Nam là quá thấp so với sự mất giá của đồng tiền trên thế
giới hiện nay. Giới hạn trách nhiệm của người chuyên chở đối với trường hợp hàng hóa mất
mát, hư hỏng quy định trong Điều 79 Bộ luật hàng hải Việt Nam 2005 giống với Nghị định
thư SDR và thấp hơn khá nhiều so với quy định của Quy tắc Hamburg 1978 và Quy tắc
Rotterdam 2009.
3.5 Đặc thù giải quyết tranh chấp hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường
biển
Giải quyết tranh chấp hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển là việc
điều chỉnh các bất đồng, các xung đột dựa trên các căn cứ và bằng các phương thức khác
nhau do các bên lựa chọn nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của các bên trong
hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển.
Tranh chấp liên quan đến hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển là
một trong những tranh chấp đa dạng, phức tạp, thường xuyên nảy sinh trong thực tiễn hàng
hải quốc tế. Các tranh chấp về hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển có
thể giải quyết thông qua hình thức thương lượng, hòa giải, giải quyết tại cơ quan toà án hoặc
trọng tài.
3.5.1. Giải quyết tranh chấp hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển
bằng toà án
Giải quyết tranh chấp hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển bằng


17

toà án là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua hoạt động của cơ quan tài phán nhà nước.

Tuy nhiên, khác với hoà giải và trọng tài, trong khi trên thế giới có nhiều trung tâm hoà giải,
trọng tài hàng hải quốc tế tồn tại và hoạt động có uy tín, trên thực tế cho đến nay không tồn
tại toà án quốc tế chuyên biệt giải quyết các tranh chấp hàng hải quốc tế nói chung và tranh
chấp hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển nói riêng. Vì vậy, việc giải
quyết tranh chấp hàng hải quốc tế thực tế được diễn ra tại toà án quốc gia và có nét khác biệt
ở các quốc gia khác nhau.
3.5.2. Giải quyết tranh chấp hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển
bằng trọng tài hàng hải
Trọng tài hàng hải giải quyết các tranh chấp liên quan chủ yếu tới các hợp đồng vận
chuyển hàng hóa, bảo hiểm, hoặc vận chuyển bằng tàu biển. Và trong hàng trăm năm, nền
hàng hải cũng đã quen với việc sử dụng phương thức giải quyết tranh chấp lựa chọn dưới
dạng này hay dạng khác, và chủ yếu là phương thức trọng tài. Trong thực tiễn giải quyết
tranh chấp hợp đồng hàng hải thông qua phương thức trọng tài hàng hải có nhiều ưu
điểm như giải quyết nhanh gọn, giữ được uy tín của các bên và chi phí thường ít tốn
kém hơn.
Các tranh chấp trong lĩnh vực hàng hải có thể được đưa ra giải quyết tại các Trung tâm
trọng tài về hàng hải có uy tín như Hiệp hội Trọng tài Hàng hải London hay Hội đồng Trọng
tài Hàng hải New York. Ngoài ra, nhiều Trung tâm trọng tài khác có kinh nghiệm trong lĩnh
vực hàng hải cũng có thể giải quyết như Hiệp hội Sở Giao dịch thuê tàu Nhật Bản, Toà án
Trọng tài Hàng hải Mátxcơva, Trung tâm Trọng tài Hàng hải Gdynia Balan, Phòng Trọng tài
Hàng hải Pari, Hội đồng trọng tài hàng hải Trung Quốc, Phòng Trọng tài Hàng hải
Singapore…
Theo tác giả luận án, thực tiễn giải quyết tranh chấp liên quan đến hàng hải quốc tế nói
chung và hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển nói riêng ở Việt Nam hiện
nay vẫn còn nhiều điểm bất cập. Hiện nay Việt Nam chưa có các tòa án chuyên trách như ở
một số nước để giải quyết các tranh chấp hàng hải quốc tế nói chung và tranh chấp liên quan
đến hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển nói riêng. Đội ngũ thẩm phán
và luật sư ở Việt Nam hiện nay vẫn còn hạn chế về trình độ ngoại ngữ và kiến thức chuyên
sâu về thương mại và hàng hải quốc tế.
Về giải quyết tranh chấp bằng trọng tài ở nhiều nước đã có các trung tâm trọng tài

hàng hải có uy tín lớn trong việc giải quyết các tranh chấp hàng hải quốc tế nói chung và
tranh chấp liên quan đến hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển nói
riêng, tuy nhiên ở Việt Nam hiện nay, Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC) chưa
thành lập riêng ban trọng tài hàng hải. Việc giải quyết các tranh chấp thương mại hàng
hải ở Việt Nam hiện nay vẫn ở mức độ khiêm tốn. Thực tiễn cho thấy có quá ít các tranh
chấp thương mại có yếu tố nước ngoài đang giải quyết tại các Trung tâm trọng tài Việt


18

Nam. Bên cạnh đó trình độ của các trọng tài viên của Việt Nam còn có những hạn chế về
ngoại ngữ, kiến thức chuyên sâu trong lĩnh vực thương mại hàng hải quốc tế cũng như
những kinh nghiệm thực tiễn trong việc giải quyết tranh chấp hàng hải quốc tế nói chung
và trong lĩnh vực hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển nói riêng.
CHƯƠNG 4
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VIỆT NAM VỀ HỢP ĐỒNG VẬN CHUYỂN HÀNG HÓA
QUỐC TẾ BẰNG ĐƯỜNG BIỂN
4.1 Quan điểm hoàn thiện pháp luật việt nam về hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc
tế bằng đường biển
4.1.1 Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật Việt Nam về hợp đồng vận chuyển hàng hóa
quốc tế bằng đường biển
Việt Nam đã trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) từ
11/1/2007 đã đặt ra thời cơ và thách thức đòi hỏi Việt Nam phải có những quy định pháp
định luật hoàn thiện hơn trong lĩnh vực vận tải biển phù hợp với thương mại hàng hải và
chuẩn mực quốc tế.
Trước yêu cầu của quá trình đổi mới, việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực
vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển cũng phải trên cơ sở mục tiêu và định hướng
chung cho cả hệ thống pháp luật. Phương hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam trong lĩnh
vực vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển được thể hiện rõ như sau:

Việc hoàn thiện pháp luật hàng hải ở Việt Nam phải đảm bảo tính phù hợp, thống nhất
với Hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành thuộc hệ thống pháp luật Việt
Nam. Việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng
đường biển cũng cần thực hiện trong lộ trình thống nhất của việc hoàn thiện các văn bản
pháp luật trong lĩnh vực dân sự, thương mại, đầu tư, đảm bảo sự thống nhất hài hòa với luật
chung như Bộ luật dân sự.
Hoàn thiện pháp luật hàng hải nói chung và hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường
biển nói riêng phải đảm bảo các quy định được xây dựng thống nhất, minh bạch, đầy đủ,
thuận lợi cho việc thực thi trên thực tế. Trên cơ sở kế thừa các quy định cũ, sửa đổi, bổ sung
hoặc quy định mới những nội dung chưa được điều chỉnh, quy định chưa rõ, còn thiếu thống
nhất, mặt khác cần bãi bỏ những quy định không còn phù hợp với thực tiễn và xu thế phát
triển hội nhập kinh tế quốc tế. Việc xây dựng và hoàn thiện các quy định pháp luật về vận
chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển cần hướng tới sự phù hợp với các điều ước quốc
tế về vận tải biển mà Việt Nam dự kiến tham gia.
4.1.2 Thuận lợi, khó khăn trong việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam về hợp đồng vận
chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển.


19

4.1.2.1. Những thuận lợi
Vận tải đường biển ngày càng đóng vai trò quan trọng trong sự tăng trưởng kinh tế
của Việt Nam. Ước tính gần 90% lượng hàng hóa được vận chuyển bằng đường biển. Đội
tàu biển Việt Nam, đặc biệt là tàu chuyến trọng tải lớn tiếp tục được bổ sung thêm cả về
số lượng và chất lượng. Năm 2015, sản lượng hàng hóa thông qua hệ thống cảng biển Việt
Nam tiếp tục tăng trưởng ấn tượng.
Công cuộc đổi mới của Việt Nam cũng là một chặng đường hội nhập kinh tế quốc tế
sâu rộng trên nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức, theo nguyên tắc và chuẩn mực của thị
trường toàn cầu. Việt Nam đã thiết lập được nhiều quan hệ đối tác chiến lược về kinh tế.
Tích cực xây dựng Cộng đồng ASEAN 2015 và hoàn thiện thị trường trong nước đầy đủ hơn

theo cam kết WTO. Cộng đồng kinh tế ASEAN được thành lập vào ngày 31/12/2015. Riêng
với Việt Nam, việc hội nhập ASEAN sâu rộng hơn nữa chắc chắn sẽ giúp doanh nghiệp trong
nước có nhiều cơ hội về thị trường hơn.
Những thành tựu trong quá trình Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã góp phần
thúc đẩy ngành vận tải biển phát triển và tạo điều kiện thuận lợi trong việc hoàn thiện pháp
luật hàng hải Việt Nam.
4.1.2.2. Những khó khăn còn tồn tại
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì do tác động chung của hoạt động hàng hải thương mại thế giới và những khó khăn trong nước (thiếu tàu trọng tải lớn; giá cước vận tải
giảm, giá nhiên liệu tăng, trượt giá...), thị trường thuê tàu Việt Nam cũng bị ảnh hưởng mạnh
và phải đối mặt với những khó khăn không nhỏ.
Thứ nhất, số lượng tàu biển Việt Nam chiếm tỉ trọng thấp và chủ yếu là những tàu có
trọng tải nhỏ. Do xuất phát từ chính đội tàu của chúng ta hiện nay, đa số đều là những tàu có
trọng tải nhỏ, không thể chạy tuyến xa, trong khi đó, các hãng tàu nước ngoài có đội tàu hiện
đại, phong cách phục vụ chuyên nghiệp, giá cước lại thường thấp hơn so với giá của các
doanh nghiệp vận tải biển Việt Nam. Vì vậy các đối tác nước ngoài họ có xu thế lựa chọn tàu
nước ngoài để chuyên chở thay vì chọn tàu Việt Nam để tránh vấn đề chuyển tải và đã làm
giảm nguồn thu của các hãng tàu trong nước.
Thứ hai, về thực tiễn ký kết hợp đồng: các thương nhân thường chủ yếu sử dụng các
mẫu hợp đồng có sẵn khi ký kết hợp đồng thuê tàu mà ít áp dụng các quy định của Bộ luật
hàng hải Việt Nam 2005.
Thứ ba, về sự hạn chế về mặt chuyên môn nghiệp vụ, trình độ pháp lý của những người
tham gia ký kết hợp đồng và về số lượng luật sư chuyên về hàng hải. Số lượng luật sư, đội
ngũ giúp việc cho các doanh nghiệp Việt Nam chuyên về hàng hải khá ít, không nhiều người
có thể tranh tụng được bằng tiếng Anh, khiến cho các doanh nghiệp phải đi thuê luật sư nước
ngoài với chi phí cao. Những vấn đề này dẫn đến những khó khăn nhất định cho các doanh
nghiệp Việt Nam trong quá trình thương thảo, thực hiện hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc


20


tế bằng đường biển
Thứ tư, hệ thống pháp luật hàng hải Việt Nam chưa hoàn thiện: Bộ luật hàng hải Việt
Nam ra đời muộn hơn rất nhiều so với luật hàng hải của nhiều nước và các công ước quốc tế
về vận tải biển. Tuy nhiên, các quy định hướng dẫn thi hành Bộ luật hàng hải còn thiếu nên
rất khó áp dụng trong thực tiễn.
Thứ năm, về hệ thống cảng biển Việt Nam: trong thực tế sự thiếu hụt nghiêm trọng về
cảng biển quốc tế cũng như sự yếu kém của hệ thống cảng biển đã hạn chế hoạt động vận
chuyển hàng hóa bằng đường biển ở nước ta
Thứ sáu, sự hiểu biết và vận dụng pháp luật về hàng hải trong xét xử của toà án và
các trọng tài viên ở Việt Nam còn nhiều hạn chế. Về chuyên môn, đội ngũ thẩm phán và
trọng tài viên nước ta hiện nay chưa thực sự là lực lượng tiêu biểu về trình độ am hiểu và
nắm vững pháp luật, đặc biệt là về pháp luật hàng hải quốc tế.
4.2 Các giải pháp hoàn thiện pháp luật việt nam về hợp đồng vận chuyển hàng hóa
quốc tế bằng đường biển
4.2.1. Hoàn thiện các qui định của Bộ luật hàng hải Việt Nam để phù hợp với thực tiễn và
thông lệ quốc tế.
Trong thời gian tới, Việt Nam cần bổ sung, hoàn thiện một số nội dung trong Bộ luật
hàng hải Việt Nam năm 2015 về hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển và
đẩy mạnh việc ký kết các điều ước quốc tế cũng như các hiệp định song phương điều chỉnh
trực tiếp hoạt động vận chuyển hàng hóa bằng đường biển. Bên cạnh đó, theo tác giả những
nội dung của Bộ luật hàng hải Việt Nam năm 2015 về hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc
tế bằng đường biển cần tiếp tục được nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung hoặc cụ thể hóa để
đảm bảo tính khả thi, cụ thể như sau:
Thứ nhất, nghĩa vụ cung cấp một con tàu đủ khả năng đi biển của người chuyên chở
nên qui định rằng chủ tàu luôn phải đảm bảo khả năng đi biển không chỉ trước khi bắt đầu
chặng hành trình mà trong cả quãng đường vận chuyển.
Thứ hai, khoản 2 Điều 78 BLHHVN 2005, Điều 151 Bộ luật hàng hải Việt Nam 2015
quy định người chuyên chở được miễn trách nhiệm do “lỗi của thuyền trưởng, thuyền viên,
hoa tiêu hàng hải hoặc người làm công của người vận chuyển trong việc điều khiển hoặc
quản trị tàu”. Đây là trường hợp miễn trách nhiệm nghiêng nhiều về bảo vệ quyền lợi của

người chuyên chở, không đảm bảo sự bình đẳng giữa các bên trong hợp đồng vận chuyển.
Do đó, trường hợp miễn trách nhiệm này hết sức vô lý và cần được loại bỏ.
Thứ ba, thời hạn trách nhiệm "từ cảng đến cảng" không phù hợp với vận tải đa phương
thức đang rất phổ biến trên thế giới hiện nay. Vì vậy Bộ luật hàng hải Việt Nam cần quy định
rằng người chuyên chở phải chịu trách nhiệm những tổn thất xảy ra với hàng hóa kể từ khi
người chuyên chở hoặc người chuyên chở thực tế nhận hàng ở nơi đi cho đến khi giao hàng
ở nơi đến. Điều này hoàn toàn phù hợp với vận tải đa phương thức trong thương mại hàng


21

hải quốc tế hiện nay.
Thứ tư, về giới hạn trách nhiệm của người chuyên chở quy định tại Điều 79 Bộ luật
hàng hải Việt Nam 2005, Điều 152 Bộ luật hàng hải Việt Nam 2015 là quá thấp. Do vậy
pháp luật Việt Nam nên qui định tăng mức giới hạn trách nhiệm của người vận chuyển.
Thứ năm, Ủy ban hàng hải quốc tế đã đưa ra những dự liệu về việc phát triển vận đơn
điện tử trong tương lai, do vậy từ năm 1990 đã tồn tại Các quy tắc của Ủy ban hàng hải quốc
tế về vận đơn điện tử. Vậy nên Bộ luật hàng hải Việt Nam nên đưa ra một số quy phạm dự
liệu điều chỉnh về vấn đề này.
Thứ sáu, thời hạn khởi kiện một năm qui định tại Điều 97 BLHH 2005, Điều 169 Bộ
luật hàng hải 2015 là quá ngắn. Do vậy, cần qui định theo hướng thời hiệu khởi kiện về hư
hỏng, mất mát hàng hóa là 02 năm kể từ ngày trả hàng hoặc lẽ ra phải trả hàng cho người
nhận hàng.
Thứ bảy, các quy định, hướng dẫn của Chính phủ về việc thực hiện hợp đồng vận
chuyển hàng hóa bằng đường biển còn chưa cụ thể. Vì vậy, để văn bản pháp luật được cụ thể
hóa Chính phủ nên ban hành các văn bản ở mức Nghị định hướng dẫn làm khung pháp lý cho
việc thực hiện các hoạt động vận chuyển hàng hóa bằng đường biển.
Thứ tám, Nhà nước cần xây dựng và ban hành thêm các quy định cụ thể về trình tự, thủ
tục, nội dung và các bước tiến hành các biện pháp giải quyết tranh chấp hàng hải cũng như
hậu quả pháp lý của việc không thi hành kết quả biên bản hòa giải và thương lượng. Trong

tương lai Việt Nam nên thành lập các tòa án chuyên trách giải quyết các tranh chấp hàng hải
quốc tế.
Thứ chín, Nhà nước cần thể chế các quy phạm tập quán quốc tế trong lĩnh vực hàng hải
vào hệ thống pháp luật Việt Nam sẽ tạo điều kiện cho cá nhân và doanh nghiệp Việt Nam có
thể tiếp cận và áp dụng các tập quán quốc tế trong hoạt động thương mại hàng hải.
4.2.2 Ký kết và gia nhập điều ước quốc tế về chuyên chở hàng hóa bằng đường biển.
Hiện nay, Việt Nam mới gia nhập 15 công ước về hàng hải như Công ước về tổ chức hàng
hải quốc tế 1948, Công ước về an toàn sinh mạng con người trên biển 1974, Công ước về tạo
thuận lợi trong giao thông hàng hải quốc tế 1965 v.v… Tuy nhiên, cho tới nay Việt Nam vẫn
chưa gia nhập các công ước quốc tế về vận tải biển. Chính điều này đã gây khó khăn và rủi
ro cho các doanh nghiệp vận tải biển trong nước khi có tranh chấp xảy ra và trong quá trình
kinh doanh thương mại với các đối tác nước ngoài.
Hơn thế nữa, việc ký kết, gia nhập và tổ chức thực hiện các công ước quốc tế về vận
chuyển hàng hóa bằng đường biển cũng như vận dụng một cách phù hợp các tập quán, thông
lệ hàng hải quốc tế góp phần quan trọng trong việc hoàn thiện pháp luật hàng hải của Việt
Nam. Thực tế hiện nay Công ước Rotterdam 2009 có nhiều ưu điểm hơn cả so với các công
ước trước đây. Do đó, Việt Nam xúc tiến gia nhập Công ước Rotterdam 2009 là một điều cần
thiết vì đây là một Công ước tiên tiến, hiện đại, theo kịp với sự phát triển của khoa học công


22

nghệ trên thế giới, đảm bảo công bằng giữa chủ hàng và người chuyên chở.
4.2.3 Một số giải pháp khác góp phần đẩy mạnh và bảo đảm hiệu quả thực thi pháp luật vận
chuyển hàng hóa bằng đường biển ở Việt Nam
Thứ nhất: Tăng cường thêm các tàu trọng tải lớn vào đội tàu nước ta để có thể chạy
được các tuyến quốc tế đường dài. Trong giai đoạn hiện nay, để khẳng định chủ quyền thực
sự, Việt Nam phải có các hạm tàu lớn và có các doanh nghiệp kinh tế biển mạnh. Muốn vậy,
trong điều kiện hiện tại của Việt Nam cần phát triển ngành vận tải biển.
Thứ hai, cần phải đầu tư xây dựng thêm các cảng nước sâu để cho tàu có trọng tải lớn có

thể ra vào được. Điểm mấu chốt cần đặc biệt lưu ý trong phát triển cảng biển nước sâu là phải
đầu tư hạ tầng đồng bộ, cải tiến và nâng cấp hệ thống kho bãi, trang thiết bị xếp dỡ.
Thứ ba, tăng cường sự kiểm soát chặt chẽ của Nhà nước đối với ngành vận tải biển.
Cần phải có những biện pháp tích cực thúc đẩy các doanh nghiệp vận tải biển trong nước
phát triển để có thể cạnh tranh được với các doanh nghiệp vận tải biển nước ngoài. Nâng cao
và thực hiện chặt chẽ các quy chuẩn quốc tế về tàu biển, kiểm tra kĩ các tàu biển của Việt
Nam tại các cơ quan Đăng kiểm.
Thứ tư, tăng cường hiệu quả của hoạt động vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường
biển ở Việt Nam. Trong thời gian tới Việt Nam cần tích cực thúc đẩy sự hợp tác quốc tế trong
lĩnh vực vận tải biển nhằm tăng cường cơ hội tiếp cận thị trường của các doanh nghiệp cung
cấp dịch vụ vận tải biển của Việt Nam để mở rộng hơn nữa thị phần của mình.
Thứ năm, tăng cường đào tạo nguồn nhân lực về hàng hải nói chung và về hợp đồng
vận chuyển hàng hóa bằng đường biển nói riêng. Trong thời gian tới, cần chú trọng công
tác đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp cho các thuyền viên
và sỹ quan trên tàu. Các doanh nghiệp vận tải biển, Hiệp hội chủ tàu Việt Nam nên
thường xuyên mở những lớp phổ biến, nâng cao trình độ nghiệp vụ cho thuyền trưởng,
mời các chuyên gia kinh nghiệm ở nước ngoài về trao đổi, giảng dạy kinh nghiệm thực tế.
Thứ sáu, tăng cường sự hiểu biết của khối doanh nghiệp Việt Nam về Bộ luật hàng hải
Việt Nam năm 2015 và các quy định của Công ước Rotterdam 2009. Ngoài các hình thức
phổ biến, tuyên truyền qua các phương tiện thông tin đại chúng như phát thanh, truyền hình,
internet…thì việc tổ chức các khóa đào tạo ngắn hạn, các cuộc hội thảo hay buổi tọa đàm
giữa các doanh nghiệp xuất nhập khẩu và các doanh nghiệp vận chuyển cũng là một việc làm
cần thiết nhằm nâng cao hiểu biết của các doanh nghiệp.
Thứ bảy, tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu nhằm
thay đổi thói quen bán FOB mua CIF thường gặp. Việc thay đổi thói quen mua bán trên sẽ
làm nguồn thu ngoại tệ của đất nước được tăng lên đáng kể đồng thời tăng vị thế đàm phán
của nhà xuất khẩu Việt Nam trong hoạt động thương mại hàng hải quốc tế.
Thứ tám, nâng cao năng lực của các thẩm phán, trọng tài viên và luật sư Việt Nam trong xét



23

xử tranh chấp hàng hải. Để làm được điều này thì Việt Nam cần phải đào tạo, bổ sung các cán bộ
pháp lý giỏi về ngoại ngữ, có chuyên môn sâu về các lĩnh vực thương mại hàng hải quốc tế.
KẾT LUẬN
Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ, việc nghiên cứu những
vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển và vấn đề
hoàn thiện pháp luật Việt Nam là vấn đề có tính khoa học và thực tiễn cao. Luận án đã luận
giải và làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng vận chuyển hàng hóa
quốc tế bằng đường biển, hướng tới hoàn thiện pháp luật, tăng cường tính khả thi và hiệu quả
áp dụng của các qui định pháp luật về hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường
biển.
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng vận chuyển hàng
hóa quốc tế bằng đường biển và vấn đề hoàn thiện pháp luật Việt Nam, có thể rút ra một số
kết luận sau đây:
1. Hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển là loại hợp đồng phổ biến
trong thương mại và hàng hải quốc tế, nhưng cũng là hợp đồng phức tạp, liên quan đến nhiều
khía cạnh khác nhau của quan hệ thương mại và hàng hải quốc tế. Hợp đồng vận chuyển
hàng hóa quốc tế bằng đường biển có những đặc thù riêng so với các hợp đồng có yếu tố
quốc tế khác.
2. Hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển chịu sự tác động không chỉ
pháp luật quốc gia mà còn cả các điều ước quốc tế và tập quán thương mại hàng hải quốc tế.
Việc ký kết và thực hiện hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc bằng đường biển ở Việt Nam
trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và bối cảnh hội
nhập kinh tế quốc tế cũng có những đặc điểm riêng đòi hỏi Nhà nước phải điều chỉnh một
cách phù hợp để vừa đảm bảo tính khả thi, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của Việt Nam,
vừa đảm bảo sự tương thích với pháp luật và thông lệ quốc tế trong xu hướng hiện đại hóa,
thống nhất hóa các qui định về hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển trên
phạm vi quốc tế và việc hoàn thiện pháp luật hàng hải ở các quốc gia.
3. Pháp luật Việt Nam hiện hành về hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường

biển còn chưa hoàn thiện và đã bộc lộ một số bất cập, sự không thống nhất giữa các quy định
của pháp luật Việt Nam và các công ước quốc tế về vận tải biển. Tác giả Luận án đã xây dựng
các luận cứ tiền đề cho việc hoàn thiện các nội dung của Bộ luật hàng hải Việt Nam năm
2015 về hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển để phù hợp với chuẩn mực
quốc tế tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại hàng hải của Việt Nam phát triển.
4. Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng
đường biển phải phù hợp với đường lối của Đảng về chiến lược cải cách tư pháp, xây dựng
và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam và phù hợp với các chuẩn mực pháp lý quốc tế.


×